Đề tài Liên kết một số ngành kinh tế giữa ba tỉnh trung du miền núi phía Bắc: Phú Thọ; Yên Bái; Lào Cai

Tài liệu Đề tài Liên kết một số ngành kinh tế giữa ba tỉnh trung du miền núi phía Bắc: Phú Thọ; Yên Bái; Lào Cai: Lời nói đầu Mỗi quốc gia, vùng lãnh thổ trên thế giới nói chung và mỗi địa phương trong cả nước nói riêng đều có nguồn lực phát triển kinh tế- xã hội nhất định. Do nguồn lực có hạn nên việc sử dụng hiệu quả nguồn lực đồng thời phát huy lợi thế so sánh luôn là vấn đề nhận được sự quan tâm hàng đầu ở mỗi quốc gia. Nhận thấy được tầm quan trọng đó, Đảng, nhà nước và các cấp chính quyền không ngừng đổi mới đường lối, chính sách nhằm phát triển kinh tế- xã hội của vùng và cả nước. Trong đó, phát triển liên kết kinh tế góp phần thúc đẩy phân công lao động xã hội giữa các vùng, các doanh nghiệp trong nước và quốc tế, thúc đẩy nhanh quá trình tích tụ, tập trung, xã hội hoá sản xuất công nghiệp; huy động có hiệu quả nguồn lực của đất nước vào phát triển kinh tế, thực hiện thành công công cuộc công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước. Liên kết kinh tế giữa các địa phương trong vùng là một bộ phận trong quá trình liên kết kinh tế nói chung. Trong đó, các địa phương trong vùng sẽ phối hợp xây ...

doc74 trang | Chia sẻ: hunglv | Lượt xem: 1035 | Lượt tải: 1download
Bạn đang xem trước 20 trang mẫu tài liệu Đề tài Liên kết một số ngành kinh tế giữa ba tỉnh trung du miền núi phía Bắc: Phú Thọ; Yên Bái; Lào Cai, để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Lêi nãi ®Çu Mçi quèc gia, vïng l·nh thæ trªn thÕ giíi nãi chung vµ mçi ®Þa ph­¬ng trong c¶ n­íc nãi riªng ®Òu cã nguån lùc ph¸t triÓn kinh tÕ- x· héi nhÊt ®Þnh. Do nguån lùc cã h¹n nªn viÖc sö dông hiÖu qu¶ nguån lùc ®ång thêi ph¸t huy lîi thÕ so s¸nh lu«n lµ vÊn ®Ò nhËn ®­îc sù quan t©m hµng ®Çu ë mçi quèc gia. NhËn thÊy ®­îc tÇm quan träng ®ã, §¶ng, nhµ n­íc vµ c¸c cÊp chÝnh quyÒn kh«ng ngõng ®æi míi ®­êng lèi, chÝnh s¸ch nh»m ph¸t triÓn kinh tÕ- x· héi cña vïng vµ c¶ n­íc. Trong ®ã, ph¸t triÓn liªn kÕt kinh tế gãp phÇn thóc ®Èy ph©n c«ng lao ®éng x· héi gi÷a c¸c vïng, c¸c doanh nghiÖp trong n­íc vµ quèc tÕ, thóc ®Èy nhanh qu¸ tr×nh tÝch tô, tËp trung, x· héi ho¸ s¶n xuÊt c«ng nghiÖp; huy ®éng cã hiÖu qu¶ nguån lùc cña ®Êt n­íc vµo ph¸t triÓn kinh tÕ, thùc hiÖn thµnh c«ng c«ng cuéc c«ng nghiÖp ho¸, hiÖn ®¹i ho¸ ®Êt n­íc. Liªn kÕt kinh tÕ gi÷a c¸c ®Þa ph­¬ng trong vïng lµ mét bé phËn trong qu¸ tr×nh liªn kÕt kinh tÕ nãi chung. Trong ®ã, c¸c ®Þa ph­¬ng trong vïng sÏ phèi hîp x©y dùng, rµ so¸t, bæ sung quy ho¹ch ph¸t triÓn kinh tÕ- x· héi vïng. Lµ mét sinh viªn thùc tËp t¹i ban nghiªn cøu ph¸t triÓn vïng- ViÖn chiÕn l­îc ph¸t triÓn- Bé kÕ ho¹ch ®Çu t­ em lùa chän ®Ò tµi " Liªn kÕt mét sè ngµnh kinh tÕ gi÷a ba tØnh trung du miÒn nói phÝa B¾c: Phó Thä; Yªn B¸i; Lµo Cai" lµm ®Ò tµi cho chuyªn ®Ò thùc tËp tèt nghiÖp cña m×nh. Chuyªn ®Ò gåm ba ch­¬ng: Ch­¬ng I: Nh÷ng vÊn ®Ò lý luËn chung vÒ liªn kÕt kinh tÕ gi÷a c¸c ®Þa ph­¬ng trong vïng. Ch­¬ng II: Thùc tr¹ng liªn kÕt kinh tÕ ë ba tØnh: Phó Thä, Yªn B¸i, Lµo Cai. Ch­¬ng III: §Þnh h­íng vµ gi¶i ph¸p thùc hiÖn liªn kÕt kinh tÕ ë ba tØnh trung du miÒn nói phÝa B¾c: Phó Thä, Yªn B¸i, Lµo Cai. Chuyªn ®Ò ®­îc hoµn thµnh víi sù gióp ®ì nhiÖt t×nh cña Ts.NguyÔn TiÕn Dòng vµ cña c¸c c«, chó trong Ban. Em xin ch©n thµnh c¶m ¬n vµ mong nhËn ®­îc nh÷ng ý kiÕn ®ãng gãp cña thÇy gi¸o. Chương I: NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CHUNG VỀ LIÊN KẾT KINH TẾ GIỮA CÁC ĐỊA PHƯƠNG I.VẤN ĐỀ LIÊN KẾT KINH TẾ GIỮA CÁC ĐỊA PHƯƠNG. 1. Khái niệm và đặc điểm của liên kết kinh tế. Liên kết kinh tế là một hiện tượng kinh tế - xã hội khách quan của nền sản xuất hàng hóa có sự phân công lao động xã hội ngày càng phát triển. Những biểu hiện của hoạt động liên kết kinh tế đã ra đời, tồn tại từ lâu trong lịch sử của nền kinh tế thế giới cũng như Việt nam. Ngày nay hoạt động kinh tế tiếp tục phát triển đa dạng và phong phú về nhiều mặt. Liên kết kinh tế được nhận thức một cách khái quát nhất là phạm trù phản ánh mối quan hệ phối hợp hoạt động kinh tế giữa các chủ thể kinh tế với nhau, để thực hiện những nhiệm vụ sản xuất kinh doanh nhất định, nhằm đem lại những hiệu quả kinh tế cao nhất cho mỗi bên tham gia. Đặc điểm cơ bản của quan hệ liên kết kinh tế là: Xuất phát từ mối quan tâm “cùng có lợi ích kinh tế” mà các bên tham gia tự nguyện thiết lập các mối quan hệ phối hợp. Các chủ thể liên kết kinh tế có sự phối hợp lẫn nhau khá chặt chẽ và có trách nhiệm cao trong tổ chức thực hiện các hoạt động phối hợp. Các chủ thể (đối tác) tham gia hoạt động liên kết kinh tế có thể là: doanh nghiệp sản xuất kinh doanh, các tổ chức kinh tế- xã hội, chính quyền địa phương, cơ quan quản lý nhà nước cấp ngành, cấp quốc gia. Trong hoạt động liên kết kinh tế, có thể thiết lập quan hệ liên kết kinh tế với những nội dung khá phong phú ở tất cả các khâu của quá trình tái sản xuất mở rộng, như khâu chuẩn bị các yếu tố cho sản xuất, sản xuất, phục vụ cho sản xuất, nghiên cứu ứng dụng khoa học công nghệ, đào tạo, bảo vệ tài nguyên môi trường, tổ chức khai thác thị trường, thúc đẩy qúa trình lưu thông tiêu thụ sản phẩm... Liên kết kinh tế có thể diễn ra trong một phạm vi không gian hẹp như: liên kết kinh tế giữa các bên trong một khu công nghiệp, một địa phương, vùng kinh tế. Nhưng cũng có thể diễn ra ở phạm vi không gian rộng như: toàn quốc gia, giữa các quốc gia với nhau. Và hoạt động liên kết kinh tế giữa các bên có thể thực hiện trong một thời gian ngắn là kết thúc (Liên kết kinh tế theo từng vụ việc cụ thể) và có thể diễn ra một cách thường xuyên, liên tục nhiều năm. Liên kết kinh tế được thực hiện thông qua hình thức hợp đồng liên kết kinh tế giữa các chủ thể kinh tế độc lập. Đồng thời quan hệ liên kết kinh tế cũng có thể được thực hịên thông qua việc hình thành một loại hình tổ chức mới, làm nhiệm vụ điều phối hoạt động của các bên tham gia. Liên doanh là một biểu hiện cụ thể của hoạt động liên kết kinh tế. Để nhận thức rõ bản chất của hoạt động liên kết kinh tế, cần chú ý phân biệt giữa quan hệ liên kết kinh tế với các quan hệ kinh tế nói chung. Mọi quan hệ liên kết kinh tế nói chung dều là những q4uan hệ kinh tế, nhưng ngược lại thì không nhất thiết. Quan hệ kinh tế bao gồm tất cả các hoạt động kinh tế như hoạt động mua bán, trao đổi, vay mượn, tổ chức sản xuất của các chủ thể kinh tế. Nhưng chỉ những quan hệ kinh tế nào phản ánh sự phối hợp mang tính cộng đồng trách nhiệm của các chủ thể kinh tế liên quan thì mới được coi là quan hệ liên kết kinh tế. Hoạt động liên kết kinh tế giữa các chủ thể kinh tế bao gồm những hoạt động kinh tế được pháp luật cho phép, khuyến khích và bảo trợ. Đó là những hoạt động liên kết kinh tế công khai, đúng luật. Đồng thời trong thực tiễn vẫn tồn tại quan hệ kinh tế không được pháp luật cho phép, đó là những hoạt động kinh tế ngầm. 2. Sự cần thiết khách quan phải liên kết kinh tế giữa các địa phương trong vùng. Ngày nay, hội nhập kinh tế, toàn cầu hóa kinh tế thế giới là một xu thế khách quan do tác động của sự phát triển lực lượng sản xuất. Những thập niên cuối thế kỷ XX, cuộc cách mạng khoa học công nghệ hiện đại đã đẩy nhanh tốc độ chu chuyển vốn, hàng hóa, dịch vụ, chuyển giao công nghệ trong phạm vi toàn cầu. Quá trình toàn cầu hóa diễn ra ở nhiều cấp độ, từ hợp tác song phương giữa hai nước, hình thành các tam giác, tứ giác,tiểu vùng, tổ chức khu vực, liên khu vực, liên châu lục và các tổ chức toàn cầu với phương thức đa dạng như khu vực mậu dịch tự do, liên minh thuế quan, thị trường chung, diễn đàn kinh tế, liên minh kinh tế... Toàn cầu hóa là một quá trình vừa hợp tác vừa đấu tranh, mỗi nước có thể tận dụng tối đa thế và lực của mình để đảm bảo lợi ích dân tộc mình trong quan hệ song phương và đa phương với các nước khác. Vì vậy, trong xu thế này, để khai thác lợi thế so sánh của quốc gia mình để tận dụng, học hỏi kinh nghiệm phát triển thành tựu khoa học công nghệ, tránh tụt hậu so với các nước khác không một quốc gia nào đóng cửa đứng ngài xu thế này mà đều tham gia vào hội nhập kinh tế, liên kết với các nước khác trong khu vực và trên thế giới. Nhận thức được điều này, từ cuối những năm 80 của thế kỷ XX, Đảng và nhà nước ta đã chủ trương mở cửa nền kinh tế, mở rộng quan hệ với các nước trên thế giới với tiêu chí “ hòa nhập chứ không hòa tan”. Tương tự như vậy, nếu xét trên phạm vi một nước, thậm chí trên phạm vi một vùng thì xu hướng mở rộng quan hệ hợp tác giữa các vùng với nhau và giữa các địa phương trong vùng với nhau cũng biểu hiện một cách rõ rệt.Vì vậy, liên kết hay hợp tác phối hợp phát triển giữa các địa phương là một xu hướng tất yếu. Đặt vấn đề theo một khía cạnh khác, lực lượng sản xuất càng phát triển thì phân