Đề tài Một số biện pháp hoàn thiện hoạt động nhập khẩu tại Công ty Vật tư, vận tải và xếp dỡ - Chi nhánh Hà Nội

Tài liệu Đề tài Một số biện pháp hoàn thiện hoạt động nhập khẩu tại Công ty Vật tư, vận tải và xếp dỡ - Chi nhánh Hà Nội: Lời nói đầu. Việt nam đang trong thời kỳ tiến hành công cuộc công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước. Vì vậy, nhu cầu về vật tư kỹ thuật, dây truyền công nghệ là rất lớn, cần thiết và cấp bách hơn lúc nào hết. Trong khi nền sản xuất trong nước còn chưa thể đáp ứng đước yêu cầu này thì nhập khẩu là con đường ngắn nhất và khôn ngoan nhất để hiện đại hoá các trang thiết bị kỹ thuật, đưa nền sản xuất trong nước mau chóng bắt kịp với các nền sản xuất tiên tiến khác trong khu vực và trên thế giới, nhằm tạo ra những sản phẩm có chất lượng tốt với giá thành hạ, đủ sức cạnh tranh trên thị trường quốc tế. Tuy nhiên có một vấn đề đặt ra là, chúng ta đã đang và sẽ tiến hành hoạt động kinh doanh xuất nhập khẩu như thế nào để đảm bảo mang lại một hiệu quả kinh tế cao nhất. Có thể nói, tuy đã tham gia buôn bán trên thị trường quốc tế hơn 10 năm nay, nhưng trong hoạt động kinh doanh xuất nhập khẩu ở một số doanh nghiệp Việt Nam đôi lúc còn bất cập. Đặc biệt là công tác nhập khẩu vật tư, vật liệu tran...

doc80 trang | Chia sẻ: hunglv | Lượt xem: 968 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem trước 20 trang mẫu tài liệu Đề tài Một số biện pháp hoàn thiện hoạt động nhập khẩu tại Công ty Vật tư, vận tải và xếp dỡ - Chi nhánh Hà Nội, để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Lời nói đầu. Việt nam đang trong thời kỳ tiến hành công cuộc công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước. Vì vậy, nhu cầu về vật tư kỹ thuật, dây truyền công nghệ là rất lớn, cần thiết và cấp bách hơn lúc nào hết. Trong khi nền sản xuất trong nước còn chưa thể đáp ứng đước yêu cầu này thì nhập khẩu là con đường ngắn nhất và khôn ngoan nhất để hiện đại hoá các trang thiết bị kỹ thuật, đưa nền sản xuất trong nước mau chóng bắt kịp với các nền sản xuất tiên tiến khác trong khu vực và trên thế giới, nhằm tạo ra những sản phẩm có chất lượng tốt với giá thành hạ, đủ sức cạnh tranh trên thị trường quốc tế. Tuy nhiên có một vấn đề đặt ra là, chúng ta đã đang và sẽ tiến hành hoạt động kinh doanh xuất nhập khẩu như thế nào để đảm bảo mang lại một hiệu quả kinh tế cao nhất. Có thể nói, tuy đã tham gia buôn bán trên thị trường quốc tế hơn 10 năm nay, nhưng trong hoạt động kinh doanh xuất nhập khẩu ở một số doanh nghiệp Việt Nam đôi lúc còn bất cập. Đặc biệt là công tác nhập khẩu vật tư, vật liệu trang thiết bị phục vụ cho sản xuất vẫn còn nhiều yếu kém. Đây đó, ta vẫn thấy nhiều Công ty xuất nhập khẩu của Việt Nam bị các đối tác nước ngoài chèn ép về giá cả, bưng bít về thông tin... dẫn đến tình trạng các công ty này nhập khẩu phải những trang thiết bị đã quá lỗi thời lạc hậu, giá cả quá cao, chất lượng kém, hoặc không đồng bộ... Vì vậy mà nhập khẩu đã không đem lại hiệu quả kinh tế, tình trạng thua lỗ, đình trệ sản xuất do thiếu nguyên vật liệu, không có phụ tùng thay thế hay do dây truyền bị hỏng hóc không phải là không phổ biến. Công ty Vật tư, vận tải & xếp dỡ là một đơn vị trực thuộc Tổng công ty than Việt Nam. Đây là một Công ty được lập ra với mục đích chủ yếu là kinh doanh trong lĩnh vực xuất nhập khẩu vật tư hàng hoá, dây truyền công nghệ phục vụ cho ngành than và một số nghành công nghiệp khác. Có thể nói, kể từ khi được thành lập cho đến nay, Công ty đã cơ bản hoàn thành tốt các nhiệm vụ mà Bộ Công Nghiệp và Tổng công ty than Việt Nam giao phó. Song do mới được thành lập, lại phải kinh doanh trên thị trường quốc tế vốn dĩ rất khắc nghiệt, nên trong quá trình hoạt động của mình, đôi lúc Công ty cũng không tránh khỏi những vấp váp sai lầm, ảnh hưởng đến kết quả hoạt động kinh doanh của công ty. Trước tính bức xúc của vấn đề nêu trên, được sự gợi ý hướng dẫn của cô giáo Tiến sĩ Phan Tố Uyên, cũng như được sự giúp đỡ tận tình của các cán bộ nhân viên Công ty Vật tư, vận tải & xếp dỡ chi nhánh Hà Nội, em đã quyết định lựa chọn đề tài: “Một số biện pháp hoàn thiện hoạt động nhập khẩu tại Công ty Vật tư, vận tải & xếp dỡ - Chi nhánh Hà Nội ” để hoàn thành luận văn tốt nghiệp của mình. Luận văn tốt nghiệp sẽ bao gồm những nội dung chính sau đây: Những vấn đề lý luận về hoạt động nhập khẩu Thực trạng hoạt động nhập khẩu của Công ty Vật tư, vận tải & xếp dỡ Hà Nội. Những điểm mạnh, điểm yếu trong hoạt động nhập khẩu của Công ty cùng với những nguyên nhân của nó. Một số giải pháp nhằm hoàn thiện hoạt động nhập khẩu để thựchiện mục tiêu và phương hướng phát triển của Công ty Với mục đích làm rõ những nội dung nêu trên, kết cấu của luận văn sẽ được chia làm 3 chương lớn như sau: Chương I. Những vấn đề lý luận về hoạt động nhập khẩu của doanh nghiệp trong nền kinh tế thị trường. Chương II. Phân tích thực trạng hoạt động nhập khẩu tại Công ty Vật tư, vận tải & xếp dỡ Hà Nội Chương III. Một số giải pháp chủ yếu nhằm hoàn thiện hoạt động nhập khẩu tại Công ty Vật tư, vận tải & xếp dỡ Hà Nội. Cuối cùng, do trình độ lý luận cũng như kinh nghiệm thực tiễn của bản thân còn nhiều hạn chế, chắc chắn luận văn sẽ không tránh khỏi những thiếu sót nhất định. Vì vậy em rất mong các thầy (cô giáo), các cô (bác) anh (chị) đang làm việc tại công ty nơi em thực tập giúp đỡ, chỉ bảo để em có thể hoàn thành bài viết này một cách tốt nhất. Những vấn đề lý luận về hoạt động nhập khẩu của doanh nghiệp trong nền kinh tế thị trường I. Vai trò của nhập khẩu đối với nền kinh tế quốc dân: 1. Một số lý thuyết về thương mại quốc tế: Theo Các Mác thương mại quốc tế là sự mở rộng hoạt động kinh tế ra khỏi phạm vi một nước. Ngày nay, thương mại quốc tế phải được hiểu là quá trinh trao đổi hàng hoá và dịch vụ với nước ngoài thông qua quan hệ hàng hoá tiền tệ, nhằm mục đích kinh tế và lợi nhuận, trên cơ sở thoả mãn các nhu cầu thị trường. Sự trao đổi này là một hình thức của mối quan hệ xã hội và phản ánh sự phụ thuộc lẫn nhau về kinh tế giữa những người sản xuất riêng biệt ở các quốc gia khác nhau. Thương mại quốc tế ra đời một cách khách quan, đó là kết quả tất yếu của quá trình phân công lao động xã hội, sự chuyên môn hoá trong sản xuất cũng như sự khác biệt giữa các vùng lãnh thổ, các quốc gia trên thế giới về diều kiện tự nhiên, vị trí địa lý tập quán văn hoá... Ra đời và lớn mạnh một cách nhanh chóng, thương mại quốc tế ngày nay đã trở thành một bộ phận không thể tách rời của nền kinh tế thế giới. Sự phát triển của khoa học kỹ thuật trong những thế kỷ trước và đặc biệt là một vài thập kỷ gần đây đã làm cho quá trình phân công lao động xã hội trên phạm vi toàn thế giới. Đây là tiền đề vô cùng quan trọng cho những bước phát triển tiếp theo của thương mại quốc tế nói chung và cho hoạt động kinh doanh thương mại nói riêng. Tuy nhiên, trong tiến trình phát triển của mình không phải lúc nào thương mại quốc tế cũng được chú trọng một cách đúng đắn. Đã có những thời kỳ, tại một số quốc gia, thương mại quốc tế đã bị xem nhẹ, thậm chí bị lãng quên. Những nước này cho rằng họ có thể dựa vào nguồn nhân lực, vật lực của mình để xây dựng nên một nền kinh tế độc lập với nền kinh tế thế giới, một nền kinh tế mang đậm tính tự cấp tự túc, không phụ thuộc. Tuy nhiên, họ đã lầm. Sự sụp đổ của Liên Xô và các nước XHCN ở Đông Âu đã chứng minh một cách thuyết phục rằng không có một quốc gia nào, một đất nước nào có thể đứng ngoài vòng quay của nền kinh tế thế giới và thương mại quốc tế là một tất yếu khách quan. Muốn kinh tế phát triển, nước đó phải tham gia vào thương mại quốc tế. Với ý nghĩa trên, thương mại quốc tế cũng không chỉ giới hạn giữa các nước có nền kinh tế phát triển tương đương nhau, mà thực chất thương mại quốc tế có thể được tiến hành với tất cả các nước trên thế giới, thậm chí kể cả những nước có trình độ phát triển kinh tế hoàn toàn khác biệt. Để giải thích điều này, nhà kinh tế học người Anh David Ricardo ( 1771-1823 ) đã đem ra và chững minh lý thuyết về lợi thế tương đối. Lý thuyết này nhấn mạnh vào sự khác nhau về chi phí sản xuất và coi đó là chìa khoá của phương thức thương mại. Nó khẳng định một điều: Nếu một nước nào đó tập trung ( chuyên môn hoá ) vào sản xuất các sản phẩm mà nước đó có lợi thế so sánh và nhập khẩu các sản phẩm khác từ nước ngoài mà sản xuất trong nước kém lợi thế hơn thì chắc chắn sẽ đem lại hiệu quả kinh tế cao hơn. Sở dĩ như vậy là vì mỗi nước đều có sự khác nhau về vị trí địa lý điều kiện tự nhiên, đất đai, con người... nên chi phí sản xuất cho cùng một loại sản phẩm giữa các nước cũng sẽ khác nhau. Với sản phẩm này, nước này có thể có chi phí sản xuất là thấp nhất nhưng với những sản phẩm khác thì các nước khác lại có ưu thế hơn. Vì vậy, nếu mỗi nước chuyên môn hoá vào sản xuất những sản phẩm có lợi thế hơn so với các nước khác và nhập khẩu những mặt hàng kém lợi thế hơn nếu sản xuất ở trong nước mình thì chắc chắn sẽ giảm được chi phí, tiết kiệm được nguồn lực và do đó cho phép các nước có thể tăng cường hiệu quả kinh tế theo quy mô, nghĩa là sản xuất được nhiều hàng hoá hơn với một mức chi phí thấp hơn. như vậy thương mại quốc tế thực sự sẽ đem lại hiệu quả kinh tế cho tất cả các bên. Ngày nay thương mại quốc tế chiếm một vị trí rất quan trọng đối với nền kinh tế thế giới nói chung và đối với nền kinh tế của mỗi quốc gia nói riêng. Thương mại quốc tế thực hiện việc lưu thông hàng hoá giữa các nước khác nhau, nó bao gồm: Việc mua bán hàng hoá với nước ngoài, xuất nhập khẩu hàng hoá và dịch vụ, việc gia công hàng hoá cho nước ngoài hoặc thuê nước ngoài gia công, hoạt động xuất nhập khẩu tại chỗ... Có thể nói, xuất nhập khẩu hàng hoá là nội dung quan trọng của kinh doanh thương mại quốc tế, nên kinh doanh xuất nhập khẩu cũng chính là thực hiện các chức năng và nhiệm vụ của kinh doanh thương mại quốc tế. Trong xu thế thương mại hoá toàn cầu ngày nay, thương mại quốc tế bao gồm những chức năng chính sau đây: Tạo vốn cho quá trình đầu tư trong nước Chuyển hoá giá trị sử dụng, làm thay đổi cơ cấu vật chất tổng sản phẩm xã hội và thu nhập quốc dân Góp phần nâng cao hiệu quả của vốn kinh tế quốc dân, bằng việc tạo điều kiện thuận lợi cho sản xuất kinh doanh trong nước phát triển. Thúc đẩy quá trình phân công lao động xã hội trên phạm vi thế giới và quá trình chuyên môn hoá sản xuất. Nhiệm vụ của thương mại quốc tế được xác định trên cơ sở các chức năng và phải phụ thuộc vào bối cảnh quốc tế cũng như mục tiêu phát triển kinh tế xã hội của mỗi quốc gia. Đối với Việt Nam, là một nước tiến theo con đường Xã Hội Chủ Nghĩa và hiện đang trong giai đoạn đầu của quá trình Công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước, nền kinh tế đã chuyển đổi từ cơ chế kế hoạch hoá tập chung quan liêu bao cấp sang cơ chế thị trường với nhiều thành phần kinh tế tham gia. Mặt khác với vai trò là một ngành kinh tế đảm nhận khâu lưu thông hàng hoá giữa trong nước với nước ngoài nhằm thoả mãn nhu cầu sản xuất và tiêu dùng trong nước, Đảng và Chính phủ đã đề ra nhiệm vụ cho thương mại quốc tế là: Tổ chức quá trình lưu thông hàng hoá với nước ngoài, thông qua mua bán làm chiếc cầu nối hữu cơ giữa nền sản xuất trong nước, thị trường trong nước với thị trường thế giới, thoả mãn nhu cầu sản xuất và tiêu dùng về hàng hoá theo số lượng chất lượng, chủng loại hàng hoá, thời gian và địa điểm với chi phí thấp nhất. Nâng cao hiệu quả kinh doanh, thúc đẩy Công nghiệp hoá, Hiện đại hoá đất nước. Đảm bảo thống nhất giữa kinh tế và chính trị trong hoạt động ngoại thương. Góp phần giải quyết các vấn đề kinh tế, xã hội quan trọng của đất nước một cách có hiệu quả. 2. Nhập khẩu và vai trò của nhập khẩu: Vai trò của nhập khẩu đối với nền kinh tế quốc dân: Nói đến thương mại quốc tế, không thể không nói đến xuất nhập khẩu hàng hoá dịch vụ vì đây là nội dung quan trọng và cốt lõi. Kinh doanh nhập khẩu là một bộ phận cấu thành của kinh doanh xuất nhập khẩu nói chung. Nếu như trong kinh doanh xuất nhập khẩu, hành vi mua bán là sự trao đổi hàng hoá tiền tệ diễn ra theo hai chiều thì trong nhập khẩu, sự vận động của hàng hoá tiền tệ chỉ diễn ra theo một chiều ( Hàng vào - tiền ra ). Tuy vậy, nó là hoạt động kinh doanh trên phạm vi quốc tế, không phải là hành vi mua bán riêng lẻ mà là cả một hệ thống các qua hệ mua bán phức tạp, có tổ chức với những quy định và luật lệ rằng buộc kẻ mua người bán nhằm mục tiêu lợi nhuận, thúc đẩy sản xuất hàng hoá phát triển, chuyển đổi cơ cấu kinh tế bằng cách thoả mãn ngày càng cao nhu cầu tiêu dùng của dân cư trong nước, nhất là những loại hàng hoá mà sản xuất trong nước chưa đáp ứng được nhu cầu tiêu dùng. Nhập khẩu còn tác động một cách trực tiếp và quyết định đến sản xuất và đời sống. Nhập khẩu để tăng cường cơ sở vật chất kỹ thuật, công nghệ tiên tiến hiện đại cho sản xuất và các hàng hoá