Đề tài Một số biện pháp đẩy mạnh xuất khẩu hàng dệt may tại công ty Dệt Kim Đông Xuân

Tài liệu Đề tài Một số biện pháp đẩy mạnh xuất khẩu hàng dệt may tại công ty Dệt Kim Đông Xuân: Lời mở đầu 1. Sự cần thiết nghiên cứu của đề tài: Đặc trưng quan trọng của tình hình thế giới ngày nay là xu hướng quốc tế hoá. Nền kinh tế thế giới ngày càng phát triển, mỗi nước dù lớn hay nhỏ đều phải tham gia vào sự phân công lao động khu vực và quốc tế. Ngày nay không một dân tộc nào có thể phát triển đất nước mình mà chỉ bằng tự lực cánh sinh. Đặc biệt đối với các nước đang phát triển như Việt Nam thì việc nhận thức đầy đủ những đặc trưng quan trọng này và ứng dụng vào tình hình thực tế đất nước có tầm quan trọng hơn bao giờ hết. ở nước ta, Khi xác định những quan điểm lớn về công nghiệp hoá, hiện đại hoá, hội nghị đại biểu toàn quốc giữa nhiệm kỳ khoá VII của Đảng đã khẳng định “kiên trì chiến lược hướng mạnh về xuất khẩu đồng thời thay thế nhập khẩu những sản phẩm trong nước sản xuất có hiệu quả, phát huy lợi thế so sánh của đất nước cũng như của từng vùng, từng ngành, từng lĩnh vực trong từng thời kỳ, không ngừng nâng cao sức mạnh cạnh tranh trên thị trường trong nước, thị t...

doc96 trang | Chia sẻ: hunglv | Lượt xem: 897 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem trước 20 trang mẫu tài liệu Đề tài Một số biện pháp đẩy mạnh xuất khẩu hàng dệt may tại công ty Dệt Kim Đông Xuân, để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Lời mở đầu 1. Sự cần thiết nghiên cứu của đề tài: Đặc trưng quan trọng của tình hình thế giới ngày nay là xu hướng quốc tế hoá. Nền kinh tế thế giới ngày càng phát triển, mỗi nước dù lớn hay nhỏ đều phải tham gia vào sự phân công lao động khu vực và quốc tế. Ngày nay không một dân tộc nào có thể phát triển đất nước mình mà chỉ bằng tự lực cánh sinh. Đặc biệt đối với các nước đang phát triển như Việt Nam thì việc nhận thức đầy đủ những đặc trưng quan trọng này và ứng dụng vào tình hình thực tế đất nước có tầm quan trọng hơn bao giờ hết. ở nước ta, Khi xác định những quan điểm lớn về công nghiệp hoá, hiện đại hoá, hội nghị đại biểu toàn quốc giữa nhiệm kỳ khoá VII của Đảng đã khẳng định “kiên trì chiến lược hướng mạnh về xuất khẩu đồng thời thay thế nhập khẩu những sản phẩm trong nước sản xuất có hiệu quả, phát huy lợi thế so sánh của đất nước cũng như của từng vùng, từng ngành, từng lĩnh vực trong từng thời kỳ, không ngừng nâng cao sức mạnh cạnh tranh trên thị trường trong nước, thị trường khu vực và thị trường thế giới” . Thực hiện đường lối đổi mới do Đảng khởi xướng và lãnh đạo, trong những năm qua thương mại Việt Nam đã đạt được những thành tựu bước đầu quan trọng, góp phần tạo nên những biến đổi sâu sắc nền kinh tế - xã hội nước ta và vị thế mới trên thị trường quốc tế. Việt Nam đã thiết lập được nhiều mối quan hệ ngoại giao với nhiều nước, tiếp tục mở rộng hoạt động ngoại thương theo hướng đa dạng hoá, đa phương hoá, tích cực hội nhập vào nền kinh tế thế giới, tham gia các tổ chức thương mại quốc tế như ASEAN, AFTA, APEC ...và đang từng bước tiến tới việc ra nhập vào tổ chức thương mại thế giới WTO. Điều này đã đặc biệt làm cho lĩnh vực xuất nhập khẩu ngay càng trở nên sôi động. Trong số 10 mặt hàng có giá trị kim ngạch xuất khẩu lớn nhất của Việt Nam, phải kể đến hàng dệt may. Tuy đứng ở vị trí thứ hai, nhưng đây là mặt hàng có nhiều lợi thế so sánh và có khả năng phát triển cao. Hơn nữa, với điều kiện tình hình nước ta hiện nay, tập trung phát triển hàng dệt may là hoàn toàn phù hợp. Như vậy, cả về mặt lý luận và thực tiễn, đề tài “Một số biện pháp đẩy mạnh xuất khẩu hàng dệt may tại công ty Dệt Kim Đông Xuân ” góp phần giải quyết những vấn đề đặt ra là quan trọng và hết sức cần thiết. 2. Mục đích nghiên cứu: Trong thời gian gần đây, tình hình xuất khẩu của ngành dệt may Việt Nam nói chung và công ty Dệt Kim Đông Xuân nói riêng gặp nhiều trở ngại. Nguyên nhân là do tình hình thị trường tài chính và tiền tệ trên thế giới có nhiều biến động khiến cho đầu tư giảm sút dẫn đến các công ty xuất khẩu hàng dệt may thiếu vốn lưu động. Mặt khác cơ sở vật chất, các trang thiết bị kĩ thuật của ngành dệt may còn thấp so với mặt bằng chung trên thế giới cũng ảnh hưởng đến khả năng xuất khẩu nhất là sang các thị trường đòi hỏi hàm lượng chất xám cao như EU, Nhật Bản... Bên cạnh đó, thị trường EU do hạn chế quota, sức mua của thị trường Nhật Bản giảm sút do đồng Yên mất giá nên hàng dệt may phần thì không có chỗ để xuất, phần xuất được thì giá xuất thấp hơn so với các năm trước. Sự cạnh tranh của các sản phẩm cùng loại của Trung Quốc cũng là một nhân tố khiến cho khả năng xuất khẩu hàng dệt may của Việt Nam vài năm qua liên tục sút giảm. Những vấn đề cấp bách trên thôi thúc khiến cần phải đưa ra những biện pháp nhằm góp phần cải thiện tình hình xuất khẩu hàng dệt may ở công ty Dệt Kim Đông Xuân nói riêng và Việt Nam nói chung. 3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu: Đối tượng được nghiên cứu trong đề tài này là tình hình hoạt động xuất khẩu hàng dệt may tại công ty Dệt Kim Đông Xuân và các yếu tố khác có liên quan như công nghệ sản xuất sản phẩm, mẫu mã hàng xuất khẩu... nhằm đưa ra một số biện pháp thúc đấy hoạt động xuất khẩu hàng dệt may tại công ty Dệt Kim Đông Xuân. Đề tài nghiên cứu hoạt động xuất khẩu hàng dệt may của công ty nói riêng và Việt Nam nói chung qua một số năm gần đây nhằm tìm ra các yếu tố chủ quan và khách quan làm sụt giảm doanh số xuất khẩu hàng dệt may tại công ty Dệt Kim Đông Xuân. 4. Phương pháp nghiên cứu: Các phương pháp nghiên cứu được áp dụng trong đề tài là các phương pháp điều tra thống kê như dãy số thời gian, thu thập số liệu thống kê, phân tổ số liệu...cũng như các phương pháp nghiên cứu kinh tế, xã hội khác rồi so sánh, phân tích để tìm ra nguyên nhân làm suy giảm hoạt động xuất khẩu hàng dệt may rồi từ đó đưa ra một số biện pháp nhằm thúc đẩy hoạt động này. 5. Kết cấu của đề tài: Nội dung đề tài chia làm ba chương : Chương I : Lý luận chung về xuất khẩu hàng hoá của doanh nghiệp trong cơ chế thị trường. Chương II : Thực trạng hoạt động xuất khẩu hàng dệt may ở công ty Dệt Kim Đông Xuân. Chương III : Một số biện pháp đẩy mạnh xuất khẩu hàng dệt may tại công ty Dệt Kim Đông Xuân. Trong quá trình tìm hiểu và hoàn thành đề tài, tôi đã được sự hướng dẫn chỉ bảo tận tình, chi tiết của thầy giáo - Tiến sĩ Nguyễn Thừa Lộc, sự giúp đỡ nhiệt tình của các bác, các cô, các chú trong công ty Dệt Kim Đông Xuân. Tôi xin chân thành cảm ơn và rất mong nhận được sự góp ý, bổ sung để những biện pháp trong đề tài này có thể góp phần giải quyết tình trạng hiện nay của hoạt động xuất khẩu hàng dệt may tại công ty Dệt Kim Đông Xuân. Chương I Lý luận chung về xuất khẩu hàng hoá của doanh nghiệp trong cơ chế thị trường. I. khái niệm, các hình thức xuất khẩu và vai trò của xuất khẩu: 1. Khái niệm: Xuất khẩu hàng hoá hiểu theo phạm trù kinh tế có nghĩa là hoạt động kinh doanh hàng hoá giữa hai bên tham gia hoạt động kinh doanh có quốc tịch khác nhau, ngôn ngữ cũng khác nhau cũng như khác nhau về văn hoá, chính trị... hiểu theo phạm vi địa lý, hoạt động xuất khẩu hàng hoá có nghĩa là quá trình hàng hoá và tiền tệ di chuyển từ quốc gia này sang quốc gia khác được sự cho phép và đồng ý của chính quyền các nước. Xuất khẩu hàng hoá là hoạt động kinh doanh buôn bán ở phạm vi quốc tế. Nó không phải là hành vi buôn bán riêng lẻ mà là cả một hệ thống các quan hệ mua bán phức tạp có tổ chức cả bên trong và bên ngoài nhằm bán sản phẩm, hàng hoá sản xuất trong nước ra nước ngoài thu ngoại tệ, qua đẩy mạnh sản xuất hàng hoá phát triển, chuyển đổi cơ cấu kinh tế ổn định từng bước nâng cao mức sống nhân dân. Kinh doanh xuất nhập khẩu cũng chính là hoạt động kinh doanh quốc tế đầu tiên của một doanh nghiệp. Hoạt động này được tiếp tục ngay cả khi doanh nghiệp đã đa dạng hoá hoạt động kinh doanh của mình. Xuất khẩu hàng hoá nằm trong lĩnh vực phân phối và lưu thông hàng hoá của một quá trình tái sản xuất mở rộng, nhằm mục đích liên kết sản xuất với tiêu dùng của nước này với nước khác. Nền sản xuất xã hội phát triển như thế nào phụ thuộc rất nhiều vào hoạt động kinh doanh này. 2. Các hình thức xuất khẩu: a/ Xuất khẩu uỷ thác Trong phương thức này, đơn vị có hàng xuất khẩu là bên uỷ thác giao cho đơn vị xuất khẩu gọi là bên nhận uỷ thác tiến hành xuất khẩu một hoặc một số lô hàng nhất định với danh nghĩa của mình (bên nhận uỷ thác) nhưng với chi phí của bên uỷ thác. Về bản chất, chi phí trả cho bên nhận uỷ thác chính là tiền thu lao trả cho đại lý. Theo nghị định 64-HĐBT, chi phí uỷ thác xuất khẩu không cao hơn 1% của tổng số doanh thu ngoại tệ về xuất khẩu theo điều kiện FOB tại Việt Nam. Ưu nhược điểm của xuất khẩu uỷ thác: -Ưu điểm: Công ty nhận uỷ thác xuất khẩu không phải bỏ vốn vào kinh doanh, tránh được rủi ro trong kinh doanh mà vẫn thu được một khoản lợi nhuận là hoa hồng cho xuất khẩu. Do chỉ thực hiện hợp đồng uỷ thác xuất khẩu nên tất cả các chi phí từ nghiên cứu thị trường, giao dịch đàm phán ký kết hợp đồng và thực hiện hợp đồng không phải chi, dẫn tới giảm chi phí trong hoạt động kinh doanh của Công ty. -Nhược điểm: do không phải bỏ vốn vào kinh doanh nên hiệu quả kinh doanh thấp không bảo đảm tính chủ động trong kinh doanh. Thị trường và khách hàng bị thu hẹp vì Công ty không có liên quan tới việc nghiên cứu thị trường và tìm khách hàng. b/ Xuất khẩu trực tiếp: Trong phương thức này, đơn vị kinh doanh xuất nhập khẩu trực tiếp ký kết hợp đồng ngoại thương, với tư cách là một bên phải tổ chức thực hiện hợp đồng đó. Hợp đồng ký kết giữa hai bên phải phù hợp với luật lệ quốc gia và quốc tế, đồng thời bảo đảm được lợi ích quốc gia và đảm bảo uy tín kinh doanh của doanh nghiệp. Để thực hiện hợp đồng xuất khẩu, đơn vị kinh doanh phải tiến hành các khâu công việc: Giục mở L/C và kiểm tra luận chứng (nếu hợp đồng quy định sử dụng phương pháp tín dụng chứng từ), xin giấy phép xuất khẩu, chuẩn bị hàng hoá làm thủ tục hải quan, giao hàng lên tàu, mua bảo hiểm, làm thủ tục thanh toán và giải quyết khiếu nại (nếu có). Ưu nhược điểm của hình thức xuất khẩu trực tiếp: -Ưu điểm: Với phương thức này, đơn vị kinh doanh chủ động trong kinh doanh, tự mình có thể thâm nhập thị trường và do vậy có thể đáp ứng nhu cầu thị trường, gợi mở, kích thích nhu cầu. Nếu đơn vị tổ chức hoạt động kinh doanh tốt sẽ đem lại hiệu quả kinh doanh cao, tự khẳng định mình về sản phẩm, nhãn hiệu ... dần dần đưa được uy tín về sản phẩm trên thế giới. - Nhược điểm: Trong điều kiện đơn vị mới tham gia kinh doanh thì áp dụng hình thức này rất khó do điều kiện vốn sản xuất hạn chế, thông tin về thương trường quốc tế còn ít, uy tín nhãn hiệu sản phẩm còn xa lạ với khách hàng quốc tế. c/ Gia công hàng xuất khẩu. Gia công hàng xuất khẩu là một phương thức kinh doanh trong đó một bên (gọi là bên nhận gia công) nhập khẩu nguyên liệu hoặc bán thành phẩm của một bên khác (gọi là bên đặt gia công) để chế biến ra thành phẩm giao lại cho bên đặt gia công và nhận thù lao ( gọi là chi phí gia công). Tóm lại, gia công xuất khẩu là đưa các yếu tố sản xuất (chủ yếu là nguyên vật liệu) từ nước ngoài về để sản xuất hàng hoá theo yêu cầu của bên đặt hàng, nhưng không phải để tiêu dùng trong nước mà để xuất khẩu thu ngoại tệ chênh lệch do hoạt động gia công đem lại. Vì vậy, suy cho cùng, gia công xuất khẩu là hình thức xuất khẩu lao động, nhưng là loại lao động dưới dạng được sử dụng(được thể hiện trong hàng hoá) chứ không phải dưới dạng xuất khẩu nhân công ra nước ngoài. Gia công xuất khẩu là một phương thức phổ biến trong thương mại quốc tế. Hoạt động này phát triển sẽ khai thác được nhiều lợi thế của hai bên: bên đặt gia công và bên nhận gia công. 3. Vai trò của xuất khẩu đối với doanh nghiệp và nền kinh tế quốc dân: Xuất khẩu hàng hoá có vai trò to lớn đối với sự phát triển kinh tế xã hội của mỗi quốc gia. Nền sản xuất xã hội của một nước phát triển như thế nào, phụ thuộc rất lớn vào lĩnh vực hoạt động kinh doanh này. Thông qua xuất khẩu có thể làm tăng ngoại tệ thu được, cải thiện cán cân thanh toán, tăng thu cho ngân sách, kích thích đổi mới công nghệ, cải biến cơ cấu kinh tế, tạo thêm công ăn việc làm và nâng cao mức sống của người dân. Đối với những nước mà trình độ phát triển kinh tế còn thấp như nước ta, những nhân tố tiềm năng là tài nguyên thiên nhiên và lao động, còn những yếu tố thiếu hụt là vốn, thị trường và khả năng quản lý. Chiến lược hướng về xuất khẩu về thực chất là giải pháp mở cửa nền kinh tế nhằm tranh thủ vốn và kĩ thuật của nước ngoài, kết hợp chúng với tiềm năng trong nước về lao động và tài nguyên thiên nhiên để tạo ra sự tăng trưởng mạnh cho nền kinh tế, góp phần rút ngắn khoảng cách với các nước