công lao động theo vùng lãnh thổ càng diễn ra mạnh mẽ, do đó, xuất hiện ngày càng nhiều các ngành chuyên môn hóa. Mỗi một địa phương, một vùng không thể có đủ điều kiện tự nhiên, tài nguyên thiên nhiên và lao động để phát triển toàn diện các ngành sản xuất chuyên môn hóa theo kiểu khép kín, mà chỉ có thể có lợi thế hơn trong việc phát triển một ngành chuyên môn hóa nào đó.Hơn nữa, trong quá trình phát triển, các địa phương thường phải đối mặt với nhiều vấn đề vượt ra khỏi phạm vi giải quyết của một tỉnh như: ô nhiễm môi trường, đầu tư công cộng, đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng, đòi hỏi phải có sự liên kết giữa các địa phương cùng giải quyết. Trong lĩnh vực khoa học công nghệ cũng vậy. Ngày nay cuộc cách mạng khoa học công nghệ có tác động sâu sắc đến mọi lĩnh vực của đời sống và xã hội. Các tiến bộ khoa học, công nghệ được áp dụng trong mọi lĩnh vực từ văn hóa, kinh tế, xã hội, quốc phòng...Nghiên cứu vấn đề khoa học cũng như áp dụng thành tựu khoa học mà khép kín trong phạm vi một địa phương, một vùng thì mất nhiều ý nghĩa. Nước ta cũng như nhiều nước trên thế giới, không dễ gì ở một địa phương nào đó lại hội tụ đầy đủ các trường đào tạo cán bộ, công nhân kỹ thuật và các viện nghiên cứu khoa học. Do đó, có nơi thì phát triển trình độ khoa học- công nghệ, có nợi thì chưa hay kém phát triển. Để có thể nâng cao trình độ khoa học – công nghệ và ứng dụng một cách có hiệu quả các tiến bộ của lĩnh vực này đòi hỏi phải có sự phối hợp, hợp tác giữa các địa phương trong việc đào tạo nguồn nhân lực có trình độ chuyên môn, tay nghề cao để quản lý và điều hành, vận dụng tốt. Trong lĩnh vực này, việc hợp tác được tiến hành thông qua việc trao đổi mua bán những kết quả nghiên cứu, thành tựu khoa học và công nghệ, hướng dẫn vận hành, sử dụng hay cử những đòan đi thăm quan, học hỏi kinh nghiệm. Qua đó, những địa phương có trình độ khoa học công nghệ kém phát triển có thể tham khảo, học hỏi để nâng cao trình độ từ các địa phương khác có trình độ phát triển cao hơn để tránh tụt hậu xa hơn. Hơn nữa, trong địa bàn một tỉnh hay thành phố không thể có đủ trang bị cơ sở hạ tầng để có thể phục vụ cho quá trình phát triển một cách toàn diện. Vì vậy, giữa các tỉnh phải có sự ràng buộc nhau trong việc sử dụng chung các cơ sở hạ tầng lớn có quy mô toàn vùng như các sân bay, cảng, một số bệnh viện và trường đại học lớn. Ví dụ như trên địa bàn mỗi tỉnh đều có bệnh viện nhưng một số những trường hợp cấp tỉnh không thể giải quyết được phải chuyển bệnh nhân lên tuyến trên, việc này cũng đòi hỏi phải có sự phối hợp giữa các địa phương. Trong cơ chế kế hoạch hóa tập trung, các mối quan hệ liên tỉnh về mặt kinh tế gần như không có. Khi Việt Nam chuyển sang cơ chế thị trường vấn đề cần đặt ra là Chính phủ phải thực hiện việc phân quyền để đảm bảo bộ máy Chính phủ có thể thực hiện các chức năng đáp ứng yêu cầu của một nền kinh tế thị trường, đặc biệt là ở các tỉnh. Khi quyền tự chủ về kinh tế của các tỉnh đối với phát triển kinh tế ngày càng tăng thì nhu cầu hợp tác, phối hợp giữa các tỉnh ngày càng trở nên bức thiết. Giải quyết tốt vấn đề liên kết giữa các tỉnh chính là cơ hội để tạo các địa bàn rộng hơn đáp ứng nhu cầu mở rộng không gian kinh tế của cơ chế thị trường. Thêm vào đó, tồn tại trong cơ chế thị trường, các địa phương, mọi thành phần kinh tế muốn phát triển đều phải chịu một áp lực cạnh tranh rất lớn. Trong điều kiện như vậy, sự liên kết, hợp tác sẽ làm tăng quy mô, tận dụng được lợi thế nhờ quy mô, nâng cao năng lực cạnh tranh chủ động hội nhập vào thị trường khu vực và thế giới. Vì vậy, liên kết kinh tế giữa các vùng nói chung và giữa các địa phương trong một vùng nói riêng là một xu hướng phát triển khách quan theo yêu cầu của sự phát triển lực lượng sản xuất, yêu cầu của một nền kinh tế thị trường hiện đại. Tham gia vào xu thế này, các địa phương không những khai thác được các lợi thế so sánh của mình mà còn tận dụng được những lợi thế so sánh của địa phương khác vào phục vụ cho phát triển kinh tế của địa phương mình, góp phần thúc đẩy sự phát triển của kinh tế vùng và cả nước. 3. Mục đích của việc liên kết kinh tế Liên kết kinh tế giữa các địa phương trong vùng là rất quan trọng và cần thiết nhằm: Đảm bảo sự lãnh đạo thống nhất của nhà nước đối với nền kinh tế theo đúng định hướng chiến lược chung của đất nước. Đảm bảo phát triển và thực hiện đúng các quy hoạch đã được phê duyệt Đảm bảo khai thác nguồn lực của từng địa phương, từng vùng không mâu thuẫn với lợi ích của cả nước. Đảm bảo sự phát triển hài hòa, công bằng giữa các địa phương. Vì trong vùng sự phát triển không đồng đều giữa các tỉnh, nguồn lực và yếu tố phát triển kinh tế -xã hội rất khác nhau nên yêu cầu của sự liên kết giữa các tỉnh là có sự giúp đỡ và tạo điều kiện để các tỉnh yếu phát triển. Đảm bảo sự phát triển kinh tế gắn với sự bền vững của môi trường sinh thái, giữ gìn bản sắc dân tộc và đặc trưng của vùng. 4. Vai trò của liên kết kinh tế giữa các địa phương Liên kết kinh tế giữa các tỉnh là một quá trình phá vỡ sự cô lập giữa các tỉnh với nhau. Sự liên kết này có thể diễn ra giữa các tỉnh trong nội bộ một vùng (nghĩa là chúng không vượt ra ngoài ranh giới của vùng) hay giữa các tỉnh ở trên các vùng khác nhau (nghĩa là về phạm vi hoạt động của nó vượt ra khỏi ranh giới vùng và rất có thể vượt ra khỏi phạm vi một quốc gia). Việc liên kết có thể mang lại nhiều lợi ích cho việc phát triển. .4.1.Nâng cao hiệu suất đầu tư công cộng Đầu tư công cộng vào các tỉnh có thể được sử dụng một cách tối ưu nếu các tỉnh trong vùng biết sẻ chia cho nhau. Liên kết liên tỉnh giúp tránh được việc đầu tư với chi phí gấp đôi cho các dự án và tạo điều kiện để khai thác lợi thế nhờ quy mô. Nếu biết liên kết liên tỉnh, kế hoạch có thể được xây dựng dựa trên cơ sở nguồn lực và các thị trường liên tỉnh rộng lớn, nâng cao khả năng và hiệu quả đầu tư cơ sở hạ tầng. Ví dụ như các cơ sở hạ tầng quy mô lớn như: cảng biển và các sân bay cùng các tuyến đường giao thông liên kết chúng với các tỉnh trong vùng có thể được xây dựng tại một vị trí chiến lược nhất trong vùng, sử dụng triệt để công suất và thu được lợi ích tối đa, hơn là việc xây dựng nhiều cơ sở hạ tầng manh mún, rải rác ở mỗi tỉnh. Tương tự như vậy, sẽ hợp lý hơn về mặt kinh tế nếu đầu tư vào việc xây dựng các bệnh viện và các trường đại học quy mô lớn, tiêu chuẩn cao của vùng để phục vụ cho nhiều tỉnh một lúc. Liên kết giữa các tỉnh là cơ sở để giải quyết các vấn đề về phát triển vượt qua phạm vi mỗi tỉnh, nhất là đối với các dự án xây dựng cơ sở hạ tầng phục vụ cho lợi ích của nhiều ngành, nhiều tỉnh, tìm ra phương án hợp lý nhất có lợi cho các ngành, các địa phương trong vùng. Đánh giá đầu tư công cộng sẽ có ý nghĩa nhiều hơn nếu được phân cấp, bởi vì nhu cầu đầu tư công cộng sẽ được hiểu rõ hơn ở cấp tỉnh do các cán bộ tỉnh chứ không phải trung ương, hàng ngày phải trực tiếp đối diện với các vấn đề của tỉnh. Nếu như đại diện các tỉnh trong vùng cùng nhau phối hợp thực hiện, thì công tác đánh giá và xác lập thứ tự ưu tiên của các dự án đầu tư sẽ được cải thiện hơn. Sau đó, các tỉnh có thể chuyển kết quả đánh giá và xác lập thứ tự ưu tiên lên trung ương để phê duyệt và chi ngân sách. 4.2.Tăng cường khả năng thu hút đầu tư nước ngoài và phát triển du lịch của các tỉnh. Các nhà đầu tư nước ngoài thích đầu tư vào những nơi có nhiều nguyên liệu thô, lao động, các nguồn tài nguyên khác. Việc liên kết giữa các tỉnh trong việc cung cấp những yếu tố đầu vào, về mặt chính sách, tạo môi trường đầu tư hấp dẫn hơn, tăng khả năng thu hút các nhà đầu tư nước ngoài vào các tỉnh trong vùng. Tương tự như vậy, các du khách trong và ngoài nước đều thích trong cùng một chuyến đi có thể đến thăm quan ở những nơi có nhiều điểm thu hút du lịch. Vì vậy, các tỉnh có thể thu hút nhiều khách du lịch hơn nếu cùng liên kết các phương tiện phục vụ du lịch ở tất cả các tỉnh, hợp tác hình thành các tuyến du lịch liên tỉnh. Bằng cách này, các tỉnh có thể cùng góp chung các nguồn tài nguyên có hạn của mình để đẩy mạnh hoạt động du lịch của cả vùng. 4.3.Nâng cao tính hiệu quả trong việc thực hiện các tiêu chuẩn về môi trường Ngày nay, các vấn đề về môi trường đã và đang là mối quan tâm của mọi quốc gia trên thế giới. Để giải quyết các vấn đề của môi trường thế giới là trách nhiệm không của riêng một hay một vài quốc gia mà đòi hỏi phải có sự tham gia của mọi quốc gia trên thế giới. Cũng với cách đặt vấn đề như vậy với phạm vi một quốc gia hay vùng lãnh thổ, để giải quyết vấn đề môi trường đòi hỏi phải có sự hợp tác phối hợp giữa các địa phương. Hơn nữa, ảnh hưởng của việc vi phạm các quy định về môi trường thường không giới hạn trong phạm vi các tỉnh vi phạm. Đôi lúc ảnh hưởng đó lại gây tác động xấu hơn đến các địa phương khác xung quanh. Có thể lấy ví dụ về một con sông chảy qua địa bàn của nhiều tỉnh và phần thượng lưu bị ô nhiễm vì các chất thải công nghiệp nhưng chính các tỉnh ở hạ lưu của con sông sẽ bị ảnh hưởng tác hại nhiểu nhất. Do đó, các tỉnh cần phải có sự liên kết cùng nhau thực hiện công tác giám sát việc tuân thủ các tiêu chuẩn về môi trường. 