cho tiêu dùng mà trong nước không sản xuất được hoặc sản xuất không đáp ứng được nhu cầu. Nhập khẩu còn để thay thế, nghĩa là nhập khẩu những thứ mà trong nước sản xuất không có lợi bằng nhập khẩu. Như vậy, nhập khẩu có tác động đến sự phát triển cân đối và là một nhân tố khai thác tiềm năng, thế mạnh của nền kinh tế quốc dân. Việt Nam tiến hành công cuộc Công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước trong bối cảnh thế giới có nhiều thuận lợi. Xu thế phân công lao động và hợp tác quốc tế phát triển mạnh mẽ, khoa học kỹ thuật phát triển mạnh thì việc nhập khẩu máy móc thiết bị hiện đại là một nhu cầu cấp bách, có ý nghĩa cực kỳ quan trọng trong việc phát triển kinh tế. Đây là giải pháp khôn ngoan, là con đường ngắn nhất và hiệu quả nhất để rút ngắn khoảng cách giữa nước ta với các nước khác trong khu vực và trên thế giới. Đối với Việt Nam, trong điều kiện hiện nay nhập khẩu có vai trò: Thúc đẩy nhanh quá trình xây dựng cơ sở vật chất kỹ thuật, chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng đẩy mạnh Công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước. Bổ sung kịp thời những mặt mất cân đối của nền kinh tế, đảm bảo một sự phát triển cân đối và ổn định, khai thác đến mức tối đa tiềm năng và khả năng của nền kinh tế vào vòng quay kinh tế. Nhập khẩu đảm bảo đầu vào cho sản xuất, tạo việc làm ổn định cho người lao động, góp phần cải thiện và nâng cao chất lượng hàng hoá xuất nhập khẩu, tạo môi trường thuận lợi cho việc xuất khẩu hàng Việt Nam ra nước ngoài. Vai trò của nhập khẩu đối với doanh nghiệp : Vai trò của nhập khẩu được khẳng định cùng với sự phát triển của nền kinh tế, cũng như đối với các doanh nghiệp đó là: Nhập khẩu giúp doanh nghiệp có được công nghệ sản xuất hiện đại để tăng năng suất lao động và nâng cao chất lượng sản phẩm, cũng như tăng năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp trên thị trường. Thông qua nhập khẩu, doanh nghiệp có cơ hội mở rộng quan hệ buôn bán kinh doanh với nhiều đối tác nước ngoài, dẫn đến việc hình thành các liên doanh, liên kết giữa các chủ thể trong và ngoài nước, từ đó giúp doanh nghiệp có thêm kinh nghiệm trong công tác quản lý cũng như trong việc hoạch định các chiến lược kinh doanh. Nhập khẩu giúp doanh nghiệp tăng doanh thu và lợi nhuận thông qua việc đáp ứng các nhu cầu xã hội từ đó tăng nguồn vốn kinh doanh cho doanh nghiệp cũng như tăng thu nhập, nâng cao mức sống cho các cán bộ nhân viên của doanh nghiệp . Trong điều kiện nền kinh tế nhiều thành phần, việc xuất nhập khẩu mang lại nhiều điều lợi song cũng có nhiều điều bất lợi cho mỗi quốc gia. Bởi vì nó phải đối đầu với cả một hệ thống kinh tế từ bên ngoài mà các chủ thể bên trong nước tham gia vào kinh doanh xuất nhập khẩu không dễ dàng gì khống chế được. Để phát huy được vai trò của mình, hoạt động nhập khẩu phải đảm bảo một số yêu cầu nhất định và các doanh nghiệp cũng phải thực hiện đúng các nguyên tắc trong hoạt động nhập khẩu sao cho phù hợp với lợi ích của doanh nghiệp cũng như lợi ích của toàn xã hội. Thứ nhất. Nhập khẩu phải đảm bảo tính tiết kiệm và hiệu quả trong sử dụng vốn. Là một nước đang phát triển, vốn đầu tư là một trong những nhân tố quan trọng mà Việt Nam đang còn thiếu, bởi vậy yêu cầu tiết kiệm là một vấn đề cơ bản của quốc gia cũng như của doanh nghiệp Thứ hai. Chỉ nhập khẩu những thiết bị tiên tiến, hiện đại tránh nhập khẩu những công nghệ lạc hậu mà các nước khác đang tìm cách thải ra, hay các công nghệ không phù hợp với điều kiện về môi trường khí hậu, ngành nghề của nước ta. Thứ ba. Nhập khẩu nhằm bảo vệ và thúc đẩy sản xuất trong nước phát triển, tăng cường xuất khẩu. Nhập khẩu cần tranh thủ lợi thế của đất nước trong từng thời kỳ để thoả mãn nhu cầu trong nước, vừa bảo hộ và mở rộng sản xuất trong nước đồng thời tạo ra nguồn hàng xuất khẩu, mở rộng thị trường ngoài nước và thúc đẩy xuất khẩu phát triển. II. Nội dung của hoạt động nhập khẩu: Xuất nhập khẩu là việc mua bán hàng hoá với nước ngoài nhằm phát triển sản xuất, kinh doanh và đời sống. Song mua bán ở đây cũng có những nét riêng phức tạp hơn mua bán trong nước rất nhiều. Bởi vậy, để nâng cao hiệu quả trong kinh doanh xuất nhập khẩu, yêu cầu mỗi doanh nghiệp phải thực hiện đúng và đầy đủ các khâu nghiệp vụ trong quá trình kinh doanh. 1. Nghiên cứu thị trường: Nghiên cứu thị trường là hoạt động đầu tiên cần thiết đối với bất cứ một doanh nghiệp nào muốn tham gia vào thị trường. Đối với doanh nghiệp thương mại nhập khẩu để bán hàng kiếm lời thì thị trường nghiên cứu phải bao gồm cả thị trường đầu ra và thị trường đầu vào, trong kinh doanh nhập khẩu thì đó là thị trường trong nước và thị trường nước ngoài. 1.1 Nghiên cứu thị trường trong nước, xác địng mặt hàng nhập khẩu: Nghiên cứu thị trường là quá trình thu thập thông tin, số liệu về thị trường, so sánh phân tích những số liệu đó và rút ra kết luận, từ đó giúp doanh nghiệp xác định được nhu cầu cụ thể về : Mặt hàng mà thị trường trong nước cần Quy cách chủng loại hàng hoá Số lượng hàng hoá Thời hạn tiêu dùng Giá cả thị trường Chu kỳ sống của mặt hàng 1.2 Nghiên cứu thị trường quốc tế : Nghiên cứu thị trường hàng hoá thế giới có rất nhiều ý nghĩa trong việc phát triển và nâng cao hiệu quả các quan hệ kinh tế, đặc biệt là trong công tác nhập khẩu hàng hoá của mỗi doanh nghiệp. Mỗi loại hàng hoá nào đó sẽ có rất nhiều nước khác nhau cùng sản xuất, kinh doanh nhiều loại sản phẩm, mà kết quả kinh doanh lại phụ thuộc vào từng đối tác cụ thể. Vì vậy, việc nghiên cứu thị trường quốc tế bao gồm các vấn đề sau : Nghiên cứu môi trường kinh doanh Điều kiện về chính trị và pháp luật Điều kiện về kinh tế, sự phát triển của nền kinh tế, của nội thương và ngoại thương… Điều kiện về vị trí địa lý, yếu tố này cho phép doanh nghiệp giảm các chi phí vận tải, bảo hiểm… Điều kiện về con người, tâm lý và tập quán thương mại của mỗi quốc gia Điều kiện về kỹ thuật công nghệ Các điều kiện trên là những nhân tố không thể kiểm soát được đối với các doanh nghiệp nhưng nó có tác động mạnh mẽ đến hiệu quả hoạt động nhập khẩu của doanh nghiệp. Bởi vậy, doanh nghiệp cần phải điều khiển và đáp ứng các nhân tố đó. 1.3 Lựa chọn đối tác kinh doanh: Trong thương mại quốc tế, bạn hàng hay khách hàng nói chung là những người có quan hệ giao dịch với ta nhằm thực hiện các quan hệ hợp đồng mua bán hàng hoá - dịch vụ, các hoạt động hợp tác kinh tế, khoa học kỹ thuật liên quan đến mua bán hàng hoá. Việc lựa chọn các đối tác để giao dịch cần dựa trên các cơ sở nghiên cứu sau: Tình hình sản xuất kinh doanh của hãng, lĩnh vực kinh doanh và phạm vi kinh doanh để thấy được khả năng cung cấp lâu dài, thường xuyên, khả năng đặt hàng và liên doanh liên kết. Sức mạnh và tài chính, cơ sở vật chất kỹ thuật của đối tác cho phép ta thấy được những ưu thế trong thoả thuận giá cả, các điều khoản về thanh toán. Thái độ và quan điểm kinh doanh, uy tín và quan hệ trong kinh doanh của đối tác. Ngoài ra việc lựa chọn đối tác còn phải dựa vào kinh nghiệm của người nghiên cứu và truyền thống mua bán của doanh nghiệp 1.4 Xác định và dự báo biến động của quan hệ cung cầu hàng hoá trên thị trường thế giới: Đây thực chất là việc nghiên cứu dung lượng thị trường hàng hoá. Nghiên cứu dung lượng thị trường hàng hoá cần xác định nhu cầu và nguồn một cách thực tế, xác định toàn bộ lượng hàng hoá bán ra trên thị trường đối với các sản phẩm ( kể cả lượng sản phẩm dự trữ ), xu hướng biến động trong từng thời điểm, từng vùng và từng lĩnh vực sản xuất tiêu dùng. Cùng với việc nắm bắt nhu cầu là việc nắm bắt khả năng cung cấp của thị trường ( bao gồm việc xem xét các đặc điểm, tính chất, khả năng sản xuất hàng thay thế, khả năng lựa chọn mua bán... ) và tính chất thời vụ của sản xuất, tiêu dùng loại hàng hoá đó trên thị trường thế giới. Từ đó có các biện pháp thích hợp cho từng giai đoạn, đảm bảo cho việc nhập khẩu có hiệu quả. Dung lượng thị trường không ổn định, nó chịu tác động của nhiều nhân tố khác nhau trong những giai đoạn nhất định, đó là: Các nhân tố làm cho dung lượng thị trường biến động có tính chất chu kỳ như sự vận động của nền kinh tế, tính thời vụ của sản xuất, lưu thông và phân phối hàng hoá. Các nhân tố ảnh hưởng lâu dài như tiến bộ của khoa học kỹ thuật, các biện pháp, chính sách của Nhà nước, thị hiếu tập quán người tiêu dùng, khả năng sản xuất hàng thay thế. Các nhân tố ảnh hưởng tạm thời đối với dung lượng thị trường như hiện tượng đầu cơ, các yếu tố tự nhiên: thiên tai, lũ lụt, hạn hán…, các yếu tố về chính trị xã hội như đình công, biểu tình… Nghiên cứu giá cả hàng hoá nhập khẩu: Xu hướng biến động giá cả hàng hoá trên thị trường thế giới rất phức tạp. trong cùng một thời gian, giá cả hàng hoá có thể biến động theo những hướng trái ngược nhau với những mức độ nhiều ít khác nhau. Thêm vào đó là việc nắm bắt tình hình xu hướng biến động của giá cả thị trường thế giới là hết sức khó khăn, đặc biệt là đối với các doanh nghiệp Việt Nam. Giá cả tác động trực tiếp đến hiệu quả hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp. Bởi vậy, các doanh nghiệp cần phải luôn luôn theo dõi sự biến động của giá cả, đồng thời phải có các biện pháp để tính toán, xác định một cách chính xác và khoa học mức giá để có thể nâng cao hiệu quả kinh doanh. Để có thể dự đoán được xu thế biến động của giá cả mỗi loại hàng hoá có trên thị trường, cần phải dựa vào kết quả nghiên cứu và dự đoán tình hình thị trường hàng hoá đó cũng như các nhân tố tác động đến giá cả như: nhân tố chu kỳ, nhân tố lạm phát, nhân tố cung cầu, nhân tố thời vụ, nhân tố xã hội… Ngoài việc xác định tính toán giá nhập khẩu hợp lý, doanh nghiệp cần phải quan tâm đến tỷ suất ngoại tệ hàng nhập khẩu. ( Đây là số bản tệ có thể thu được khi chi ra một đơn vị ngoại tệ để nhập khẩu ). Nếu tỷ suất ngoại tệ hàng nhập khẩu lớn hơn tỷ giá hối đoái thì việc lựa chọn mặt hàng nhập khẩu đó là có hiệu quả và ngược lại. Nghiên cứu thị trường hàng hoá thế giới trong thương mại quốc tế nói chung và nhập khẩu nói riêng là hết sức cần thiết và quan trọng trong hoạt động kinh doanh. Đây là bước chuẩn bị, bước tiền đề để xuất nhập khẩu hàng hoá được thực hiện một cách có hiệu quả do nó giúp doanh nghiệp lựa chọn được thị trường, mặt hàng kinh doanh, đối tác, giá cả, phương thức thanh toán, tín dụng và các luật áp dụng. Để nghiên cứu thị trường, doanh nghiệp có thể thu thập các thông tin trong và ngoài nước, và có thể áp dụng một trong hai phương pháp sau để tiến hành nghiên cứu: Phương pháp nghiên cứu tại văn phòng: Thực chất đây là việc thu thập thông tin từ các nguồn tư liệu, kể cả những nguồn tư liệu xuất bản và không xuất bản. Đây là phương pháp nghiên cứu phổ thông mà bất cứ doanh nghiệp nào khi tham gia vào thị trường đều phải sử dụng do nó ít tốn kém về thời gian và chi phí, cho phép doanh nghiệp có thể nhìn được một cách khái quát về thị trường mặt hàng cần nghiên cứu. Tuy nhiên nó cũng có nhược điểm là thông tin thường không cập nhật, mức độ tin cậy có hạn và là phương pháp mang tính lý thuyết. Phương pháp nghiên cứu tại hiện trường: Đây là phương pháp thu thập thông tin thông qua việc quan sát, tiếp xúc với mọi người tiêu dùng trên thương trường. Phương pháp này khắc phục được các nhược điểm của phương pháp trên nhưng đây là phương pháp nghiên cứu phức tạp và rất tốn kém mà không phải doanh nghiệp nào cũng có thể thực hiện được. Nó còn phụ thuộc vào khả năng tài chính cũng như trình độ của các cán bộ, nhân viên nghiên cứu thị trường của doanh nghiệp. Trong quá trình nghiên cứu thị trường, cần phải kết hợp cả hai phương pháp trên để hạn chế những thiếu sót và phát huy được những điểm mạnh của mỗi phương pháp, từ đó mới nâng cao được hiệu quả của công tác nghiên cứu thị trường . 