giàu. Như vậy đối với mọi quốc gia cũng như nước ta, xuất khẩu thực sự có vai trò quan trọng thể hiện: Hoạt động xuất khẩu tạo nguồn vốn ngoại tệ quan trọng cho nhập khẩu và tích luỹ phát triển sản xuất, phục vụ công nghiệp hoá đất nước. Trong kinh doanh quốc tế, xuất khẩu không phải là chỉ để thu ngoại tệ về, mà là với mục đích đảm bảo cho nhu cầu nhập khẩu hàng hoá dịch vụ khác nhằm thoả mãn nhu cầu tiêu dùng, tăng trưởng nền kinh tế và tiến tới xuất siêu (xuất khẩu > nhập khẩu), tích luỹ ngoại tệ (thực chất là đảm bảo chắc chắn hơn nhu cầu nhập khẩu trong tương lai). Xuất khẩu và nhập khẩu trong thương mại quốc tế vừa là điều kiện, vừa là tiền đề của nhau, xuất khẩu để nhập khẩu và nhập khẩu để phát triển xuất khẩu. Muốn nhập khẩu, chúng ta phải có ngoại tệ, có các nguồn ngoại tệ sau: - Xuất khẩu hàng hoá. dịch vụ. - Viện trợ, đi vay, đầu tư .... - Liên doanh đầu tư nước ngoài với ta. - Các dịch vụ thu ngoại tệ: ngân hàng, du lịch ... Có thể thấy rằng, trong các nguồn trên thì xuất khẩu hàng hoá, dịch vụ là nguồn quan trọng nhất vì: nó chiếm tỷ trọng lớn, đồng thời là khả năng bảo đảm trả được các khoản đi vay, viện trợ ... trong tương lai. Như vậy cả về dài hạn và ngắn hạn, xuất khẩu luôn là câu hỏi quan trọng cho nhập khẩu. Hoạt động xuất khẩu phát huy được các lợi thế của đất nước. Để xuất khẩu được, các doanh nghiệp kinh doanh xuất khẩu phải lựa chọn được những ngành nghề, mặt hàng có tổng chi phí (chi phí sản xuất và chi phí xuất khẩu) nhỏ hơn giá trị trung bình trên thị trường thế giới. Họ phải dựa vào những ngành hàng, những mặt hàng khai thác được các lợi thế của đất nước cả về tương đối và tuyệt đối. Ví dụ như trong các mặt hàng xuất khẩu mũi nhọn của ta thì dầu mỏ, thuỷ sản, gạo, than đá là những mặt hàng khai thác lợi thế tuyệt đối nhiều hơn (vì chỉ một số nước có điều kiện để sản xuất các mặt hàng này). Còn hàng may mặc khai thác chủ yếu lợi thế so sánh về giá nhân công rẻ. So sánh tiền lương bình quân của công nhân may các nước Châu á STT Nước Lương (USD/tháng) 1 Việt Nam 30 2 Indonesia 83 3 Malayxia 100 4 Singapore 120 5 Hồng Kông 415 6 Hàn Quốc 612 7 Đài Loan 767 Tuy nhiên, phân biệt lợi thế tuyệt đối và lợi thế so sánh chỉ mang ý nghĩa tương đối. Các lợi thế cần khai thác ở nước ta là nguồn lao động dồi dào, cần cù, giá thuê rẻ, nguồn tài nguyên thiên nhiên phong phú và địa thế địa lý đẹp. Hoạt động xuất khẩu góp phần làm chuyển dịch cơ cấu kinh tế, định hướng và phát triển sản xuất, thúc đẩy tăng trưởng kinh tế. Chúng ta biết rằng có hai xu hướng xuất khẩu: xuất khẩu đa dạng và xuất khẩu mũi nhọn. Xuất khẩu đa dạng: là có mặt hàng nào xuất khẩu được thì xuất khẩu nhằm thu được nhiều ngoại tệ nhất, nhưng với mỗi mặt hàng thì lại nhỏ bé về quy mô, chất lượng thấp (vì không được tập trung đầu tư) nên không hiệu quả. Xuất khẩu hàng mũi nhọn: Xuất khẩu hàng mũi nhọn làm thay đổi cơ cấu ngành và cả cơ cấu trong nội bộ một ngành theo hướng khai thác tối ưu lợi thế so sánh của đất nước. Mặt khác, trên thị trường thế giới yêu cầu về hàng hoá dịch vụ ở mức chất lượng cao, cạnh tranh gay gắt. Chỉ có các doanh nghiệp đủ mạnh ở mỗi nước mới tham gia thị trường thế giới. Do đó, các doanh nghiệp kinh doanh xuất nhập khẩu phải nâng cao chất lượng sản phẩm, giảm chi phí để tồn tại và phát triển. Hiện nay, đây là hướng xuất khẩu chủ yếu của nước ta, có kết hợp với xuất khẩu đa dạng để tăng thu ngoại tệ. Toàn bộ các tác động trên làm cho nền kinh tế phát triển tăng trưởng theo hướng tích cực. Đó là ý nghĩa kinh tế của hoạt động xuất khẩu. Hoạt động xuất khẩu có tác động tích cực tới việc giải quyết công ăn việc làm cho người lao động, tạo thu nhập và tăng mức sống. Về ngắn hạn, để tập trung phát triển các ngành hàng xuất khẩu thì phải cần thêm lao động, còn để xuất khẩu có hiệu quả thì phải tận dụng được lợi thế lao động nhiều, giá rẻ ở nước ta. Xuất khẩu còn tạo nguồn vốn để nhập khẩu vật phẩm tiêu dùng thiết yếu, phục vụ đời sống và đáp ứng ngày một phong phú và tốt hơn nhu cầu tiêu dùng của nhân dân, nâng cao đời sống vật chất và tinh thần cho người lao động. Chính vì thế mà chúng ta chủ trương phát triển ngành nghề cần nhiều lao động như ngành may mặc. Với một đất nước gần 80 triệu dân, tỷ lệ thất nghiệp tương đối cao thì đây là một vấn đề có ý nghĩa rất lớn trong điều kiện nước ta hiện nay. Hoạt động xuất khẩu mở rộng và tăng cường các quan hệ kinh tế đối ngoại của nước ta. Hoạt động xuất khẩu đem lại ngoại tệ, góp phần làm cân bằng cán cân thanh toán, là một trong bốn điều kiện đánh giá nền kinh tế của một nước: GDP, lạm phát, thất nghiệp và cán cân thanh toán. Cao hơn nữa là xuất siêu, tăng tích luỹ ngoại tệ, luôn đảm bảo khả năng thanh toán với đối tác, tăng được tín nhiệm. Qua hoạt động xuất khẩu, hàng hoá Việt Nam được bầy bán trên thị trường thế giới, khuyếch trương được tiếng vang và sự hiểu biết. Hoạt động xuất khẩu làm cho các quan hệ kinh tế chặt chẽ hơn, làm tiền đề thúc đẩy các hoạt động kinh tế đối ngoại khác như dịch vụ du lịch, ngân hàng, đầu tư, hợp tác, liên doanh... Tóm lại : thông qua xuất khẩu sẽ góp phần nâng cao hiệu quả sản xuất xã hội, bằng việc mở rộng trao đổi và thúc đẩy việc tận dụng các lợi thế, các tiềm năng và cơ hội của đất nước. Cho đến nay, tuy chưa lâu và cũng chưa nhiều, song chúng ta cũng thấy được những kết quả đáng mừng từ chính sách mở rộng thương mại, giao lưu kinh tế với nước ngoài, với trọng tâm là xuất khẩu. Nước ta đã từng bước chuyển mình với nhịp độ sản xuất bằng những công nghệ, khoa học tiên tiến. Tin tưởng rằng với hướng đi đúng đắn, với những ưu thế của mình và sự lãnh đạo sáng suốt của Đảng và Nhà nước, Việt Nam sẽ trở thành một mắt xích quan trọng trong nền kinh tế thế giới. II. Nội dung hoạt động xuất khẩu hàng hoá của doanh nghiệp trong cơ chế thị trường. 1. Nghiên cứu thị trường xuất khẩu. Nghiên cứu thị trường là một trong những việc làm cần thiết đầu tiên đối với bất cứ một công ty nào muốn tham gia vào thị trường thế giới. Việc nghiên cứu thị trường tốt sẽ tạo điều kiện cho các nhà kinh doanh nhận ra được quy luật vận động của từng loại hàng hóa cụ thể thông qua sự biến động nhu cầu, mức cung ứng, giá cả thị trường từ đó đáp ứng nhu cầu của thị trường. Quá trình nghiên cứu thị trường là quá trình thu nhập thông tin, số liệu về thị trường, so sánh phân tích số liệu đó và rút ra kết luận, từ đó lập ra kế hoạch Marketing. Nghiên cứu thị trường là xem xét khả năng thâm nhập và mở rộng thị trường. Nghiên cứu thị trường được thực hiện theo hai bước: Nghiên cứu khái quát và nghiên cứu chi tiết . Nghiên cứu khái quát của thị trường là cung cấp những thông tin về quy mô, cơ cấu, sự vận động của thị trường, các nhân tố ảnh hưởng đến thị trường như môi trường cạnh tranh, môi trương chính trị pháp luật, khoa học công nghệ, môi trường văn hoá xã hội, môi trường địa lý sinh thái... Nghiên cứu chi tiết của thị trường cho biết tập quán mua hàng của thị trường, những thói quen và những ảnh hưởng đến những hành vi mua hàng của người tiêu dùng. Nghiên cứu thị trường có hai phương pháp chính: Phương pháp nghiên cứu thị trường tại bàn là thu nhập những thông tin từ các nguồn tài liệu đã được xuất bản công khai, xử lý các thông tin đó. Nghiên cứu tại bàn là phương pháp phổ thông nhất, vì nó đỡ tốn kém và phù hợp với khả năng của người xuất khẩu mới tham gia vào thị trường. Phương pháp nghiên cứu tại hiện trường là việc thu thập thông tin chủ yếu thông qua tiếp xúc trực tiếp. 1.1. Lựa chọn mặt hàng kinh doanh. Mục đích của lựa chọn mặt hàng xuất khẩu là lựa chọn mặt hàng kinh doanh thích hợp mang lại hiệu quả cao nhất mặt hàng đó vừa đáp ứng được nhu cầu của thịtrường vừa phù hợp với khả năng kinh nghiệm cảu doanh nghiệp. Khi lựa chọn mặt hàng các doanh nghiệp phải nghiên cứu các vấn đề: - Mặt hàng thị trường đang cần gì? Doanh nghiệp phải nhạy bén, biết thu nhập, phân tích và sử dụng các thông tin về thị trường xuất khẩu, vận dụng các quan hệ bán hàng... để có được những thông tin cần thiết về mặt hàng, quy cách, chủng loại. - Tình hình tiêu thụ mặt hàng đó như thế nào? Việc tiêu dụng các loại mặt hàng thường tuân theo một tập quán tiêu dùng nhất định, phù thuộc vào thời gian tiêu dùng, thị hiếu tiêu dùng, quy luật biến động của quan hệ cung cầu... - Mặt hàng đó đang ở giai đoạn nào của chu kỳ sống Một là giai đoạn triển khai. Đây là giai đoạn đầu của sản phẩm, sản phẩm mới xuất hiện trên thị trường. Và chưa có các sản phẩm khác cạnh tranh nên cần đẩy mạnh công tác quảng cáo, xúc tiến để khách hàng biết đến sản phẩm. Hai là giai đoạn tăng trưởng ở giai đoạn này sản phẩm bắt đầu được bán trên thị trường và cũng bắt đầu có sự cạnh tranh. Doanh nghiệp cần đẩy mạnh bán hàng, đưa ra nhiều sản phẩm chủng loại sản phẩm độc đảo để tạo môi trường tốt cho doanh nghiệp, tăng khả năng chọn lựa của khách hàng Ba là giai đoạn bão hoà. Đây là giai đoạn có mức cạnh tranh lên tới mức quyết liệt giữa các chủ thể tham gia. Doanh số bán hàng chậm và giảm dần, lợi nhuận trong kinh doanh giảm, doanh nghiệp cần nghiên cứu để cải tiến sản phẩm hay có một chiến lược Marketing có hiệu quả hơn. Bốn là giai đoạn suy thoái. giai đoạn này doanh số và lợi nhuận giảm rõ rệt bởi nhu cầu tiêu thụ giảm, cạnh tranh và chi phí tăng cao. Do vậy các doanh nghiệp tham gia vào thị trường xuất khẩu cần rút ra khỏi thị trường để tìm cơ hội kinh doanh mới. Việc rút ra khỏi thị trường cần được dự đoán và tính toán một cách thận trọng, chính xác. - Tình hình sản xuất các mặt hàng xuất khẩu Doanh nghiệp phải tìm hiểu tình hình cung cấp mặt hàng mà doanh nghiệp mình xuất khẩu. Xem xét khả năng sản xuất, mức tiến bộ khoa học kỹ thuật... để có thể đảm bảo nguồn hàng xuất khẩu ổn định. 1.2. Lựa chọn thị trường xuất khẩu. Doanh nghiệp phải xác định được từng mặt hàng nào, vào thị trường nào, thời điểm nào, hình thức Marketing như thế nào cụ thể doanh nghiệp cần nghiên cứu những vấn đề: * Thị trường và dung lượng thị trường. Doanh nghiệp cần có các thông tin về thị trường hàng hoá theo nhóm hàng, từ đó có thể hiểu sâu về những thị trường này. - Các nhân tố làm dung lượng thị trường thay đổi có tính chu kỳ: Sự vận độngcủa tình hình kinh tế, tính thời vụ trong sản xuất lưu thông và phân phối hàng hoá. - Các nhân tố ảnh hưởng lâu dài đến sự biến động thị trường thành tựu khoa học cho phép người tiêu dùng được thoả mãn ngày càng tốt hơn nhu cầu của mình và khẩu, việc mua bán hàng hoá và vận chuyển chúng phải qua một thời gian dài và qua các nước, các khu vực khác nhau với những điều kiện khác nhau (thuế quan, phong tục tập quán...) đã làm giá cả biến động một cách phức tạp, dẫn đến các nhà xuất khẩu phải luân theo dõi, nắm bắt được sự biến động của giá cả quốc tế, từ đó có mức giá chính xác, tối ưu. 1.3. Lựa chọn đối tác kinh doanh. Các nội dung để tìm hiểu đối tác buôn bán có hiệu quả. - Quan điểm kinh doanh của đối tác. - Lĩnh vực kinh doanh của họ. - Khả năng về tài chính ( khả năng về vốn cơ sở vật chất) - Uy tín và mối quan hệ của đối tác kinh doanh. - Những người đại lý cho công ty kinh doanh và phạm vi chịu trách nhiệm của họ đối với công ty. 2. Tạo nguồn hàng cho xuất khẩu. Nguồn hàng xuất khẩu là toàn bộ hàng hoá của một doanh nghiệp, một địa phương, một vùng hoặc toàn bộ đất nước có khả năng và đảm bảo điều kiện xuất khẩu (đảm bảo về yêu cầu chất lượng quốc tế). Tạo nguồn hàng cho xuất khẩu là toàn bộ những hoạt động từ đầu tư sản xuất kinh doanh cho đến nghiên cứu thị trường ký kết hợp đồng, thực hiện hợp đồng, vận chuyển, bảo quản, sơ chế phân loại nhằm tạo ra hàng hoá có đủ các tiêu chuẩn cần thiết cho xuất khẩu. Như vậy công tác tạo nguồn hàng cho xuất khẩu có thể được chia thành hai loại hoạt động chính. - Loại hoạt động sản xuất và tiếp tục sản xuất hàng hoá cho xuất khẩu do doanh nghiệp sản xuất hàng xuất khẩu. - Loại hoạt động nghiệp vụ phục vụ cho công tác tạo ra nguồn hàng cho xuất khẩu thường do các tổ chức ngoại thương làm trung gian xuất khẩu hàng hoá. Thu mua tạo nguồn hàng cho xuất khẩu là một hệ thống các nhiệm vụ kinh doanh mua bán trao đổi hàng hoá nhằm tạo ra nguồn hàng xuất khẩu, thu mua tạo nguồn hàng xuất khẩu có nghĩa hẹp hơn hoạt động tạo nguồn hàng cho xuất khẩu. Công tác thu mua tạo nguồn hàng ảnh hưởng trực tiếp đến chất lượng của hàng xuất khẩu và tiến động giao hàng đến việc thực hiện hợp đồng xuất khẩu, uy tín của doanh nghiệp và hiệu quả kinh doanh thông qua hệ thống thu mua hàng xuất khẩu mà doanh nghiệp chủ động và ổn định được nguồn hàng. 2.1. Các hình thức thu mua tạo nguồn hàng cho xuất khẩu. Thu mua tạo nguồn hàng cho xuất khẩu là biểu hiện bề ngoại của mối quan hệ giữa các doanh nghiệp ngoại thương với khách hàng về trao đổi mua bán hàng xuất khẩu. Hiện nay có một số hình thức tạo nguồn hàng sau: - Thu mua tạo nguồn hàng theo đơn đặt hàng kết hợp với ký kết hợp đồng. Đơn đặt hàng là văn bản yêu cầu về mặt hàng, qua cách, chủng loại, phẩm chất, kiểu dáng, số lượng, thời gian giao hàng...