4.4.Phát triển năng lực điều hành của cán bộ địa phương Nếu các tỉnh trong vùng hay lân cận liên kết chặt chẽ với nhau thì có thể tăng cường khả năng tự chủ của các đơn vị chính quyền địa phương và đẩy mạnh quá trình phân cấp. Liên kết làm cho mỗi tỉnh nhận ra rằng: Tỉnh có thể nâng cao trình độ phát triển nếu các tỉnh lân cận cũng đạt được trình độ phát triển cao hơn. Điều này sẽ tạo điều kiện cho các doanh nghiệp thuộc tỉnh mình mở rộng thị trường, đẩy mạnh sản xuất tạo thêm công ăn việc làm cho các lao động trong tỉnh. Các cán bộ địa phương cũng nhận thấy rằng: nâng cao trình độ của các tỉnh lân cận không làm giảm đi cơ hội đạt được trình độ phát triển cao của tỉnh mình, mà ngược lại còn giúp đẩy mạnh tốc độ phát triển. Do đó, các tỉnh có trình độ, năng lực cao trong công tác lập kế hoạch, điều hành chính quyền địa phương, quản lý ngân sách, phát triển và quản lý ngân sách sẽ chia sẻ kinh nghiệm và chuyên môn với các tỉnh yếu kém, giúp các tỉnh đó đạt đến trình độ phát triển cao hơn II.TỔ CHỨC CÁC HOẠT ĐỘNG LIÊN KẾT KINH TẾ GIỮA CÁC ĐỊA PHƯƠNG 1. Mối quan hệ nội bộ giữa các địa phương trong vùng Mối quan hệ trong nội bộ vùng được thể hiện qua mối liên kết và bổ sung cho nhau. Trong vùng, mỗi tỉnh luôn có những lợi thế và trình độ phát triển kinh tế khác nhau. Khi các tỉnh phối hợp và liên kết với nhau sẽ bổ sung cho nhau về mọi mặt thúc đẩy nhau cùng phát triển.Những tỉnh có thế mạnh về kinh tế và là nơi tập trung khu vực thành thị phát triển cao với các trung tâm thương mại, các ngành công nghiệp mạnh, kỹ thuật cao, cơ sở hạ tầng tương đối phát triển, đội ngũ lao động được đào tạo tốt sẽ là cực tăng trưởng để thúc đẩy các tỉnh khác cùng phát triển. Tuy nhiên chúng ta cần phải chú ý tới các mối liên kết với các vùng kém phát triển, nơi có thu nhập thấp, thiếu vốn,dư thừa lao động, đất đai và khả năng quản lý còn hạn chế để tạo ra những hiệu ứng phát triển lan truyền đối với những vùng này, giảm bớt sự bất bình đẳng trong phát triển kinh tế/ Liên kết và bổ sung kinh tế cho nhau nó phản ánh mối quan hệ giữa các ngành với nhau(giữa các ngành sản xuất vật chất với nhau, giữa các ngành phi sản xuất vật chất với nhau, và giữa hai ngành này với nhau), mối liên hệ giữa ngành với lãnh thổ, giữa các bộ phận lãnh thổ với nhau. Ngoài ra trong vùng trọng điểm cũng cần chú trọng đến các mối quan hệ giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất, giữa sản xuất với bảo vệ môi trường, giữa sản xuất và tiêu thụ sản phẩm. Đảm bảo cho việc phát triển bền vững nền kinh tế trong vùng. Trong vùng cần phải chú trọng mối liên kết về mặt địa lý và phát triển cơ sở hạ tầng. Vì đây là yếu tố quan trọng trong việc thiết lập một môi trường kinh tế thuận lợi cho việc phát triển các mối quan hệ khác trong vùng. Do vậy, cần thực hiện các công việc như phát triển hệ thống đường giao thông nối liền các trung tâm lớn, xây dựng quy hoạch cụ thể cho các hải cảng, sân bay, tổ chức tốt mạng lưới bưu chính viễn thông, quy hoạch đất đai cho công nghiệp xây dựng giải quyết tốt vấn đề nhà ở, cấp nước cho người lao động/ Đồng thời trong vùng cần phải có sự phối hợp đồng bộ để thực hiện các chính sách, các chủ trương phát triển vùng nhằm đạt được các mục tiêu đề ra. Thực tế cho thấy sự phối hợp giữa các ngành với nhau, giữa các địa phương với nhau còn lỏng lẻo và kém hiệu quả. 2. Những yêu cầu cơ bản đối với các địa phương tham gia vào hoạt động liên kết kinh tế. Mỗi địa phương tham gia vào liên kết kinh tế xuất phát từ mục tiêu trực tiếp là đem lại lơi ích kinh tế -xã hội cho chính địa phương mình, trên cơ sở đó địa phương tự nguyện cách thỏa thuận phối hợp.Tham gia liên kết kinh tế chỉ là một trong số nhiều giải pháp để thực hiện mục tiêu tổng quát của mỗi tỉnh. Đó là tồn tại, phát triển tái sản xuất với tốc độ nhanh và đạt hiệu quả kinh tế cao trong cơ chế thị trường có sự quản lý của nhà nước phát triển theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Phát triển hoạt động liên kết kinh tế, các địa phương phải lấy hiệu quả kinh tế - xã hội làm tiêu chuẩn phấn đấu.Kết hợp liên kết kinh tế trong tỉnh với liên kết, liên doanh với các địa phương trong vùng khác bằng nhiều hình thức thích hợp để phát huy có hiệu quả mọi nguồn lực của đất nước.Tăng cường khả năng cạnh tranh và nhanh chóng hòa nhập của các doanh nghiệp trong tỉnh vào đời sống kinh tế vùng và toàn quốc.Chống khuynh hướng không lành mạnh, quá nhấn mạnh liên kết kinh tế với nước ngoài mà không chú ý thích đáng đến phát triển liên kết kinh tế trong vùng và ngược lai. Nâng cao tinh thần trách nhiệm của các chủ thể tham gia liên kết kinh tế. Bằng những cơ chế ràng buộc về vật chất, tài chính, luật pháp để đảm bảo cho các bên tham gia có trách nhiệm cao trong các quan hệ thỏa thuận phối hợp thực hiện. 3. Nội dung liên kết Nội dung liên kết giữa các địa phương trong vùng được thể hiện qua sự hợp tác, phối hợp phát triển giữa các đơn vị kinh tế thuộc các ngành đóng trên địa bàn vùng, giữa các địa phương hành chính trong vùng. Cụ thể như sau: Thứ nhất: liên kết kinh tế giữa các đơn vị kinh tế thuộc các ngành kinh tế khác nhau trên phạm vi vùng. Sự liên kết này được thể hiện trong việc hình thành các tổ chức sản xuất trong nội bộ ngành, các hình thức liên kết theo góc độ cung cấp và trao đổi các sản phẩm lẫn nhau giữa các ngành trong vùng theo những mối quan hệ ngược chiều, xuôi chiều, trực tiếp và gián tiếp. Sự liên kết này đảm bảo tính hợp lý trong việc phân công lao động theo ngành ở trên vùng và nhằm nâng cao hiệu quả của các hoạt động kinh tế, mở rộng tính chất hàng hóa trên vùng. Theo quyết định số 145/2004/QD-TTg, 146/2004/QD- TTg của Thủ tướng Chính phủ và thông tư số 05/2003/TT- BKH ngày 22/7/2003 của Bộ kế hoạch và đầu tư hướng dẫn nội dung, trình tự lập, thẩm định và quản lý các dự án quy hoạch, bao gồm: - Liên kết trong việc phát triển các lĩnh vực kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội và ngành sản phẩm chủ yếu. Đối với lĩnh vực kết cấu hạ tầng, bao gồm mạng lưới giao thông vận tải, bưu chính viễn thông, hệ thống cung cấp điện,cung cấp và sử dụng nguồn nước, xử lý chất thải, cơ sở dạy nghề, đào tạo cao đẳng, đại học, các cơ sở nghiên cứu khoa học, các bệnh viện và hệ thống đô thị, các Bộ ngành plhối hợp chặt chẽ với các địa phương trong vùng đồng thời rà soát, bổ sung quy hoạch kết cấu hạ tầng của ngành trên địa bàn vùng và quy hoạch phải thể hiện được bước đi và đề xuất các công trình cần cải tạo, nâng cấp hoặc đầu tư mới trên từng địa phương của vùng Đối với ngành sản phẩm chủ lực phải thể hiện phương hướng phát triển và chuyển dịch cơ cấu của từng ngành kinh tế - kỹ thuật, phương hướng phát triển của từng ngành sản phẩm, cụ thể: quy mô sản xuất, dịch vụ, thứ tự ưu tiên theo từng thời kỳ kế hoạch 5 năm, phù hợp với nhu cầu, khả năng phát triển và cơ chế, chính sách đối với chúng. Liên kết trong huy động vốn đầu tư phát triển: Các Bộ ngành và các địa phương cùng phối hợp trong xúc tiến đầu tư và huy động vốn đầu tư (nhất là vốn FDI, ODA) trên cơ sở quy hoạch và kế hoạch phát triển kinh tế -xã hội và kế hoạch huy động vốn đầu tư FDI,ODA và có sự phối hợp giữa các địa phương trong các vùng kinh tế.Phối hợp cùng huy động vốn đầu tư tư nhân và các doanh nghiệp vào đầu tư tại các địa phương trong các vung kinh tế trên cơ sở quy hoạch phát triển kinh tế -xã hội của địa phương và vào những lĩnh vực khuyến khích đầu tư với cơ chế chính sách ưu đãi đầu tư trong Luật đầu tư và luật doanh nghiệp. Liên kết trong đầu tư phát triển: Đối với những công trình dự án có liên quan đến nhiều địa phương thuộc các lĩnh vực chủ yếu như: Xử lý nước thải, chất thải rắn, nhất là chất thải rắn nguy hại; phát triển các hải cảng biển sân bay; Triển khai xây dựng đường giao thông kết nối, đường cao tốc, xây dựng và phát triển trung tâm đào tạo chất lượng cao, hệ thống mạng lưới trường dạy nghề; Phát triển hệ thống trung tâm y tế chất lượng cao phối hợp theo nguyên tắc cùng đầu tư trên cơ sở kế hoạch cụ thể của các Bộ ngành chủ quản, thông qua thỏa thuận, hợp tác và phối hợp giưã các Bộ ngành và địa phương Thứ hai: Liên kết giữa các địa phương hành chính với nhau trong vùng kinh tế: Sự liên kết này nhằm giải quyết hợp lý các vấn đề: phân chia và quy hoạch đất đai, các tiểu vùng chuyên môn hóa, các điểm dân cư, phân bố cụ thể các doanh nghiệp; tạo ra các môi trường đồng bộ và thống nhất về thu hút, sử dụng các yếu tố nguồn lực trong vùng. Sự liên kết này là cơ sở hình thành thế đứng vững chắc của vùng kinh tế, đồng thời tạo cơ hội phát triển các ngành kinh tế trong ngắn hạn và dài hạn ở phạm vi vùng. Thứ ba: Liên kết giữa ngành và các địa phương hành chính trên vùng và với toàn vùng lãnh thổ. Nội dung liên kết này nhằm phân định rõ chức năng quản lý ngành và chức năng quản lý của chính quyền địa phương và cơ quan quản lý vùng(nếu có), tránh sự mâu thuẫn, chồng chéo trùng lặp gây khó dễ cho quá trình phát triển. 