2. Lựa chọn phương thức giao dịch: Trong hoạt động nhập khẩu có một số phương thức giao dịch sau: Giao dịch thông thường: Là phương thức giao dịch mà người mua và người bán trực tiếp quan hệ với nhau bằng cách gặp mặt trực tiếp hoặc qua thư từ điện tín để bàn bạc và thoả thuận với nhau về các điều kiện giao dịch. Giao dịch qua trung gian: Là phương thức giao dịch mà mọi quan hệ giữa người mua và người bán về việc quy định các điều kiện mua bán phải thông qua một người thứ ba, gọi là người trung gian. Buôn bán đối lưu: Là phương thức giao dịch xuất khẩu kết hợp chặt chẽ với nhập khẩu, người bán đồng thời là người mua, lượng hàng hoá trao đổi có giá trị tương đương. Đấu giá quốc tế: Là phương thức bán hàng đặc biệt được tổ chức công khai ở một nơi xác định, tại đó những người mua tự do cạnh tranh trả giá. Và cuối cùng hàng hoá sẽ được bán cho người nào trả giá cao nhất. Ngoài những phương thức giao dịch trên, trong thực tế vẫn còn một số hình thức giao dịch khác như : giao dịch tại sở giao dịch, giao dịch tại triển lãm hàng hoá, hay giao dịch tại các hội chợ… 3. Tiến hành giao dịch, đàm phán ký kết hợp đồng nhập khẩu: Đàm phán trong kinh doanh xuất nhập khẩu là việc hai bên mua và bán tiến hành trao đổi thoả thuận với nhau về các điều kiện giao dịch ( điều kiện mua bán, điều kiện hợp tác kinh doanh…) mà mỗi bên có thể chấp nhận được. Đàm phán có vai trò quan trọng trong kinh doanh xuất nhập khẩu, nó là cơ sở để có thể có được các hợp đồng và nó ảnh hưởng trực tiếp đến lợi ích của các bên tham gia. 3.1 Các hình thức đàm phán: Đàm phán qua thư tín. Hai bên tiến hành trao đổi thoả thuận thông qua thư từ điện tín Đàm phán qua điện thoại Đàm phán bằng cách gặp gỡ trực tiếp: hai bên tiến hành gặp gỡ trực tiếp để thực hiện các hoạt đông trao đổi, bàn bạc, thống nhất và ký kết hợp đồng. Hình thức đàm phán qua thư tín, điện thoại chỉ được sử dụng trong trường hợp đối tác là bạn hàng lâu năm, quan hệ tốt và có sự tin tưởng lẫn nhau. Đàm phán trực tiếp sử dụng trong trường hợp hợp đồng có giá trị lớn, nội dung phức tạp và có nhiều điều khoản bắt buộc phải giải thích một cách cặn kẽ. Mỗi hình thức giao dịch đều có những ưu điểm và hạn chế khác nhau. Tùy trong từng trường hợp mà doanh nghiệp kết hợp các hình thức trên sao cho quá trình đàm phán, giao dịch đạt hiệu quả cao nhất. 3.2 Trình tự đàm phán: Hỏi giá: được coi là lời thỉnh cầu bước vào giao dịch do người mua thực hiện, trong đó phải nêu rõ tên hàng, quy cách phẩm chất, số lượng thời hạn giao hàng, giá cả… Phát giá: Đây là vấn đề chào hàng nếu do người bán tiến hành và là vấn đề phát giá nếu do người mua tiến hành. Đặt hàng: được coi là lời ký kết hợp đồng xuất phát từ phía người mua được dưa ra dưới hình thức đặt hàng. Trong thực tế người ta chỉ đặt hàng với các khách hàng có quan hệ thường xuyên và trong đặt hàng nêu cụ thể về hàng hoá và tất cả các nội dung cần thiết cho việc ký kết hợp đồng. Hoàn giá: là bước mặc cả để hai bên có thể xích lại gần nhau khi đơn đặt hàng chưa được thực sự làm cho các bên hài lòng. Khi có hoàn giá đơn chào hàng trước đó không còn giá trị. Chấp nhận: thể hiện sự đồng ý tất cả các điều kiện của chào hàng ( hoặc đặt hàng ) mà phía bên kia đưa ra. Khi đó có thể coi hợp đồng đã được thiết lập. Xác nhận: là sự khẳng định những điều khoản thoả thuận để phân biệt với những điều kiện mua bán ban đầu bằng văn bản. 3.3 Tổ chức ký kết hợp đồng nhập khẩu: Sau khi đàm phán thành công thì dẫn đến việc ký kết hợp đồng kinh doanh xuất nhập khẩu. Hợp đồng kinh doanh xuất nhập khẩu là sự thoả thuận bằng văn bản, tài liệu giao dịch giữa các bên có quốc tịch khác nhau theo đó một bên được gọi là người bán ( người xuấtkhẩu ), phải có nghĩa vụ chuyển vào quyền sở hữu của bên kia ( người nhập khẩu ) một lượng tài sản nhất định gọi là hàng hoá. Còn bên nhập khẩu phải có nghĩa vụ nhận hàng và thanh toán cho bên xuất khẩu. Thông thường một hợp đồng kinh doanh xuất nhập khẩu bao gồm các điều khoản chính sau: Tên hàng: là một điều khoản quan trọng của hợp đồng, nó nói lên chính xác đối tượng mua bán trao đổi. Phẩm chất và cách xác định phẩm chất: là điều khoản quy định mặt chất của hàng hoá mua bán Số lượng, trọng lượng và cách xác định Giao hàng: quy định thời hạn giao hàng, địa điểm giao hàng, phương thức giao hàng và điều kiện cơ sở giao hàng Giá cả và cách xác định: quy định đồng tiền tính giá, mức giá phương pháp xác định giá cả, cơ sở của giá cả và việc giảm giá Thanh toán: quy định đồng tiền thanh toán, địa điểm thanh toán, thời hạn thanh toán và phương thức thanh toán Bao bì và ký mã hiệu hiệu hàng hoá: Điều khoản này thường quy định chất lượng của bao bì, phương thức cung cấp bao bì, giá cả của bao bì và những yêu cầu ký mã hiệu trên bao bì Kiểm tra giám định hàng hoá : quy định cơ quan giám định hàng hoá và bên thực hiện việc giám định hàng hoá. Quy định về giải quyết tranh chấp, phạt và bồi thường thiệt hại Ngoài ra còn một số điều khoản khác như : lắp ráp, bảo hành… 4. Tổ chức thực hiện hợp đồng nhập khẩu: Sơ đồ 1: Các bước thực hiện hợp đồng nhập khẩu: Chuẩn bị thủ tục kinh doanh xuất nhập khẩu Mở L/C Đôn đốc bên bán giao hàng Thuê tàu Mua bảo hiểm hàng hoá Giải quyết khiếu nại Làm thủ tục thanh toán Kiểm tra hàng hoá Nhận hàng hoá Làm thủ tục hải quan 4.1 Chuẩn bị thủ tục kinh doanh xuất nhập khẩu: Theo nghị định 57/CP ra ngày 31/7/1998 của Chính phủ quy định các doanh nghiệp tham gia kinh doanh xuất nhập khẩu không cần phải xin phép ( trừ các hàng hoá cấm xuất khẩu, nhập khẩu hoặc kinh doanh có điều kiện ) mà thực hiện đăng ký mã số kinh doanh xuất nhập khẩu với Hải quan tỉnh, thành phố. Trong đó đăng ký mã số hải quan cho hàng hoá xuất nhập khẩu trong phạm vi đăng ký kinh doanh. Nghị định cũng quy định chi tiết danh mục các mặt hàng cấm xuất khẩu, nhập khẩu hoặc kinh doanh có điều kiện. Như vậy đối với những hàng hoá thông thường, khi tiến hành nhập khẩu, doanh nghiệp không phải xin giấy phép. Đối với những hàng hoá quản lý bằng hạn ngạch, để nhập khẩu doanh nghiệp cần phải có giấy phân bổ hạn ngạch và thường phải có được trước khi ký hợp đồng. Để có được hạn ngạch nhập khẩu, doanh nghiệp phải xây dựng luận chứng kinh tế, kỹ thuật xin cấp hạn ngạch và được bộ chủ quản phê duyệt, trình Chính phủ thông qua Bộ Thương Mại. 4.2 mở thư tín dụng L/C: Khi hoạt động nhập khẩu quy định tiền hàng thanh toán bằng phương thức tín dụng chứng từ thì bên nhập khẩu phải mở L/C theo yêu cầu của bên xuất khẩu. L/C là một văn bản pháp lý trong đó ngân hàng yêu cầu đối với khách hàng của mình cam kết trả tiền cho người xuất khẩu ký phát nếu họ xuất trình bộ chứng từ thanh toán phù hợp với những yêu cầu đề ra trong L/C. 4.3 Thuê tàu trở ( hoặc uỷ thác thuê tàu): Căn cứ tiến hành thuê tàu dựa vào hợp đồng nhập khẩu đã ký. Người mua sẽ chịu chi phí thuê tàu nếu nhập khẩu theo điều kiện nhóm F. Tuỳ theo khối lượng và đặc điểm hàng hoá cần chuyên trở mà doanh nghiệp thuê tàu cho phù hợp và phải đảm bảo thuận lợi, nhanh chóng và an toàn Có thể lựa chọn các phương thức vận tải như: vận tải đường sắt, đường bộ, đường không, đường thuỷ hay vận tải đa phương thức sao cho việc vận chuyển đạt được hiệu quả kinh tế cao nhất. 4.4 Mua bảo hiểm: Hiện nay phần lớn hoạt động thương mại quốc tế thực hiện thông qua vận chuyển hàng hoá bằng đường biển. Hình thức vận chuyển này có ưu điểm song cũng chứa nhiều rủi ro và tổn thất. Do đó bảo hiểm hàng hoá trên đường biển là loại bảo hiểm phổ biến nhất trong ngoại thương. Người mua sẽ phải mua bảo hiểm nếu nhập khẩu theo nhóm F. Khi mua bảo hiểm người nhập khẩu sẽ phải ký hợp đồng với công ty bảo hiểm trong đó xác định điều kiện mà hợp đồng nhập khẩu quy định. 4.5 Làm thủ tục hải quan: Hàng hoá vận chuyển qua biên giới quốc gia để nhập khẩu hay xuấtkhẩu đều phải làm thủ tục hải quan. Việc làm thủ tục hải quan bao gồm các bước chủ yếu sau: Khai báo hải quan ( làm thủ tục về mặt giấy tờ tại các cơ quan địa phương ) Kê khai hàng hoá tại kho hàng: doanh nghiệp sẽ phải đưa hàng hoá đến nơi để kiểm tra ( thường là các cảng đầu mối ), tại đó nhân viên hải quan sẽ tiến hành đối chiếu hàng hoá kê khai trên giấy tờ so với thực tế. Thực hiện quyết định xử lý với cơ quan hải quan: sau khi kiểm tra hàng hoá và giấy tờ cơ quan hải quan sẽ dưa ra các quyết định như cho hàng hoá qua biên giới, cho hàng hoá qua biên giới một cách có điều kiện... 4.6 Nhận hàng: Theo nghị định 200/CP ra ngày 31/12/1993 của Chính phủ, mọi việc giao nhận hàng hoá nhập khẩu đều phải uỷ thác cho cơ quan vận tải ( Ga, cảng, sân bay ). Nhà nhập khẩu phải xác nhận với cơ quan vận tải kế hoạch nhận hàng nhập khẩu, phải cung cấp đầy đủ tài liệu cần thiết cho việc nhận hàng, thanh toán cho cơ quan vận tải...Khi hàng về, cảng sẽ báo cáo cho chủ hàng biết và chủ hàng sẽ làm các thủ tục nhận hàng. 4.7 Kiểm tra hàng hoá: Sau khi nhận hàng, bên nhập khẩu sẽ làm thủ tục kiểm tra hàng hoá. Cũng theo nghị định 200/CP và Thông tư liên bộ Giao thông vận tải, ngoại thương số 52/TTLB ngày 25/1/1995, hàng nhập khẩu cần được kiểm tra kỹ càng, mỗi cơ quan tuỳ theo chức năng của mình tiến hành công việc kiểm tra đó. Vật tư nhập khẩu sẽ được 3 cơ quan kiểm tra, đó là: Cơ quan giao thông ( ga, cảng, sân bay ): các cơ quan này phải kiểm tra, niêm phong, kẹp chì trước khi dỡ hàng hoá ra khỏi phương tiện vận tải. Đơn vị kinh doanh nhập khẩu: Với tư cách là một bên đứng tên trên vận đơn phải lập thư dự kháng nếu nghi ngờ hoặc thực sự thấy vật tư có tổn thất, thiếu hụt không đồng bộ, không phù hợp với hợp đồng Cơ quan đặt hàng trong nước ( nếu cần thiết ). Ngoài các cơ quan kiểm dịch phải thực hiện các nhiệm vụ của mình khi hàng hoá nhập khẩu yêu cầu phải được kiểm dịch. 4.8 Làm thủ tục thanh toán: Thanh toán là nghiệp vụ quan trọng trong việc thực hiện hợp đồng nhập khẩu. Trong kinh doanh thương mại quốc tế hiện nay có rất nhiều phương thức thanh toán khác nhau mà các bên có thể lựa chọn để áp dụng trong việc thanh toán hợp đồng như: phương thức chuyển tiền, phương thức ghi sổ, phương thức nhờ thu. Nếu hợp đồng nhập khẩu quy định thanh toán tiền hàng bằng L/C thì khi bộ chứng từ gốc từ nước ngoài về đến ngân hàng mở L/C, nhà nhập khẩu phải kiểm tra cẩn thận bộ chứng từ, nếu thấy hợp lệ thì phải trả tiền cho ngân hàng và lấy bộ chứng từ đi nhận hàng. Nếu hợp đồng nhập khẩu quy định thanh toán tiền hàng bằng phương thức nhờ thu thì sau khi nhận chứng từ ở ngân hàng ngoại thương, nhà nhập khẩu được kiểm tra bộ chứng từ trong một thời gian nhất định. Nếu trong thời gian này, nhà nhập khẩu không có lý do chính đáng để từ chối thanh toán thì ngân hàng xem như yêu cầu đòi tiền là hợp lý. Qua thời hạn quy định cho việc kiểm tra chứng từ, mọi tranh chấp giữa bên mua và bên bán về thanh toán tiền hàng sẽ được trực tiếp giải quyết giữa các bên hoặc qua cơ quan trọng tài. 4.9 Khiếu nại và giải quyết khiếu nại: Khi thực hiện hợp đồng nhập khẩu, nếu thấy phát hiện hàng nhập khẩu bị tổn thất, đổ vỡ, mất mát, không đúng với yêu cầu trong hợp đồng về thời gian giao hàng, chất lượng... nhà nhập khẩu cần lập ngay hồ sơ khiếu nại để khỏi bỏ lỡ thời hạn khiếu nại. Tuỳ từng trường hợp mà đối tượng bị khiếu nại có thể là người bán, người vận tải hoặc công ty bảo hiểm. Hồ sơ khiếu nại gồm có đơn khiếu nại và các bằng chứng về việc tổn thất. Việc khiếu nại nếu không được giải quyết thoả đáng, hai bên có thể kiện nhau ở hội đồng trọng tài ( nếu có thoả thuận trong hợp đồng ) hoặc ở toà án. Ngoài các bước nói trên, việc thực hiện hợp đồng nhập khẩu hàng hoá là thiết bị toàn bộ cần có thêm các bước cung cấp thiết bị, xây lắp công trình và chạy thử đưa vào sản xuất. Thực hiện hợp đồng nhập khẩu là khâu cuối cùng của hoạt động ngoại thương do nó phản ánh tổng hợp toàn bộ quá trình kinh doanh. Nếu nhà nhập khẩu thực hiện nghiêm chỉnh hợp đồng nhập khẩu thì sẽ đề cao uy tín của doanh nghiệp, tạo điều kiện cho doanh nghiệp mở rộng quan hệ với khách hàng, thể hiện được tính doanh lợi, tính hiệu quả của nghiệp vụ kinh doanh xuất nhập khẩu. 5. Đánh giá hoạt động nhập khẩu: Sau khi hợp đồng nhập khẩu được thực hiện, doanh nghiệp cần đánh giá hoạt động nhập khẩu thông qua các chỉ tiêu chính sau. 5.1 Hệ thống chỉ tiêu đánh giá kết quả hoạt động nhập khẩu Doanh số bán hàng( DS) : n DS = ồ Qi * Pi i = 1 Trong đó: Qi: lượng hàng hoá i được bán ra trong kỳ Pi : Giá bán một đơn vị hàng hoá i i: số loại hàng hoá Chi phí (CP) : n Chi phí = ồ Qi * Ci i = 1 Trong đó: Qi: lượng hàng hoá bán ra trong kỳ Ci: chi phí cho một loại hàng hoá n: số loại hàng hoá 5.2 Hệ thống chỉ tiêu đánh giá hiệu quả hoạt động nhập khẩu: Lợi nhuận (LN) : LN = Tổng doanh thu – Chi phí Lợi nhuận là kết quả so sánh giữa tổng doanh thu so với tổng chi phí. Đây là chỉ tiêu quan trọng phản ánh doanh nghiệp làm ăn có lãi hay không. Tỷ suất ngoại tệ hàng nhập khẩu (T): Tổng thu T = -------------------------- Tổng chi Tỷ suất ngoại tệ hàng nhập khẩu là số bản tệ có thể thu được khi bỏ ra một đồng ngoại tệ để nhập khẩu. Nếu tỷ suất này cao hơn tỷ giá hối đoái giữa đồng Việt Nam và đồng ngoại tệ thì việc nhập khẩu của doanh nghiệp là có hiệu quả, còn ngược lại thì hoạt động nhập khẩu bị thua lỗ. Tỷ suất lợi nhuận trên vốn kinh doanh (Mv): Lợi nhuận ròng Mv = ------------------------------ Doanh số bán Chỉ tiêu này cho biết khi doanh nghiệp bán 100 đồng doanh số thì thu được bao nhiêu đồng lợi nhuận. Tỷ suất lợi nhuận trên chi phí (Mc): Lợi nhuận ròng Mc =-------------------------------- Tổng chi phí Chỉ tiêu này cho biết cứ chi phí 100 đồng kinh doanh thì thu được bao nhiêu đồng lợi nhuận. Ngoài các chỉ tiêu trên doanh nghiệp còn có thể sử dụng các chỉ tiêu sau để đánh giá hoạt động nhập khẩu: Số lượng hợp đồng nhập khẩu so với đơn hàng. Chủng loại mặt hàng thực hiện kế hoạch Tiến độ nhập hàng so với hợp đồng nhập khẩu đã ký Lợi nhuận đạt được so với kế hoạch và cùng kỳ năm trước. III. Các hình thức nhập khẩu chủ yếu & các nhân tố ảnh hưởng đến hoạt động nhập khẩu: 