Đơn hàng thường là căn cứ để ký kết hợp đồng hoặc phụ lục hợp đồng. Đây là hình thức ưu việt đảm bảo an toàn cho các doanh nghiệp, trên cơ sở chế độ trách nhiệm chặt chẽ của đôi bên. - Thu mua tạo nguồn hàng cho xuất khẩu theo hợp đồng là hình thức được áp dụng rộng rãi trong quan hệ mua bán trao đổi hàng hoá. Sau khi các bên thoả thuận về mặt hàng, chất lượng, số lượng, giá cả, phương thức thanh toán, thời gian giao hàng. - Thu mua tạo nguồn hàng xuất khẩu không theo hợp đồng. Đây là hình thức mua bán trao tay, sau khi người bán giao hàng, nhận tiền, người mua nhận hàng, trả tiền là kết thúc nhiệm vụ mua bán. Hình thức này thường sử dụng thu mua hàng trôi nội trên thị trường. Chủ yếu là hàng nông sản chưa qua chế biến. - Tạo nguồn hàng xuất khẩu thông qua liên doanh, liên kết với các đơn vị sản xuất. Đây là hình thức các doanh nghiệp đầu tư một phần hoặc toàn bộ vốn cho các doanh nghiệp sản xuất hàng hoá xuất khẩu. Việc đầu tư để tạo ra nguồn hàng là việc làm cần thiết nhằm tạo ra nguồn hàng ổn định với giá cả hợp lý. - Thu mua tạo nguồn hàng xuất khẩu thông qua đại lý tuỳ theo đặc điểm từng nguồn hàng mà doanh nghiệp kinh doanh xuất khẩu chọn các đại lý thu mua phù hợp. - Thu mua tạo nguồn hàng xuất khẩu thông qua hàng đổi hàng. Đây là hình thức phổ biến, các doanh nghiệp ngoại thương là nguồn cung cấp nguyên liệu, vật liệu vật tư kỹ thuật, máy móc thiết bị... cho người xuất khẩu hàng xuất khẩu, hình thức này được áp dụng trong trường hợp các mặt hàng trên là quý hiếm không đủ đáp ứng nhu cầu thị trường. Tóm lại: các hình thức thu mua tạo nguồn hàng là rất phong phú, đa dạng. Tuỳ theo từng trường hợp cụ thể của doanh nghiệp, của mặt hàng, quan hệ cung cấp hàng hoá trên thị trường mà doanh nghiệp lựa chọn, áp dùng các hình thức thu mua thích hợp. 2.2. Nội dung của công tác thu mua tạo nguồn hàng. Công tác thu mua tạo nguồn hàng xuất khẩu là một hệ thống các công việc, các nhiệp vụ được thể hiện qua các nội dung sau: - Nghiên cứu nguồn hàng xuất khẩu. Muốn tạo được nguồn hàng ổn định, nhằm củng cố phát triển các nguồn hàng, doanh nghiệp ngoại thương cần nghiên cứu các nguồn hàng thông qua việc nghiên cứu tiếp cận thị trường. Một trong những bí quyết thành công trong kinh doanh là nghiên cứu tìm hiểu cặn kẽ thị trường, dự đoán được xu hướng biến động của hàng hoá, hạn chế được rủi ro của thị trường, tạo điều kiện cho doanh nghiệp khai thác ổn định nguồn hàng trong thời gian hợp lý, làm cơ sở chắc chắn cho việc ký kết và thực hiện hợp đồng xuất khẩu. Nghiên cứu nguồn hàng xuất khẩu còn nhằm xác định mặt hàng dự định kinh doanh xuất khẩu có phù hợp và đáp ứng những yêu cầu của thị trường nước ngoài về những chỉ tiêu kinh tế kỹ thuật không. trên cơ sở đó, doanh nghiệp ngoại thương có hướng dẫn kỹ thuệt giúp đở người sản xuất điều chỉnh cho phù hợp với yêu cầu của thị trường nước ngoài. mặt khách, nghiên cứu nguồn hàng xuất khẩu phải xác định được giá cả trong nước so với giá cả quốc tế như thể nào. sau khi đã tính đủ những chi phí mua hàng, vận chuyển, đóng gói...thì lợi nhuận thu về là bao nhiêu cho doanh nghiệp, vì vậy nó sẽ quyết định chiến lược kinh doanh của từng doanh nghiệp ngoại thương. - Tổ chức hệ thống thu mua hàng cho xuất khẩu Xây dựng một hệ thống thu mua hàng thông qua các đại lý và chi nhánh của mình, doanh nghiệp ngoại thương sẽ tiết kiệm được chi phí thu mua nâng cao năng suất và hiệu quả thu mua. Lựa chọn và sử dụng nhiều kênh thu mua, kết hợp nhiều hình thức thu mua, là cơ sở tạo ra nguồn hàng ổn định và hạn chế rủi ro trong thu mua hàng xuất khẩu. - Ký kết hợp đồng thu mua tạo nguồn hàng xuất khẩu Phần lớn khối lượng hàng hoá được mua bán giữa các doanh nghiệp ngoại thương với nhà sản xuất hoặc các chân hàng đều thông qua hợp đồng thu mua, đổi hàng gia công. Do vậy, việc ký kết hợp đồng có ý nghĩa quan trọng trong công tác thu mua tạo nguồn hàng xuất khẩu. Dựa trên những thoả thuận, và tự nguyện mà các bên ký hợp đồng, đây là cơ sở vững chắc đảm bảo cho hoạt động của các doanh nghiệp diễn ra bình thường. - Xúc tiến khai thác nguồn hàng xuất khẩu Sau khi ký kết hợp đồng với các chận hàng và các doanh nghiệp sản xuất, doanh nghiệp ngoại thương cần phải lập được các kế hoạch thu mua, tiến hành sắp xếp các phần việc phải làm và chỉ đạo các bộ phần thực hiện theo kế hoạch. - Tiếp nhận, bảo quản và xuất kho giao hàng xuất khẩu 3. Giao dịch, đàm phán, ký kết hợp đồng. 3.1. Các hình thức giao dịch. Trên thị trường thế giới tồn tại nhiều phương thức giao dịch, mỗi phương thức giao dịch có đặc điểm riêng với kỹ thuật giao dịch riêng. Căn cứ vào mặt hàng dự định xuất khẩu, đối tượng, thời gian giao dịch và đối tượng, năng lực người tiến hành giao dịch mà doanh nghiệp chon phương thức giao dịch cho phù hợp. - Giao dịch trực tiếp: Là giao dịch mà người mua và người bán thoả thuận, bàn bạc thảo luận trực tiếp về hàng hóa giá cả, điều kiện giao dịch phương thức thanh toán... Đây là hình thức hết sức quan trọng, đẩy mạnh tốc độ giải quyết mọi vấn đề mà cả hai bên cùng quan tâm. Hình thức này dùng khi có nhiều vấn đề cần phải giải thích cặn kẽ để thiết phục nhau hoặc là những hợp đồng lớn, phức tạp. - Giao dịch qua thư tín. Ngày nay việc sử dụng hình thức này vẫn là phổ biến để giao dịch giữa các nhà doanh nghiệp xuất nhập khẩu. Những cuộc tiếp xúc ban đầu thường qua thư tín để trao đổi với bạn hàng như giá cả, mẫu mã chất lượng và số lượng hàng hoá... bằng Fax hoặc thư tay. - Giao dịch qua điện thoại việc giao dịch qua điện thoại giúp doanh nghiệp đàm phán đúng thời cơ. Trao đổi qua điện thoại là trao đổi bằng miệng, không có gì làm bằng chứng cho những thoả thuận, quyết định trong trao đổi. Bởi vậy, hình thức này chỉ nên dùng cho những trường hợp chỉ còn chờ xác nhận một cách chi tiết. Khi phải trao đổi bằng điện thoại cần chuẩn bị nội dung chú đáo. Sau khi trao đổi bằng điện thoại, cần có thư xác nhận nội dung đã đàm phán. 3.2. Đàm phán, nghệ thuật đàm phán. Là quá trình đàm phán về các điều kiện của hợp đồng là cơ sở đi đến ký kết hợp đồng trong kinh doanh thương mại quốc tế, các chủ thể đàm phán từ các quốc gia khác nhau về ngôn ngữ, tập quán kinh doanh cũng khác nhau làm cho việc đàm phán trở nên phức tạp hơn. Bên cạnh đó, những tranh chấp thương mại quốc tế đòi hỏi chi phí cao. Chính vì vậy, đàm phán trong kinh doanh xuất nhập khẩu càng đòi hỏi phải tinh tế, khéo léo. 3.3. Ký kết hợp đồng xuất khẩu hàng hoá. Sau khi giao dịch đàm phán nếu có kết quả sẽ dẫn đến việc ký kết hợp đồng mua bán. Hợp đồng mua bán hàng hoá quốc tế còn gọi là hợp đồng xuất nhập khẩu là sự thoả thuận giữa các bên mua và bán ở các nước khác nhau trong đó bên bán phải cung cấp hàng hoá còn bên mua phải có trách nhiệm là thanh toán tiền mua hàng hoặc nhận hàng. Một: Hợp đồng kinh doanh xuất nhập khẩu bao gồm các phàn sau: - Người ký kết hợp đồng phải có năng lực hành vi. - Các chủ thể hợp đồng phải hoàn toàn tự nguyện. - Nội dung của hợp đồng phải hợp pháp. - Đối với một số loại hợp đồng đặc biệt khi ký kết phải tuân theo những thủ tục thể thức nhất định. Hai là: Nội dung và điều khoản của hợp đồng bao gồm: - Tên hàng. - Phẩm chất. - Số lượng. - Điều khoản giao hàng. - Điều khoản giá cả. - Điều kiện cơ sở giao hàng. - Điều khoản thanh toán. - Điều khoản bao bì, kỹ mã hiệu. - Điều khoản bảo hành. - Điều khoản phạt và bồi thường thiệt hại. - Điều khoản bảo hiểm. - Điều khoản bất khả kháng. - Điều khoản khiếu nại và trọng tài - Các điều khoản khác. 4. Thực hiện hợp đồng xuất khẩu. Sau khi hợp đồng xuất khẩu được ký kết, doanh nghiệp kinh doanh xuất khẩu phải tổ chức thực hiện hợp đồng. Đây là một công việc phức tạp đòi hỏi phải tuân thủ theo luật quốc tế, đồng thời phải đảm bảo quyền lợi và uy tín kinh doanh của mỗi doanh nghiệp. Trình tự thực hiện hợp đồng xuất khẩu bao gồm các bước sau: Ký hợp đồng xuất khẩu Kiểm tra L/C Xin giấy phép xuất khẩu Chuẩn bị hàng hoá Uỷ thác thuê tàu Kiểm nghiệm hàng hoá Làm thủ tục hải quan Giao hàng lên tàu Mua bảo hiểm Khi thực hiện hợp đồng cần tuyệt đối chú ý tất cả các bước trên bởi bất kì một bước nào sai phạm cũng sẽ dẫn tới kết quả là thực hiện sai hợp đồng phải bồi thường và có thể dẫn tới huỷ hợp đồng. Mọi bước thực hiện phải đúng như trong hợp đồng, nếu có thay đổi phải báo trước và được sự chấp nhận của bên kia thì mới được quyền tiếp tục thực hiện hợp đồng. 5. Thanh toán trong kinh doanh xuất khẩu: Thanh toán là một khâu rất quan trọng trong kinh doanh xuất nhập khẩu hàng hoá. Hiệu quả kinh tế trong kinh doanh hàng hoá xuất nhập khẩu một phần lớn nhờ vào chất lượng của khâu thanh toán. Thanh toán là một bước đảm bảo cho người xuất khẩu được thu tiền về và người nhập khẩu được nhận hàng hoá. Thanh toán quốc tế trong thương mại quốc tế có thể được hiểu là việc chi trả những khoản tiền, tín dụng có liên quan đến xuất nhập khẩu hàng hoá được thoả thuận trong các quy định của các hợp đồng kinh doanh xuất nhập khẩu hàng hoá và dịch vụ. Các hình thức thanh toán thường được áp dụng: Thanh toán bằng thư tín dụng: thư tín dụng là một loại giấy mà ngân hàng bảo đảm hoặc hứa sẽ trả tiền (Letter of Credit - L/C). Thanh toán tiền hàng bằng L/C là một phương thức thanh toán bảo đảm hợp lý, an toàn thuận tiện, hạn chế rủi ro cho cả bên mua và bên bán. Thanh toán bằng phương thức nhờ thu: Nếu hợp đồng xuất khẩu quy định thanh toán tiền hàng bằng phương thức nhờ thu, thì ngay sau khi giao hàng, bên xuất khẩu phải hoàn thành việc lập chứng từ và phải xuất trình bộ chứng từ cho ngân hàng uỷ thác để ngân hàng đổi tiền hộ. Chứng từ thanh toán phải hợp lệ, chính xác và nhanh chóng giao cho ngân hàng nhằm thu lại vốn. Trong xuất nhập khẩu hàng hoá việc thanh toán phải chú ý đến các vấn đề: Tỷ giá hối đoái. Tiền tệ trong thanh toán quốc tế. Thời hạn thanh toán. Các phương thức thanh toán. Các điều kiện đảm bảo hối đoái. Có nhiều loại tiền tệ được sử dụng trong thanh toán quốc tế, cần phải biết cách lựa chọn đồng tiền thanh toán, phương thức thanh toán và các điều kiện thanh toán khác sao cho có lợi nhất, tránh những rủi ro có thể xảy ra trong quá trình thực hiện các hợp đồng kinh doanh xuất nhập khẩu hàng hoá. Trong qúa trình thực hiện hợp đồng và thanh toán nếu hai bên xảy ra tranh chấp thì có thể ngừng hợp đồng hoặc khiếu kiẹn với các cơ quan có thẩm quyền hạơc trọngn tài quốc tế để được giải quyết. III. các nhân tố ảnh hưởng và chỉ tiêu đánh giá hiệu quả xuất khẩu. 1. Các nhân tố ảnh hưởng đến hoạt động xuất khẩu: Môi trường xuất khẩu là nhân tố có ảnh hưởng trực tiếp hoặc gián tiếp đến việc xuất khẩu sản phẩm của các doanh nghiệp may mặc xuất khẩu. Khi doanh nghiệp muốn xâm nhập vào một thị trường nước ngoài thì cần phải phân tích thị trường dưới các mặt chủ yếu sau: 1.1. Môi trường dân cư: Dân số, cơ cấu dân cư theo tuổi, giới tính, theo nghề nghiệp, theo vùng... ảnh hưởng quan trọng đến các sản phẩm dệt may về kiểu cách, màu sắc, chất liệu vải. Ví dụ: Trẻ em với đặc điểm tâm sinh lý hiếu động thì yêu cầu sản phẩm may mặc phải rộng rãi, thoải mái, yêu cầu vệ sinh là quan trọng, song với các thiếu nữ hay thanh niên nói chung yêu cầu làm đẹp, thích thời trang, kiểu mốt phong phú là yêu cầu chủ yếu. Với người lớn tuổi lại ưa dùng sản phẩm may mặc trịnh trọng, điềm đạm... Giữa nông thôn và thành thị, giữa người lao động chân tay và lao động trí óc yêu cầu về quần áo rất khác nhau. 1.2. Môi trường kinh tế: Thu nhập bình quân đầu người, cơ cấu tỷ lệ chi tiêu cho hàng may mặc trong tổng thu nhập quốc dân của dân cư, xu hướng thay đổi các tỷ lệ đó. Hàng may mặc vừa là hàng hoá có nhu cầu thiết yếu nhưng đồng thời lại có nhu cầu xa xỉ, khi nghiên cứu thị trường nước ngoài cần chú ý đến thu nhập của người tiêu dùng để sản xuất ra các sản phẩm có chi phí hợp lý, thoả mãn nhu cầu của từng thị trường. Ví dụ ở những nước có thu nhập thấp như các nước Châu Phi, Mỹ la tinh và một số nước Châu á thì họ chủ yếu quan tâm đến giá cả và độ bền của sản phẩm tức là chất liệu vải và giá cả là mối quan tâm hàng đầu. ở những nước có thu nhập cao thì người tiêu dùng đặc biệt chú ý đến mẫu mốt, kiểu dáng, bởi vậy vòng đời sản phẩm đối với họ là rất ngắn. Chẳng hạn như thị trường EU là thị trường dân cư có thu nhập cao, chi tiêu cho may mặc nhiều nên yêu cầu cao về kiểu mốt, mẫu mã chất lượng. Với thị trường này yêu cầu về chức năng bảo vệ của quần áo chỉ chiếm khoảng 10 - 15% còn yêu cầu về thẩm mỹ, mốt, mẫu thời trang chiếm tới 85 - 90% giá trị sử dụng. Hay như thị trường may mặc Nhật Bản là thị trường được cung cấp