4. Các hình thức liên kết Việc liên kết giữa các tỉnh nhằm đảm bảo sự thống nhất trong phát triển theo địa phương trên vùng có thể được tiến hành theo nhiều cách thức khác nhau, mỗi cách thức cho một kết quả không giống nhau. Trên thực tế cần sử dụng kết hợp nhiều hình thức. 4.1.Liên kết bằng cách trao đổi thông tin Việc liên kết giữa các địa phương trong vùng ở một mức độ nào đó có thể thực hiện bằng phương thức thường xuyên trao đổi cho nhau các kế hoạch, các chính sách ban hành ở cấp tỉnh, sự thay đổi, bổ sung trong quy hoạch phát triển của các tỉnh, các dữ liệu thống kê, các thông tin có liên quan đến công tác lập kế hoạch và hoạch định chính sách của các tỉnh khác. Phương thức này có thể mang lại một số lợi ích như: các tỉnh có thể cùng nhau xem xét các dự án đầu tư của các tỉnh khác khi lập kế hoạch đầu tư của riêng mình, có thể sử đổi các laọi thuế địa phương cho phù hợp với thuế suất của các tỉnh khác. Tuy vậy lợi ích do phương thức nàymang lại còn hạn chế. Cũng có trường hợp thông tin khi chuyển từ tỉnh này sang tỉnh kia không kịp thời hay bị hiểu nhầm dẫn đến các tỉnh khác hoạch định chính sách bị sai lệch. 4.2.Liên kết tập trung Theo hình thức này, mỗi tỉnh chuẩn bị kế hoạch phương án phát triển sản xuất một cách độc lập với nhau và trình lên chính phủ. Chính phủ thông qua các cơ quan chức năng như Bộ kế hoạch và đầu tư chịu trách nhiệm kiểm tra kế hoạch của mỗi tỉnh, xác định những điểm mâu thuẫn với nhauvà không thống nhất với định hướng phát triển quốc gia và phản hồi lại cho các tỉnh để thực hiện các bổ sung sửa đổi theo chỉ thị của cả nước. Ưu điểm của hình thức này là: Trung ương có toàn quyền kiểm sóat kế hoạch của các tỉnh, đảm bảo các tỉnh phải tuân thủ theo định hướng phát triển của đất nước. Tuy nhiên hình thức này có nhược điểm là công tác liên kết giữa các tỉnh là nhiệm vụ vô cùng nặng nề lại đặt lên vai trung ương vốn đã quá tải, dẫn đến tình trạng thiếu thống nhất giữa các kế hoạch phát triển của các tỉnh. Hơn nữa, trung ương thường cũng không hiểu rõ các vấn đề có liên quan đến sự phát triển của địa phương bằng bản thân các cán bộ địa phương. Do đó, quyết định ở cấp tư đưa ra cớ thể chưa pahỉ là quyết định tối ưu. 4.3.Liên kết thông qua hội đồng liên kết liên tỉnh Theo hình thức này, lãnh đạocác tỉnh cũng như các điều phối viên các cơ quan cấp quốc gia có liên quan đến các tỉnh trong vùng thành lập một hội đồng phối hợp. Hội đồng phối hợp này là nơi các tỉnh có liên quan tiến hành thảo luận thường xuyên các vấn đề phát triển, hợp tác và liên kết phát triển giữa các tỉnh trong vùng. Hôị đồng này thường xuyên họp và thành lập các ủy ban chức năng giải quyết chi tiết các vấn đề khác nhau mà các tỉnh thành viên gặp phải như ủy ban cơ sở hạ tầng, ủy ban các vấn đề xã hội, ủy ban quản lý phát triển.... Lợi ích của hội đồng phát triển vùng chính là thể chế hóa công tác liên kết. Các địa phương bắt đầu xuy nhgĩ cho vùng của họ hơn là chỉ suy nghĩ cho lọi ích riêng của địa phương mình. Hội đồng cũng có thể sẵn sàng hỗc trợ cho các tỉnh thành viên trong việc nâng cao năng lực điều hành trong các lĩnh vực khác nhau. Hội đồng cũng có thể nghiên cứu lại, liên kết, đánh giá và xác định các thứ tự ưu tiên và trình lên trung ương các đề án đầu tư công cộng của mỗi tỉnh thành viên. Điều này giúp đảm bảo tính thống nhất của các dự án và theo đúng định hướng phát triển. Sự tồn tại của hội đồng phát triển vùng cho phép trung ương chuyển giao các kế hoạch, chương trình, dự án quốc gia cho hội đồng vùng để chính quyền cấp tỉnh xem xét. Các tỉnh thành viên có thể cùng nhau thẩm định các dự án này trong khuôn khổ của hội đồng liên kết. Do đó chính phủ không cần phải trực tiếp làm việc với nhiều tỉnh. Như vậy, hội đồng vùng tồn tại như một tổ chức trung gian làm cầu nối liên lạc các tỉnh với trung ương. Quan điểm hình thành hội đồng phát triển vùng là mới ở nước ta, tuy vậy đây là một nhu cầu thiết thực xuất phát từ chính yêu cầu ngày càng cao của sự liên kết phát triển của các địa phương. III. KINH NGHIỆM TRONG VÀ NGOÀI NƯỚC VỀ LIÊN KẾT PHÁT TRIỂN KINH TẾ VÙNG. 1. Kinh nghiệm của Nhật Bản Khi nghiên cứu về quá trình phát triển của Nhật Bản, một cường quốc về kinh tế hiện nay, các nhà nghiên cứu kinh tế đều thấy rằng ngay từ giai đoạn đầu của quá trình phát triển nền kinh tế đất nước cho đến nay, nước Nhật luôn xác định vai trò quan trọng của nhà nước trong điều hành và quản lý vĩ mô nền kinh tế quốc dân. Thực hiện mục tiêu phát triển kinh tế một cách vững chắc, Nhật Bản đã chủ trương phát triển kinh tế vùng và tiến hành đầu tư phân bố các doanh nghiệp trên các vùng lãnh thổ của đất nước. Và để làm được điều đó chính phủ Nhật Bản đã tiến hành theo một cơ chế: Điều cần làm trước tiên là xây dựng mục tiêu dài hạn cho quốc gia, tiếp đó là xác định kế hoạch tổng thể mang tính dài hạn để thực hiện mục tiêu ấy. Tiếp theo là phải có một kế hoạch phát triển vùng mà việc bắt đầu phải làm là phân vùng lãnh thổ. Việc phân vùng lãnh thổ của Nhật luôn luôn xuất phát từ “ phương thức phát triển có trọng điểm” và từ đó hình thành nên các vùng với những đặc trưng, thế mạnh cũng như công nghiệp mới, khu vực ưu tiên khai thác, khu đặc biệt phát triển công nghiệp, khu vực cần phát triển. Trên cơ sở khoanh vùng kinh tế, chính phủ Nhật Bản đã đưa ra chính sách để hướng tới việc xác định đúng đắn địa điểm đặt các cơ sở sản xuất thuộc các ngành khác nhau.Việc lựa chọn thường được căn cứ vào các dấu hiệu như: Tài nguyên thiên nhiên, giao thông vận tải, điều kiện đất đai, nước, vấn đề môi trường... Và cuối cùng, chính phủ đưa ra chính sách hỗ trợ phát triển về tài chính, thuế để giúp các nhà đầu tư phát triển sản xuất trên các vùng đã quy hoạch lựa chọn. Để thực hiện tốt nhiệm vụ này cần có sự phối hợp giữa các ngành, các cấp chính quyền địa phương, do đó, chính phủ Nhật Bản đã có cơ chế phân cấp và phối hợp các cơ quan chức năng ở các cấp, đặc biệt là các cơ quan quản lý nhà nước ở cấp dưới và chính quyền địa phương. Cụ thể tham gia vào quá trình phối hợp này có các cơ quan nhà nước cấp dưới, trung tâm quy hoạch Nhật Bản, trung tâm xúc tiến đưa công nghiệp vào nông thôn, trung tâm thông tin doanh nghiệp, chi nhánh của các Bộ, ngành tại địa phương, các tổ chức chính quyền địa phương như: tỉnh, thành phố, thị xã, huyện...và các cơ quan khác ở địa phương như: trung tâm phát triển khu vực, phòng thương mại và công nghiệp, giao dịch kỹ thuật... Như vậy, ngay từ những ngày đầu phát triển, chính phủ Nhật Bản đã nhận thức được vai trò quan trọng của việc liên kết phát triển giữa các địa phương trong một vùng và đã hình thành quan điểm phát triển vùng có trọng điểm một cách đúng đắn, đưa nền kinh tế nói riêng và kinh tế cả nước nói chung phát triển phồn thịnh. 2. Kinh nghiệm của Philipines Philipin thực hiện liên kết kinh tế thông qua mô hình hội đồng phát triển vùng. Có thể nói đây là mô hình khá phù hợp và có hiệu quả trong việc liên kết phát triển trên vùng lãnh thổ. Hội đồng vùng ở Philipin được hình thành từ năm 1972 đóng vai trò quan trọng trong việc tăng cường công tác kế hoạch hóa phát triển vùng và đề bạt các mối quan tâm của vùng lên Chính phủ. Hội đồng phát triển vùng được thành lập nhằm phối hợp các cán bộ chính quyền địa phương với cán bộ cấp trung ương(các giám đốc phụ trách vùng của các Bộ và các cơ quan trung ương) nhằm tăng cường sự phối hợp của các địa phương trong tham gia quản lý phát triển ngành. Hội đồng phát triển vùng có trách nhiệm chuyển các mục tiêu phát triển quốc gia thành các mục tiêu phát triển vùng, xây dựng, thông qua và thực hiện chiến lược phát triển vùng của mình. Hội đồng vùng cũng có nhiệm vụ phối hợp tất cả các hoạt động kế hoạch và chương trình của tất cả các cơ quan trung ương, ngành, bộ, các địa phương và ban cấp vùng. Về mô hình tổ chức, hội đồng phát triển vùng ở Philipin bao gồm các ủy ban thường trực: Ủy ban tư vấn, ủy ban ngành, ủy ban liên kết. Ủy ban ngành bao gồm: ban phát triển kinh tế, ban phát triển xã hội, ban cơ sở hạ tầng và công trình công cộng, ban quản lý phát triển. Các ban phụ trách các ngành này sẽ tổng hợp kế hoạch của các cơ quan ngành và địa phương trên vùng. Ngay sau khi các kế hoạch của các ngành của vùng được tổng hợp và thông qua hội đồng phát triển vùng, các cơ quan chính quyền địa phương, các cơ quan vùng của các bộ phối hợp với hội đồng vùng và cơ quan phụ trách vùng của cơl quan phát triển kinh tế quốc gia, soạn thảo các chương trình đầu tư phát triển vùng, danh mục các dự án phát triển vùng nhằm đạt được mục tiêu và chỉ tiêu phát triển quốc gia và vùng. Như vậy, có thể nói mô hình phát triển vùng của Philipin là một mô hình phù hợp và hiệu quả trong việc thực hiện chức năng phối hợp sự hoạt động của các ngành, các địa phương trong vùng kinh tế, thúc đẩy sự hợp tác phát triển kinh tế giữa các địa phương. 