1. Các hình thức nhập khẩu chủ yếu, thường được sử dụng trong các doanh nghiệp kinh doanh xuất nhập khẩu: Trong hoạt động nhập khẩu có nhiều hình thức nhập khẩu khác nhau để doanh nghiệp có thể lựa chọn, mỗi hình thức nhập khẩu đều có những ưu điểm và nhược điểm riêng, bởi vậy doanh nghiệp cần phải tùy từng trường hợp mà áp dụng hình thức nhập khẩu nào để đạt được hiệu quả kinh doanh cao nhất. Sau đây là một số hình thức nhập khẩu cơ bản và mang tính phổ biến nhất: 1.1 Nhập khẩu tự doanh: Nhập khẩu tự doanh là hình thức nhập khẩu mà trong đó doanh nghiệp thực hiện toàn cbộ quá trình nhập khẩu từ nghiên cứu thị trường để mua hàng hoá đến việc bán hàng hoá và thu được doanh thu từ vốn của mình. Doanh nghiệp cần phải nghiên cứu thị trường trong nước và nước ngoài, tính toán đầy đủ chi phí đảm bảo kinh doanh nhập khẩu có lãi đồng thời phải tuân thủ đầy đủ các chính sách, luật pháp của quốc gia cũng như các luật và thông lệ buôn bán quốc tế. Đặc điểm: Trong hoạt động nhập khẩu tự doanh thì doanh nghiệp xuất nhập khẩu phải chịu trách nhiệm hoàn toàn về vốn, về mua bán. Do đó, doanh nghiệp phải xem xét kỹ lưỡng từ bước nghiên cứu thị trường cho đếnkhi hạch toán kinh doanh và có lãi. Doanh nghiệp xuất nhập khẩu trực tiếp được tính kim ngạch xuất nhập khẩu và tiền bán hàng nhập khẩu sẽ được tính vào doanh thu và phải chịu thuế doanh thu. Thông thường doanh nghiệp chỉ lập một hợp đồng ngoại với bên nước ngoài còn sau khi đã nhập khẩu hàng về mà các doanh nghiệp khác có nhu cầu thì sẽ tiến hành lập một hợp đồng nội để bán hàng cho người mua. 1.2 Nhập khẩu qua liên doanh liên kết: Nhập khẩu dưới hình thưc liên doanh, liên kết là hoạt động nhập khẩu hàng hoá trên cơ sở liên kết một cách tự nguyện giữa các doanh nghiệp ( trong đó ít nhất một doanh nghiệp xuất nhập khẩu trực tiếp ), nhằm phối hợp với nhau để cùng giao dịch và đề ra chủ trương biện pháp có liên quan đến hoạt động nhập khẩu, thúc đẩy hoạt động này theo hướng có lợi cho cả hai bên, cùng chia lãi và cùng chịu lỗ. Đặc điểm: So với nhập khẩu tự doanh thì nhập khẩu dưới hình thức liên doanh liên kết, các doanh nghiệp phải chịu ít rủi ro hơn, bởi mỗi doanh nghiệp chỉ phải góp một phần vốn nhất định. Quyền hạn và trách nhiệm của các bên tăng theo số vốn góp. Việc phân chia chi phí , chịu thuế, lãi lỗ hai bên cùng phân chia theo thoả thuận dựa trên vốn góp và phần trách nhiệm mà mỗi bên gánh vác. Trong nhập khẩu liên doanh liên kết doanh nghiệp đứng ra nhập khẩu sẽ được tính kim ngạch xuất nhập khẩu nhưng khi đưa lô hàng về tiêu thụ thì chỉ được tính doanh số trên số hàng tính theo tỷ lệ vốn góp của doanh nghiệp đó và chịu thuế trên số hàng đó. Doanh nghiệp xuất nhập khẩu trực tiếp phải lập đồng thời hai hợp đồng: Một hợp đồng mua hàng với nước ngoài Mội hợp đồng liên doanh với doanh nghiệp khác. Sự phân chia dựa trên các chủ thể các hoạt động xuất nhập khẩu. Nếu chúng ta quan tâm đến hình thức thanh toán thì có thể thấy hai hình thức thanh toán chủ yếu được sử dụng là: thanh toán bằng tiền mặt và thanh toán bằng hàng ngay còn gọi là mua bán đối lưu. 1.3 Nhập khẩu tái xuất: Là hoạt động nhập khẩu vào trong nước nhưng không phải để tiêu thụ mà là để xuất sang một nước thứ ba nào đó để thu lợi nhuận. Như vậy, nhập khẩu tái xuất luôn có sự tham gia của ba nước đó là: Nước xuất khẩu, nước nhập khẩu và nước tạm nhập tái xuất. Đặc điểm: Doanh nghiệp tái xuất phải tính toán chi phí, ghép mối bạn hàng xuất và nhập, bảo đảm thu được lợi nhuận sau khi đã bù trừ phần chi phí đã bỏ ra. Doanh nghiệp tái xuất phải lập đồng thời hai hợp đồng. Một hợp đồng xuất và một hợp đồng nhập mà không phải chịu thuế nhập khẩu đối với mặt hàng kinh doanh. Doanh nghiệp nhập khẩu trực tiếp được tính kim ngạch xuất nhập khẩu. Thanh toán hợp đồng nhập khẩu tái xuất thường dùng hình thức thư tín dụng giáp lưng. Hàng hoá không nhất thiết phải di chuyển về để tái xuất mà có thể chuyển thẳng cho nước thứ ba. 1.4 Đấu thầu: Đây là một hình thức giao dịch đặc biệt trong đó người mua ( người gọi thầu ) công bố trước các diều kiện trả tiền. Sau đó người mua sẽ chọn mua của người báo giá rẻ nhất cũng như có các điểu kiện phù hợp nhất với những điều mà người mua trước đó đã nêu ra. Đấu thầu là phương pháp đã được các nhà nhập khẩu cũng như các tổ chức tín dụng quốc tế sử dụng phổ biến nhất. Nó có ưu điểm là chỉ có một người mua và có nhiều người bán, nên thông qua đấu thầu sẽ phát huy được tính cạnh tranh giữa các nhà cung cấp nhờ đó người mua sẽ có khả năng lựa chọn được nhà thầu có các điều kiện thích hợp nhất với các yêu cầu của mình. Đấu thầu được sử dụng trong các hợp đồng nhập khẩu các hàng hoá phục vụ cho thiết kế lắp đặt các công trình lớn và có quy cách phức tạp. Do việc mở thầu là rất tốn kém nên phương thức này cũng chỉ được áp dụng khi chủ đầu tư có số vốn lớn. 1.5 Nhập khẩu uỷ thác: Nhập khẩu uỷ thác là hoạt động kinh doanh hình thành giữa một doanh nghiệp có vốn ngoại tệ riêng, có nhu cầu nhập khẩu một số lượng hàng hoá và dịch vụ nhưng lại không có quyền tham gia vào các quan hệ xuất nhập khẩu trực tiếp hay xét thấy nhập khẩu trực tiếp không có lợi ( do quan hệ bạn hàng ngành nghề kinh doanh…) nên đã uỷ thác cho các doanh nghiệp có chức năng xuất nhập khẩu trực tiếp tiến hành nhập khẩu theo yêu cầu của mình. Bên nhận uỷ thác phải tiến hành dàm phán ký kết hợp đồng với nước ngoài, làm thủ tục nhập khẩu hàng hoá theo yêu cầu của bên uỷ thác và được nhận một khoản phí gọi là phí uỷ thác. Đặc điểm: Trong hoạt động nhập khẩu uỷ thác doanh nghiệp xuất nhập khẩu uỷ thác không phải bỏ vốn ( tuy nhiên cũng có những trường hợp bên uỷ thác nhờ bên nhận uỷ thác trả tiền cho ngân hàng và tính lãi ). Bên nhận uỷ thác không phải xin hạn ngạch nhập khẩu, cũng không phải nghiên cứu thị trường tiêu thụ nhưng phải nghiên cứu thị trường đầu vào nếu bên uỷ thác không có quan hệ giao dịch với nước ngoài. Bên nhận uỷ thác sẽ thay mặt bên uỷ thác, tiến hành khiếu nại, đòi bồi thường với bên nước ngoài ( nếu có) và chịu trách nhiệm về mặt pháp lý của hợp đồng với bên nước ngoài. Khi tiến hành nhập khẩu uỷ thác thì các doanh nghiệp xuất nhập khẩu chỉ được tính phí kim ngạch xuất nhập khẩu chứ không được tính doanh số, doanh số chỉ được tính là phần phí uỷ thác vì vậy không phải chịu thuế doanh thu, thuế lợi tức. Khi nhận uỷ thác, doanh nghiệp xuất nhập khẩu trực tiếp ( Bên nhận uỷ thác) phải ký đồng thời hai hợp đồng. Một là hợp đồng mua bán với nước ngoài, hai là hợp đồng nội với nội dung nhận uỷ thác với các khách hàng trong nước. 2. Các nhân tố ảnh hưởng đến hoạt động nhập khẩu của doanh nghiệp: 2.1 Các nhân tố thuộc về môi trường kinh doanh của doanh nghiệp: Các chế độ chính sách, luật pháp của quốc gia và quốc tế đối với hoạt động nhập khẩu : Đây là những yếu tố mà các doanh nghiệp tham gia hoạt động xuất nhập khẩu bắt buộc phải nắm vững và tuân thủ. Bởi nó thể hiện cho ý chí, mục tiêu của Đảng và Chính phủ, thể hiện sự thống nhất chung của quốc tế, nó bảo vệ lợi ích của mọi tầng lớp xã hội, lợi ích của các quốc gia trong các hoạt động kinh tế. Hoạt động xuất nhập khẩu cùng một lúc chịu tác động của hai nguồn luật : Luật quốc gia và các quy định về luật pháp quốc tế. Hoạt động xuất nhập khẩu của một quốc gia sẽ bị ảnh hưởng khi quốc gia đó có sự thay đổi của luật pháp, chính sách thuế, chính sách quản lý hoạt động xuất nhập khẩu Tỷ giá hối đoái của đồng tiền và tỷ suất ngoại tệ hàng nhập khẩu: yếu tố này có tác động rất lớn đến quyết định lựa chọn mặt hàng nhập khẩu, đối tác giao dịch, phương án kinh doanh và phương thức thanh toán của doanh nghiệp nhập khẩu . Bất cứ sự thay đổi nào của một trong những yếu tố này, dù là không nhiều cũng gây ra ảnh hưởng không nhỏ đối với hoạt động xuất nhập khẩu của doanh nghiệp. Chẳng hạn khi tỷ giá hối đoái của đồng tiền có lợi cho xuất khẩu thì lại không tốt cho nhập khẩu và ngược lại, khi tỷ giá hối đoái có lợi cho nhập khẩu thì lại ảnh hưởng tiêu cực tới hoạt động xuất khẩu. Tương tự như vậy, tỷ suất ngoại tệ hàng nhập khẩu thay đổi giữa các mặt hàng cũng dễ làm chuyển hướng về mặt hàng cũng như phương hướng kinh doanh của doanh nghiệp nhập khẩu. Biến động thị trường trong và ngoài nước. Hoạt động nhập khẩu được coi là cầu nối giữa các thị trường, tạo ra sự gắn bó, phản ánh quan hệ sự biến động của các thị trường. Ví dụ nếu hàng hoá trong nước bị tồn đọng, giá cả giảm và nhu cầu đối với hàng hoá đó ít đi thì dĩ nhiên hoạt động nhập khẩu mặt hàng đó sẽ phải dừng lại. Về phía thị trường ngoài nước, nếu xảy ra những biến động về khả năng cung cấp, chất lượng, giá cả thì cũng gây ra những tác động tức thì tới hoạt động nhập khẩu trong nước. Trình độ phát triển của nền sản xuất trong nước và ngoài nước gây ra sự cạnh tranh mạnh mẽ đối với hàng hoá nhập khẩu. Nếu sản xuất của một quốc gia kém phát triển, không thể sản xuất được những mặt hàng có hàm lượng kỹ thuật cao thì việc nhập khẩu những hàng hoá đó trở thành bắt buộc và ngược lại, nếu nền sản xuất phát triển có khả năng tự sản xuất những mặt hàng kỹ thuật cao thì nhu cầu về nhập khẩu cũng sẽ giảm đi, do đó có ảnh hưởng đến hoạt động nhập khẩu. Ngoài ra một số nước, dù có trình độ sản xuất tương đối cao, vấn khuyến khích hoạt động nhập khẩu để nhằm mục đích tạo ra sự cạnh tranh, tránh sự độc quyền dẫn tới tính ỷ lại của các doanh nghiệp sản xuất trong nước. Về phía bên ngoài, nếu nền sản xuất của một quốc gia nào đó đạt được một trình độ phát triển cao, tạo ra nhiều sản phẩm máy móc, công nghệ mới lạ, hiện đại thì nước đó sẽ được tăng cường khả năng xuất khẩu, hơn nữa với những yếu tố hấp dẫn của sản phẩm, họ sẽ kích thích được nhu cầu nhập khẩu của các nước khác, do vậy nó có tác dụng thúc đẩy hoạt động nhập khẩu. Tuy nhiên, khi nền sản xuất trong nước bị hàng hoá nhập khẩu đe doạ thì các quốc gia có thể dùng nhiều biện pháp khác nhau như: kiểm tra, hạn chế để điều tiết hoạt động nhập khẩu. Nói về những chủ thể tham gia hoạt động nhập khẩu là các doanh nghiệp thương mại, ta có thể thấy chính các doanh nghiệp này quyết định sự luân chuyển, lưu thông hàng hoá trong nước và giữa các quốc gia với nhau. Hiệu quả của hoạt động nhập khẩu được quyết định rất lớn bởi sự phát triển của các doanh nghiệp này. Nếu các doanh nghiệp nhập khẩu hoạt động không có hiệu quả hay bị Nhà nước can thiệp quá sâu vào hoạt động kinh doanh thì không thể phát huy được thế mạnh của nhập khẩu, do đó khó có thể tham gia vào các quan hệ hợp tác quốc tế, gây nên sự trì trệ cho nền kinh tế. Hệ thống giao thông vận tải, thông tin liên lạc: yếu tố này không bao giờ có thể tách rời khỏi việc thực hiện các hoạt động nhập khẩu. Trước đây khi các phương tiện thông tin liên lạc chưa phát triển hiện đại như bây giờ thì các hoạt động giao dịch thương mại tiến hành rất chậm chạp, mất nhiều thời gian đi lại và chi phí cao. Ngay cả hoạt động nghiên cứu thị trường cũng gặp nhiều khó khăn như không kịp thời nắm bắt thông tin về thị trường, nhu cầu khách hàng, thông tin về các đối thủ cạnh tranh. Ngày nay với các phương tiện thông tin liên lạc tối tân như: Điện thoại, máy Fax, mạng Internet…sẽ giúp tất cả mọi người có thể liên lạc với nhau nhanh chóng mà không bị hạn chế bởi khoảng cách về không gian. Với những phương tiện này, các hoạt động giao dịch thương mại quốc tế như chào hàng, hỏi giá, báo giá thậm chí cả đàm phán ký kết hợp đồng…đều có thể thực hiện một cách nhanh chóng, thuận tiện mà không nhất thiết buộc hai bên phải gặp mặt trực tiếp. Một trong những nghiệp vụ chính của hoạt động nhập khẩu là vận chuyển hàng hoá từ nước xuất khẩu về nước nhập khẩu. Do vậy, đương nhiên các phương tiện giao thông vận tải có một vai trò rất quan trọng. Một hệ thống giao thông vận tải an toàn, nhanh chóng hiện đại sẽ giúp cho quá trình vận chuyển, bốc dỡ, bảo quản đạt được tiến độ nhanh, kịp thời với yêu cầu kinh doanh mà lại có thể tiết kiệm được chi phí cho doanh nghiệp. Hiện nay kể cả khi xuất khẩu hay nhập khẩu, các doanh nghiệp Việt Nam chủ yếu dùng các phương tiện vận tải nước ngoài do các hãng vận tải trong nước chưa có uy tín và cũng chưa được hiện đại hoá. Điều này đặt ra một nhu cầu cấp bách cho các hãng vận tải trong nước phải mau chóng thay đổi, nâng cấp các phương tiện vận tải theo kịp trình độ quốc tế để tăng uy tín khi tham gia các hoạt động thương mại quốc tế. Hệ thống ngân hàng-tài chính quố gia: Trong nền kinh tế thị trường, vai trò của hệ thống tài chính - ngân hàng ngày càng trở nên hết sức qưuan trọng vì hệ thống này có trách nhiệm quản lý , cung cấp vốn, thực thi thanh toán một cách thuận tiện, nhanh chóng chính xác cho các doanh nghiệp. Với vai trò này nó có thể ảnh hưởng tới hoạt động kinh doan h của tất cả các doanh nghiệp trong một quốc gia, dù là doanh nghiệp cỡ nhỏi hay doanh nghiệp cỡ lớn, dù là doanh nghiệp nhà nước hay doanh nghiệp thuộc bất cứ một thành