rất tốt, người tiêu thụ chỉ mua cái gì thích hợp với mình. Người tiêu thụ Nhật Bản quan tâm đến chất lượng là trên hết và kiểm tra kỹ lưỡng trước khi mua. Do vậy muốn xuất khẩu sản phẩm may mặc sang thị trường Nhật Bản các doanh nghiệp phải cố gắng để tìm ra mặt hàng nào mà người tiêu dùng thực sự mong muốn để hướng vào đó mà sản xuất và phải sản xuất ra với chất lượng cao. 1.3. Môi trường văn hoá xã hội: Tỷ lệ dân cư theo trình độ văn hoá, tôn giáo, phong tục tập quán, lối sống, nguyên tắc và giá trị xã hội, các yếu tố về khí hậu địa lý... Sản phẩm may mặc không chỉ đơn thuần để đáp ứng nhu cầu bảo vệ (nhu cầu cơ bản, cấp thấp) mà còn phải đáp ứng nhu cầu làm đẹp, nhu cầu nâng cao địa vị, phẩm chất, đặc tính con người. Nói cách khác nó liên quan chặt chẽ tới yếu tố tinh thần của con người, nó phụ thuộc rất nhiều vào trình độ văn hoá, tôn giáo, phong tục tập quán, lối sống, nguyên tắc và giá trị xã hội của mỗi dân tộc. Các nhu cầu đó thường được thể hiện qua một số các yếu tố cấu thành chất lượng sản phẩm may mặc nhằm thực hiện cả hai chức năng cơ bản của sản phẩm may mặc là bảo vệ và làm đẹp như: - Yếu tố về nguyên liệu: Về nguyên liệu chính (các loại vải dệt kim, dệt thoi...) và các phụ liệu (mex, đệm, túi, khoá, khuy, cúc, chỉ...), sản xuất mặt hàng may mặc nào đó thì yêu cầu của thị trường mỗi nước cũng thay đổi tuỳ theo sở thích tập quán của người tiêu dùng cũng như điều kiện địa lý của mỗi nước. - Kiểu dáng kích thước: Yếu tố này ngoài việc phụ thuộc vào đặc điểm về tập quán, lối sống, đặc điểm nhân trắc còn phụ thuộc vào từng loại, từng kiểu mốt quần áo. Những sự khác biệt về đặc điểm nhân trắc học của mỗi dân tộc khác nhau trên thế giới là yếu tố cực kỳ quan trọng trong nghiên cứu thị trường may mặc xuất khẩu để có thể thiết kế, sản xuất ra các sản phẩm may mặc có cỡ số và kiểu dáng phù hợp với người tiêu dùng ở mỗi nước. (Ví dụ với thị trường Nhật Bản ưa chuộng quần áo có kiểu đơn giản, không cầu kỳ nhưng lịch sự và sang trọng. Sự ưa chuộng này khá bền vững và ổn định trong thị trường may mặc Nhật Bản. Ngược lại ở các thị trường Tây Âu ưa sự tinh vi cầu kỳ và mang tính nghệ thuật cao trong các sản phẩm may mặc và sự biến động của các yếu tố này rất nhanh). - Yếu tố màu sắc: Đặc biệt đối với sản phẩm may mặc, giữa các nước hoặc các đoạn thị trường của mỗi nước có sự khác nhau quan trọng về sở thích màu sắc. Màu sắc là yếu tố quan trọng tạo nên giá trị thẩm mỹ của sản phẩm may mặc. Nó còn phụ thuộc vào từng loại, từng kiểu mốt quần áo nhất định. Hơn nữa, sự ưa chuộng về màu sắc trong trang phục cũng thay đổi rất nhanh, có thể từng mùa, từng năm hoặc nhanh hơn thế. Vấn đề là muốn xuất khẩu sản phẩm may mặc phải nắm bắt được những sở thích, thị hiếu cũng như xu hướng thay đổi về sở thích thị hiếu màu sắc của mỗi thị trường, mỗi nước để làm ra các sản phẩm thích nghi với từng thị trường xuất khẩu. Các yếu tố nguyên liệu, kích thước, kiểu dáng, màu sắc là những yếu tố quan trọng tạo nên giá trị sử dụng, đặc biệt là giá trị thẩm mỹ của sản phẩm may mặc. Trong nghiên cứu thị trường may mặc xuất khẩu, cần tìm hiểu một cách cặn kẽ, cụ thể các đặc điểm đó cũng như dự đoán được xu hướng của nó để thiết kế, sản xuất các loại sản phẩm may mặc phù hợp với mỗi thị trường xuất khẩu. Sản phẩm của doanh nghiệp có bán được hay không? giá cao hay giá thấp? khối lượng đặt hàng nhiều hay ít phụ thuộc vào yếu tố này của thị trường. 1.4. Môi trường luật pháp: Khi có ý định hay trước khi quyết định xuất khẩu sản phẩm của doanh nghiệp sang thị trường nước nào thì trước hết phải tìm hiểu quan hệ kinh tế thương mại giữa hai nước, sau đó cần nắm vững những quy định, luật lệ của nước sở tại để đảm bảo cho quá trình xuất khẩu đượ trôi chảy, không gây tổn thất cho doanh nghiệp. Ví dụ như hàng dệt may xuất khẩu sang Mỹ phải tuân theo một hệ thống các quy định rất nghiêm ngặt như quy định về hạn ngạch bao gồm các yêu cầu về bản khai quốc gia gốc xuất khẩu. Các bản khai này rất quan trọng bởi vì những ràng buộc hạn ngạch được dựa trên quốc gia gốc xuất khẩu, hay quy định về lắp và dán nhãn yêu cầu mọi sản phẩm may mặc phải được đóng dấu, gắn thẻ lai lịch và gắn nhãn có kèm những thông tin về tên gọi tổng quát (tên chung) của sản phẩm và tỷ lệ trọng lượng các loại sợi cấu thành sản phẩm, tên của nhà sản xuất, tên quốc gia nơi chế biến gia công... Đối với thị trường Nhật Bản các nhà xuất khẩu cũng cần phải nghiên cứu các đạo luật của Nhật Bản như cấm nhập khẩu các sản phẩm có nhãn mác mập mờ, giả mạo về xuất xứ, quy định các sản phẩm gia dụng phải tuân thủ các tiêu chuẩn về mức độ cho phép đối với các chất gây nguy hiểm cho da, luật về nhãn hiệu chất lượng hàng hoá đòi hỏi các sản phẩm quần áo đều phải dãn nhãn. Trên nhãn phải ghi rõ thành phần của vải và các biện pháp bảo vệ sản phẩm thích hợp. Nắm được những quy định này các doanh nghiệp đưa ra những sản phẩm đảm bảo tiêu chuẩn, nâng cao hiệu quả hoạt động xuất khẩu. 1.5. Môi trường cạnh tranh: Những thông tin này giúp các công ty thích ứng được với môi trường cạnh tranh nghiệt ngã của thị trường thế giới. Ngoài các thông tin về chiến lược sản phẩm, kênh phân phối, chính sách giá cả... Các doanh nghiệp nước ta còn có thể học hỏi được từ các đối thủ cạnh tranh, từ đó đưa ra những chính sách kinh doanh xuất nhập khẩu hợp lý. Tóm lại, những nhân tố cơ bản của thị trường may mặc xuất khẩu nêu trên là cơ sở để có những chính sách Marketing cũng như xuất khẩu thích ứng với từng thị trường đem lại hiệu quả cao cho hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp. Trong điều kiện còn eo hẹp về kinh phí, các doanh nghiệp Việt nam có thể lấy thông tin từ các đơn vị đầu ngành, đơn vị có kinh nghiệm, các tổ chức quốc tế, các đại sứ quán, các tổ chức xúc tiến mậu dịch, nếu thuận lợi hơn các doanh nghiệp nên thiết lập văn phòng đại diện, các chi nhánh ở thị trường tiêu thụ lớn để thu thập được các thông tin sơ cấp bởi các thông tin này không phải là bất biến, nó luôn luôn thay đổi mà điều quan trọng trong nghiên cứu thị trường là phải nắm bắt kịp thời cũng như dự báo được xu hướng của các thông tin đó. 2. Các chỉ tiêu đánh giá hiệu quả hoạt động xuất khẩu: Đánh giá hiệu quả kinh doanh của Công ty là một đòi hỏi bức thiết đối với công tác quản lý cũng như đối với Công ty nhằm hướng Công ty quan tâm khai thác tiềm năng để nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh. Trên cơ sở đó, tăng cường tích luỹ để đầu tư tái kinh doanh cả chiều rộng lẫn chiều sâu, góp phần nâng cao hiệu quả kinh tế của toàn bộ nền kinh tế quốc dân. 2.1. Cơ sở hình thành lợi nhuận của danh nghiệp từ hoạt động xuất khẩu. Để có thể phân tích, đánh giá hiệu quả kinh tế của hoạt động kinh doanh xuất khẩu một cách rõ ràng, chính xác cần thiết phải xem xét những khoản mục nào tạo nên chi phí, lợi nhuận trước và sau thuế được hình thành như thế nào. Cơ sở hình thành lợi nhuận của công ty có thể được tóm tắt như sau: P = [( R - C ) - T ] + B Trong đó: R: Tổng doanh thu từ hợp đồng xuất khẩu: Giá trị hợp đồng C: Tổng chi phí hợp lý, hợp lệ bao gồm: - Giá vốn hàng hoá: giá mua và chi phí thu mua - Tiêu hao nguyên vật liệu sản xuất hàng xuất khẩu - Khấu hao tài sản cố định - Tiền công, tiền lương - Lệ phí hải quan, thuê tàu, bảo hiểm hàng hoá - Chi phí quản lý, tiền lãi ngân hàng - Chi phí liên quan trực tiếp đến lưu thông hàng hoá xuất khẩu ở trong nước: + Bốc xếp, vận chuyển + Chi phí bảo quản, đóng gói bao bì + Chi phí giao dịch, đàm phán, ký kết hợp đồng - Các chi phí được coi là hợp lệ T: Thuế các loại, bao gồm: - Thuế doanh thu - Thuế sử dụng vốn ngân sách cấp (gọi tắt là thuế vốn) - Thuế lợi tức tính theo công thức sau: Trước năm 96: Thuế lợi tức = (Lợi nhuận trước thuế - thuế doanh thu- thuế vốn + Lợi tức khác) * thuế suất lợi tức Năm 97 đến nay: Thuế lợi tức = (Lợi nhuận trước thuế - thuế doanh thu- lợi tức khác) * thuế suất lợi tức B: Các khoản lợi tức khác: Bao gồm: - Các khoản lợi tức khác phải nộp thuế: + Lãi tiền gửi ngân hàng + Lãi từ hoạt động kinh doanh cho thuê động sản, bất động sản + Lãi từ hoạt động kinh doanh phụ khác + Lãi từ các hoạt động tài chính khác + Chênh lệch thanh lý , chuyển nhượng tài sản cố định - Các khoản lợi tức khác không phải nộp thuế + Lãi từ góp vốn liên doanh + Lợi nhuận góp hoặc mua cổ phiếu, cổ phần P: Thực lãi của Công ty từ hoạt động xuất khẩu Phần lãi này được chia làm 3 quĩ theo qui định của Nhà nước và thuộc quyền sử dụng của Công ty trong phạm vi 3 quĩ đó là: quĩ phát triển sản xuất, quĩ khen thưởng, quĩ phúc lợi. Trong thực tế khi tiến hành hoạt động kinh doanh xuất khẩu, người ta phải chú ý đến tương quan giữa tỉ giá hối đoái chính thức được công bố trên thị trường và tỉ giá hàng xuất khẩu. Tỉ giá hàng xuất khẩu là số nội tệ phải bỏ ra để thu được một đơn vị ngoại tệ ví dụ là (Mx) Khi nhà sản xuất hoàn thành thủ tục giao hàng, sẽ thực hiện thanh toán bằng ngoại tệ. Số lượng ngoại tệ thu về là giá trị của hợp đồng xuất khẩu gọi là doanh thu hoạt động xuất khẩu (Rx). Như vậy, để thu được Mx đơn vị ngoại tệ thì Công ty phải chi phí (Mx*Rx) đồng nội tệ, đó chính là các khoản chi phí ở mục b. Số lượng ngoại tệ Mx thu về được đổi thành đồng nội tệ theo tỉ giá hối đoái trên thị trường là Mtt và (Mtt*Mx) đồng nội tệ. Vì vậy lợi nhuận hoạt động xuất khẩu là: LNx = Mtt*Rx - Mx*Rx = (Mtt - Mx)* Rx Lợi nhuận xuất khẩu chỉ dương hay nhà xuất khẩu chỉ có lợi khi tỉ giá hối đoái của thị trường Mtt lớn hơn tỉ giá hàng xuất khẩu Mx. Khi Mtt = Mx thì nhà xuất khẩu hoà vốn. 2.2. Tỷ suất lợi nhuận theo chi phí. Tỷ suất lợi nhuận theo chi phí (Dc) được tính theo công thức: Dc = * 100% Tổng lợi nhuận Tổng chi phí Trong đó tổng lợi nhuận được tính là tổng lợi nhuận trước thuế hay lãi gộp, là phần còn lại của doanh thu sau khi đã bù đi các khoản chi phí hợp lý, hợp lệ phát sinh trong quá trình hoạt động kinh doanh. Tuy nhiên, nếu tính doanh lợi theo chi phí dựa trên ba nhân tố là lãi gộp, lợi nhuận trước thuế, thực lãi của công ty thì không những biết được rằng một đồng chi phí bỏ ra đem lại bao nhiêu đồng lãi gộp mà còn cho biết trong phần lãi gộp đó bao nhiêu đồng trở về ngân sách Nhà nước, bao nhiêu là phần lãi thực tế của công ty. Phân tích như vậy sẽ có giá trị so sánh hơn rất nhiều. 2.3. Tỷ suất lợi nhuận theo doanh thu. Tỷ suất lợi nhuận theo doanh thu (Dr) được tính theo công thức: Lợi nhuận Dr = * 100% Doanh thu Thực tế cho thấy, doanh lợi theo doanh thu cho biết khả năng sinh lời từ một đồng doanh thu, tỷ suất lợi nhuận theo chi phí phản ánh mức độ tiết kiệm chi phí, khả năng sinh lợi của một đồng chi phí. Tuy nhiên, nếu chỉ có doanh lợi theo chi phí và doanh thu cao thì chưa đủ để kết luận về hiệu qủa kinh doanh, mà cần thiết phải xem xét lợi nhuận trong mối quan hệ với các nguồn lực của doanh nghiệp, đặc biệt là vốn kinh doanh. 2.4. Doanh lợi tính theo vốn kinh doanh. Vốn lưu động thường chiếm hơn 80% tổng vốn của một doanh nghiệp thương mại. Việc sử dụng luân chuyển vốn lưu động có quan hệ nhân qủa, chặt chẽ ảnh hưởng đến lợi nhuận, doanh thu từ hoạt động kinh doanh. Doanh lợi theo vốn lưu động (Dv) được tính theo công thức sau: Lợi nhuận Dv = * 100% Obq Obq: Là số dư bình quân của vốn lưu động trong thời gian tính lợi nhuận. Obq được tính như sau: -Trong một tháng: Odk + Ock Obq = 2 Odk: Dư đầu kỳ vốn lưu động Ock: Dư cuối kỳ vốn lưu động - Trong một quí: Obq: Là tổng bình quân số dư vốn lưu động của các tháng trong kỳ. - Trong một năm: Obq: Là tổng bình quân của 12 tháng hay bốn quí. Xác định số dư vốn lưu động đầu kỳ và cuối kỳ căn cứ vào số dư đầu kỳ và dư nộp cuối kỳ trên các tài khoản theo dõi tài sản lưu động và vốn lưu thông thể hiện bằng tiền và hàng hoá trên sổ sách báo cáo kết quả của phòng kế toán của công ty. IV. thị trường hàng dệt may và xu hướng nhập khẩu hàng dệt may trên thế giới: 1. Thị trường hàng dệt may: Có thể nói xuất khẩu hàng dệt may đã, đang và sẽ là ngành hàng xuất khẩu hàng đầu của Việt Nam trong những năm cuối thế kỉ 20, đầu thế kỉ 21. Với mức tăng trưởng hàng năm cao từ 20-30% (chưa kể yếu tố lạm phát) liên tục ổn định kéo dài gần chục năm qua, xuất khẩu hàng dệt may đã lần lượt vượt qua các mặt hàng chủ lực khác vươn tới vị trí số 1 trong danh sách 15 mặt hàng xuất khẩu chủ lực của Việt Nam năm 2001. Tỷ trọng kim ngạch xuất khẩu hàng dệt may trong cơ cấu cũng ngày một tăng và chiếm một tỷ lệ quan trọng (khoảng 14,5% tổng kim ngạch xuất khẩu). Kim ngạch xuất khẩu hàng dệt may của Việt Nam giai đoạn 1996-2002 Năm Kim ngạch (Triệu USD) Tăng so với năm trước (%) 1996 360 1997 550 52.8 1998 1100 100 1999 1300 18.2 2000 1900 46.1 2001 1950 2.6 2002 2300 18 1.1. Thị trường EU: Thị trường EU với dân số gần 400 triệu là nơi tiêu thụ lớn và đa dạng các