3. Kinh nghiệm của Mỹ Sau cuộc khủng hỏang kinh tế 1929 – 1933, một trong những cuộc khủng hỏang lớn nhất trong lịch sử phát triển nước Mỹ, một thất bại nghiêm trọng của nền kinh tế Mỹ, chính phủ Mỹ đặt ra vấn đề cấp thiết là phảitằng cường sự can thiệt vào kinh tế. Trong đó chính phủ Mỹ đặc biệt quan tâm hơn cả đến vấn đề quản lý ở cấp cơ sở và cấp bang. Công cụ mà chính phủ Mỹ đã lựa chọn để thực hiện mục đích này là thành lập một hội đồng kế hoạch cấp Bang. Năm 1936, ở mỗi bang của Mỹ đều thành lập hội đồng kế hoạch nhà nước để điều tiết sự phát triển vĩ mô kinh tế - xã hội ủa mỗi bang. Hội đồng này có chức năng xây dựng các kế hoạch, xác định các trọng tâm phát triển và từ đó đề xuất, xây dựng chính sách vĩ mô cụ thể để hướng việc khai thác huy động nguồn lực vào trọng tâm phát triển. Hội đồng này nhằm phối hợp và giám sát sự hoạt động của các vùng, các cơ sở kinh tế thuộc các ngành trong phạm vi quản lý của bang.Không sừng lại ở đó, tiếp theo, để đáp ứng yêu cầu của sản xuất mang tính liên ngành, liên vùng đòi hỏi phải có sự liên kết ở cấp địa phương với các ngành, các vùng, chính phủ Mỹ đã chủ trương hình thành hội đồng. Cho đến nay khắp lãnh thổ Mỹ có hơn 450 hội đồng vùng. Những hội đồng vùng này đảm đương trách nhiệm liên kết các thnàh viên tham gia ở các cấp chính quyền khác nhau nhằm thúc đẩy quan hệ hợp tác phát triển, xây dựng kế hoạch chung cho cả vùng và chuyển giao dịch vụ phát triển ngành trong các vùng. Các hội đồng vùng này thường xuyên tổ chức các diễn đàn về các vấn đề của vùng, thực hiện kế hoạch hóa vùng, cung cấp thông tin và các dịch vụ hỗ trợ kỹ thuật cho các địa phương, quản lý các chương trình liên bang, bang, và địa phương có liên quan đến vùng thực hiện các hoạt động đào tạo nghiệp vụ.... Với một lãnh thổ rộng lớn như nước Mỹ thì sẽ có rất nhiều các hội đồng vùng trong cả nước và vấn đề đặt ra là phải có một cơ quan thực hiện phối hợp hoạt động của các hội đồng để đảm bảo cho việc phát triển một cách thống nhất và đúng hướng. Và để làm được điều này ở Mỹ đã thành lập hiệp hội các hội đồng vùng bao gồm có đại diện của hội đồng vùng, ngoài ra còn bao gồm đại diện của dân chúng khu vực tư nhân, giới trí thức và các cơ quan quần chúng của vùng. Một trong những chức năng của hiệp hội này là thúc đẩy các quan hệ hợp tác giữa các ngành, các khu vực kinh tế và các địa phương trong vùng qua đó đề xuất các chính sách sử dụng có hiệu quả hơn vốn đầu tư cho phát triển các ngành, cơ sở hạ tầng, môi trường tự nhiên, xã hội. 4. Kinh nghiệm trong nước Nền kinh tế thị trường đã làm cho không gian kinh tế trở nên không có giới hạn, vấn đề liên kết các bộ phận cấu thành trong không gian kinh tế và giải quyết các mối quan hệ hợp tác,liên kết giữa chúng với nhau trở nên thường xuyên hơn, đòi hỏi phải có cơ chế rõ ràng. Nhận thức được xu thế này, trong những năm gần đây Chính phủ đã thông qua các cơ quan chức năng đã triển khai các dự án, các đề tài nghiên cứu phối hợp liên tỉnh, liên ngành trên các vùng kinh tế. Năm 2000, chính phủ đã xây dựng dự thảo một quy chế về “ Phối hợp liên tỉnh ở các vùng kinh tế và vùng kinh tế trọng điểm. Bản quy chế này nhằm thể chế hóa sự phối hợp giữa các địa phương trong vùng kinh tế và vùng kinh tế trọng điểm trong việc hoạch định kế hoạch địa phương. Trên cơ sở đó, Bộ kế hoạch và đầu tư đã tiến hành nghiên cứu dự án “ xác định cơ chế phối hợp giữa các địa phương trong vùng kinh tế, đặc biệt là vùng kinh tế trọng điểm”. Hiện nay, vấn đề liên kết kinh tế được đặc biệt quan tâm ngay cả những vùng kinh tế không phải vùng kinh tế trọng điểm.Tại vùng châu thổ sông Mêkông có nhiều ý kiến cho rằng nên xem tam giác kinh tế trọng điểm Cà Mau- Cần Thơ- Kiên Giang là đòn bẩy cho sự phát triển vùng.Vùng này rất gần với vùng kinh tế trọng điểm phía Nam, cho phép mở rộng thị trường, thu hút đầu tư, nguồn nhân lực và tiếp cận công nghệ mới. Để phát triển kinh tế của khu vực tam giác này và để xây dựng tam giác thành đòn bẩy phát triển kinh tế vùng châu thổ sông Mêkông, các tỉnh trong vùng đã nhận thức cần có sự liên kết với nhau và với các tỉnh khác trong cùng khu vực. Trong những năm gần đây, ba tỉnh Cà Mau, Cần Thơ, Kiên Giang đã có sự liên kết với nhau trong lập kế hoạch để thu hút thêm đầu tư nước ngoài bằng cách phối hợp phát triển cơ sở hạ tầng vùng và đào tạo lực lượng lao động. Đối với vấn đề về môi trường cũng đòi hỏi các tỉnh phải phối hợp vơí nhau trong việc giải quyết tình trạng ô nhiễm nước của sông Mêkông đặc biệt là đối với các tỉnh ở hạ lưu con sông. Tại vùng kinh tế trọng điểm miền Trung, chính phủ đã yêu cầu ngân hàng ADB thông qua dự án ADB 3289 VIE cung cấp một dự án thí điểm xây dựng cơ chế phối hợp liên tỉnh phù hợp cho bốn tỉnh miền Trung: Quảng Trị, Thừa Thiên Huế, Đà Nẵng, Quảng Nam.Theo dự án này, các cán bộ chủ chốt của bốn tỉnh và một số cán bộ các bộ ngành đã được tham quan Philipin, khảo sát tìm hiểu nội dung và cơ chế làm việc của hội đồng phát triển vùng cũng như các dự án được thực hiện với sự hỗ trợ của hội đồng vùng. Từ thực tế và kinh nghiệm quốc tế, trên cơ sở điều tra phân tích các điều kiện hiện tại của Việt Nam, dự án tiến hành tổ chức các dự thảo với các tỉnh,các Bộ, hội thảo quốc gia từ đó tổng hợp thành báo cáo về cơ chế phối hợp cho bốn tỉnh miền Trung. Trên cơ sở đó, các tỉnh trong vùng kinh tế trọng điểm miền Trung bước đầu đã có sự phối hợp trong các dự án phát triển cơ sở hạ tầng như các tuyến đường vận tải quốc tế bao gồm các đường cao tốc ASEAN số 7 từ cảng Cửa Lò và số 8 từ Đà Nẵng. Ngành khai thác thủy sản miền Trung có khả năng sẽ đạt được mục tiêu 43% sản lượng đánh bắt quốc gia so với hiện tại là 34% khi các tỉnh có sự phối hợp xây dựng các chương trình nâng cấp các cơ sở chế biến và kỹ năng lao động nhằm đáp ứng tiêu chuẩn sản xuất quốc tế phát triển bền vững các nguồn lực thủy sản và đẩy mạnh quy mô nuôi trồng thủy sản. Như vậy, trong những năm gần đây ở Việt Nam, chính phủ đã nhận thức rõ tác dụng cấp thiết của việc phát triển các vùng kinh tế trọng điểm và công tác liên kết phát triển giữa các địa phương trong vùng này và đã có chủ trương xây dựng một quy chế chính thức cho vấn đề phối hợp liên tỉnh. Thực hiện chủ trương này, các vùng kinh tế trọng điểm bước đầu đã có những bước đi đúng hướng và đạt được những kết quả nhất định. Chương II: VÙNG TRUNG DU MIỀN NÚI PHÍA BẮC - THỰC TRẠNG LIÊN KẾT GIỮA BA TỈNH: PHÚ THỌ, YÊN BÁI, LÀO CAI I. ĐẶC ĐIỂM NỔI TRỘI VÀ TIỀM NĂNG PHÁT TRIỂN CỦA VÙNG VÀ CÁC ĐỊA PHƯƠNG THAM GIA LIÊN KẾT. 1. Vùng trung du miền núi Vị trí địa lý và điều kiện tự nhiên: Trung du miền núi phía Bắc được chia làm hai phần: vùng Đông Bắc và vùng Tây Bắc. Phú Thọ, Yên Bái, Lào Cai là ba tỉnh thuộc vùng Đông Bắc. Đông Bắc là vùng có vị trí quan trọng. Một mặt vùng này nằm liền kề với vùng đồng bằng sông Hồng, một phần lãnh thổ nằm trong vùng kinh tế trọng điểm Bắc Bộ, có những trục giao thông nan quạt quy tụ về thủ đô Hà Nội tạo ra thuận lợi lớn cho vùng trong việc giao lưu kinh tế, văn hóa, xã hội, khoa học- kỹ thuật giữa Đông Bắc với các vùng trong cả nước, nhất là với đồng bằng sông Hồng, vùng kinh tế trọng điểm Bắc Bộ. Phía Đông của Đông Bắc giáp với 250 km bờ biển, phía Bắc của vùng tiếp giáp với Trung Quốc với hơn 1180 km biên giới, có nhiều cửa khẩu quốc tế như: Hữu Nghị, Móng Cái, Lào Cai... có thể dần dần mở rộng quan hệ kinh tế - thương mại với thị trường rộng lớn, nếu ta có sức cạnh tranh. Đông Bắc là một vùng giàu tài nguyên khoáng sản ở nước ta. Trong đó có những loại có trữ lượng lớn như than chiếm 90%, apatit 100%, đồng 70% cả nước, ngoài ra còn có nhiều đá vôi để sản xuất xi măng, sắt,chì, kẽm, thiếc... Đây là thế mạnh lớn, là cơ sở quan trọng để phát triển ngành công nghiệp khai thác và chế biến khoáng sản góp phần vào sự khởi đầu và triển khai công cuộc công nghiệp hóa, hiện đại hóa của vùng và cả nước. Đông Bắc có địa hình đa dạng cùng với khí hậu phân dị tạo ra thảm thực vật phong phú với những sản phẩm đặc thù có giá trị cao. Tuy nằm trong vùng khí hậu nhiệt đới, nhưng Đông Bắc lại chịu ảnh hưởng