phần kinh tế nào khác. Nếu hệ thống tài chính ngân hàng không phát triển vững mạnh thì cũng có nghĩa là các hoạt động nhập khẩu sẽ không thực hiện được. Các doanh nghiệp nhập khẩu sẽ được đảm bảo về mặt lợi ích nếu họ có quan hệ tốt và có uy tín trong nghiệp vụ thanh toán liên ngân hàng. Hơn thế nữa, các ngân hàng còn có thể đứng ra bảo lãnh cho các doanh nghiệp nhập khẩu hoặc cho họ vay vốn để tạo điều kiện cho doanh nghiệp kịp thời cho các hoạt động kinh doanh khi có cơ hội. Trong nền kinh tế thị trường hệ thống ngân hàng - tài chính đã có nhiều thay đổi tích cực góp phần đẩy mạnh quá trình phát triển kinh tế của đất nước. Tuy nhiên, trong những năm qua không ít các biểu hiện tiêu cực dã xuất hiện đặc biệt là hiện tượng tham nhũng, bảo lãnh cho vốn vay vô tổ chức dẫn đến hậu qủa nghiêm trọng. Để bảo đảm và nâng cao uy tín của hệ thống ngân hàng - tài chính, trong những năm tới, Nhà nước cần phải đưa ra những quy chế quản lý có hiệu quả hơn chấm dứt những hiện tượng tiêu cực này. 2.2 Các nhân tố chủ quan: Cơ hội kinh doanh của doanh nghiệp nhập khẩu cũng như chiến lược khai thác nó phụ thuộc rất nhiều vào tiềm năng của các doanh nghiệp. Tiềm năng của mỗi doanh nghiệp có thể mở rộng hay thu hẹp cơ hội kinh doanh và là một nhân tố quyết định đến hiệu quả của quá trình kinh doanh nhập khẩu. Tiềm năng về vốn. Thông thường với các doanh nghiệp nhập khẩu hiện nay, vốn tự có chiếm tỷ trọng rất nhỏ, chủ yếu là vốn đi vay. Thực ra, một nhà kinh doanh giỏi là phải biết sử dụng tốt nguồn vốn vay, nhưng các nhà kinh doanh Việt Nam chưa làm được điều này. Qua một số vụ làm ăn đổ bể gây thất thoát lớn, việc vay vốn không còn dễ như trước nữa nhưng nếu không có vốn thì doanh nghiệp không thể hoạt động kinh doanh được. Đây là nhân tố vô cùng quan trọng ảnh hưởng đến hoạt động nhập khẩu. Nó có thể làm lỡ cơ hội kinh doanh nếu không vay được vốn hoặc giảm hiệu qủa kinh doanh nếu các doanh nghiệp phải đi vay vốn từ các nguồn khác có lãi suất cao hơn mức lãi suất trần của ngân hàng. Tiềm năng về nhân lực. Đây là nhân tố quan trọng quyết định đến sự thành bại của hoạt động sản xuất kinh doanh. Kể cả khi có đủ mọi thuận lợi ở các lĩnh vực khác mà con người thực hiện thiếu năng lực chuyên môn, kém về phẩm chất đạo đức…sẽ làm giảm hiệu quả kinh doanh. Vì thế việc sắp xếp, bố trí nhân sự hợp lý, đúng người đúng việc là việc làm hết sức cần thiết, thường xuyên liên tục mà người lãnh đạo phải quan tâm. Việc đào tạo và đào tạo nâng cao nghiệp vụ cho các cánbộ là việc làm cần thiết đối với các doanh nghiệp Trên đây là một số yếu tố chính có ảnh hưởng quan trọng đến hoạt động nhập khẩu của mỗi quốc gia. Nếu tiếp tục phân tích sâu hơn, ta có thể thấy được nhiều yếu tố ảnh hưởng khác, nhưng phần lớn chúng đều nằm trong các nhóm yếu tố này. Qua đây có thể thấy rằng, nhập khẩu là một hoạt động thương mại quốc tế hết sức phức tạp và có những mối quan hệ chặt chẽ, sâu rộng với tất cả các ngành khác trong tổng thể nền kinh tế quốc dân. Chương II Thực trạng hoạt động nhập khẩu tại công ty Vật tư, vận tải & xếp dỡ Hà Nội I. Khái quát về công ty Vật tư, vận tải và xếp dỡ chi nhánh Hà Nội: 1. Quá trình hình thành và phát triển: Trước sự phát triển của nền kinh tế và của Tổng công ty than Việt Nam, công ty Vật tư, vận tải & xếp dỡ đã được thành lập để kịp thời đáp ứng nhu cấu vật tư, thiết bị cho ngành than và một số ngành công khác. Ngày 17/9/1996, được sự uỷ quyền của thủ tướng Chính phủ, Bộ trưởng Bộ Công Nghiệp đã ký quyết định số 2612 - QĐ - TCCB thành lập ra công ty Vật tư, vận tải & xếp dỡ. Trụ sở chính đặt tại phường Cẩm Đông, thị xã Cẩm Phả, Quảng Ninh. Tên viết tắt là VTX, tên giao dịch quốc tế là Materials Transport And Stevedores Company ( MTS. Co…). Sau khi được thành lập, công ty sẽ hoạt động theo điều lệ do Tổng công ty Than Việt Nam ban hành trong quyết định số 1576 ra ngày 19/7/1996. Tiếp đó căn cứ vào quyết định số 2531-TVN-TCCB ( ngày 23/9/1996 ) của Tổng giám đốc Tổng công ty than Việt Nam, Giám đốc Công ty Vật tư, vận tải & xếp dỡ đã ký quyết định số 1783-TVN-VTX-TCLD ( ngày 18/10/1996 ) thành lập chi nhánh Công ty Vật tư, vận tải & xếp dỡ tại Hà Nội. Trụ sở của Chi nhánh đặt tại số 11 Vương Thừa Vũ phường Khương Mai, quận Thanh Xuân- Hà Nội. Chi nhánh công ty Vật tư, vậ tải & xếp dỡ tại Hà Nội ( Công ty vật tư, vận tải & xếp dỡ Hà Nội ) là một đơn vị thành viên và phụ thuộc vào công ty Vật tư, vận tải & xếp dỡ, có tư cách pháp nhân không đầy đủ, được mở tài khoản chuyên chi tại ngân hàng, có con dấu riêng và được đăng ký kinh doanh theo pháp luật. Trong hoạt đông kinh doanh, Công ty phải tự chịu trách nhiệm vật chất về các cam kết của mình cũng như phải tuân thủ một cách đầy đủ các chính sách, luật pháp của nhà nước CHXHCN Việt Nam cũng như các quy định có liên quan đến luật quốc tế. Công ty Vật tư, vận tải & xếp dỡ Hà Nội, kể từ khi được thành lập cho đến nay, đã đang hoạt động kinh doanh một cách khá hiệu quả và là một trong những mũi nhọn phát triển trong chiến lược phát triển của Công ty Vật tư, vận tải nói riêng và Tổng công ty than Việt Nam nói chung. Trong cơ chế thị trường sau 7 năm hoạt động ( 1996-2002 ), Công ty đã từng bước khắc phục được những khó khăn ban đầu về điều kiện vật chất, trang thiết bị, văn phòng cũng như về đội ngũ nhân viên còn trẻ chưa nhiều kinh nghiệm… đã hoàn thành xuất sắc các nhiệm vụ được giao, ngày càng khẳng định được vị trí của mình trong ciệc cung ứng hàng hóa, vật tư kỹ thuật đáp ứng thị trường trong nước đặc biệt là thị trường ngành than. Có được những điều trên, ngoài những nguyên nhân khách quan như sự thông thoáng hơn trong các chính sách của nhà nước, điều kiện thị trường có nhiều thuận lợi cho hoạt động kinh doanh xuất nhập khẩu…Còn phải kể đến những nguyên nhân chủ quan không kém phần quan trọng khác. Đó là sự lãnh đạo sáng suốt, tinh thần giám nghĩ giám làm của Ban giám đốc công ty cũng như sự cố gắng thái độ học hỏi và làm việc nghiêm túc của đội ngũ cán bộ trẻ, những người đã thực sự làm chủ được công việc và ngày càng khẳng định vị trí của mình trong hoạt động kinh doanh xuất nhập khẩu nói chung và trong công ty nói riêng. 2. Chức năng nhiệm vụ, cơ cấu tổ chức bộ máy: 2.1 Chức năng: Kinh doanh xuất nhập khẩu vật tư, vật liệu, trang thiết bị khoa học kỹ thuật hàng công nghiệp…theo đúng ngành nghề đã đăng ký kinh doanh, phục vụ cho các mỏ khai thác than và các đơn vị khác trực thuộc Tổng công ty than Việt Nam. Kinh doanh nhập khẩu hàng công nghiệp, hàng dân dụng phục vụ nhu cầu sản xuất và tiêu dùng trong nước. Kinh doanh vận chuyển hàng hoá từ bên ngoài về trong nước, từ cảng trong nước về nơi sản xuất, tư vấn về các vấn đề có liên quan đến lĩnh vực xuất nhập khẩu, lắp đặt trang thiết bị… Kinh doanh và mở rộng phạm vi kinh doanh xuất nhập khẩu, nhận uỷ thác xuất khẩu hoặc nhập khẩu, trao đổi vật tư kỹ thuật với các cơ quan đơn vị trong và ngoài nước, trong và ngoài ngành than. 2.2 Nhiệm vụ: Với các chức năng nêu trên, Công ty vật tư, vận tải & xếp dỡ Hà Nội có nhiệm vụ tiếp thị với các khách hàng trong và ngoài nước, trong và ngoài ngành than đề khai thác mọi khả năng kinh doanh, liên doanh sản xuất trong nước và nước ngoài cũng như các dịch vụ khác nhằm thực hiện một cách có hiệu quả các nhiệm vụ mà Tổng công ty giao phó, đúng với các quy định và luật pháp của nhà nước. Thiết lập các mối quan hệ, các hợp đồng ngoại thương, hợp đồng kinh tế, hợp đồng dịch vụ để trình Giám đốc Công ty ký duyệt. Trực tiếp ký kết các hợp đồng, thực hiện các giao dịch của Công ty trong các lĩnh vực: Nhập khẩu hàng hoá từ nước ngoài về để kinh doanh trong nước và trong ngành có lãi. Nhập khẩu hoặc nhận uỷ thác nhập khẩu hàng hoá, thiết bị vật tư từ nước ngoài để phục vụ cho các ngành công nghiệp trong nước. Xuất nhập khẩu uỷ thác hoặc uỷ thác xuất nhập khẩu các mặt hàng nhà nước không quản lý hạn ngạch Nhận vận chuyển và bán hàng hoá trên cơ sở kinh doanh hợp pháp, lấy thu bù chi và có lãi sau khi đã hoàn thành mọi nghĩa vụ với nhà nước. Thực hiện các dịch vụ: liên doanh, liên kết thương mại, sản xuất, trao đổi hàng hoá, tư vấn thương mại, đầu tư và vay vốn… Giao dịch tiếp thị với khách hàng mua bán xăng dầu, nhận vận tải thuỷ bộ hoặc làm thủ tục xuất nhập khẩu, cho thuê nhà kho, bãi chứa hàng… Quản lý tài sản của Công ty tại Hà Nội. 2.3 Sơ đồ tổ chức bộ máy của Công ty vật tư, vận tải & xếp dỡ Hà Nội: Sơ đồ tổ chức bộ máy quản lý: Sau một thời gian hoạt động, Công ty vật tư, vận tải & xếp dỡ Hà Nội đã củng cố và phát triển cơ cấu bộ máy tổ chức, bố trí sắp xếp đội ngũ lao động nhân viên của mình một cách khá hợp lý. Hiện nay toàn Công ty có khoảng 25 cán bộ, nhân viên. Trong đó có trên 95 % số nhân viên có trình độ đại học và trên đại học. Hầu hết trong số họ đều có khả năng khai thác và sử dụng thành thạo máy vi tính, mạng internet và có một vốn ngoại ngữ rất tốt. Đặc biệt là rất am tường, hiểu biết về các kỹ thuật nghiệp vụ ngoại thương cũng như các trang thiết bị dây chuyền công nghệ phục vụ cho khai thác và sản xuất công nghiệp. Đây là một thế mạnh nổi bật của Công ty. Tuy nhiên do số nhân viên còn ít, tính chất công việc của các chức danh không tập trung, mặt khác để tránh tình trạng rướm rà không gắn kết trong hoạt động giữa các phòng ban. Nên trong giai đoạn đầu, Công ty đã chọn mô hình trực tuyến để xắp sếp, tổ chức bộ máy của mình. Mô hình này phần nào đã thích ứng được tình hình biến đổi của thị trường, đáp ứng được yêu cầu đòi hỏi về tính hiệu quả trong các hoạt động kinh doanh của Công ty trong giai đoạn hiện nay. Song về lâu về dài, nhất là trong điều kiện môi trường kinh doanh bên ngoài luôn biến đổi, để nắm bắt được những thay đổi đó, Công ty cần không ngừng hoàn thiện bộ máy quản lý, nâng cao tính chất chuyên môn trong các hoạt động tác nghiệp của mình. Để làm tốt được điều này, trong thời gian tới Công ty cần phải đào tạo và bổ sung thêm các nhân viên chuyên viên có năng lực, có lòng say mê nhiệt tình với công việc, nhạnh bén trong quản lý và xử ký các thông tin trên thị trường một cách nhanh tróng, kịp thời nhằm đưa ra những quyết định chính xác mang lại hiệu quả kinh tế cho Công ty. Bảng 2. Tổ chức bộ máy quản lý của Công ty vật tư, vận tải & xếp dỡ Hà Nội: Giám đốc Công ty Vật tư, vận tải & xếp dỡ Hà Nội Phó Giám đốc Phó Giám đốc Phòng tài chính kế toán Phòng kinh doanh Phòng tổng hợp Nv 4 Nv 3 Nv 2 Nv 1 2.4 Cơ cấu bộ máy tổ chức & chức năng các bộ phận: Ban Giám đốc: Bao gồm giám đốc và hai phó giám đốc do Giám đốc Công ty Vật tư, vận tải & xếp dỡ bổ nhiệm hoặc miễn nhiệm. Ban Giám đốc phải chịu trách nhiệm toàn diện về các cán bộ nhân viên cũng như mọi hoạt động kinh doanh của chi nhánh trước thủ trưởng cơ quan cấp trên ( Giám đốc công ty Vật tư, vận tải & xếp dỡ ). Nghĩa là ban giám đốc công ty có trách nhiệm quản lý và sử dụng có hiệu quả nguồn vốn và các nguồn lực khác được nhà nước giao, không ngừng nâng cao hiệu quả kinh doanh của đơn vị mình, bảo toàn và phát triển vốn, chịu trách nhiệm dân sự đối với các hoạt động kinh doanh của đơn vị mình trước pháp luật và trong phạm vi nguồn vốn của doanh nghiệp, trong đó có nguồn vốn nhà nước giao. Phòng kế toán: Phòng gồm có 4 người trong đó có 1 kế toán trưởng, 2 kế toán viên và 1 thủ quỹ. Phòng có chức năng phản ánh mọi hoạt động kinh tế phát sinh, tổng hợp, phân tích hiệu quả hoạt động sản xuất kinh doanh thông qua Giám đốc Công ty, tổ chức nghiệp vụ quản lý thu chi tiền tệ, đảm bảo thúc đẩy hoạt động kinh doanh hiệu quả, tiết kiệm phù hợp với cơ chế hiện hành. Phòng kế toán- tài vụ có nhiệm vụ ghi chép, tổng hợp báo cáo lên Giám đốc về các hoạt động tài chính của Công ty, lập kế hoạch tài chính ngắn hạn, trung hạn và dài hạn, hạch toán lỗ lãi, điều tiết hợp lý tài sản lưu động, quản lý vốn lưu động, vốn cố định, tập hợp doanh thu chi phí, xác định lợi nhuận, điều tiết vốn của công ty phân bố cho từng hạng mục để đảm bảo cho hạot động sản xuất kinh doanh được cân đối nhịp nhàng, liên tục và đạt hiệu quả cao nhất. Phòng còn có nhiệm vụ hợp đồng chặt chẽ, đoàn kết có nguyên tắc với các đồng nghiệp, các bộ phận khác của công ty. Mở rộng quan hệ hợp tác quan hệ đối ngoại với khách hàng, các đơn vị quản lý cấp trên, đặc biệt với các ngân hàng, các công ty bảo hiểm. Phòng kế toán tài vụ cũng có nhiệm vụ tính toán việc thu chi toàn bộ công ty cũng như tính trả tiền lương cho toàn bộ các cán bộ nhân viên của Công ty, đồng thời thực hiện một nhiệm vụ chính là hạch toán kiểm toán, theo dõi thu chi vào tài khoản, xác định các khoản phải nộp vào ngân sách, lập báo cáo hoạt đốngản xuất kinh doanh và bảng quyết toán tài sản sau mỗi chu kỳ kinh doanh theo đúng chế độ chính sách Nhà nước quy định, sẵn sàng giải trình và báo cáo với các cơ quan chức năng như tài chính, cơ quan thuế bất cứ lúc nào. Phòng tổng hợp: Là một bộ phận chịu trách nhiệm soạn