loại quần áo. Mức tiêu thụ thị trường này là khá cao: 17 kg / người / năm. ở đây, người ta có thấy đủ loại hàng hoá từ các nước như Mỹ, Trung Quốc, Nhật, Hồng Kông, Đài Loan. Hàng năm EU nhập khoảng 70 tỷ USD quần áo với bạn hàng lớn nhất là Đức, hàng năm nhập khoảng 13 tỷ USD. Đây là thị trường xuất khẩu chủ yếu của Việt Nam và EU đã dành cho Việt nam chế độ tối huệ quốc (MFN), nên hàng hoá của Việt Nam vào thị trường này khá thuận lợi, đặc biệt là hàng may mặc. Thị trường EU có tiềm năng và triển vọng rất lớn đối với các doanh nghiệp dệt may Việt Nam. Tuy nhiên, để có được điều đó, các doanh nghiệp Việt Nam phải tuân thủ những quy định khá nghiêm ngặt khi xuất khẩu vào thị trường này như: - Không được mua bán, chuyển nhượng hạn ngạch để xuất khẩu các mặt hàng có xuất xứ từ các nước khác vào EU. - Các doanh nghiệp Việt Nam không được lợi dụng thuế ưu đãi, giá nhân công trong nước rẻ để bán hàng rẻ hơn mức giá hiện hành gây bất lợi cho các nhà sản xuất cùng loại hàng đó hoặc các mặt hàng trực tiếp bị cạnh tranh của EU. Có thể sẽ bị áp dụng quy định cụ thể đã được hai bên thoả thuận. - Các doanh nghiệp Việt Nam không được phép bán hàng cho nước thứ ba để tái xuất vào EU. - Đối với hàng gia công tại Việt Nam khi xuất sang EU phải ghi rõ phí gia công, giá trị nguyên vật liệu mua tại Việt Nam để làm căn cứ giảm thuế nhập khẩu vào EU. Trong hiệp định cũng quy định rõ danh mục hàng hoá và kim ngạch mà Việt Nam đưa vào EU ( tổng cộng 151 nhóm mặt hàng với 108 nhóm thoe hạn ngạch và 43 nhóm tự do). Hạn ngạch năm trước không dùng hết có thể chuyển sang năm sau. Đặc biệt trong hiệp định này còn quy định hàng năm Việt Nam và EU sẽ xem xét khả năng xuất khẩu của Việt Nam để nới lỏng hạn ngạch cấp cho Việt Nam. Bởi vậy, đây là thị trường tiềm năng lớn, các doanh nghiệp của ta cần tuân thủ tốt các quy định này, tránh làm tổn hại đến quan hệ buôn bán giữa nước ta và cộng đồng kinh tế Châu Âu. 1.2. Thị trường Nhật Bản Nhật Bản là một thị trường nhập khẩu may mặc lớn thứ ba thế giới và đây là thị trường phi hạn ngạch. Nhưng đây cũng là một thị trường khó tính với những đòi hỏi khắt khe cả về chất lượng và giá cả, họ thường yêu cầu kiểm tra chất lượng chi tiết và quan tâm nhiều tới mẫu mốt. Ví dụ như: - Đồ lót, tất: mốt chiếm 70,5% - Quần áo nữ: 56,4%là mốt; 37,5% là giá và còn lại là phẩm chất. - Comple nam: 50% là phẩm chất; 43,7% là mốt và còn lại là giá cả. Với dân số khoảng 120 triệu người và mức thu nhập bình quân đầu người khoảng 30 nghìn USD/năm thì nhu cầu về may mặc là không nhỏ, hàng năm Nhật Bản nhập khẩu khoảng 5 tỷ USD hàng may mặc. Đây tuy là thị trường đòi hỏi cao song cũng đầy hứa hẹn, nếu như đầu tư tốt, nâng cao được chất lượng, mẫu mã phong phú, màu sắc đa dạng, nắm vững thị hiếu thì có khả năng hàng may mặc của ta sé phát triển mạnh ở thị trường này. 1.3. Thị trường Hoa Kỳ và Bắc Mỹ Mỹ là thị trường khá hấp dẫn, lý tưởng của ngành dệt-may vì dân số Mỹ khá đông, hiện có khoảng trên 260 triệu người, đa số sống ở thành thị có mức thu nhập quốc dân cao. Do đó người Mỹ có sức mua lớn và nhu cầu đa dạng. Riêng hàng dệt may nhu cầu nhập khẩu hàng năm lên tới hơn 40 tỷ USD. Nguồn nhập chủ yếu là từ các nước Châu á: Tháng 2/1994 Mỹ bỏ cấm vận với Việt Nam, tháng 8/1994 Mỹ bỏ cấm vận viện trợ và tháng 7/1995 Mỹ bình thường hoá mối quan hệ với Việt Nam. Gần như ngay lập tức các nhà đầu tư Mỹ đã kí kết một hợp đồng có trị giá 350 triệu USD với Việt Nam. Kể từ khi hiệp định thương mại Việt Mỹ được kí kết, với quy chế tối huệ quốc mà hai bên đã dành cho nhau thì ngành dệt may Việt Nam đã được hưởng một thuế suất ưu đãi chỉ từ 3-4%. Phải nói rằng, thị trường may mặc Bắc Mỹ là một miếng mồi béo bở, hấp dẫn ngay bởi mức cầu lơn, tính thời trang, mẫu mốt và thị hiếu thể hiện rất rõ phong cách của người Mỹ; đó là sự phong phú và khác biệt. Mặc dù giá trị xuất khẩu hàng dệt may sang Mỹ năm vừa qua là không lớn (930 triệu USD) nhưng phía các nhà sản xuất hàng may mặc của Mỹ đã gây sức ép về phía chính phủ Mỹ để bắt buộc áp dụng hạn ngạch với Việt Nam. Nguyên nhân là do những nhà sản xuất cho rằng tuy giá trị xuất khẩu của hàng dệt may Việt Nam không cao do chi phí thấp nhưng số lượng nhập vào thì nhiều nên cần áp dụng hạn ngạch tăng hơn khoảng 15-20% so với khối lượng hàng nhập năm 2002 hoặc hạn ngạch tương đương so với các nước Thái Lan, Singapore... Nhưng vấn đề đặt ra là tới năm 2005 khi Hiệp định Dệt may có hiệu lực. Mỹ sẽ xoá bỏ hạn ngạch cho các thành viên của WTO, thì sẽ thực sự là khó khăn nếu khi đó Việt Nam chưa là thành viên của tổ chức này. 1.4. Thị trường SNG và một số nước Đông Âu Trong những năm trước khi các nước xã hội chủ nghĩa Đông Âu tan vỡ thì tỷ trọng kim ngạch của ta vào thị trường này chiếm vị trí khá lớn và đóng vai trò quan trọng, xuất khẩu theo những hiệp định hàng đổi hàng. Qua thời gian dài đó nhà xuất khẩu của ta phần nào nắm bắt được thị hiếu, nhu cầu của người tiêu dùng ở khu vực này và người tiêu dùng cũng đã phần nào quen với hàng may mặc của ta. Tuy nhiên, kể từ khi các nước XHCN Đông Âu tan vỡ thì kim ngạch hàng may mặc của ta vào thị trường này giảm mạnh. Hiện nay, hàng may mặc của ta vào thị trường này chủ yếu do các thương gia buôn theo từng chuyến còn về phía doanh nghiệp thì chỉ mức thấp do chưa tìm được phương thức thanh toán hợp lý thây thế cho phương thức hàng đổi hàng trước đây. Như vậy có thể nói, với Việt Nam đây là thị trường truyền thống mà mấy năm vừa qua chúng ta để vượt khỏi tầm tay. Cần nhanh chóng tìm ra giải pháp cần thiết để nối lại quan hệ với thị trường không kém phần hấp dẫn này. Các doanh nghiệp cần mạnh dạn triển khai phương thức thanh toán mới phát huy lợi thế vốn có của ta trong nhiều năm qua trên thị trường này. 1.5. Thị trường các nước ASEAN Việt Nam đã là thành viên chính thức của ASEAN và đang trên tiến trình thực hiện AFTA, bên cạnh những cơ hội lớn mở ra cũng còn nhiều thách thức. Phải tiến hành cắt giảm thuế quan và hàng hoá được lưu chuyển tự do giữa các nước ASEAN tạo nên sự cạnh tranh gay gắt đối với hàng hoá Việt Nam, buộc các doanh nghiệp Việt Nam phải nỗ lực cải tiến công nghệ, áp dụng phương thức quản lý hiện đại và phải tạo được cho mình một nền tảng vững chắc về mọi mặt để trụ vững trên thương trường. Sản phẩm có được thị trường chấp nhận hay không quyết định đến sự tốn tại của công ty. Dưới sức ép đó sẽ xoá bỏ đi được các công ty làm ăn trì trệ. Tuy nhiên về phía Việt Nam chắc chắn sẽ có nhiều công ty cần phải “lột xác “. Bù lại, thị trường ASEAN với 440 triệu dân, thu nhập bình quân đầu người hàng năm 1.700 USD, tốc độ phát triển bình quân 6-8%/ năm, thì đây quả là một thị trường lớn cho hàng may mặc. ASEAN còn là một thị trường có nền văn hoá tương đồng lẫn nhau. Do đó thị hiếu, lối sống cũng tương đối giống nhau, điều này là điều kiện thuận lợi cho các doanh nghiệp may mặc Việt Nam xâm nhập dễ dàng hơn. Trên đây là một số thị trường lớn mà chúng ta đã và đang có được. Cần phải có biện pháp và định hướng đúng đắn để khai thác nó một cách triệt để. Mặt khác phải tăng cường mở rộng và tìm kiếm những thị trường đang bị bỏ ngỏ, đây cũng là mục tiêu mà chúng ta đang đặt ra. Chẳng hạn sẽ tìm cách tiếp cận thị trường Trung Cận Đông và Mỹ La Tinh là một ví dụ. 2. Mục tiêu và triển vọng xuất khẩu hàng dệt may: Thị trường thế giới sau nhiều năm vận hành độc lập nay đã trở nên có tổ chức và đang hoạt động trong sự ràng buộc chặt chẽ các thể chế sau: - Các định chế kinh tế như WTO, GSP, MFA, các công ước về lao động, về sở hữu trí tuệ... - Các thể chế về khu vực: EU, NAFTA, ASEAN... - Các thể chế về tài chính: WB, IMF, ADB và các hiệp định liên ngân hàng. - Các hiệp định về hàng hoá như về cao su thiên nhiên, cà phê, dầu mở , hàng dệt may... - Các trung tâm giao dịch: Sở giao dịch hàng hoá ở Luân Đôn, Paris, Singapore, Chicago... - Các công hội vận tải biển, tổ chức hàng không quốc tế (ICAO), tổ chức du lịch quốc tế, các tính chất liên lạc viễn thông quốc tế, các mạng lưới và trung tâm dịch vụ tiêu thụ... Hoạt động của các thể chế quốc tế và khu vực đã đưa lại hiệu quả giúp cho thương mại quốc tế được ổn dịnh và phát triển. Trong tương lai các định chế này sẽ không thể không tham gia một cách tích cực vào các định chế thế giới và khu vực nói trên. Theo quy hoạch tổng thể phát triển ngành công nghiệp dệt may đến năm 2010, mục tiêu phát triển của ngành công nghiệp dệt may đến năm 2010 là: Hướng vào xuất khẩu nhằm tăng nguồn ngoại tệ, đảm bảo cân đối trả nợ và tái sản xuất mở rộng các cơ sở sản xuất của ngành, thoả mãn nhu cầu tiêu dùng trong nước về số lượng, chất lượng, chủng loại và giá cả, từng bước đưa ngành công nghiệp dệt may Việt Nam trở thành ngành xuất khẩu mũi nhọn, góp phần tăng trưởng kinh tế, giải quyết việc làm, thực hiện đường lối công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước. Cụ thể hơn là phải đa dạng hoá sản phẩm, đổi mới công nghệ nhằm nâng cao chất lượng, hạ giá thành sản phẩm, mở rộng thị trường xuất khẩu, tăng kim ngạch xuất khẩu. Chỉ tiêu sản xuất và xuất khẩu đến năm 2010. Chỉ tiêu Đơn vị Năm 2005 2010 - Sản xuất Vải lụa triệu mét 1330 2000 Sản phẩm dệt kim triệu sản phẩm 150 210 Sản phẩm may triệu sản phẩm 780 1200 - Kim ngạch xuất khẩu triệu USD 3000 4000 Hàng dệt triệu USD 800 1000 Hàng may triệu USD 2200 3000 (Nguồn: Quy hoạch tổng thể phát triển ngành công nghiệp dệt may đến năm 2010 - Bộ công nghiệp) Như vậy, theo mục tiêu đăt ra ngành dệt may Việt Nam sẽ đạt sản lượng 2 tỷ mét/năm vào năm 2010 (bằng Thái lan bây giờ) so với sản lượng vải lụa của các năm trước thì có thể thấy sản xuất vải có mức tăng trưởng khả quan. Trong đó, chúng ta sẽ dành một nửa để tiêu thụ ở thị trường nước ngaòi với giá trị dự kiến là 4 tỷ USD, số còn lại sẽ tiêu thụ trong nước. Đối với các sản phẩm dệt kim, để đạt được mục tiêu đã đặt ra cũng sẽ gặp nhiều khó khăn vì mặc dù tiềm năng tiêu thụ nội địa cũng như xuất khẩu cao, những sản xuất các sản phẩm dệt kim không mấy phát triển do không kịp đổi mới về thiết bị và công nghệ phù hợp với yêu cầu đa dạng hoá sản phẩm nhanh chóng của thị trường để sản xuất các sản phẩm đủ tiêu chuẩn xuất khẩu. Vì vậy, hiện nay Việt Nam chủ yếu phải nhập vải may gia công cũng như may xuất khẩu do hàng dệt nội địa không đáp ứng đủ nhu cầu trong nước cho may xuất khẩu. Nói chung để đạt được mục tiêu này đến năm 2005 ngành dệt may phải có mức tăng trưởng bình quân 13%/năm, từ năm 2005 - 2010 tăng trưởng 14%/năm. Dự báo phát triển ngành may xuất khẩu vào các thị trường xuất khẩu của Việt Nam (Nguồn: Bộ Thương mại) Các thị trường Đơn vị Năm 2005 Năm 2010 1. SNG Triệu sp 40 60 2. EU Triệu sp 100 150 3.Nhật Bản Triệu sp 70 120 4. Mỹ và Bắc Mỹ Triệu sp 240 320 5. Canada Triệu sp 40 65 6. Các nước khác Triệu sp 40 75 Kim ngạch xuất khẩu Triệu USD 3000 4500 Theo như dự báo về thị trường xuất khẩu ngành dệt may Việt Nam có thể thấy Mỹ và các nước Bắc Mỹ là thị trường có nhiều tiềm năng nhất của Việt Nam (ước tính năm 2005 kim ngạch xuất khẩu hàng dệt may sang Mỹ đạt 240 triệu sản phẩm, năm 2010 đạt >300 triệu sản phẩm). Tiếp đến là thị trường EU- đây là một thị trường lớn, mang tính chiến lược. Thị trường Nhật Bản cũng là một thị trường tiêu thụ hàng dệt may lớn của Việt Nam lại không cần quota và được hưởng thuế ưu đãi. Đây là những thuận lợi lớn cho ngành may xuất khẩu của Việt Nam, dự tính năm 2005 đạt 70 triệu sản phẩm xuất khẩu sang thị trường này. Ngoài ra dự đoán số lượng sản phẩm may xuất khẩu sang thị trường truyền thống SNG và một số nước Đông Âu cũng khá lớn vì trong những năm gần đây xuất khẩu sang các thị trường này đã bắt đầu được khôi phục. Với mục tiêu này cần có khoảng 250 - 300 triệu USD đầu tư để bình quân mỗi năm có thể đưa ra từ 10 - 15 xí nghiệp đi vào hoạt động. Quy hoạch phát triển ngành dệt may 2000- 2010 (nguồn Bộ thương mại - Bộ Công nghiệp ): Vùng quy hoạch I. - Thành phố Hồ Chí Minh, Bà Rịa, Long An, Sông Bé, Cần Thơ Dự kiến quy hoạch 50% năng lực dệt may toàn quốc. Vùng quy hoạch II. - Hà Nội, tam giác sông Hồng gồm Nam Định, Hải Phòng, Thái Bình, Vĩnh Phúc, Hà Tây và khu bốn cũ gồm Thanh Hoá, Nghệ An. Dự kiến quy hoạch 40% năng lực dệt may toàn quốc Vùng quy hoạch III. - Quảng Nam, Đà Nẵng, Huế, Nha Trang. Dự kiến quy hoạch 10% năng lực dệt may toàn quốc. Mặc dù có nhiều thuận lợi về thị trường và môi trường nhưng ngành dệt may vẫn phải đương đầu với nhiều thách thức: ngành dệt may Việt Nam bắt đầu từ một điểm xuất phát thấp, lại phải cạnh tranh với các đối thủ có mức độ phát triển sản xuất cũng như kinh nghiệm tiếp cận thị trường cao hơn trong khi sự phân chia thị trường thế giới đã định hình. Vì vậy để đạt được những mục tiêu đã đặt ra ngành dệt may cần một hệ thống các giải pháp đồng