trực tiếp của gió mùa Đông Bắc. Khí hậu phân dị tạo ra nhiều tiểu vùng...cho phép phát triển nhiều loại cây đặc sản có giá trị kinh tế cao như: chè(chè Tuyên Quang, chè Thái Nguyên, chè Tuyết, chè vàng), hồi, quế, Sơn, mận hậu, mơ, hồng, nhiều dược liệu quý... Đông Bắc có tiềm năng du lịch rất phong phú, đa dạng, đặc biệt là tiềm năng du lịch biển (vịnh Hạ Long, bãi biển Trà Cổ...), du ngoạn các hồ nước lớn trên núi như Núi Cốc, Ba Bể, Cấm Sơn, Thác Bà...), du lịch leo núi và nghỉ dưỡng (Sa Pa, Tam Đảo, Cổng Trời...), tham quan di tích lịch sử (Văn hóa Đông Sơn, Đền Hùng...), du lịch lễ hội (hội Lim, hội Đền Hùng) Quỹ đất lớn, nguồn nước dồi dào thuận lợi cho phát triển các ngành kinh tế. Quỹ đất có khả năng sử dụng cho nông nghiệp, lâm nghiệp nhìn chung không thuộc loại xấu và có thể được khoảng 5 triệu ha (trong đó nông nghiệp khoảng một triệu ha, lâm nghiệp 4 triệu ha), hiện đã sử dụng 2,7 triệu ha, chiếm 54% so với tiềm năng hàng ngàn ha để phát triển các khu, cụm công nghiệp và hình thành các khu đô thị mới. Nguồn nước tương đối dồi dào, chất lượng tốt. Trên lãnh thổ Đông Bắc có những sông lớn chảy qua là hệ thống sông Hồng, sông Thái Bình, Kỳ Cùng, sông Cầu...ngoài ra còn nhiều sông nhỏ ven biển Quảng Ninh...tạo điều kiện thuận lợi khai thác nguồn nước và phát triển giao thông phục vụ sản xuất và đời sống; ở nhiều khu vực nguồn nước ngầm tương đối khá. Tuy nhiên, nguồn nước ở một số nơi thuộc vùng cao núi đá vôi và khu vực ven biển bị hạn chế. Cùng với sự đổi mới và phát triển của đất nước, vùng trung du miền núi phía Bắc nói chung và vùng Đông Bắc nói riêng không ngừng tăng trưởng về mọi mặt.Cơ cấu kinh tế vùng có sự thay đổi theo hướng công nghiệp hoá, tăng tỷ trọng công nghiệp đồng thời giảm tỷ trọng nông nghiệp một cách đáng kể. Nhịp độ tăng trưởng của nền kinh tế tương đối nhanh, vượt mức tăng của những năm qua, nhịp độ tăng trưởng kim ngạch xuất khẩu giai đoạn 1995-2000 khoảng 24-25% và giai đoạn 2001-2010 khoảng 20-22%/năm Nhịp độ tăng trưởng GDP vùng Đông Bắc bình quân năm Đơn vị: % Chỉ tiêu 1995 - 2010 1995 - 2000 2001 - 2010 Tổng GDP 11,2 9,9 12 Công nghiệp 14,9 14,6 15,1 Xây dựng 15,6 15,3 15,7 Nông, lâm nghiệp 4 4,2 4 Dịch vụ 12,6 11,7 13,1 Nguồn: Viện chiến lược phát triển 2. Những lợi thế so sánh, tiềm năng hợp tác của Phú Thọ, Yên Bái, Lào Cai. 2.1.Lợi thế so sánh và tiềm năng hợp tác của Phú Thọ Vị trí địa lý: Phú Thọ là một tỉnh miền núi phía Bắc, phía Bắc giáp Tuyên Quang, nam giáp Hòa Bình, đông giáp Vĩnh Phúc và Hà Tây, tây giáp Sơn La và Yên Bái. Ở vị trí tiếp giáp giữa Đông Bắc đồng bằng sông Hồng và Tây Bắc, là trung tâm tiểu vùng Tây – Đông Bắc. Diện tích chiếm 1.2% diện tích cả nước và chiếm 5.4% diện tích vùng trung du miền núi phía Bắc. Dân số chiếm 1,64 dân số cả nước, chiếm 14,3% dân số vùng miền núi phía Bắc. Đó là những yếu tố quan trọng để phát triển kinh tế - xã hội. Với vị trí “ngã ba sông” cửa ngõ phía Tây của Thủ đô Hà nội và địa bàn kinh tế trọng điểm phía Bắc, cầu nối các tỉnh đồng bằng sông Hồng với các tỉnh miền núi Tây Bắc và Đông Bắc. Phú Thọ chỉ cách Hà nội 80 km tính theo đường ô tô và cách các tỉnh xung quanh từ 100 đến 300 km. Các hệ thống đường bộ, đường sắt, đường sông từ các tỉnh phía Tây Đông Bắc đều quy tụ về Phú Thọ rồi mới đi qua Hà nội, Hải Phòng và các tỉnh thành phố khác trong cả nước. Thành phố Việt trì là thủ phủ của tỉnh đồng thời cũng là một trong năm trung tâm lớn của vùng miền núi phía Bắc, có các tuyến trục giao thông quan trọng chạy qua như quốc lộ số 2 chạy từ Hà nội qua Việt trì đi Tuyên Quang – Hà Giang sang Vân Nam Trung Quốc. Đây là tuyến nằm trong hành lang kinh tế Côn Minh- Lào Cai – Hà nội - Hải Phòng - Quảng Ninh. Dự báo đoạn Hà Nôi - Việt Trì sẽ có nhịp độ phát triển nền kinh tế cao và đô thị hóa nhanh nên Phú Thọ cần có sự chuẩn bị tốt các điều kiện về đất đai, lao động để tận dụng cơ hội này. Khi Sơn Tây – Hòa Lạc được xây dựng trở thành chuỗi đô thị có khoảng 30 – 50 vạn dân cũng sẽ mở ra cơ hội mới cho Phú Thọ phát triển nhất là các huyện hữu ngạn sông Hồng như Tam Nông, Thanh Thủy, Thanh Sơn, Yên Lập, Cẩm Khê, Hạ Hòa, có điều kiện phát triển mạnh hơn. Ngoài ra Phú Thọ còn có đường sắt, đường sông chạy qua cũng là điều kiện thuận lợi để phát triển kinh tế - xã hội nhanh hơn. Tiềm năng về địa hình: Điểm nổi bật là điạ hình chia cắt tương đối mạnh vì nằm phía cuối dãy Hoàng Liên Sơn, nơi chuyển tiếp giữa miền núi cao và miền núi thấp, gò đồi, độ cao giảm dần từ Tây Bắc xuống Đông Nam. Căn cứ vào địa hình chia Phú Thọ thành hai tiểu vùng sau: + Tiểu vùng miền núi: Gồm các huyện miền núi Thanh Sơn, Yên Lập, Hạ Hòa một phần cuả huyện Cẩm Khê. Đây là một vùng tương đối khó khăn về giao thông và dân trí còn thấp lại nhiều dân tộc nên việc khai thác tiềm năng nông lâm khóang sản... để phát triển kinh tế - xã hội còn hạn chế + Tiểu vùng trung du đồng bằng: gồm thành phố Việt Trì, thị xã Phú Thọ và các huyện Lâm Thao, Phù Ninh, Thanh Thủy, Tam Nông, Đoan Hùng và phần còn lại của huyện Cẩm Khê. Đây là tiểu vùng có kinh tế xã hội phát triển tiềm năng nông lâm khóang sản được khai thác tương đối triệt để, nơi sản xuất nhiều nông sản hàng hóa xuất khẩu như: chè, đậu tương, lạc... Nơi có nhiều khu, cụm điểm công nghiệp... Nhưng đã xuất hiện hiện tượng đất bị thoái hóa ở một vài nơi, còn dải đất ven sông lại màu mỡ thuận lợi cho phát triển chè, đậu tương, lạc vừng, cây ăn quả, sản xuất lương thực, chăn nuôi gia súc, gia cầm, nuôi trồng thủy sản... là tiểu vùng thuận lợi về điều kiện giao thông vận tải, có đất đai phù hợp cho phát triển khu công nghiệp và đô thị. Phú Thọ có địa hình đa dạng, vừa có miền núi, vừa có trung du và đồng bằng ven sông, đã tạo ra nguồn đất đai đa dạng phong phú để phát triển nông lâm nghiệp hàng hóa toàn diện với những cây trồng, vật nuôi có giá trị kinh tế cao phù hợp với thị trường trong nước và thế giới. Tuy nhiên do địa hình chia cắt mức độ cao thấp khác nhau nên việc đầu tư khai thác tiềm năng, phát triển sản xuất, phát triển hạ tầng để phát triển kinh tế - xã hội phải đầu tư tốn kén nhất là giao thông, thủy lợi, cấp điện, cấp nước. Tài nguyên khoáng sản: Theo kết quả điều tra, khóang sản có 215 mỏ và điểm quặng, trong đó có 20 mỏ lớn, 50 mỏ nhỏ và 143 điểm quặng. Các khóang sản có ý nghĩa nổi trội là: Cao lanh, penpat trữ lượng 30,6 triệu tấn, chất lượng tốt, Pyrit, Quarit, đá xây dựng có ở 55 khu vực, trữ lượng 935 triệu tấn ; cát, sỏi khoảng 100 triệu m3 và nước khoáng nóng. Tổng hợp các loại khoáng sản đặc trưng của Phú Thọ Đơn vị: Triệu tấn, lít STT Tên khoáng sản Đơn vị tính Tổng trữ lượng Trữ lượng công nghiệp Điều kiện khai thác Tổng số Đã khai thác Chưa khai thác 1 Cao lanh triệu tấn 25,6 20,6 1,0 19,6 Thuận lợi 2 Penpat triệu tấn 5,0 4,0 0,5 3,5 Thuận lợi 3 Pyrit triệu tấn 1,0 0,8 0,6 0,2 Thuận lợi 4 Quarrit triệu tấn 10,0 8,0 - 8,0 Thuận lợi 5 Tantalcum triệu tấn 0,1 0,07 - 0,07 Thuận lợi 6 Đá vôi triệu tấn 935,0 900,0 2,0 898,0 Thuận lợi 7 Nước khóang nóng triệu lít 48,0 45,0 2,5 42,5 Thuận lợi Quy hoạch phát triển kinh tế - xã hội tỉnh Phú Thọ năm 2005 Qua số liệu trên cho thấy Phú Thọ không giàu về khóang sản nhưng lại có cao lanh, Penpat, đá vôi nước khoáng nóng có ý nghĩa cả nước sẽ là lợi thế để Phú Thọ phát triển mạnh công nghiệp khai thác và công nghiệp chế biến khoáng sản, công nghiệp giấy, công nghiệp gốm sứ, công nghiệp xi măng và vật liệu xây dựng. Phú Thọ lại không xa các khu công nghiệp lớn như: Hà Nội, Hải Phòng, Hải Dương nên việc mở rộng liên doanh liên kết với các địa phương trên dể phát triển công nghiệp khai thác và chế biến khóang sản hiện nay đều phân bố ở khu vực phía Tây của tỉnh (hữu ngạn sông Hồng) đang có hạ tầng yếu kém, nhất là giao thông nên việc đẩy mạnh khai thác trước mắt sẽ là khó khăn. Tài nguyên du lịch: Với 150 di tích lịch sử văn hóa, nghệ thuật được xếp hạng, trong đó ố những di tích nổi bật như: đền Hùng, Đầm Ao Châu, khu ao Trời – suối Tiên, khu mỏ nước khóang nóng La Phù – Thanh Thủy... Các chiến khu Hiền Lương, Minh Hòa, chiến thắng Sông Lô, Tu Vũ di tích khảo cổ Sơn Vi, gò Mun, rừng quốc gia Xuân Sơn cùng các lễ hội Đền Hùng, Bạch Hạc, Chu Hóa, đánh cá, mở cửa rừng; các di tích nghệ thuật đình Huy Cương, đình Hùng Lô, đền Mẫu Âu Cơ, đền Hiền Quang, đình Bảo Đà, đình Lầu Thượng, đình Đào Xá... với 21 dân tộc anh em, mỗi dân tộc có sắc thái văn hóa riêng, nên rất độc đáo và phong phú là tiềm năng và động lực thúc đẩy ngành du lịch phát triển trong những năm tới. 2.2.Lợi thế so sánh, tiềm năng hợp tác của Yên Bái Vị trí địa lý: Yên Bái là một tỉnh miền núi nằm sâu trong nội địa thuộc miền núi phía Bắc. Phía Bắc giáp tỉnh Lào Cai, phía Nam giáp tỉnh Phú Thọ, phía đông giáp tỉnh Hà Giang – Tuyên Quang, phía