thảo các điều kiện trong hợp đồng, ký kết các văn bản thoả thuận hợp đồng cũng như việc lưu giữ các hợp đồng nội thương ngoại thương của Công ty qua các năm. Phòng cũng có trách nhiệm cùng với phòng kinh doanh thực hiện đàm phán ký kết các hợp đồng kinh doanh của Công ty, tổ chức thực hiện theo dõi và trực tiếp giao nhận hàng từ các sân bay bến cảng hoặc các tổng kho. Thực hiện giao dịch với các sở Hải quan, các Bộ nghành có liên quan đến việc xuất nhập khẩu hàng hóa. Ngoài ra phòng cũng có trách nhiệm phối hợp chặt chẽ vối các phòng ban, bộ phận khác trong Công ty, đặc biệt là phòng kinh doanh để giải quyết các vấn đề nẩy sinh trong quá trình kinh doanh, nâng cao hiệu quả kinh tế cho kinhh doanh. Cùng với sự phát triển của Công ty, số thành viên của phòng gồm 4 người đã tích luỹ được nhiều kinh nghiệm trong việc ký kết, soạn thảo hợp đồng với các điều khoản rõ ràng, công tác giao nhận hàng hoá ở cơ quan Hải quan nhanh chóng, kịp thời với yêu cầu của khách hàng. Phòng kinh doanh: Đây là bộ phận quan trọng, là xương sống của Công ty bao gồm 10 nhân viên. Tất cả các nhân viên trong phòng đều có trình độ đại học và trên đại học, đa số họ đều có kiến thức sâu rộng về các nghiệp vụ buôn bán ngoại thương cũng như các kiến thức có liên quan đến vật tư, trrang thiết bị công nghiệp. Nếu nhìn qua thì có thể nói, bộ phận sau này hoạt động như một bộ phận chuyên về thị trường trong các doanh nghiệp lớn. Phòng có nhiệm vụ nghiên cứu nắm bắt tình hình thị trường trong và ngoài nước, phối hợp với các bộ phận khác nhằm tìm kiếm và khai thác có hiệu quả nhu cầu của thị trường, thực hiện các hợp đồng mua bán, hợp đồng uỷ thác nhập khẩu, xuất khẩu, liên doanh liên kết với nước ngoài, tham gia đấu thầu trong nước và đấu thầu quốc tế. Phòng kinhh doanh cũng có nhiệm vụ báo cáo tình hình hoạt động kinh doanh định kỳ cho ban giám đốc, để rút ra kinh nghiệm, góp phần nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh. Lựa chọn cơ hội thị trường, đề xuất và lập ra các phương án kinh doanh trình lên Giám đốc, xây dựng và tiến hành các kế hoạch kinh doanh, kế hoạch marketing… 3. Kết quả hoạt động kinh doanh của Công ty vật tư, vận tải & xếp dỡ Hà Nội trong những năm gần đây: Được thành lập trong điều kiện nền kinh tế đất nước đã chuyển đổi sang cơ chế thị trường, Công ty vật tư,vận tải & xếp dỡ Hà Nội đã gặp rất nhiều thách thức cũng như cơ hội trong quá trình hoạt động kinh doanh của mình. Tuy nhiên thực tế đã cho thấy, Công ty là một đơn vị làm ăn có hiệu quả, điều này thể hiện ở các chỉ tiêu phản ánh kết quả hoạt động kinh doanh của Công ty năm sau đều cao hơn năm trước, hàng năm đóng góp vào ngân sách Nhà nước hàng tỷ đồng, thu nhập của cán bộ nhân viên của Công ty ngày một tăng. Sau đây là tình hình cụ thể: Bảng 3. Kết quả hoạt động kinh doanh của Công ty vật tư, vận tải & sếp dỡ Hà Nội trong những năm gần đây: Năm Chỉ tiêu 1998 1999 2000 2001 So sánh giữa các năm 99/98 00/99 01/00 Tổng doanh thu 34818065 54848898 88367059 135378335 157,53 161,11 153,20 Thuế doanh thu phải nộp 522271 822734 883671 1353784 157,53 107,40 153,2 Lợi nhuận từ các hoạt động kinh doanh 2158720 3894272 7069365 12590185 180,39 181,53 178,13 Lợi nhuận từ các hoạt động tài chính - 410842 - 126099 81023 152765 Lợi nhuận sau thuế 1747878 3768173 7150388 12742950 215,58 189,76 178,2 Thu nhập bình quân đầu người 1854000 2256000 2875000 Nguồn: Số liệu tổng hợp của phòng tài chính- kế toán Công ty VTX- Hà Nội Nhìn vào bảng trên ta có thể thấy, doanh thu của công ty năm 1999 đạt mức 34818065 triệu VNĐ ( tăng 157 % so với năm 1998 ). Nghĩa vụ đối với nhà nước về nộp thuế đạt mức 522 271 triệu VNĐ, và hoạt động kinh doanh của Công ty VTX- Hà Nội đã đem lại một khoản lãi là 1747878 triệu VNĐ. Năm 2000, do có sự tăng mạnh về nhu cầu vật tư, thiết bị và đặc biệt là nhu cầu về các loại thép ( Mặt hàng nhập khẩu chính của công ty ), cũng như có sự biến động lớn về tỷ giá hối đoái giữa đồng Việt Nam và đồng Dolla có lợi cho việc kinh doanh nhập khẩu nên doanh thu của công ty năm 2000 tăng mạnh và đạt mức 54848898 triệu VNĐ ( tăng 161,11% so với năm 1999 ). Cũng trong năm này công ty đã nộp vào ngân sách nhà nước một khoản là 822734 triệu VNĐ và có một mức lợi nhuận khá cao 3768173 triệu VNĐ ( tăng 189,76 % so với năm 1999 ) tương đương với tỷ suất lợi nhuận trên doanh thu đạt mức 8%. Các chỉ tiêu trên duy trì mức tăng cho đến hết năm 2001, bình quân đạt tỷ lệ là 153 %. Đây có thể nói là một kết quả rất đáng khích lệ đối với công ty, nó đã khẳng định một cách chắc chắn rằng công ty đã bước đầu hoà nhập và thích ứng được với thị trường, làm chủ được các các hoạt động tác nghiệp của mình cũng như thể hiện được sự linh hoạt đối với các thay đổi đối với thị trường, biết cách khắc phục được những điểm yếu của mình tranh thủ được những cơ hội của thị trường để tận dụng đem lại hiệu quả kinh doanh và thu nhập cho doanh nghiệp. Chi nhánh cũng rất quan tâm đến các hoạt động tài chính, tuy nhiên trong lĩnh vực này chi nhánh còn nhiều vướng mắc. Trong hai năm đầu kinh doanh trong lĩnh vực này chi nhánh đã phải chịu lỗ. Cụ thể trong năm 1998 mức lỗ này là 410,842 triệu VNĐ, trong năm 1999 là 126 triệu VNĐ. Song cho đến năm 2000 và đặc biệt là trong năm 2001 công ty đã khắc phục được tình trạng này và bước đầu đã làm ăn có lãi trong lĩnh vực hoạt động tài chính. Năm 2000 mức lãi đạt được là 81,023 triệu VNĐ và năm 2001 mức lãi này đã tăng lên 152,765 triệu VNĐ. Điều này đã chứng tỏ một điều, đội ngũ nhân viên trẻ của chi nhánh trong quá trình hoạt động của mình đã từng bước tích luỹ được kinh nghiệm và làm chủ được công việc của mình. Ngày càng góp phần đem lại nhỉều hiệu quả kinh tế cho Công ty. Nói chung trong 4 năm hoạt động gần đây, Công ty là một đơn vị làm ăn có hiệu quả. Vì vậy mà thu nhập của các cán bộ nhân viên công ty ngày càng được cải thiện, có tác dụng khích lệ tinh thần làm việc cũng như sự gắn bó của họ đối với Công ty. Để có được thành tích này, ngoài sự nỗ lực không ngừng của đội ngũ cán bộ và nhân viên Công ty còn có sự quan tâm giúp đỡ và uy tín của Công ty cũng như sự bảo trợ của tổng công than Việt Nam. II. thực trạng hoạt động nhập khẩu ở công ty Vật tư, vận tải & xếp dỡ Hà Nội: 1. Đặc điểm mặt hàng nhập khẩu: Là một doanh nghiệp kinh doanh xuất nhập khẩu trực thuộc tổng công ty than Việt Nam, hàng hoá mà doanh nghiệp nhập về sẽ được tiêu thụ ở hai thị trường. Thị trường trong ngành bao gồm các Công ty khai thác và các đơn vị sản xuất khác thuộc ngành than quản lý; Thị trường ngoài ngành chủ yếu là các công ty, đơn vị sản xuất công nghiệp với quy mô vừa và nhỏ. Để phục vụ kịp thời cho nhu cầu của các đơn vị trong ngành, Công ty thường nhập một số thiết bị phục vụ cho hoạt động khai thác, sản xuất và vận chuyển than như: săm lốp ô tô, bình ắc quy, dầu DEG, các thiết bị dàn khoan, thiết bị hầm lò, cẩu trục, các loại cáp...Hầu hết những loại hàng hóa này là các máy móc, trang thiết bị hiện đại đòi hỏi tiêu chuẩn kỹ thuật cao và có giá trị lớn nên việc mua bán phải có dịch vụ lắp đặt, bảo hành và có hướng dẫn sử dụng. Ngoài ra công ty còn nhập khẩu một số vật tư, vật liệu như thép các loại, phế liệu dùng để luyện thép... phục vụ cho ngành xây dựng và một số ngành công nghiệp khác. Có thể tóm tắt đặc điểm chính của các loại hàng hoá này như sau: Một là. Các công trình thiết bị toàn bộ thường đòi hỏi vốn đầu tư lớn. ở nước ta vốn phục vụ cho các quá trình này thường do nhà nước cấp từ ngân sách. Nhưng trong những năm gần đây, để đáp ứng với nhu cầu tăng trưởng nhanh và chủ trương Công nghiệp hoá hiện đại hóa, các Bộ ngành đã chủ động huy động vốn từ nhiều nguồn khác nhau trong và ngoài nước như vốn tự bổ sung của các doanh nghiệp nhà nước, của các công ty được thành lập theo luật công ty có tổng số vốn đóng góp của các doanh nghiệp nhà nước chiếm trên 50% vốn công ty, vốn vay các Chính phủ nước ngoài, do ngân hàng nhà nước hoặc ngân hàng nước ngoài bảo lãnh và vốn viện trợ bằng tiền của Chính phủ các nước, các tổ chức phi chính phủ, các tổ chức quốc tế đối với những dự án, công trình... Hai là. Thời gian xây dựng, lắp đặt vận hành các công trình thường kéo dài với một khối lượng đồ sộ các công việc liên quan đến việc xuất nhập khẩu hàng hoá, lắp đặt vận hành và đào tạo đội ngũ nhân viên sử dụng các trang thiết bị hàng hoá đó. Ba là. Trong mua bán vật tư, vật liệu trang thiết bị phục vụ sản xuất công nghiệp, ngoài sản phẩm hàng hoá, vật tư ra còn đi kèm theo nhiều dịch vụ khác như khảo sát thiết kế, thi công, vận hành bảo dưỡng...trong đó phải sử dụng các chuyên gia kỹ thuật của nước ngoài. Bốn là. Hàng hoá trang thiết bị phục vụ sản xuất công nghiệp có tính chất kỹ thuật cao và chuyên ngành, do đó khi tiến hành hoạt động nhập khẩu cần phải có kiến thức nhất định về khoa học kỹ thuật và chuyên ngành đó. Với hàng trăm mục quy định chi tiết về kỹ thuật đối với một dây chuyền vì thế nên thông thường quy cách kỹ thuật của hàng hoá thiết bị không chỉ được nêu thành một khoản trong hợp đồng mà còn được quy định cụ thể riêng trong các tài liệu kỹ thuật cụ thể kèm theo hợp đồng mua bán. Trong giai đoạn công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước hiện nay, nhu cầu về vật tư, hàng hoá trang thiết bị phục công nghiệp là rất lớn. Nhưng do nền kinh tế nước ta có xuất phát điểm thấp nên việc đầu tư cho cơ sở hạ tầng cũng như đầu tư cho sản xuất kinh doanh còn ở mức thấp nên tình hình mua sắm các trang thiết bị toàn bộ, hiện dại còn chưa tương xứng với thực tế, hơn nữa Công ty Vật tư, vận tải & xếp dỡ Hà Nội có một nguồn vốn không lớn, do đó tình hình cạnh tranh trên thị trường rất gay gắt và công ty còn gặp nhiều khó khăn trong kinh doanh mặt hàng này. Để tồn tại và phát triển việc chuyển hướng trong kinh doanh, đa dạng các mặt hàng kinh doanh là tất yếu mà Công ty cần thực hiện. Hiện nay, Công ty kinh doanh khá nhiều chủng loại mặt hàng và có thể chia thành hai nhóm mặt hàng chính sau đây: Nhóm mặt hàng các loại thiết bị chính phục vụ cho việc sản xuất, khai thác và vận chuyển than như: các loại dây cáp, actomat, động cơ điện, các phương tiện, dàn khoan và các thiết bị hầm lò, các phương tiện vận tải chuyên chở...Trong việc kinh doanh nhóm mặt hàng này công ty có các thuận lợi là: Theo xu hướng toàn cầu hoá, quốc tế hoá trong các hoạt động kinh tế giữa các quốc gia ngày nay, Đảng và nhà nước ta đã đề ra chính sách Công ngiệp hoá hiện đại hoá. Do đó, nhu cầu mua sắm thiết bị máy móc thiết bị của ngành công nghiệp nói chung, ngành khai thác và sản xuất than nói riêng là rất lớn. Do tính cạnh tranh trên thị trường ngày càng trở nên gay gắt buộc các đơn vị sản xuất kinh doanh phải nâng cao chất lượng sản phẩm của mình về mặt hoàn thiện cấu trúc kỹ thuật, nâng cao các thông số về độ bên khi vận hành, độ an toàn của sản phẩm, đến kiều dáng kích thước và đặc biệt là tính thẩm mỹ của sản phẩm cũng như các thiết bị phụ tùng thay thế. Để đạt được mục đích trên, buộc các đơn vị phải đổi mới công nghệ, đổi mời trang thiết bị. Như vậy, việc kinh doanh nhóm mặt hàng này của công ty có nhiều thuận lợi. Song bên cạnh đó nó cũng còn tồn tại một số khó khăn như: Do đặc điểm của nhóm mặt hàng này là có giá trị lớn, đòi hỏi công ty phải huy động một lượng vốn lớn để kinh doanh. Trên thực tế ở nước ta hiện nay tình trạng thiếu vốn là phổ biến vì vậy huy động vốn để kinh doanh luôn là một vấn đề khó khăn của công ty. Việc tạo nguồn hàng nhập cũng còn một số trở ngại nhất định, do nguồn hàng này chủ yếu là phải nhập khẩu nên tính chất nguồn cung cấp hàng là không ổn định. Nó phụ thuộc vào giá cả quốc tế, chính sách xuất nhập khẩu nội địa, sự thay đổi của tỷ giá trên thị trường và một số yếu tố khác. Cho nên sự điều chỉnh hoạt động nhập khẩu về giá cả, chủng loại cũng như số lượng mỗi mặt hàng nhập khẩu là rất khó khăn. Nhóm mặt hàng phụ tùng, vật tư, vật liệu bao gồm: phụ tùng các loại ô tô, cần cẩu, phụ tùng dàn khoan, bình điện, vòng bi, săm lốp ô tô, thép các loại...những loại mặt hàng này thường được nhập về để phục vụ cho các đơn vị sản xuất công nghiệp ngoài ngành than. Khối lượng mỗi lần nhập thường không quá lớn và không mang tính chất ổn định. Vì vậy, nó gây khó khăn cho công tác xác định số lượng, khối lượng mỗi lần nhập hàng và nhu cầu dự trữ của công ty. Tuy nhiên, trong những năm gần đây, do nhu cầu vật tư vật liệu ( đặc biệt là các loại thép ) để phục vụ các công trình xây dựng trong nước tăng lên một cách nhanh chóng nên tỷ trọng nhóm mặt hàng này cũng tăng lên rõ rệt trong cơ cấu mặt hàng nhập khẩu của công ty thời gian này. Đặc biệt là trong 3 năm gần đây, các loại thép đã trở thành mặt hàng nhập khẩu chính của công ty. Bảng 4cơ cấu mặt hàng nhập khẩu Theo bảng ta thấy năm 1999 giá trị nhập khẩu thép các loại đạt mức 7761925 USD chiếm hơn 60% trong cơ cấu hàng nhập