bộ từ khâu cung cấp nguyên liệu, tổ chức sản xuất, nâng cao chất lượng và phát triển sản phẩm đến hoạt động Marketing và tổ chức xuất khẩu, đặc biệt là các giải pháp Marketing vì đây là một hoạt động rất yếu của cả ngành dệt may xuất khẩu ở Việt Nam. chương ii thực trạng hoạt động xuất khẩu hàng dệt may tại công ty Dệt Kim Đông Xuân A. Quá trình hình thành và phát triển của công ty dệt kim đông xuân 1. Sự ra đời và phát triển của công ty: Công ty Dệt kim Đông Xuân ( nhà máy Dệt kim Đông Xuân trước đây ) với tên giao dịch DOXIMEX được thành lập từ năm 1959 theo quyết định phê duyệt số 1083/QĐ của Bộ Công nghiệp nhẹ, là doanh nghiệp nhà nước đầu tiên của ngành dệt kim Việt Nam. Trụ sở chính của công ty đặt tại trung tâm thành phố Hà Nội, thuận tiện cho việc giao dịch và quan hệ với các bạn hàng trong và ngoài nước. Với dây chuyền sản xuất hoàn chỉnh từ dệt, xử lý hoàn tất, cắt may, in, thêu bằng các thiết bị hiện đại, công nghệ tiên tiến của Nhật bản, CHLB Đức, ý... các sản phẩm của Công ty đáp ứng yêu cầu chất lượng cao, đặc biệt là hàng dệt kim 100% Cotton luôn được khách hàng trong và ngoài nước ưa chuộng và luôn giữ được uy tín trong suốt 40 năm tồn tại và phát triển. Các sản phẩm của Dệt kim Đông Xuân đa dạng với các kiểu dệt Single, Rib, Interlock, Kanoko, Milano, tạo vòng, cào bông... thích hợp cho mọi đối tượng trong hoạt động hàng ngày, hoạt động thể dục thể thao, du lịch, công sở, trường học... Năng lực sản xuất hiện nay từ 10 – 12 triệu Sp/năm, trong đó 80% xuất khẩu sang thị trường Mỹ, Nhật bản, EU và một số khu vực. Kim ngạch XNK đạt 13 triệu USD/năm. Diện tích nhà xưởng trên 30.000 m2 gồm 06 xí nghiệp thành viên ( XN Dệt, XN Xử lý hoàn tất và 03 XN May, XN cơ khí động lực) với tổng số lao động trên 1700 người trong đó có 85% công nhân kĩ thuật lành nghề, 8% kĩ sư và cử nhân kinh tế, bộ máy điều hành tinh giản có kinh nghiệm và cơ chế quản lý trực tuyến luôn đảm bảo yêu cầu cao của khách hàng. Hệ thống kiểm tra chất lượng của Công ty được bố trí ở tất cả các khâu trong quá trình sản xuất nhằm đảm bảo các sản phẩm xuất xưởng có chất lượng tương xứng tiêu chuẩn hợp đồng và có khả năng thỏa mãn những hợp đồng có yêu cầu khắt khe nhất về chất lượng sản phẩm. Trở lại hơn 40 năm trước đây, ngày 13 - 4 - 1959 nhà máy Dệt kim Đông Xuân được khánh thành và đi vào sản xuất. Trong những ngày đầu, cơ sở sản xuất tại 67 Ngô Thì Nhậm – Hà Nội chỉ bao gồm 4 phân xưởng sản xuất với 380 lao động. Dây truyền thiết bị gồm 180 chiếc chủ yếu của Trung Quốc với công suất 1 triệu Sp/năm. Sản phẩm bao gồm quần áo dệt kim các loại, khẩu trang, dây đai, thắt lưng... phục vụ nhu cầu trong nước và quốc phòng. Bắt đầu từ thập niên 70, Đông xuân được được giao thêm nhiệm vụ làm hàng xuất khẩu sang các nước Liên Xô cũ, Mông Cổ, Lào, Ba Lan, Hungari, CHDC Đức... Sản xuất được mở rộng, Đông Xuân phát triển thêm 2 cơ sở ở 250 và 524 Minh Khai – Hà Nội. Đông xuân trở thành đơn vị chủ lực trong chương trình xuất khẩu theo nghị định thư của nhà nước với Liên Xô cũ và các nước Đông Âu , đáp ứng 80% số lượng sản phẩm dệt kim của Việt Nam xuất sang thị trường này. Đến năm 1986, đường lối đổi mới của Đảng và Chính sách mở cửa của Nhà nước đã mở ra hướng phát triển mới cho Đông Xuân. Trên cơ sở đầu tư đổi mới thiết bị và áp dụng công nghệ tiên tiến, chủ động vươn ra thị trường mới, năm 1987 sản phẩm của Đông Xuân đã được xuất sang Bắc Âu, Tây Âu và bắt đầu thăm dò thị trường Nhật Bản. Năm 1989, Đông Xuân đã kí thoả thuận hợp tác sản xuất dài hạn với khách hàng Nhật Bản (1989-1999) và đến nay đã gia hạn thêm 10 năm ( đến năm 2009 ). Bên cạnh đó, Đông Xuân vẫn tiếp tục và phát triển các mối quan hệ thương mại với bạn hàng ở EU ( Aó, Đức, Hà Lan... ), Mỹ và một số nước ASEAN. Ngày 19-8-1992, Bộ Công nghiệp nhẹ ( nay là Bộ Công nghiệp ) có quyết định số 704/CNN – TCLĐ chuyển đổi tổ chức hoạt động của nhà máy Dệt kim Đông Xuân thành Công ty Dệt kim Đông Xuân với tên giao dịch là DOXIMEX. Với định hướng sản xuất kinh doanh chủ yếu là phục vụ xuất khẩu, thị trường đòi hỏi cao về chất lượng, quy cách, mẫu mã, sản phẩm đa dạng, thời hạn giao hàng nghiêm ngặt và khả năng cnạh tranh cao. Công ty không ngừng đầu tư công nghệ mới tiên tiến, trang thiết bị hiện đại để đáp ứng được yêu cầu này. Đồng thời nhằm đảm bảo cho sản phẩm có chất lượng cao, Công ty đã có mối quan hệ gắn bó với các nhà cung cấp có uy tín ở Thụy Sĩ, Đức, Anh, Nhật, Mĩ, ấn Độ... để nhập nguyên liệu, các loại vật tư, hoá chất, thuốc nhuộm... cho sản xuất. Dệt kim Đông Xuân luôn nỗ lực phấn đấu để giữ vững quan hệ bạn hàng truyền thống và sẵn sàng hợp tác trong đầu tư, liên doanh để mở rộng, phát triển sản xuất cũng như cung cấp sản phẩm, dịch vụ đối với các khách hàng trong và ngoài nước. Với phương châm đầu tư chọn lọc, đồng bộ, hiệu quả, Công ty đã có hệ thống thiết bị hiện đại, nguồn nguyên liệu, vật tư, hoá chất thuốc nhuộm có chất lượng cao và ổn định. Với đội ngũ cán bộ, công nhân kĩ thuật lành nghề làm chủ được công nghệ tiên tiến, cán bộ quản lý nghiệp vụ vững vàng có kinh nghiệm trong công tác quản lý theo cơ chế thời mở cửa, sản phẩm Dệt kim Đông Xuân đã vượt qua được sự kiểm định khắt khe của nền kinh tế thị trường. Và 10 năm qua, sản phẩm của Dệt kim Đông Xuân đã khẳng định vị trí vững vàng trên thị trường Nhật Bản, áo, Đức... Các khách hàng lớn từ Nhật Bản, EU đến với Đông xuân ngày càng nhiều với đơn đặt hàng có giá trị và số lượng ngày càng tăng. Hiện nay công ty Dệt kim Đông Xuân có 03 cơ sở chính nằm trên địa bàn Hà Nội phân bố như sau: Cơ sở 1: 67 Ngô Thì Nhậm – Hai Bà Trưng – Hà Nội. Cơ sở 2: 250B Minh Khai – Hai Bà Trưng – Hà Nội. Cơ sở 3: 524 Minh Khai – Hai Bà Trưng – Hà Nội. 2. Chức năng, nhiệm vụ của công ty Dệt Kim Đông Xuân: Chức năng, nhiệm vụ của công ty: Xây dựng và tổ chức thực hiện có hiệu quả các kế hoạch sản xuất kinh doanh và dịch vụ, kể cả kế hoạch xuất nhập khẩu tư daonh cũng như uỷ thác xuất nhập khẩu và các kế hoạch có liên quan. Tự tạo nguồn vốn, quản lý và khai thác sử dụng nguồn vốn có hiệu quả. Tuân thủ các chính sách, chế độ quản lý kinh tế, quản lý xuất nhập khẩu, giao dịch đối ngoại. Xuất khẩu các loại hàng hoá từ thị trường nội địa ra nhiều thị trường khác nhau trên thế giới. Nhập khẩu vật tư, thiết bị từ nước ngoài vào thị trường Việt Nam phục vụ cho sản xuất của các công ty trong nước. Nhận xuất nhập khẩu uỷ thác các sản phẩm đáp ứng nhu cầu trong và ngoài nước. Đào tạo cán bộ lành nghề, làm tốt công tác xã hội. Quyền hạn: Đề xuất ý kiến với Bộ Thương mại về việc xây dựng các chỉ tiêu kế hoạch liên quan đến hoạt động của công ty. Được vay vốn bằng tiền và ngoại tệ. Được cho thuê văn phòng, khách sạn, cho thuê kho hàng, nhà xưởng và các phương tiện nâng, xếp dỡ. Được sản xuất và gia công chế biến hàng dệt may xuất khẩu và tiêu dùng nội địa. Được ký kết hợp đồng sản xuất, kinh doanh thương mại trong và ngoài nước. Mở rộng buôn bán các sản phẩm, hàng hoá theo quy định của Nhà nước. Dự các hội trợ triển lãm, giới thiệu sản phẩm của công ty trong và ngoài nước. Đặt đại diện và chi nhánh ở nước ngoài. Được mở các đại lý, các cửa hàng buôn bán lẻ, hàng xuất khẩu và sản xuất trong nước. Được liên doanh liên kết, hợp tác đầu tư với các tổ chức kinh tế trong và ngoài nước ở các lĩnh vực sản xuất kinh doanh của công ty. Tuyển dụng, sử dụng, đề bạt, kỉ luật cán bộ công nhân viên của công ty. 3. Cơ cấu bộ máy tổ chức quản lý của công ty: Bất kì một giai đoạn nào, một thời kì nào, nền kinh tế tồn tại trong cơ chế nào thì các doanh nghiệp đều cần phải có một cơ chế vận hành riêng. Trong cơ chế thị trường, để tạo điều kiện cho doanh nghiệp phát huy đầy đủ quyền chủ động sáng tạo trong sản xuất kinh doanh đòi hỏi các doanh nghiệp phải xây dựng riêng cho mình một cơ chế vận hành phù hợp. Cơ chế vận hành của một doanh nghiệp là những quy định có tính chất bắt buộc về mặt sản xuất, quản lí và kinh doanh của nhà nước và của doanh nghiệp mà mỗi bộ phận sản xuất, quản lí cán bộ, công nhân viên phải tuân theo. Như vậy cơ cấu quản trị trong công ty Dệt Kim Đông Xuân Hà Nội liên hệ mật thiết với cơ chế vận hành, nó tồn tại với đặc điểm riêng nhưng không tách rời cơ chế vận hành bởi vì từ cơ chế vận hành mà công ty đề ra lập những quy định, điều lệ, phương hướng hoạt động, cơ cấu tổ chức, phương hướng quản lí... Để phù hợp với nền kinh tế thị trường, đứng vững trong sự cạnh tranh và khẳng định vị trí vững vàng trong và ngoài nước Công ty Dệt kim Đông Xuân đã có những bước chuyển đổi trong cơ cấu tổ chức và quản lý sản xuất nhằm nâng cao hiệu quả sản xuất, kinh doanh. Hiện nay, bộ máy quản lý của công ty được áp dụng theo hình thức trực tuyến chức năng nhằm đáp ứng kịp thời thông tin, số liệu cho phép các cấp lãnh đạo ra quyết định và ngược lại các mệnh lệnh sẽ được truyền đạt trực tiếp và kịp thời tới các tổ chức thực hiện Sơ đồ bộ máy tổ chức quản lý Tổng Giám Đốc Phó TGĐ Thương mại Phó TGĐ Sản xuất Ban ISO 9002 Phòng TC -Kế toán Kế toán trưởng Phòng Nghiệp vụ Phòng QLý Clượng Khối Sxuất- Dvụ Phòng Kĩ thuật Đầu tư Tiến bộ Kthuật sáng kiến cải tiến Thiết kế Công nghệ dệt, hóa nhuộm Thiết kế sản phẩm May mẫu giới thiệu sản phẩm Xuất nhập khẩu Giao dịch thị trường Kế hoạch điều độ sản xuất Lao động tiền lương Đào tạo chuyên dụng Cung ứng vật tư Hệ thống kho Kiểm tra thành phẩm, bán thành phẩm Thí nghiệm Đo lường XN Dệt XN Xử lý hoàn tất Xn May 1 Xn May 2 Xn May 3 XN Cơ khí sửa chữa Y tế Nhà trẻ Nhà ăn Kiểm toán viên Kế toán tiêu thu thuế Hạch toán giá thành Tín dụng huy động vốn Kế toán thanh toán Thủ quỹ Trợ lý giám đốc Giữa các nhà quản lý cũng như các bộ phận phòng ban trong công ty luôn có quan hệ chức năng và hỗ trợ với nhau. Sự phân biệt giữa từng nhiệm vụ cụ thể giữa các phòng ban là rất khó bởi mỗi một hoạt dộng sản xuất - kinh doanh của công ty dều cần có sự chỉ đạo và hỗ trợ từ cấp trên cũng như các bộ phận khác có liên quan. Mối quan hệ này giúp cho mọi hoạt động của công ty đều có được sự nhất trí và phổ biến cao đồng thời đem lại hiệu quả trong công tác quản lý tránh rườm rà gây lãng phí thời gian và các nguồn lực khác. 4. Chức năng, nhiệm vụ các phòng ban trong công ty: Tổng giám đốc: * Trách nhiệm: Chịu trách nhiệm trước cấp trên (Nhà Nước) và tập thể người lao động và hiệu quả sản xuất kinh doanh và chấp hành pháp luật của công ty, phụ trách chung và trực tiếp các lĩnh vực: + Tổ chức bộ máy công tác cán bộ. + Chiến lược phát triển và quy hoạch đầu tư, thị trường, bảo toàn và phát triển vốn. + Kế hoạch sản xuất kinh doanh - tài chính hàng năm. + Công tác quan hệ hợp tác sản xuất kinh doanh trong và ngoài nước, quan hệ với các ngành chức năng, tổ chức tín dụng, đôn đốc thực hiện chế độ báo cáo định kỳ. + Công tác tuyển dụng, hội đồng cán bộ chuyên viên. + Công tác khen thưởng, kỷ luật cánbộ, chuyên viên. + Công tác bảo vệ thanh tra. * Quyền hạn: + Chỉ đạo, kiểm tra việc tổ chức thực hiện nhiệm vụ của Phó tổng giám đốc, kế toán trưởng, các thủ trưởng đơn vị thành viên, các trợ lý và các hội đồng tư vấn. + Thành lập, giải thể các đơn vị thành viên, bộ phận, hội đồng tư vấn, đề bạt, điều chuyển, tiếp nhận, khen thưởng, kỷ luật cán bộ chuyên viên, ( kỹ thuật - nghiệp vụ ) thuộc hệ thống điều hành trong công ty và đề xuất, kiến nghị thay thế, xử lý vốn đối với những đối tượng thuộc cấp trên quản lý . + Quyết định chỉ tiêu kế hoạch sản xuất kinh doanh tài chính hàng năm, mục tiêu, quy mô lĩnh vực đầu tư, chọn lựa đối tác hợp tác sản xuất kinh doanh . + Ban hành chính sách công nghệ, chất lượng sản phẩm, khuyến khích phát triển thị trường, vận hành vốn, phân phối thu nhập để động viên lao động sáng tạo của mỗi thành viên. + Quyết định cuối cùng về điều chỉnh, sửa đổi các quyết định hiện hành trong hoạt động của công ty và giải quyết các phát sinh theo luật Doanh nghiệp Nhà Nước. Phó tổng giám đốc kỹ thuật - thương mại. * Trách nhiệm: giúp tổng giám đốc trong các lĩnh vực: + Công tác nghiên cứu và quản lý công nghệ. + Công tác tiêu chuẩn, đo lường - chất lượng sản phẩm. + Đại diện của lãnh đạo trong hệ thống quản lý chất lượng ISO 9002. + Công tác đào tạo. + Công tác sáng kiến. + Công tác xuất nhập khẩu và giao dịch thương mại. + Giao dịch tài chính, duyệt thu khi được tổng giám độc uỷ quyền. * Quyền hạn: + Chỉ đạo việc tổ chức tiến hành nghiên cứu, công nghệ, thị trường. + Đình chỉ sản xuất, nghiên cứu khi xét thấy không đảm bảo yêu cầu kỹ thuật. + Ký kết các hợp đồng thương mại. + Ký duyệt phiếu thu - chi, các chứng từ thanh toán, hoá đơn… theo quyết định về tài chính.