tây giáp tỉnh Sơn La. Yên Bái có 7 huyện và 2 thị xã với 180 xã, phường, thị trấn trong đó có 70 xã vùng cao đặc biệt khó khăn. Thị xã Yên Bái là thị xã tỉnh lỵ trung tâm chính trị, kinh tế văn hóa tỉnh, năm trên giao điểm các tuyến giao thông chính giữa Đông Bắc và Tây Bắc, giữa Lào Cai và Hà Nội. Tuy nằm sâu trong nội địa, nhưng Yên Bái có vị trí cửa ngõ của miền Tây Bắc, hội đủ hệ thống giao thông bao gồm cả đường bộ, đường sắt, đường thủy và đường hàng không Tiềm năng về quỹ đất và khả năng phát triển cây trồng, vật nuôi chủ yếu có giá trị kinh tế cao: Đất nông nghiệp 66.692,4 ha chiếm 9,69% diện tích tự nhiên: đất có rừng là: 258.741,7 ha chiếm 37,59% ; đất chuyên dùng 28.491,6 ha chiếm 4,14% ; đất ở 3.696,8 ha chiếm 0,54%; đất chưa sử dụng 330.669,7 ha chiếm 48,04% diện tích tự nhiên. Tài nguyên khóang sản: Tài nguyên khóang sản của Yên Bái đa dạng nhưng dều thuộc loại mỏ nhỏ thuộc địa phương quản lý không có khả năng khai thác lớn và phù hợp với công nghiệp địa phương. Hiện đã điều tra 153 điểm mỏ khóang được xếp vào 5 nhóm sau: + Nhóm năng lượng: 18 điểm gồm các loại than nâu, than bùn, đá chứa dầu... + Nhóm khóang sản vật liệu xây dựng: 42 điểm gồm đá vôi, đá ốp lát, sét gạch ngói, cát sỏt, đặc biệt cacbonat can xi trắng có trữ lượng 14 triệu tấn, chất lượng cao được phân bố rộng rãi trên địa bàn tỉnh. + Nhóm khóang chất công nghiệp: 39 điểm gồm nguyên liệu phân bón, nguyên liệu kỹ thuật, nguyên liệu hóa chất, đặc biệt là đá quý và bán đá quý. + Nhóm khóang sản klim loại: 41 điểm từ kim loại đen (sắt) đến kim laọi màu (đồng,chì, kẽm) và kim laọi quý (vàng..) + Nhóm nước khóang: 13 điểm phân bố ở phía Tây của tỉnh hầu hết là các loại nước khóang chữa bệnh. Cơ sở hạ tầng dịch vụ: + Năng lượng: Trên địa bàn tỉnh có nhà máy thủy điện thác Bà công suất 120 MW, có một trạm biến áp 110/35 KV, dung lượng 40.000 KVA ; 10 trạm 35/10 KV ; 1 trạm 35/6 KV ; 124 trạm 35/0.4 KV.Đường dây tải điện: 90 km đường dây 110 KV, 502 km đường dây 35 KV ; 150 km đường dây 10 KV và 595 km đường dây 0,4 KV ; đã đưa điện lưới đến 9/9 huyện, thị với 110/180 xã, phường. Những xã chưa có điện lưới đã đầu tư xây dựng khoảng trên 10.000 máy thủy điện nhỏ từ 0.3KW – 0.6KW. + Thủy lợi: Toàn tỉnh có 887 công trình thủy lợi lớn, nhỏ bao gồm 13 trạm bơm điện, 154 bể chứa, 720 công trình đập dâng, kênh dẫn nước. Tổng năng lực thiết kế tưới cho 13.130 ha/19.230 ha ruộng nước. + Giao thông vận tải: Yên Bái có nhiều loại hình giao thông: Đường bộ có tổng chiều dài 3.981,46 km trong đó đường quốc lộ có 4 tuyến dài 369,5 km qua 46 xã và 6 huyện, thị; đường tỉnh dài 229,5 km qua 160 xã ; đường giao thông nông thôn dài 3.186,96 km chủ yếu là đường đất. Đường sắt Hải Phòng – Hà Nội – Yên Bái – Lào Cai qua Yên Bái 84 km gồm 10 ga chạy qua 20 xã, phường, thị trấn. Đường thủy gồm 2 tuyến giao thông chủ yếu: tuyến sông Hồng dài 115km và tuyến hồ thác Bà dài 80 km. + Đường hàng không: Sân bay Yên Bái là sân bay quân sự chưa sử dụng trong việc xây dựng và phát triển kinh tế. + Bưu chính viễn thông: Đến nay 100% mạng thông tin nội tỉnh đã được số hóa; 100% huyện, thị có tuyến Viba và tổng đài tự động. Hiện có 104/159 xã có máy điện thoại, bình quân 1,4 máy/100 dân. Tiềm năng du lịch: Yên Bái có phong cảnh thiên nhiên đa dạng và đẹp, nhiều hang động như Thẩm Lé, Thẩm Khuôi, động Thủy tiên, nhiều sông hồ lớn: hồ Thác Bà, khu du lịch sinh thái Suối Giàng... nhiều di tích lịch sử cách mạng, nhiều dân tộc thiểu số và mỗi dân tộc thiểu số mang đậm nét bản sắc dân tộc riêng. Song do điều kiện kinh tế chạm phát triển, cơ sở hạ tầng thấp kém nên chưa có điều kiện khai thác những tiềm năng này. Trong tương lai tỉnh sẽ đầu tư xây dựng một số điểm có khả năng thu hút khách du lịch để phát triển du lịch thành một ngành kinh tế mũi nhọn của tỉnh. Tiềm năng về nhân tố con người: Dân số toàn tỉnh 682.171 nước ; mật độ dân số 99 người/1km2 gồm 30 dân tộc là: Kinh, Tày, Thái, Dao, Mường... Ở Yên Bái hiện nay dân cư thành thị chiếm 20%, nông thôn 80%. Dân số tronmg độ tuổi lao động 327.268 người chiếm 48,một% dân số, trong đó khu vực thành thị chiếm 22%, nông thôn chiếm 78%. Trình độ lao động trên đại học, đại học, cao đẳng chiếm 14,7%, tổng số lao động kỹ thuật, trung cấp chiếm 24,8%, trình độ sơ cấp và công nhân kỹ thuật chiếm 60,5% tồn số lao động. 2.3.Lợi thế so sánh và tiềm năng hợp tác của tỉnh Lào Cai Vị trí địa lý: Lào Cai là tỉnh miền núi phía Bắc Việt Nam, có diện tích tự nhiên 8.057 km2 phía Bắc giáp tỉnh Vân Nam – Trung Quốc, phía Nam giáp tỉnh Yên Bái, phía Đông giáp tỉnh Hà Giang, phía Tây giáp tỉnh Sơn La và Lai Châu. Thị xã Lào Cai nằm ở khu vực sát biên giới Việt – Trung cách thủ đô Hà Nội trên 300 km và cách thành phố Côn Minh thủ phủ tỉnh Vân Nam – Trung Quốc khoảng 500 km. Lào Cai nổi lên như một vùng sáng nhờ sự hiện hữu của các cửa khẩu quốc tế và quốc gia trên biên giới thông qua các hoạt động thương mại, du lịch và dịch vụ. Tiềm năng công nghiệp: Là tỉnh có nhiều tiềm năng khóang sản với kết quả nghiên cứu bước đầu hiện có 32 loại khóang sản, 130 điểm mỏ. Một số mỏ có rữ lượng lớn dễ khai thác, dễ vận chuyển và đang có thị trường quốc tế như Apatit Lào Cai (có trữ lượng hàng tỷ tấn, là một trong bốn khu vực lớn nhất), đồng ở Sinh Quyền – Bát Sát; Sắt ở Quý Sa – Văn Bàn ; Fenspat – Kim Tân, Văn Bàn; Cao Lanh, đôlômit, graphit ở Nậm Thi, các mỏ kim loại hiếm như: vàng, đá quý, chì, kẽm... thuận lợi cho phát triển công nghiệp chế biến đa dang các lọai khóang sản ở địa phương. Là tỉnh có diện tích lớn, trữ lượng gỗ rừng, nông, lâm sản phong phú, có vùng cây ăn quả tập trung đa dạng. Chăn nuôi phát triển sẽ đáp ứng cho công nghiệp chế biến phục vụ cho yêu cầu tiêu dùng, xuất khẩu trong nước, quốc tế Tiềm năng nông nghiệp: + Cây công nghiệp: Cây công nghiệp chủ yếu của Lào Cai là cây chè được phát triển thành sản phẩm lớn của tỉnh Lào Cai. Hiện nay cây chè được trồng với diện tích 1.800 ha, dự kiến phát triển 10.000ha, trong đó khuyến khích phát triển kinh doanh chè đặc sản trồng trên núi cao. + Cây ăn quả: Cây ăn quả có ưu thế lớn về thị trường tiêu thụ đảm bảo là các loại cây có khả năng sinh trưởng trên vùng có dạng khí hậu ôn đới. Tổng diện tích cây ăn quả hiện có: 6.500 ha. Dự kiến phát triển thành 15.000ha. Trong đó cây ăn quả có nguồn gốc ôn đới 6.650 ha, cây ăn quả nhiệt đới là 8.850 ha. Ưu thế sản phẩm của Lào Cai hiện có: mận tam hoa, vải, lê, đào. + Rau, quả, cây cảnh: Sản phẩm rau, củ, quả và cây cảnh Lào Cai có đặc thù riêng trở thành thế mạnh của Lào Cai + Khoai tây giống được sản xuất theo quá trình phục tráng ở vùng cao – nhân giống củ nhỏ, sạch bệnh và cung ứng giống cho châu thổ sông Hồng gieo trồng khoai Tây vụ Đông. Số lượng 5000 đến 6000 tấn hàng năm. + Hoa cây cảnh Lào Cai có ưu thế về giống phong phú, đặc sắc như: hoa lan, đỗ quyên, bất tử, cẩm chướng. Với khí hậu mát mẻ quanh năm sẽ tạo khả năng sản xuất hoa với số lượng lớn, và chiếm lĩnh thị trường tiêu thụ ở các thành phố, thị xã và tham gia xuất khẩu. Dự kiến phát triển với số lượng sản phẩm: 4 triệu cành hoa lan ôn đới, một triệu giỏ hoa lan nhiệt đới, các loại hoa đơn 2 triệu bông và cây sinh thái. Tiềm năng du lịch: Tài nguyên và sản phẩm du lịch Lào Cai (cả tự nhiên và nhăn văn) rất phong phú, đa dạng với nhiều điểm du lịch tập trung ở thị xã Lào Cai, SaPa, Bắc Hà, Bát Xát... Sa Pa: Nằm ở phía Tây BẮc của tỉnh Lào Cai, thị trấn Sa Phản ánh có độ cao trung bình 1500 m so với mực nước biển, khí hậu mát mẻ quanh năm. Đến đây du khách có thể du ngọan và ngắm nhìn dãy Hòang Liên Sơn hùng vĩ, với đỉnh Phan Xi Păng cao nhất Đông Dương trong khu bảo tồn thiên nhiên quốc gia, tham quan thác Bạc, Cầu Mây, Bãi Đá cổ, leo núi Hàm Rồng để ngắm đủ loại phong lan. Sa Pa là nơi lý tưởng cho du lịch sinh thái, du lịch thể thao leo núi và du lịch tìm hiểu văn hóa các dân tộc trong làng bản. Sa Pa là nơi du lịch nghỉ mát cách đây hàng trăm năm. Bắc Hà: Bắc Hà là huyện vùng cao biên giới, nằm ở phía Đông Bắc cách thị xã Lào Cai hơn 60 km đường bộ. Cũng giống như ở Sa Pa, Bắc Hà quanh năm mát mẻ và là một vùng mận tam hoa khổng lồ, mỗi độ xuân về hoa nở trắng rừng, nhiều người đã ví Bắc Hà như một “ cao nguyên của sương và hoa mận”. Ở đây có nhiều thắng cảnh đẹp có thể kể đến như: dinh Hoàng A Tưởng được xây dựng cách đây gần một thế kỷ, tuyến du lịch sông Chảy, Hang Tiên, động Tà Lùng Phình... nhưng điểm nổi bật của Bắc Hà là phiên chợ văn hóa vùng cao diễn ra vào chủ nhật hàng tuần, rất đông vui nhộn nhịp và có sức hấp dẫn với khách du lịch từ phương xa tới, du khách được thưởng thức văn hóa ẩm thực rất đặc trưng của vùng cao là rượu Bắc Hà và thắng cố. Động Mường Vi: Động Mường Vi hay còn gọi là động Thủy Tiên là một quần thể hang động