khẩu, nhưng sang năm 2000 con số này đã tăng lên 12984890 USD ( chiếm 72% trong cơ cấu hàng nhập khẩu ) và đến năm 2001 thì đạt được mức cao nhất là 39379770 USD ( 86,69%). Điều này đã thể hiện sự nhậy bén của công ty trong công tác xác định mặt hàng nhập khẩu, kịp thời nắm bắt được nhu cầu thị trường, tận dụng tối đa các thế mạnh của mình để đạt được một hiệu quả kinh doanh cao nhất có thể. 2. Công tác nghiên cứu thị trường: 2.1 Nghiên cứu thị trường tiêu thụ hàng nhập khẩu trong nước: Đây là vấn đề sống còn đối với hoạt động kinh doanh của công ty, quyết định sự thành công hay thất bại của công ty đó chính là nghiên cứu thị trường tiêu thụ hàng nhập khẩu. Nhận thức rõ được điều này, nên công ty vật tư vận tải & xếp dỡ Hà Nội đã đặc biệt quan tâm đến việc tìm kiếm và thu hút khách hàng. Vật tư, vật liệu trang thiết bị công nghiệp là một loại hàng hoá đặc biệt nên những khách hàng mua loại hàng này phần lớn đều là những đơn vị sản xuất kinh doanh hàng công nghiệp. Họ mua vật tư, vật liệu máy móc trang thiết bị phục vụ cho việc tổ chức sản xuất chứ không phải phục vụ cho nhu cầu cá nhân và vì vậy hành vi mua của họ không đơn thuần như hành vi mua các hàng hoá tiêu dùng khác. Đặc điểm nổi bật của những khách hàng loại này là tuy số lượng họ không nhiều nhưng doanh số mua bán của họ thường là lớn. Do vậy có thể khẳng định, đây là những khách hàng đặc biệt quan trọng đối với doanh nghiệp, việc nghiên cứu về những khách hàng này có ý nghĩa rất to lớn đối với hoạt động kinh doanh của Công ty. Vấn đề đặt ra là Công ty phải hiểu rõ về những khách hàng này, về hành vi mua bán của họ để từ đó có cách tiếp cận thật thích hợp nhằm mang lại hiệu quả kinh tế cao nhất cho công ty. Làm thế nào để thu hút được những khách hàng mới đến công ty, đồng thời duy trì được mối quan hệ với những khách hàng truyền thống là câu hỏi mà ban giám đốc công ty đã, đang và sẽ tìm ra câu trả lời tốt nhất. Cơ chế thị trường đã tạo ra điều kiện thuận lợi cho các doanh nghiệp, các thành phần kinh tế khác nhau đều được tham gia kinh doanh xuất nhập khẩu, chính vì thế trong hoạt động nhập khẩu vật tư, vật liệu trang thiết bị sản xuất công nghiệp, công ty không phải là đơn vị duy nhất độc quyền. Mặt khác, ngày nay khách hàng được sự trợ giúp của các phương tiện thông tin hiện đại nên có nhiều thông tin về hàng hoá hơn và do đó cũng sẽ có nhiều sự lựa chọn hơn trong việc tìm ra đối tác thích hợp với mình. Thêm vào đó, việc thay thế, đầu tư mới trang thiết bị máy móc luôn là một vấn đề lớn đối với bất cứ một doanh nghiệp nào, chính vì vậy mà họ sẽ cân nhắc kỹ lưỡng trước khi đưa ra một quyết định cuối cùng sao cho hiệu quả kinh tế đem lại là tối đa. Nắm được tâm lý đó của khách hàng, Công ty Vật tư, vận tải & xếp dỡ Hà Nội đã đề ra các biện pháp cụ thể, mang tính cấp bách nhằm thu hút khách hàng. Đối với những khách hàng là các đơn vị sản xuất công nghiệp, thì công ty đã dùng phương pháp chào hàng trực tiếp để tiếp cận. Đây là phương thức thích hợp nhất đối với khách hàng loại này, vì qua đó khách hàng sẽ nhận được một cách đầy đủ nhất các thông tin về loại hàng hoá mà mình cần cũng như những dịch vụ mà họ được hưởng khi mua hàng của công ty. Chào hàng cũng có một lợi thế khác là khách hàng có thể chủ động trong việc lựa chọn mặt hàng, quy cách chủng loại cũng như phương thức mua bán hay thanh toán. Về phía công ty, chào hàng cũng giúp công ty có được những thông tin phản hồi quý báu từ phía người mua, từ đó có thể đón trước được nhu cầu của khách hàng. Có thể hiện tại khách hàng không có nhu cầu về loại hàng hoá đó nhưng khi nảy sinh nhu cầu thì họ sẽ nghĩ ngay đến công ty. Công ty Vật tư, vận tải & xếp dỡ Hà Nội tuy được thành lập trong một khoản thời gian chưa lâu song trong quá trình hoạt động của mình, công ty cũng đã tạo lập được một số quan hệ bạn hàng uy tín, chính điều này đã góp phần tạo nên một thế đứng vững chắc của công ty ngày nay và đảm bảo cho những bước phát triển của công ty trong những thời gian tới. Bảng 5. Tình hình tiêu thụ hàng hoá nhập khẩu theo thị trường qua 3 năm (1999-2001).Đơn vị USD. Năm Tên KH 1999 2000 2001 Giá trị % Giá trị % Giá trị % Gang thép Thái Nguyên 254935 11,5 1433403 40,0 3366898 38,2 Mỏ than Mạo Khê 210598 9,5 358531 10,0 846131 9,6 TNHH Cẩm Nguyên 283310 12,8 405139 11,3 643412 7,3 APP 190647 8,6 207947 5,8 1278011 14,5 Thương mại Nhật Quang 175129 7,9 222289 6,2 1339708 15,2 Thép Nam Đô 206163 9,3 190021 5,3 899015 10,2 Các công ty khác 896040 40,4 7679721 21,4 440693 5 Tổng 2216822 100 3585301 100 8813868 100 Nguồn báo cáo tình hình tiêu thụ sản phẩm qua các năm Với vai trò là một đơn vị kinh doanh xuất nhập khẩu. Công ty xác định thị trường mục tiêu là thị trường nội địa với tập khách hàng trọng điểm là các doanh nghiệp sản xuất công nghiệp và các công tythương mại. Các doanh nghiệp sản xuất được chia làm hai dạng là các đơn vị thành viên của Tổng công ty than Việt Nam và các doanh nghiệp ngoài tổng công ty. Các khách hàng là đơn vị thành viên của Tổng công ty chủ yếu là các mỏ than, và thường xuyên mua các mặt hàng như xăng dầu, thiết bị khai thác mỏ, các phụ tùng thay thế của phương tiện vận tải và phương tiện khai thác, các loại thép. Còn các doanh nghiệp ngoài tổng công ty thường là các công ty sản xuất thép, các công ty xây dựng với mặt hàng chủ yếu là thép. Khách hàng chủ yếu của Công ty là các doanh nghiệp thương mại ở Hà Nội, các tỉnh lân cận, ngoài ra còn có một vài công ty ở thành phố Hồ Chí Minh. Trong gần mười năm hoạt động, công ty đã mở rộng thị trường ra rất nhiều do không ngừng cố gắng triển khai hoạt động nghiên cứu, tìm hiểu, nắm bắt nhu cầu khách hàng để từ đó có kế hoạch cung ứng đầy đủ, kịp thời và nhanh chóng. Công ty đã có được một số khách hàng truyền thống như: Công ty gang thép Thái Nguyên, công ty thép ống Đài Loan, Công ty thép Nam Đô, công ty APP, công ty xây dựng Gia Phát...và các mỏ than như: Mạo Khê, Đèo Nai, Cọc sáu,Hà Tu... Tất cả các khách hàng nói trên đều làm ăn với công ty dưới cả hai hình thức là mua hàng và uỷ thác nhập khẩu hàng hoá. Trên bảng 5, ta có thể thấy giá trị mua hàng của các doanh nghiệp trên qua ba năm 1999-2000. Căn cứ vào bảng thì thấy công ty gang thép Thái Nguyên là đơn vị mua hàng lớn nhất của công ty, năm 1999 công ty này đã mua của công ty 254935 USD chiếm 11,5% tỷ trọng bán hàng. Năm 2000 con số này là 1433403 USD chiếm 40% và như vậy là đã tăng hơn 4 lần so với năm 1999. năm 2001 tỷ trọng tuy có giảm xuống nhưng vẫn đạt ở mức 38,2%. Tiếp theo phải kể đến là công ty TNHH Cẩm Nguyên, co tỷ trọng hàng mua bán với Công ty lần lượt qua các năm là: 12,78%; 11,3% và 7,3%. Tỷ lệ tăng hàng năm bình quân là hơn 50%. Cũng qua bảng X, ta thấy giá trị bán hàng của công ty Vật tư, vận tải & xếp dỡ Hà Nội không ngừng tăng lên, nhưng lại chỉ tập trung ở một số khách hàng mua với khối lượng lớn còn các khách hàng quen hàng năm lại có xu hướng giảm đi, ví dụ như công ty thép Nam Đô hoặc mỏ than Mạo Khê vì vậy thị phần của chi nhánh có phần bị thu hẹp, đây là vấn đề rất quan trọng mà công ty cần có ngay các biện pháp khắc phục, tránh gây tổn thất cho công ty. 2.2 Nghiên cứu thị trường nhập khẩu hàng hoá từ nước ngoài: Đây là thực chất là công tác tạo nguồn hàng để nhập khẩu, thiết lập mối quan hệ với các nhà cung ứng. Có thể nói về mặt này công ty có nhiều lợi thế hơn các đơn vị khác. Là một đơn vị thành viên của Tổng công ty than Việt Nam mà Công ty có thể tận dụng được những mối quan hệ tốt đã có từ trước giữa Tổng công ty than và các đối tác nước ngoài mà hầu hết là các công ty lớn, có uy tín. Chính vì vậy mà trong những năm vừa qua Công ty không phải gặp nhiều khó khăn trong công tác tạo nguồn hàng nhập khẩu, những nguồn hàng có thể đảm bảo về chất lượng hàng hoá cũng như tính ổn định của việc cung cấp hàng. Điều này đã làm cho công ty có thể yên tâm trong việc ký kết các hợp đồng nội bán hàng, hay nhận nhập khẩu uỷ thác cho các công ty ở trong nước, đồng thời tạo cho các khách hàng này sự tin tưởng vào chất lượng dịch vụ của Công ty. Đây là một điều rất đáng mừng, đặc biệt là trong giai đoạn tìm kiếm các khách hàng mới của công ty hiện nay. Bảng nhập khẩu theo thị trường của Công ty trong nhữngnăm qua Nhìn vào bảng trên ta có thấy Công ty đã thiết lập được một hệ thống các nhà cung ứng rộng khắp. Với đòi hỏi cao của thị trường nhập khẩu vật tư, vật liệu trang thiết bị phục vụ sản xuất công nghiệp nên trong hoạt động lựa chọn nhà cung ứng, tạo nguồn hàng nhập Công ty luôn chủ động hợp tác với những nước có nền công nghiệp phát triển, có trình độ về khoa học kỹ thuật dây truyền công nghệ cao như: Nga, Trung Quốc, Nhật Bản, Mỹ, Đức... khi tiến hành lựa chọn các đối tác này để nhập khẩu công ty Vật tư, vận tải & xếp dỡ Hà Nội đã tích cực nghiên cứu về tình hình sản xuất, khả năng tài chính cũng như những nhân tố khách quan khác có thể ảnh hưởng đến hoạt động nhập khẩu của doanh nghiệp, chính vì vậy nên trong thời gian qua công ty đã thực hiện hoạt động nhập khẩu một cách rất hiệu quả. Tuy nhiên có thể dễ dàng nhận thấy một điều là các đối tác chính của Công ty trong việc cung ứng hàng hoá nhập khẩu đều là những đối tác, bạn hàng truyền thống với Tổng công ty than Việt Nam như Nga, Nhật Bản và Trung Quốc và tỷ trọng hàng nhập khẩu từ các đối tác này là rất lớn. Cụ thể là năm 1998, giá trị hàng hoá nhập khẩu từ Nhật Bản đạt mức 2328039 USD ( chiếm 20,5% tổng giá trị hàng nhập khẩu), năm 1999 là 2299181 USD( chiếm 17,6% tổng giá trị hàng nhập khẩu) tỷ trọng này vẫn được duy trì ở mức cao cho đến năm 2001, và trung bình chiếm khoảng 18,5% qua các năm. Tổng giá trị hàng hoá nhập khẩu từ những nước này (Nga, Nhật Bản và Trung Quốc) luôn chiếm khoảng 50% tổng giá trị hàng nhập khẩu Đây là một lợi thế của Công ty, như trên đã nói ở trên vì họ đều là các công ty có uy tín, có mối quan hệ lâu năm với tổng công ty và hiện tại hoạt động nhập khẩu từ các thị trường này vẫn đem lại lợi nhuận rất cao. Tuy nhiên, nó cũng có một số hạn chế nhất định. Đầu tiên, hàng hoá của các đối tác này chủ yếu là các trang thiết bị phục vụ cho nhu cầu sản xuất than, trong tình hình hiện nay khi ngành sản xuất và khai thác than đang gặp rất nhiều khó khăn, nếu cứ nhập khẩu những mặt hàng này sẽ không phải là một giải pháp toàn vẹn, gây mất hiệu quả trong hoạt động kinh doanh của công ty. Bên cạnh đó, Công ty sẽ phải lệ thuộc nhiều hơn vào Tổng công ty trong việc giới thiệu ghép mối các quan hệ truyền thống này khi đó tính tự chủ trong hoạt động nhập khẩu của công ty bị giảm sút và hiệu quả mang lại sẽ là không cao. Hơn nữa với trong điều kiện cạnh tranh ngày càng gay gắt hiện nay, nếu chỉ tập trung vào kinh doanh một loại hàng hoá thì công ty sẽ phải đối đầu với rất nhiều những rủi ro. Để giải quyết vấn đề này trong những năm qua bên cạnh việc duy trì những bạn hàng truyền thống công ty đã cố gắng tìm kiếm thêm nhữngnhà cung ứng mới và bước đầu đã đem lại những thành công đáng kể. Công ty đã tìm được những đối tác ở úc, Mỹ, Thuỵ Điển và nhiều nước khác...Cụ thể giá trị nhập khẩu từ Thuỵ Điển năm 1998 chiếm 5,2 % tổng giá trị hàng nhập khẩu, năm 1999 là 5,3 % như vậy là đã có xu hướng tăng so với năm trước, điều này trở nên rõ ràng hơn vào năm 2000 khi tỷ trọng hàng hóa nhập khẩu từ thị trường này đã đạt mức 6,3 %. Cùng với thị trường Thuỵ Điển các thị trường khác cũng có dấu hiệu khả quan và đến cuối năm 2001 thì tổng giá trị hàng nhập khẩu từ các thị trường mới này đã đạt tới mức trên 25%. Đây có thể nói là một thành công rất lớn của Công ty trong công tác tạo nguồn hàng nhập khẩu. 3. Công tác giao dịch đàm phán, ký kết và thực hiện hợp đồng nhập khẩu: Công ty Vật tư, vận tải & xếp dỡ Hà Nội đã có quan hệ với một số đơn vị tổ chức kinh tế trong và ngoài nước. Các mối quan hệ đó được xây dựng trên tinh thần hợp tác tương trợ lẫn nhau để đảm bảo mang lại lợi ích cho cả hai bên. Trong quá trình kinh doanh của mình công ty phải vận dụng quy luật giá trị, phải tính toán chi phí cho hoạt động mua bán của mình để có thể mang lại lợi nhuận cho công ty. Hợp đồng kinh tế là công cụ duy nhất ràng buộc hai bên về trách nhiệm và quyền lợi với nhau. Trong hợp đồng phải quy định rõ quyền hạn và nghĩa vụ của các bên nhằm thức hiện mục tiêu kinh doanh chiến lược của mình. Trong công ty, các trưởng phòng đều được uỷ quyền Giám đốc có đủ tư cách pháp nhân để ký hợp đồng. Một hợp đồng có thể ký bằng hai cách: các bên cùng ký hoặc một bên ký trước rồi chuyển qua bên kia ký sau. Tuỳ vào từng hợp đồng mà có thể có các cách khác nhau. đôi khi đối với những hợp đồng phức tạp phải kết hợp cả hai hình thức ký kết trên. Một số nội dung cơ bản thường gặp trong các hợp đồng là: hàng hoá, giá cả, phương thức thanh toán, điều kiện vận chuyển, bảo hiểm, chất lượng phẩm chất...Trong trường hợp là bạn hàng truyền thống thì công