( Khi được tổng giám đốc uỷ quyền). + Quyết định kết quả đào tạo và khen thưởng sáng kiến. + Tham gia về công tác nhân sự, nâng bậc của hệ thống quản lý kỹ thuật kinh tế, nghiệp vụ Phó tổng giám đốc kĩ thuật - sản xuất: *Trách nhiệm: giúp Tổng Giám đốc trong các lĩnh vực: + Công tác nghiên cứu và quản lý công nghệ. + Công tác sản xuất và cung ứng vật tư. + Công tác đào tạo cán bộ, chuyên viên, nhân công kĩ thuật sản xuất.. + Kiểm tra theo dõi quá trình sản xuất. * Quyền hạn: + Có quyền yêu cầu đình chỉ sản xuất khi xét thấy các tiêu chuẩn kĩ thuật bị vi phạm trong quá trình sản xuất. + Chỉ đạo, tổ chức, tiến hành sản xuất đảm bảo đúng tiến độ. + Phụ trách, chỉ đạo chung các phòng ban liên quan đến sản xuất, kĩ thuật trong công ty. + Tham gia công tác nghiên cứu khoa học, sáng kiến cải tiến trang thiết bị, máy móc... Phòng quản lý chất lượng: * Chức năng: + Lập kế hoạch chất lượng cho các sản phẩm sản xuất trong toàn công ty. + Xác định và có đủ cách thức kiểm soát quá trình, thiết bị và nguồn lực và kỹ năng cần thiết để đạt chất lượng yêu cầu. + Đảm bảo sự tương thích giữa quy trình sản xuât lắp đặt kỹ thuật, thủ tục kiể tra thử nghiệm và hệ thống văn bản áp dụng. + Cập nhật các kỹ thuật kiểm soát chất lượng, kiểm tra chất lượng, thủ tục kiểm tra và thử nghiệm bao gồm cả triển khai áp dụng thiết bị, dụng cụ mới. + Xác định mọi yêu cầu về đo lường đòi hỏi năng lực vượt qua khó khăn hiện tại nhưng sau một thời gian quy định sẽ đạt được. + Xác định và xây dựng hồ sơ chất lượng. * Nhiệm vụ: + Kiểm tra các loại sợi, chỉ từ ngoài nhập vào công ty, kiểm tra các sản phẩn khi nhận, kiểm tra để đảm bảo đúng địa chỉ giao hàng, ký mã hiệu, chất lượng, số lượng và dán tem dò kim loại. + Theo dõi, bố trí, sắp xếp các kho sợi chỉ vận chuyển nguyên phụ liệu, giám sát các quy trình công nghệ, quy định kỹ thuật. + Tổng kết chất lượng tháng để thực hiện thưởng phạt về chất lượng cho công nhân. + Cùng xí nghiệp may kiểm tra phụ liệu, nhãn mác… nhập kho và trước khi đưa vào sử dụng. Kết hợp với xí nghiệp xem xét và giải quyết sản phẩm không phù hợp. + Đảm bảo tất cả các loại vải đưa vào sản xuất đều đạt các chỉ tiêu về chất lượng. Kế toán trưởng và phòng tài chính kế toán: * Nhiệm vụ: + Xác định hiệu quả nguồn từ sản xuất kinh doanh đạtđược trong tháng và phối hợp cùng phòng nghiệp vụ xác định tổng quỹ thu nhập của công ty trong tháng, năm. + Đôn đốc kiểm tra các đơn vị thực hiện báo cáo và kiểm tra báo cáo để phân phối thu nhập đúng quy chế, kịp thời. + Kiểm tra việc thực hiện quy chế phân phối thu nhập của các đơn vị và chi trả lương, thưởng tại các đơn vị trong công ty (cung cấp, hướng dẫn lập biểu, số, lưu trữ chứng từ đúng quy định). + Thực hiện phân phối các thu nhập khác đầy đủ, chính xác, đúng nguồn. * Chức năng: +Điều hoà, phân phối, tổ chức quản lý nguồn vốn và sử dụng vốn. + Theo dõi tình hình hoạt động sản xuất kinh doanh của công ty thông qua hạch toán sản xuất và phân tích hoạt động kinh tế. Tham gia đề xuất các biện pháp quản lý để nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh, chống lãng phí, thực hành tiết kiệm. + Hướng dẫn các đơn vị trong công ty về nghiệp vụ thống kê, kế toán để phục vụ cho công tác hạch toán của phòng. + Đánh giá kết quả và hiệu quả của quá trình lao động sản xuất, hạch toán lỗ lãi và phân phối thu nhập đồng thời thực hiện các chế độ và nghĩa vụ của công ty đối với Nhà Nước. Phòng nghiệp vụ: *Nhiệm vụ: + Cùng công đoàn công ty kiểm tra việc phổ biến quy chế phân phối thu nhập của các phòng, trạm và các xí nghiệp thành viên trong toàn công ty để thực sự quán triệt đến mọi người. + Chấn chỉnh hệ thống định mức lao động, xác định định biên theo công việc cho các đơn vị và kiểm tra phân loại lao động để xử lý hợp đồng lao động đúng thủ tục quy định với những người không đảm bảo chất lượng và tuyển dụng, đào tạo bổ sung đảm bảo kế hoạch sản xuất. + Hàng tháng giao kế hoạch sản xuất và theo giõi, kiểm tra để xác định mức độ hoàn thành kế hoạch sản xuất của các đơn vị thành viên. + Kiểm tra việc thực hiện quy chế của các đơn vị ( Quản lý ngày, giờ, công lao động, sản lượng, chất lượng, nội quy kỷ luật và phương pháp kết quả tính điểm). + Hàng tháng căn cứ vào kế hoạch sản xuất và doanh thu đạt được để xác định hệ số điều chỉnh lương và phân phối các khoản thu nhập đúng quy chế. *Chức năng: + Giao dịch thị trường: các nhân viên Marketing và nhân viên bán hàng của phòng sẽ thực hiện hoạt động giao dich, xúc tiến bán hàng làm cơ sở cho việc phát triển và tìm kiếm bạn hàng, liên kết với nhân viên các phòng ban hữu quan để xác định tính khả thi của các hợp động tạo tiền đề cho việc ký kết hợp đồng. + Lên kế hoạch sản xuất và cung ứng vật tư: song song với những yêu cầu biến động của thị trường và khách hàng là những thay đổi của vấn đề sản xuất. Xây dựng và thay đổi kế hoạch sản xuất cùng với việc cung cấp nguyên vật liệu, thiết bị phục vụ cho sản xuất là chức năng quan trọng của phòng nghiệp vụ. + Xuất nhập khẩu: chuẩn bị các điều kiện thuận lợi cho việc xuất nhập khẩu như mở và đôn đốc mở L/C, lập và chuẩn bị các thủ tục xuất nhập khẩu, theo dõi tiến độ giao và nhận hàng. + Đào tạo chuyên dụng và đảm bảo công bằng trong phân phối thu nhập: sử dụng biện pháp khuyến khích lợi ích kinh tế để đảm bảo cả về lượng và chất cho lực lượng lao động. + Nghiệp vụ kho: dự trữ và bảo quản nguyên vât liệu cũng như hàng hoá đảm bảo cho sản xuất kinh doanh diễn ra theo đúng tiến độ kế hoạch, giữ nguyên vẹn về chất và lượng cho hàng hoá trong kho là yêu cầu mang tính kinh tế và kỹ thuật đồng bộ. Phòng kỹ thuật: *Nhiệm vụ và chức năng: + Trên cơ sở kế hoạch sản xuất của các đơn vị, cân đối xây dựng kế hoạch sử dụng, huy động và sửa chữa thiết bị theo công suất thực tế. + Ban hành mới, kiểm tra và sửa đổi để hoàn chỉnh hệ thống tiêu chuẩn chất lượng, định mức sử dụng vật tư, thiết bị cho phù hợp để có cơ sở ra kế hoạch và khoán quỹ lương đến các xí nghiệp thành viên. + Xây dựng hệ thống định mức, giờ công, giờ ngừng, dạng sửa chữa của từng loại thiết bị và khối lượng công việc cần giải quyết theo chức năng để giao khoán quỹ tiền lương cho xí nghiệp CKSC và công nhân bảo dưỡng tại các xí nghiệp. đồng thời xác định mức độ hoàn thành nhiệm vụ về mặt khối lượng và chất lượng của xí nghiệp CKSC và công nhân sửa chữa tại các xí nghiệp hàng tháng. + Trên cơ sở yêu cầu đòi hỏi của các đặc tính kinh tế kỹ thuật của các sản phẩm sản xuất mà xây dựng các quy trình công nghệ, quy trình kĩ thuật phục vụ cho quá trình sản xuất, đồng thời chịu trách nhiệm xây dựng các sản phẩm mẫu nhằm đưa vào sản xuất đại trà. B. tình hình hoạt động xuất khẩu hàng dệt may ở công ty Dệt Kim Đông Xuân I. Một vài đặc điểm về công ty Dệt Kim Đông Xuân: 1.Đặc điểm quy trình công nghệ sản xuất của công ty Dệt Kim Đông Xuân: Xn Cơ khí sửa chữa: lò hơi, cấp nước, làm lạnh, nén khí, tổ nguội, tiện… Xn Dệt Xn Xử lý hoàn tất XN May Sợi Đảo sợi Dệt Kiểm tra Mạng Lộn vải Kho vải mộc Vải mộc Tẩy sơ bộ Kiềm Nấu Nhuộm Vắt Tẩy Mở khổ vải ( làm mềm ) Sấy Cán nguội Kiểm tra Cán nóng In hoa Kho vải thành phẩm Vải thành phẩm Kiểm tra vải sợi Cắt May In thêu Hoàn thiện: là, gấp, dán nhãn, đóng hòm,… Xén, chần, bằng Kiểm tra Khuyết, lộn, xếp Kho thành phẩm Quy trình công nghệ sản xuất của công ty đã được áp dụng chỉ tiêu ISO 9002, mỗi bước trong quy trình trên đều được kiểm soát bởi các bộ phận có liên quan như phòng kĩ thuật, phòng nghiệp vụ và được phổ biến rộng rãi đến toàn bộ các nhân viên cũng như các cán bộ của công ty qua hoạt động của Ban ISO. Mỗi sản phẩm từ bán thành phẩm cho đến thành phẩm đều được kiểm soát, kiểm tra kiểm nghiệm nhằm đảm bảo khi sản phẩm đến các công đoạn sau của quy trình sản xuất thì không còn một sai sót gì làm ảnh hưởng đến tiến độ sản xuất kinh doanh của công ty. 2. Đặc điểm hệ thống tiêu thụ của công ty Dệt Kim Đông Xuân: Xn Dệt Xn Xử lí hoàn tất May 1, 2, 3 Khách hàng Hợp đồng: Sản phẩm xuất bán được thực hiện theo yêu cầu của khách hàng. Cửa hàng, đại lý, trung tâm phân phối, trung gian bán hàng (CoopMax, Vinatex…): Sản phẩm xuất bán theo thiết kế của công ty. Hội trợ, triển lãm trong và ngoài nước: giới thiệu, trưng bày, bán và kí kết hợp đồng… Vải mộc Sản phẩm Vải thành phẩm Về căn bản, hệ thống kênh phân phối của công ty Dệt Kim Đông Xuân giống như các kênh phân phối bình thường khác. Nhưng xét trên khía cạnh sản phẩm, do đặc tính kĩ thuật của ngành sản xuất dệt may ảnh hưởng đến hệ thống phân phối thì công ty ngoài việc phân phối thành phẩm (sản phẩm hoàn tất) còn phân phối bán thành phẩm và nguyên liệu (vải mộc, vải thành phẩm) cho các công ty dệt may, các khách hàng công nghiệp và thương mại khác trong và ngoài nước... 3. Cơ cấu tổ chức lao động ở công ty Dệt Kim Đông Xuân: 3.1. Cơ cấu tổ chức lao động theo chức năng: Đơn vị: Người (Nguồn: Phòng Nghiệp vụ Cty DKDX) Qua cơ cấu tổ chức lao động của công ty ở sơ đồ trên ta thấy bộ phận sản xuất chiếm tỷ trọng lớn (912/1114; 922/1124) là hợp lý. Bộ phận điều hành quản lý và phục vụ như bảo vệ, văn phòng... trong toàn xí nghiệp có 202 người và được phân bố và dàn trải đều ở các phòng triển khai các hoạt động sản xuất của 6 xí nghiệp, đảm nhận công tác xuất nhập khẩu, quản lý chất lượng, kĩ thuật sản xuất và nghiên cứu thị trường là rất hợp lý. Song công tác nghiên cứu thị trường ở công ty Dệt Kim Đông Xuân còn gặp nhiều khó khăn. Lao động nữ chiếm ~75%, đặc điểm này không có lợi cho xí nghiệp về mặt đảm bảo ngày công lao động thực tế theo chế độ, thời gian nghỉ đẻ, nghỉ thai sản, con ốm mẹ nghỉ, từ đó ảnh hưởng trực tiếp quá trình sản xuất kinh doanh. Nhưng bù lại lao động nữ có tổ chức kỷ luật cao và đặc biệt là cần cù, chịu khó. Tuổi trung bình của lao động trong xí nghiệp là trẻ khoảng 30 tuổi và có xu hướng ngày càng trẻ hóa đội ngũ lao động. Đặc điểm này có lợi cho công ty về mặt lao động trẻ. Do giá nhân công thành thị là cao nên công ty thường tổ chức tuyển mộ và đào tạo nhân công ở các tỉnh lân cận như Nam Định, Thái Bình, Hải Hưng... và một số tỉnh khác. Công ty đã sắp xếp và phân bố công việc khoa học và ổn định tránh tình trạng công nhân phải làm việc quá căng hoặc có những lúc không có việc làm. Để tạo điều kiện tốt nhất cho công nhân, công ty đã có nhà ăn để có thể phục vụ bữa ăn cho công nhân làm ca. Ngoài ra hàng năm công ty đã trực tiếp mời các thầy giáo có kinh nghiệm về bồi dưỡng kiến thức cho các cán bộ đồng thời nâng cao tay nghề cho công nhân. Chủ trương của công ty trong việc đào tạo đội ngũ cán bộ rất được chú trọng, ngoài việc tổ chức lớp học do công ty tổ chức, ban lãnh đạo cũng khuyến khích cán bộ đi học thêm các lớp ngoài giờ hỗ trợ họ cả về thời gian và vật chất bởi vì đây chính là chính sách làm giảm chi phí ẩn trong sản xuất kinh doanh. 3.2. Cơ cấu tổ chức lao động theo trình độ: Các XN, phòng ban Tổng cộng Nữ Đại học Cao đẳng Trung cấp Sơ cấp Cấp II Cấp III Xn Dệt kim 97 66 3 0 5 0 53 36 XN XLHTất 85 69 7 2 3 0 19 54 Xn May 1 208 185 4 1 1 0 44 158 Xn May 2 234 203 3 1 1 0 121 108 Xn May 3 225 196 5 0 0 2 124 94 Xn CKSC 73 4 4 0 5 0 18 46 P. Nghiệp vụ 62 41 20 5 16 0 6 15 P. TC-KT 18 17 14 1 3 0 0 0 P. Kĩ thuật 34 20 17 9 3 0 2 3 P.QLCLượng 43 42 4 1 1 0 23 14 Văn Phòng 42 14 4 0 3 0 20 15 Y tế-nhà trẻ 18 18 3 0 7 8 0 0 Tổng cộng 1139 875 88 20 48 10 430 543 (Nguồn: Phòng Nghiệp vụ - Bộ phận Lao động-Tiền Lương) Qua phân tích số liệu trên ta thấy số lao động có trình độ cao (đại học, cao đẳng, trung cấp) chiếm ~13,7% tổng số lao động. Điều này đảm bảo cho tính khoa học, kĩ thuật cao trong quản lý và sản xuất, đảm bảo sức sáng tạo và tính nghiêm túc trong công việc. Số lao động có trình độ đại học còn hạn chế (chiếm 7.7%) ố ảnh hưởng không tích cực đến công tác quản lý, công ty cần tuyển mộ, bồi dưỡng đội ngũ cán bộ nhằm nâng cao năng lực quản lý và sản xuất. II. Hiện trạng tình hình hoạt động xuất khẩu hàng dệt may tại công ty Dệt Kim Đông Xuân: 1. Hoạt động xuất khẩu hàng dệt may tại công ty DKĐX: 1.1. Công tác nghiên cứu thị trường xuất khẩu tại công ty. Hàng dệt may là những yếu tố thiết yếu trong đời sống nhân dân, với mọi đối tượng tiêu dùng. Tuy nhiên công ty cần căn cứ vào nhiều yếu tố chủ quan và khách quan để có biện pháp kinh doanh từng loại hàng cụ thể phù hợp với nhu cầu người tiêu dùng. Nội dung nghiên cứu thị trường mà công ty tiến hành bao gồm: nghiên cứu nhu cầu hàng dệt may trong phạm vi quốc tế, nghiên cứu khả năng cung ứng của các đơn vị nguồn hàng, nghiên cứu giá cả trên thị trường quốc tế, nghiên cứu sự cạnh tranh mặt hàng dệt may trên thị trường quốc tế. Công tác nghiên cứu nhu cầu của công ty được các cán bộ nghiên cứu thị trường phòng nghiệp vụ và kĩ thuật đồng thời tiến hành. Đối tượng nghiên cứu chính của công ty là các khách hàng công nghiệp và thương mại trong và ngoài nước, với đối tượng này công ty cần xác định ai là người tiêu dùng cuối cùng hàng dệt may của công ty từ đó có chính sách sản phẩm