ty có thể áp dụng phương án trả tiền bằng điện, còn đối với những bạn hàng mới thì công ty có thể đề nghị thanh toán bằng thư tín dụng chứng từ ( L/C ). Cũng trong đàm phán ký kết hợp đồng thì việc xảy ra những tranh chấp là điều khó tránh khỏi. Trong trường hợp đó hai bên có thể gặp gỡ bàn bạc và tìm cách giải quyết. Ký kết hợp đồng là một quá trình phức tạp đòi hỏi phải có trình độ nghiệp vụ cao cũng như khả năng giao tiếp của các bên . Khi ký kết, hợp đồng công ty và các bên có liên quan tiến hành chi tiết hoá các cam kết trong thoả thuận. Hợp đồng sẽ chỉ có hiệu lực khi các cơ quan có thẩm quyền phê duyệt theo quy định. Sau khi đã có sự phê duyệt của các cơ quan chức năng đối với hợp đồng nhập khẩu. Công ty sẽ tiến hành nhập khẩu và chịu trách nhiệm thi hành những nội dung của hợp đồng đã ký. Quá trình ký kết hợp đồng được tiến hành một cách kết hợp từ khi chuẩn bị dự thảo, nghiêncứu kỹ khả năng của đối tác để tránh những rủi ro có thể xảy ra quá trình tiến hành hoạt động nhập khẩu. Quá trình chuẩn bị hình thành một hợp đồng nhập khẩu máy móc thiết bị: Xuất phát từ nhu cầu trong nước Căn cứ vào khả năng tài chính của công ty Nghiên cứu thị trường và chọn đối tác cung cấp Tính toán hiệu quả của việc nhập khẩu máy móc thiết bị Quyết định của các cấp có thẩm quyền Quá trình đàm phán ký kết hợp đồng của công ty có thể biểu diễn qua sơ đồ sau: Chào hàng Chuẩn bị hợp đồng Dự thảo hợp đồng Chuẩn bị hợp đồng Ký kết hợp đồng Theo sơ đồ ta thấy công tác thương lượng ký kết hợp đồng mua bán được thực hiện đầy đủ, bảo đảm những nguyên tắc của hạch toán kinh tế, kết hợp với việc lãnh đạo tập trung của nhà nước đối với công ty với việc mở rộng quyền làm chủ, độc lập về nghiệp vụ kinh doanh của Công ty 4. Quy trình hoạt động nhập khẩu: Quy trình hoạt động nhập khẩu của công ty có thể được biểu diễn theo sơ đồ sau: Tìm và lựa chọn đối tác Đàm phán và ký kết hợp đồng Mở LC Đôn đốc bên bán giao hàng Làm thủ tục hải quan Nhận hàng Kiểm tra hàng hoá Giao cho đơn vị đặt hàng Thanh toán Khiếu nại III. Đánh giá tình hình nhập khẩu tại công ty VậT TƯ, VậN TảI & XếP Dỡ hà nộI thời gian qua: Đánh giá hoạt động nhập khẩu là công việc cần thiết ở bất kỳ một doanh nghiệp kinh doanh xuất nhập khẩu nào. Thông qua việc đánh giá kết quả hoạt động nhập khẩu qua từng thời kỳ, từng giai đoạn giúp cho doanh nghiệp nhận biết được những khó khăn, thuật lợi, những thành tích đạt được cũng như những mặt còn hạn chế từ đó doanh nghiệp có thể tìm ra được những nguyên nhân và đưa ra được những giải pháp thích hợp nhằm hoàn thiện công tác nhập khẩu, nâng cao hiệu quả kinh doanh. Là một doanh nghiệp mới được thành lập năm 1996, mặc dù vẫn được sự bảo trợ của Tổng công ty than Việt Nam, công ty Vật tư, vận tải & xếp dỡ Hà Nội vẫn phải hoạt động một cách độc lập trong một thị trường rộng lớn và tính cạnh tranh cao. Vì vậy, Công ty không thể không mắc phải một số nhữnh sai lầm thiếu sót. Nhưng với sự nỗ lực đoàn kết đầy tinh thần trách nhiệm của tập thể cán bộ nhân viên, công ty đã dần vượt qua được những khó khăn ban đầu, dần khẳng định được vị trí của mình trên thương trường. Từ chỗ làm ăn thua lỗ, đến nay công ty đã vươn lên và trở thành một trong những doanh nghiệp dẫn đầu của tổng công ty than Việt Nam về làm ăn đạt được hiệu quả cao. 1. Những kết quả đạt được: 1.1. Về công tác nghiên cứu thị trường: Do hoàn cảnh mới được thành lập, nên công ty đã gặp rất nhiều khó khăn trong việc xâm nhập vào thị trường, đặc biệt là thị trường kinh doanh nhập khẩu hàng vật tư, vật liệu, trang thiết bị công nghiệp. Tuy nhiên nếu nhìn vào bảng thành tích của công ty trong một vài năm gần đây ( lợi nhuận năm sau luôn cao hơn năm trước) có thể khẳng định được rằng công ty đã thực sự làm chủ hoạt động kinh doanh của mình, tồn tại và đứng vững được trên thị trường. Để đạt được những điều này, một nguyên nhân rất quan trọng là công ty đã tìm hiểu và nắm bắt được một cách chính xác tình hình biến động của thị trường, từ đó đã đưa ra được những phương án kinh doanh hợp lý giúp công ty tận dụng được những thời cơ đầu tư và làm ăn có hiệu quả. Có thể chứng minh được điều này thông quakết quả kinh doanh những mặt hàng chính của công ty 3 năm gần đây ( 1999-2001). Trong khí nền kinh tế khu vực có nhiều xáo chộn lớn ( cuộc khủng hoảng tài chính tiền tệ khu vực Đông Nam á ) nhưng do luôn đi sâu, đi sát vào thực tế thị trường, kịp thời nắm bắt được nhu cầu tiêu dùng và sản xuất trong nước nên đã linh hoạt thay đổi kế hoạch kinh doanh, chuyển dịch cơ cấu nhập khẩu nhóm mặt hàng chính từ các thiết bị phục vụ cho ngành khai thác, sản xuất than sang các loại nguyên vật liệu phục vụ cho nhu cầu xây dựng trong nước đang phát triển nên đã thu hút được những kết quả rất khả quan. Bảng kết quả, hiệu quả kinh doanh nhóm mặt hàng chính của Công ty Vật tư, vận tải & xếp dỡ Hà Nội: Năm Chỉ tiêu ĐVT 1999 2000 2001 Tổng doanh thu USD 2526119 4402613 5365784 Chi phí+ thuế USD 2339000 3948532 4665900 Lợi nhuận sau thuế USD 187120 454081 699885 Tuất suất lợi nhuận % 8 11,5 15 Nguồn báo cáo của phòng tài chính kế toán Công ty VTX Hà Nội Bên cạnh đó, cũng do công tác nghiên cứu thị trường, tìm hiểu các đối tác kinh doanh của công ty đạt hiệu quả cao. Nên trong những năm gần đây công ty đã không ngừng phát triển thêm được những thị trường mới. Nếu như những năm trước đây, Tổng công than Việt Nam chỉ chủ yếu quan hệ làm ăn buôn bán với các nước Đông Âu như Nga, Ukraina và Trung Quốc thì những năm gần đây do đòi hỏi của tình hình mới, công ty Vật tư, vận tải & xếp dỡ Hà Nội ( một đơn vị trực thuộc Tổng công than ) đã mạnh dạn mở rộng thị trường ra các nước Tây Âu và các nước TBCN khác như: Đức, Italia, Nhật Bản, Hàn Quốc...và bước đầu đã đem lại những hiệu quả nhất định. Đây chắc chắn cũng sẽ là một thị trường đầy tiềm năng mà trong thời gian tới Công ty cần quan tâm khai thác. 1.2 Về công tác giao dịch, đàm phán, ký kết và thiết lập quan hệ bạn hàng: Đây là mảng hoạt động chủ yếu đối với một doanh nghiệp kinh doanh xuất nhập khẩu. Trong thời gian qua, có thể nói công ty đã thực hiện rất tốt công tác này và được các nhà cung ứng cũng như các khách hàng của doanh nghiệp đánh giá cao. Với một đội ngũ cán bộ nhân viên giỏi về chuyên môn nghiệp vụ và ngoại ngữ, lại được sự giúp đỡ tận tình của Tổng công ty than Việt Nam nên công ty đã gặp rất nhiều thuận lợi trong khâu tìm kiếm bạn hàng và thực hiện các hợp đồng xuất nhập khẩu hàng hoá. Cho đến nay, tất cả các thương vụ lớn nhỏ của công ty đều được thực hiện một cách chót lọt. Một số khúc mắc nảy sinh trong quá trình giao nhận hàng hoá và thanh toán hợp đồng đều được Ban giám đốc công ty cùng các cán bộ nghiệp vụ khéo léo xử lý bằng con đường thoả thuận đàm phán, chưa có một vụ việc nào phải đưa ra trọng tài hoặc toà án kinh tế. Trong công tác giao nhận hàng hoá, công ty luôn giữ được chữ tín đối với khách hàng cũng như các nhà cung ứng, hiện nay, có đến 88 % tổng lượng hàng hoá nhập khẩu của công ty là vận chuyển bằng đường biển ( vì vận chuyển bằng con đường này chi phí thấp và độ an toàn là khá cao); Cảng nhận hàng chủ yếu là cảng Hải Phòng ( chiếm đến 60% tổng klượng hàng nhập), cảng Sài Gòn (30%), các cảng còn lại chỉ chiếm 10%. Điều này cho thấy khách hàng của công ty chủ yếu tập trung ở các khu công nghiệp lớn là Hà Nội, Hải Phòng và Thành phố Hồ Chí Minh, các trung tâm kinh tế này rất xa nhau. Mặc dù vậy, công ty luôn chú tâm, đôn đốc công tác vận chuyển hàng hoá nên luôn luôn đảm bảo được thời hạn giao hàng cũng như chất lượng của hàng hoá. Điều này đã tạo được sự hài lòng tin cậy từ phía khách hàng và các đối tác khác đối với công ty, tạo tiền đề cho những mối quan hệ hợp tác làm ăn lâu dài trong thời gian tới. Trong xu hướng khu vực hoá như hiện nay, việc liên kết kinh tế mang tính hệ thống đã ảnh hưởng rất lớn đến các công ty xuất nhập khẩu. Các nước trong cùng khu vực, cùng khối kinh tế được ưu tiên hơn trong lĩnh vực trao đổi thương mại thì cũng đồng nghĩa với việc sẽ gặp nhiều khó khăn hơn khi trao đổi thương mại với các khu vực khác. Việc nước ta ra nhập OPEC, APEC, ASEAN...là những bước ngoặt kinh tế đáng kể, tạo tiền để thuận lợi cho các hoạt động thương mại quốc tế phát triển. Nhờ chính sách mở cửa của nhà nước và uy tín của Tổng công ty than Việt Nam mà công ty Vật tư, vận tải & xếp dỡ Hà Nội trong những năm qua đã tạo lập được những mối quan hệ làm ăn buôn bán với các công ty thương mại, các công ty sản xuất lớn ở nhiều nước trên thế giới như: Công ty Nisshoiwai, Kawasho (Nhật Bản), Sanlotus, Thyssen (Thuỵ Điển ), TongYang ( Trung Quốc)...Trong đó, các công ty của Nhật Bản, Trung Quốc và Nga là những đối tác lớn hơn cả, chiếm đến 67% tổng lượng hàng hoá nhập khẩu của Công ty. Đây là một điều rất đáng tự hào đối với một doanh nghiệp trẻ, chỉ mới hoạt động được hơn 5 năm như công ty Vật tư, vận tải & xếp dỡ Hà Nội. 1.3 Về công tác tiêu thụ hàng nhập khẩu: Như đã nói ở trên, với tư cách là một đơn vị trực thuộc Tổng công ty than Việt Nam, có nhiệm vụ cung cấp và hỗ trợ trang thiết bị công nghiệp phục vụ cho ngành than nên trong những năm trước đây hàng nhập khẩu của công ty chủ yếu là để cung ứng cho thị trường này. Tuy nhiên, trong những năm gần đây do khó khăn chung của nền kinh tế, đặc biệt là ngành than. Là một đơn vị hạch toán độc lập, công ty đã quyết định mở rộng thị trường ra khỏi phạm vi của ngành với phương châm giữ vững những khách hàng cũ và tăng cường tìm kiếm thêm những cơ hội mới, mở đường cho việc chuyển dịch cơ cấu mặt hàng nhập khẩu từ chỗ chỉ nhập khẩu những hàng hoá, máy móc phục vụ cho nhu cầu khai thác, snả xuất và vận chuyển than đến việc nhập khẩu tất cả cácnguyên nhiên vật liệu, trang thiết bị sản xuất cho tất cả các ngành công nghiệp. Đây là hướng đi rất đúng đắn củ công ty, nó đã đem lại cho công ty những khách hàng mới đầy tiềm năng như công ty gang thép Thái Nguyên, công ty TNHH Cẩm Nguyên, Công ty APP, thép Nam Đô...bên cạnh những khách hàng truyền thống như mỏ than Mạo Khê, Phấn Mễ...và làm cho lợi nhuận của công ty không ngừng tăng lên qua các năm mà đi cùng với nó là tỷ suất lợi nhuận cũng không ngừng được nâng lên, đạt mức trung bình là 10% năm. Đây là một thành công mang tính khích lệ, động viên vô cùng lớn đối với công ty nói riêng và Tổng công ty than Việt Nam nói chung trong việc tìm ra con đường làm ăn có lãi, khắc phục được những khó khăn trong giai đoạn hiện nay. 1.4 Về mặt tổ chức và con người: Qua gần chục năm trưởng thành và phát triển, cơ cấu tổ chức của công ty đã được sắp xếp tương đối phù hợp với quy mô và nhiệm vụ của mình. Các phòng ban có thể phát huy được khả năng của mình, bộ máy thống nhất đảm bảo sự thông suốt từ trên xuống dưới. Với hệ thống tổ chức bộ máy như của công ty như vậy cho phép giám đốc trực tiếp nắm được hoạt động của các phòng chức năng, do đó điều hành được nhanh chóng kịp thời và sát sao. Đánh giá về công tác nhập khẩu ở công ty không thể khôngnói đến nhân tố con người. Với đội ngũ nhân viên trên 90% có trình độ đại học và trên đại học giỏi về ngoại ngữ và đều rất trẻ, luôn làm việc với tinh thần trách nhiệm cao, chịu khó tìm tòi sáng tạo nhằm đem lại hiệu quả kinh tế lớn cho doanh nghiệp, biết gắn lợi ích cá nhân mình với lợi ích của tập thể. Công ty Vật tư, vận tải & xếp dỡ Hà Nội thực sự đã có một công cụ cạnh tranh vô cùng hữu hiệu đó là yêu tố con người. 2. Những mặt còn tồn tại: Bên cạnh những kết quả tốt nghiệp đã đạt được như đã nói ở trên, trong quá trình hoạt động kinh doanh của mình công ty cũng gặp phải một số khó khăn sau đây: Về công tác nghiên cứu thị trường. Trong thời gian qua, nhìn chung công tác này là rất tốt. Tuy nhiên nếu nhìn lại thì có thể thấy rằng trong những năm qua, chủng loại mặt hàng kinh doanh của công ty vẫn còn chưa nhiều, quy mô kinh doanh còn chưa lớn, thị trường còn nhỏ hẹp dẫn đến công tác nghiên cứu thị trường đã gặp rất nhiều thuận lợi và vì vậy phòng kinh doanh ( bộ phận nghiên cứu thị trường hiện tại của doanh nghiệp ) mới có điều kiện để hoàn thành tốt nhiệm vụ được giao. Nhưng trong những giai đoạn phát triển tiếp theo này của công ty, khi mà quy mô cũng như chủng loại mặt hàng và thị trường của công ty được mở rộng thì bộ phận này chắc chắn sẽ không đáp ứng được với yêu cầu đòi hỏi của tình hình mới, do đó sẽ gây khó khăn không nhỏ cho công ty trong việc tìm kiếm và khai thác các cơ hội kinh doanh xuất hiện trên thị trường. Về mặt khách hàng của công ty. Những năm gần đây có thể nói công ty đã có thêm được nhiêu khách hàng và nhà cung ứng mới. Song nếu quan sát cả giai đoạn phát triển kể từ khi mới thành lập cho đến nay thì hầu hết các đối tác làm ăn của doanh nghiệp đều là các khách hàng truyền thống, đã có mối quan hệ làm ăn buôn bán từ trước

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc100429.doc
Tài liệu liên quan