phù hợp, song song với nó là xác định khả năng tài chính hợp pháp, hình thức tổ chức, hình thức kinh doanh cũng như mạng lưới bán lẻ và uy tín đối với khách hàng của các khách hàng công nghiệp và thương mại. Qua phân tích số liệu lịch sử của các quý, năm trước để xác định số lượng, cơ cấu mặt hàng đã tiêu thụ, tốc độ chu chuyển của từng mặt hàng trên cơ sở đó công ty dự đoán khả năng mua của các đơn vị khách hàng trong thời gian tới. Ngoài ra công ty cử cán bộ trực tiếp đến các thị trường tiêu thụ sản phẩm của công ty tại nước ngoài và các đơn vị bán lẻ để nghiên cứu nhu cầu, hoặc bằng điện thoại, fax chào hàng qua đó xác định nhu cầu của khách hàng. Hiện nay công ty DOXIMEX đang phát triển mạng lưới bán lẻ của mình tại các thị trường nội địa, thông qua tổ chức bán lẻ hàng hoá để nghiên cứu thị trường. Từ việc nghiên cứu đó công ty sẽ biết đâu là hàng hợp thị hiếu, bán nhanh, nơi nào hàng cần, số lượng bao nhiêu, hàng nào thu lãi nhiều, để biết rõ khả năng bán sản phẩm trên thị trường quốc tế của công ty là bao hiêu, thị trường nào, thành phần kinh tế nào...có sự ưa thích nhất đối với hàng hoá của công ty. Từ việc nghiên cứu nắm bắt nhu cầu, công ty có những chính sách phù hợp nhằm đẩy mạnh hàng hoá xuất khẩu ra thị trường quốc tế. Nghiên cứu nhu cầu thị trường gắn liền với công tác tiếp thị thị trường xuất khẩu, phương châm cơ bản của công ty trong tổ chức kinh doanh xuất khẩu là nắm vững nguồn hàng bằng cách giữ quan hệ với các bạn hàng truyền thống, mở rộng thị trường tiềm năng. 1.2. Tạo nguồn hàng cho xuất khẩu. Hoạt động tạo nguồn hàng cho xuất khẩu tại công ty Dệt Kim Đông Xuân được thực hiện thông qua hai hình thức chính: Thuê gia công tạo nguồn xuất khẩu: Công tác thuê gia công tạo nguồn được thực hiện trên cơ sở hoạt động xuất khẩu hàng dệt may mà công ty không có hoặc thiếu nguyên vật liệu phục vụ cho sản xuất hay quy mô sản xuất nhỏ, lợi nhuận thu được từ đó không đủ để thực hiện sản xuất trong khi nếu để các công ty khác có quan hệ liên kết với công ty thực hiện sẽ có hiệu quả hơn. Công tác thuê gia công tạo nguồn hàng cho xuất khẩu được các cán bộ tạo nguồn thực hiện liên kết với các doanh nghiệp sản xuất hàng dệt may khác trong nước song song với việc nhập khẩu các nguyên liệu chủ yếu mà trong nước không có (như vải, sợi...). Công tác thuê gia công tạo nguồn qua liên doanh liên kết giúp công ty tuy không phải bỏ thời gian vào sản xuất nhưng vẫn có hàng hoá để xuất khẩu nhằm duy trì các quan hệ với bạn hàng và vẫn có một khoản hoa hồng nhất định từ việc bán sản phẩm của các công ty khác. Công ty mà DOXIMEX thường xuyên có quan hệ liên doanh, liên kết là các công ty dệt 19/5, công ty dệt Hà nội Hanosimex... Tổ chức sản xuất tạo nguồn: Hoạt động tổ chức sản xuất tạo nguồn thực chất là hoạt động sản xuất ra hàng hoá nhằm thực hiện hoạt động xuất khẩu. Khi thực hiện sản xuất tạo nguồn công ty thực hiện mọi quy trình của hoạt động sản xuất từ thiết kế mẫu mã sản phẩm hoặc xây dựng mẫu mã theo yêu cầu của khách hàng, thử nghiệm mẫu mã cho đến đưa vào sản xuất đại trà rồi thực hiện xuất khẩu. Ưu điểm của tổ chức sản xuất tạo nguồn là công ty tận dụng được các nguồn lực của bản thân, thực hiện sản xuất rồi đem xuất khẩu tới cho khách hàng vì vậy hoạt động này đem lại hiệu quả kinh tế cao hơn, đồng thời giúp công ty cũng như bạn hàng kiểm soát được mọi quá trình sản xuất nhằm khắc phục những sai sót một cách nhanh chóng. 1.3. Giao dịch đàm phán, kí kết hợp đồng xuất khẩu. Các công tác giao dịch đàm phán, kí kết hợp đồng tại công ty Dệt Kim Đông Xuân được thực hiện bởi các phó tổng giám đốc hoặc trực tiếp bởi Tổng giám đốc, bởi các nhà quản lý lãnh đạo của công ty là những người nắm rõ nhất tình hình thực tế các nguồn lực cũng như khả năng mở rộng nhằm phục vụ sản xuất cho các hợp đồng được kí kết. Trước khi thực hiện kí kết hợp đồng thì các cán bộ của phòng Nghiệp vụ, phòng Kĩ thuật thực hiện tổ chức nghiên cứu, đánh giá các khả năng, nhu cầu của đối tác cũng như giới thiệu về khả năng sản xuất, đáp ứng của công ty. Trên cơ sở các nghiên cứu, đánh giá của các phòng ban thì công tác giao dịch đàm phán và kí kết hợp đồng được tiến hành. Công tác giao dịch của công ty Dệt Kim Đông Xuân được thực hiện qua hai hình thức: trực tiếp và gián tiếp qua thư tín, các phương tiện truyền thông... Bên cạnh những nhà quản lý của công ty khi tham gia đàm phán, kí kết hợp đồng là các nhà tư vấn pháp luật, công nghệ của cả hai bên. Kí kết hợp đồng là một khâu quan trọng trong quá trình thực hiện hoạt động xuất khẩu tại công ty Dệt Kim Đông Xuân, khâu này thường được quan tâm chú trọng nhằm đảm bảo cho việc kí kết thành công hợp đồng theo nguyên tắc tuân thủ luật pháp và hai bên cùng có lợi. 1.4. Tổ chức sản xuất thực hiện hợp đồng. Công tác tổ chức sản xuất thực hiện hợp đồng ở công ty Dệt Kim Đông Xuân được điều khiển và quản lý bởi các phòng ban hữu quan trong công ty như phòng Nghiệp vụ, phòng Kĩ thuật... Các phòng ban này sẽ lên kế hoạch sản xuất và phân bổ kế hoạch đến khối sản xuất (các xn dệt, may) nhằm đảm bảo đúng tiến độ hợp đồng, song song giám sát công tác sản xuất tại khối sản xuất với mục đích đảm bảo chất lượng sản phẩm và giải quyết các sự cố xảy ra trong quá trình sản xuất. Bên cạnh sự quản lý giám sát của các phòng ban hữu quan trong công ty là sự tham gia của các chuyên gia kĩ thuật sản xuất của các đối tác kinh doanh. Mỗi khi kí kết và thực hiện hợp đồng, công ty Dệt Kim Đông Xuân đều đưa ra biện pháp này nhằm đem lại sự tin tưởng cho đối tác và cũng là một thuận lợi cho công ty khi bất cứ có một sai sót hoặc thay đổi so với yêu cầu của đối tác thì lập tức có chuyên gia của khách hàng để phối hợp điều chỉnh kịp thời. Mỗi hợp đồng khi thực hiện đều được công ty Dệt Kim Đông Xuân lưu lại quá trình thực hiện vào hồ sơ và thông báo cho đối tác nhằm kiểm soát kịp thời quá trình này. Bên cạnh đó, tác nghiệp quản lý sản xuất tại nơi sản xuất cũng được theo dõi chặt chẽ thông qua hệ thống thông tin nội bộ. 1.5. Tổ chức hoạt động thanh toán hợp đồng xuất khẩu. Hoạt động thanh toán sau khi thực hiện hợp đồng xuất khẩu là một công tác quan trọng. Nó đảm bảo cho việc công ty được thanh toán số hàng hoá đã xuất khẩu cho đối tác, thu hồi vốn đưa vào quá trình tái sản xuất và phân bổ lợi nhuận đến các thành viên của công ty. Công tác này tại công ty Dệt Kim Đông Xuân được thực hiện bởi bộ phận xuất nhập khẩu của phòng Nghiệp vụ đảm trách. Bộ phận này có trách nhiệm giao dịch với các đối tác xuất khẩu nhằm thực hiện thành công hợp đồng đồng thời cũng có trách nhiệm thực hiện hoạt động thanh toán sau khi thực hiện sản xuất phục vụ hợp đồng. Đội ngũ cán bộ của bộ phận xuất nhập khẩu là tập thể có trình độ nghiệp vụ cao, có kinh nghiệm trong công tác hoạt động xuất khẩu đặc biệt là công tác thanh toán quốc tế. Hình thức thanh toán chủ yếu công ty áp dụng trong hoạt động xuất khẩu là phương thức thanh toán bằng thư tín dụng (L/C), ngoài ra còn các hình thức thanh toán khác như TT, CNF... phục vụ cho các khách hàng truyền thống và các khách hàng có yêu cầu. Thanh toán quốc tế bằng thư tín dụng đảm bảo cho cả người xuất khẩu và người nhập khẩu về khả năng nhận được thứ mình cần là tiền và hàng. Sau khi trình đủ các chứng từ xuất khẩu hàng hoá cho ngân hàng thì tiền sẽ được chuyển tới tài khoản của công ty Dệt Kim Đông Xuân tại Ngân hàng Ngoại Thương Việt Nam. 2. Thị trường xuất khẩu hàng dệt may của công ty: Đối với công ty DOXIMEX, việc củng cố và giữ vững các thị trường xuất khẩu truyền thống đồng thời tìm kiếm thêm các thị trường mới là vấn đề sống còn. Đặc biệt là trong tình trạng cạnh tranh gay gắt giữa các doanh nghiệp xuất khẩu mặt hàng may mặc ở Việt Nam như hiện nay. Công ty đã sử dụng nhiều nguồn thông tin khác nhau, bằng các hình thức và biện pháp khác nhau trên khắp các Châu lục. Riêng thị trường xuất khẩu hàng may mặc hiện đã có tới 10 thị trường và trong tương lai con số đó chắc chắn sẽ còn tăng thêm. Xem số liệu trong bảng sau: Bảng kim ngạch xuất khẩu hàng dệt may của công ty theo thị trường Đơn vị: USD Thị trường 1998 1999 2000 2001 2002 Nhật Bản 4.043.839 3.715.572 3.358.893 3.162.436 2.234.249 EU 66.314 100.502 288.225 216.665 -Đức 39.876 35.545 -Đan Mạch 22.346 163.950 -CH Ailen 32.392 19.275 16.321 -Anh 7.581 10.219 105.000 108.000 -áo 18.857 -Pháp 35.016 92.344 Mỹ 555.994 Hungari 11.346 Tổng cộng 4.110.153 3.715.572 3.459.395 3.484.677 3.018.254 (Nguồn: Phòng Nghiệp vụ - Cty Dệt Kim Đông Xuân) Qua những số liệu trên ta có thể thấy thị trường ổn định nhất của công ty là thị trường Nhật Bản. Nhật là một bạn hàng lớn của Việt Nam trong các hợp đồng xuất nhập khẩu tơ sợi, hàng dệt may. Tuy nhiên họ chủ yếu là nhập khẩu tơ sợi về để sản xuất và xuất khẩu đi các nước khác chứ sản lượng nhập khẩu hàng may mặc không nhiều. Thị trường Nhật Bản là thị trường khó tính luôn đòi hỏi cao về chất lượng, các dịch vụ sản phẩm, thời hạn giao hàng và giá cả phải chăng. Đây cũng là một thị trường quen thuộc đối với các cán bộ kinh doanh của công ty do họ đã có nhiều năm hoạt động trên thị trường này và đã xây dựng được những mối quan hệ bạn hàng bền vững, chặt chẽ. Do vậy đây là một thị trường luôn là mối quan tâm hàng đầu của DOXIMEX. Thị trường các nước EU như Anh, Pháp, Đức,... tuy là những thị trường tiêu thụ mới mẻ đối với công ty song đã thể hiện rõ tiềm năng rất lớn mạnh. Đây là một thị trường đông dân (350 triệu người) lại có sức tiêu dùng vải cao (17 kg/ 1 người). Yêu cầu về hàng may mặc đặc biệt cao. Nhu cầu tiêu dùng để bảo vệ thân thể chỉ chiếm 10- 15% giá trị sản phẩm, còn 80- 90% là theo mốt, nên hàm lượng chất xám trong sản phẩm may là chính. Bởi vậy để thâm nhập sâu hơn vào thị trường này, công ty luôn chú ý đến vấn đề chất lượng sản phẩm, đặc biệt là thời trang, mốt và chất liệu sử dụng cho sản xuất các mặt hàng may mặc. Hiện nay, đây là thị trường tiêu thụ hàng may mặc lớn nhất của Việt Nam và đang là thị trường đầy tiềm năng của công ty. Tuy nhiên, hạn ngạch xuất khẩu mà công ty được cấp quá thấp so với khả năng của công ty. Dù sao thì nâng cao chất lượng sản phẩm, cải tiến mẫu mã cho hợp thị hiếu người tiêu dùng vẫn là biện pháp tối ưu để giành hạn ngạch và hợp đồng xuất khẩu cho công ty. Bắt đầu từ năm 2002, công ty Dệt Kim Đông Xuân đã có thêm bạn hàng mới đó là Mỹ. Tuy mới chỉ bắt đầu giao dịch tuy nhiên kim ngạch xuất khẩu sang Mỹ đã chiếm tới gần 20% tổng kim ngạch xuất khẩu năm 2002 của công ty. Mỹ - một thị trường tiêu thụ hàng may mặc lớn nhất thế giới, dân số đông (hơn 360 triệu người), mức tiêu thụ hàng may mặc gần gấp rưỡi EU (27kg/1 người). Từ sau khi quan hệ Việt-Mỹ bình thường hoá, hai nước đã đặt quan hệ Đại sứ, bãi bỏ cấm vận, được hưởng ưu đãi thuế quan phổ cập (GSP) và cơ chế tối huệ quốc MFN, hoạt động xuất khẩu hàng may mặc giữa Việt Nam với Mỹ luôn tiến triển tốt đẹp. Trong khuôn khổ đàm phán WTO từ 1/1/1995 thì trong vòng 10 năm nữa hàng rào hạn ngạch hàng dệt may bị bãi bỏ và thuế sẽ giảm trung bình 9%. Các nước có xu hướng sản xuất hàng dệt may đang điều chỉnh lại chiến lược phát triển ngành dệt may nước họ, chuẩn bị đọ sức quyết liệt tại thị trường Mỹ không hạn ngạch vào năm 2005, đặc biệt là đối với những nước có lợi thế nhân công rẻ sẽ ồ ạt xuất hàng may mặc vào Mỹ. Công ty Dệt Kim Đông Xuân do xuất khẩu hàng dệt may vào Mỹ tương đối lớn (18.6% tổng kim ngạch xuất khẩu năm 2002) nên cần có chiến lược tiếp thị, phát triển các mặt hàng may mặc phù hợp với tiêu chuẩn chất lượng, và thị hiếu của thị trường Mỹ, đầu tư đón trước thời cơ để có thể phát triển mạnh mẽ trên thị trường khổng lồ này. Việc đánh giá hoạt động kinh doanh xuất khẩu hàng dệt kim của công ty thông qua mặt hàng và thị trường xuất khẩu như trên đã giúp ta khẳng định được một hướng đi quan trọng đối với công ty trong thời gian tới, đó là khôi phục và phát huy các thị trường truyền thống đồng thời mở rộng các thị trường mới về từng mặt hàng, song song với chiến lược khác biệt hoá sản phẩm. Bảng kim ngạch xuất khẩu năm 2002 theo khách hàng nhập khẩu Khách hàng Năm 2002 Dự kiến năm 2003 Giá trị HĐ Cơ cấu (%) Giá trị HĐ Cơ cấu (%) Kim ngạch xuất khẩu 3.292.633 100 4.788.854 100 1. Thị trường Nhật 2.191.185 66.55 3.055.000 63.79 - Katakura 1.800.632 54.69 2.500.000 52.2 - Kafulas 103.404 3.14 270.000 5.64 - Itochu 250.406 7.61 270.000 5.64 - Mitshukoshi 14.752 0.45 15.000 0.31 2. Thị trường EU 200.344 6.08 379.100 7.92 - Eminence 92.344 2.8 102.000 2.13 - Aulak 108.000 3.28 277.100 5.79 3. Thị trường Mỹ 508.618 15.45 1.316.524 27.49 - Children’s Place 108.811 3.3 500.000 10.44 - Jensmart 80.611 2.45 450.000 9.4 - High Fashion 96.071 2.92 300.000 6.26

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc100853.doc