lớn (thuộc xã Mường Vi - huyện Bát Xát – cách thị xã Lào Cai hơn 30 km) bao gồm 4 động chính: Nà Rin, động thấp, động gió và động trên.Quần thể hang động Mường Vi không chỉ đẹp mà còn chứa đựng nhiều giá trị văn hóa dân gian, đã và đang thu hút khách tham quan du lịch tới chiêm ngưỡng và tìm hiểu. Qua khảo sát được biết động Mường Vi là một trong những động có quy mô lớn nhất miền Bắc, đã được Bộ Văn hóa – Thông tin công nhận là di tích thắng cảnh quốc gia. Đền Thượng: Đền Thượng đã được Bộ Văn hóa – Thông tin xếp hạng di tích lịch sử từ năm 1997, thuộc phường Lào Cai, thị xã Lào Cai. Đây là nơi thờ vị tướng quân Trần Hưng Đạo. Di tích Đền Thượng ngày nay đã và đang được bảo vệ, tôn tạo, nâng cấp phục vụ bà con ở các nơi trong cả nước và ngoài nước biết và tới thăm. Tiềm năng thương mại: Lào Cai có hệ thống giao thông liên tỉnh tương đối hòan chỉnh, bao gồm cả đường bộ và đươngdf sắt nối với Hà Nội, cảng Hải Phòng, các tỉnh láng giềng và cả với Trung Quốc. Cửa khẩu quốc tế Lào Cai là một lợi thế quan trọng giúp Lào Cai phát triển thương mại và kinh tế dịch vụ khác với vùng Tây nam – Trung Quốc. Đây là khu vực có trên 200 triệu dân, rất nhiều nhu cầu xuất, nhập khẩu hàng hóa được thực hiện qua cửa khẩu quốc tế. Do vậy, Lào Cai thực là đầu cầu trong “ mối quan hệ kinh tế - văn hóa đối ngoại với Trung Quốc ở cửa ngõ Tây Bắc của Tổ Quốc. Dù khiêm tốn nhưng hiện giá trị kim ngạch xuất, nhập khẩu đã đạt được gần 100 triệu USD/năm”. Đó là một trong những lợi thế giúp Lào Cai giao lưu kinh tế với các miền của đất nước cũng như phát triển kinh tế đối ngoại. II. PHÂN TÍCH THỰC TRẠNG LIÊN KẾT KINH TẾ GIỮA BA TỈNH PHÚ THỌ,YÊN BÁI, LÀO CAI 1. Những thuận lợi và khó khăn trong việc liên kết kinh tế giữa ba tỉnh Phú Thọ, Yên Bái, Lào Cai. 1.1.Những thuận lợi Phú Thọ, Yên Bái, Lào Cai là ba tỉnh thuộc vùng trung du miền núi phía Bắc có vị trí địa lý tiếp giáp nhau thuận lợi cho quá trình liên kết phát triển hệ thống giao thông vận tải đường bộ do đó thuận lợi cho việc phát triển ngành công nghiệp mỗi địa phương trong việc thực hiện chuyên hóa sản xuất. Với hệ thống sông lớn chảy qua là: sông Hồng, sông Đà và sông Lô đã tạo điều kiện thuận lợi cho Phú Thọ phát triển mạnh vận tải đường Thủy, thủy điện và nuôi trồng thủy sản nhưng với hơn 100km sông Hồng chảy qua địa phận Yên Bái với 48 ngòi suối phụ lưu đã tạo điều kiện cho việc liên kết phát triển giao thông đường thủy giữa các tỉnh với nhau. Do điều kiện tự nhiên, đặc điểm địa hình đã tạo điều kiện thuận lợi cho Lào Cai phát triển cây công nghiệp chủ yếu là chè và các loại nhiều cây khác và việc phát triển ngành công nghiệp hóa chất của Phú Thọ sẽ giúp Lào Cai và Yên Bái phát triển ngành công nghiệp đặc biệt là ngành trồng trọt. Phú Thọ, Yên Bái, Lào Cai là ba tỉnh có tiềm năng du lịch lớn đang được các cấp chính quyền địa phương tạo điều kiện thuận lợi để phát huy lợi thế đó và càng ngày càng thu hút được nhiều khách du lịch trong nước và ngoài nước đến như khu du lịch Sa Pa, lễ hội đền Hùng... Do ở gần địa bàn vùng kinh tế trọng điểm Bắc Bộ và có quỹ đất phát triển khu công nghiệp và đô thị lớn dồi dào. Do đó ba tỉnh có thể liên kết kinh tế với nhau đồng thời liên kết các địa phương khác trong vùng nhất là những tỉnh thuộc vùng kinh tế trọng điểm Bắc Bộ. Hiện nay, phát triển vùng đặc biệt phát triển liên kết kinh tế giữa các địa phương trong vùng đã trở thành chủ trương, đường lối phát triển kinh tế - xã hội của đất nước. Do đó thủ tướng Chính phủ đã giao cho ban chỉ đạo điều phối phát triển các vùng kinh tế trực tiếp điều hành các hoạt động về sự phối hợp trong vùng. Từ đó địa phương trong vùng sẽ có trách nhiệm nghiên cứu, đề xuất các cơ chế chính sách riêng phù hợp với các quy định hiện hành, bảo đảm sự thống nhất cho toàn vùng... Vì vậy, việc liên kết kinh tế giữa ba tỉnh sẽ gặp nhiều thuận lợi bởi đó là xu hướng phát triển chung của toàn quốc gia. 1.2.Những khó khăn. Chủ trương liên kết phát triển vùng chưa được quán triệt một cách thống nhất, đầy đủ, sâu sắc. Trước năm 2000, chủ trương liên kết phát triển vùng chưa nhận được sự quan tâm đúng mức của các địa phương, các cấp, các ngành, các đơn vị. Phần lớn quan hệ hợp tác giai đoạn này đều mang tính tự phát, chủ yếu do các doanh nghiệp thực hiện với nhau. Các địa phương vùng chưa chủ động liên kết tổ chức các cuộc hội nghị, gặp mặt để bàn và triển khai tổng thể các nội dung phát triển vùng. Chưa có đủ cơ chế, chính sách, bộ máy thích hợp đủ hiệu lực để khai thác tiềm năng thế mạnh của các địa phương và cả vùng. Đến nay Chính Phủ chưa ban hành các văn bản pháp quy và chính sách đặc thù cho phát triển kinh tế xã hội vùng trung du miền núi phía bắc. Các địa phương gặp rất nhiều khó khăn trong việc xác định phương hướng, hình thức hợp tác. Bên cạnh đó chưa thành lập tổ chức, bộ máy điều hành cán bộ chuyên trách hợp tác phát triển vùng ở cấp trung ương cũng như các địa phương. Sự chênh lệch về trình độ phát triển kinh tế xã hội của các địa phương trong vùng còn khá lâu. Trong vùng trung du miền núi phía Bắc, ngoài các thành phố, thị xã của các địa phương còn các địa phương khác vẫn ở trình độ phát triển lạc hậu, chủ yếu là sản xuất nông nghiệp.Tuy có những nơi công nghiệp phát triển sớm (như Quảng Ninh, Việt Trì,Thái Nguyên) nhưng nhìn chung ở phần lớn lãnh thổ của vùng công nghiệp chưa phát triển. Vì vậy những tiềm năng lợi thế so sánh của vùng chưa được khai thác phát huy, nhiều hạn chế, khó khăn trong việc phát triển kinh tế, quản lý dân cư, quản lý đô thị, giải quyết các vấn đề bức xúc… chậm được khắc phục. Mặt khác do địa hình vùng Đông Bắc núi cao, chia cắt phức tạp, đất đai bị chia cắt manh mún, không liền khoảnh, gây khó khăn cho việc hình thành vùng sản xuất hàng hóa tập trung quy mô lớn.Việc đi lại của dân cư và giao lưu kinh tế giữa vùng này với vùng khác, đặc biệt là giữa các địa phương trong vùng, nhất là ở vùng cao gặp nhiều khó khăn. Đây là vùng có những trung tâm mưa nhiều nhất nhì cả nước cộng với địa hình dốc nên gây ra tình trạng lũ quét, lở đất đá... Đó là một trong những khó khăn trong việc phát triển kinh tế của các địa phương trong vùng. So sánh một số chỉ tiêu của ba tỉnh Phú Thọ,Yên Bái, Lào Cai Chỉ tiêu Đơn vị Phú Thọ Yên Bái Lào Cai 1.Diện tích Km2 3.519,5 6.882,9 8.057,1 2.Dân số Người 1.314.498 723.480 567.403 3.Tăng trưởng kinh tế % 9,70 9,71 12,42 4.Giá trị tăng thêm (Giá hiện hành) triệu đồng 5.837.565 2.687.759 2.460.700 5.GDP/người (Giá hiện hành) triệu đồng 4,441 3,715 4,340 6.Thu ngân sách tỷ đồng 461.700 256.699 544.000 7.Sản lượng lương thực quy thóc Tấn 421.795 202.307 171.985 8. Giá trị sản xuất công nghiệp triệu đồng 5.518.196 951.249 478.000 9.Tổng vốn đầu tư phát triển tỷ đồng - 1.340,04 1.900,00 Quy hoạch phát triển kinh tế - xã hội tỉnh Phú Thọ,Yên Bái, Lào Cai Qua các chỉ tiêu trên của ba địa phương trong vùng cho ta thấy được những khó khăn trong việc thực hiện liên kết kinh tế giữa ba tỉnh. Tuy nhiên, với lợi thế so sánh và tiềm năng hợp tác của mỗi tỉnh thì Phú Thọ, Yên Bái, Lào Cai có thể đẩy mạnh phát triển kinh tế qua hoạt động liên kết phát triển. 2. Phân tích thực trạng liên kết kinh tế 2.1.Liên kết phát triển sản xuất. Do quá trình phát triển kinh tế chung của vùng còn ở mức thấp hơn so với vùng khác trên cả nước đặc biệt trong ngành sản xuất công nghiệp nên việc thực hiện liên kết trong sản xuất còn gặp nhiều khó khăn. Trong sản xuất công nghiệp và xây dựng: cả ba tỉnh Phú Thọ, Yên Bái, Lào Cai tỷ trọng công nghiệp đều tăng lên. Đối với tỉnh Phú Thọ, việc chú trọng đầu tư phát triển vùng nguyên liệu và mở rộng thị trường tiêu thụ sản phẩm như ngành sản xuất giấy, phân bón, hoá chất…đã có ý nghĩa quan trọng không những đối với tỉnh mà còn có ý nghĩa với cả nước.Hàng năm, nhà máy supephotphat và hoá chất Lâm Thao thuộc tỉnh Phú Thọ đã cung cấp trên thị trường một khối lượng lớn sản lượng phục vụ sản xuất nông nghiệp. Trong đó,cả ba tỉnh đều có nguồn tài nguyên khoáng sản lớn như Apatit (ở Lào Cai trữ lượng hàng tỷ tấn, ở Thanh Sơn- Phú Thọ) nhưng chưa có hình thức liên kết khai thác giữa các địa phương. Ngành sản xuất chè của tỉnh Yên Bái, ngành nông nghiệp trồng trọt của tỉnh Lào Cai đã trở thành một thị trường cho ngành này. Sự hình thành và phát triển của khu công nghiệp Việt Trì –Phú Thọ đã tạo ra nhiều loại sản phẩm đa dạng cung cấp cho các tỉnh lân cận như công nghiệp sản xuất xi măng, đá xây dựng, gạch ngói, gạch lát nền, gạch men kính…Mặc dù ở Yên Bái, Lào Cai cũng có những ngành sản xuất công nghiệp và xây dựng như năm 2005, Yên Bái sản xuất xi măng đạt 150 nghìn tấn, gạch nung đạt 95 triệu viên, …nhưng giữa các tỉnh chưa có sự liên kết phát triển mà sản xuất nhằm phục vụ nhu cầu của địa phương và vùng là chủ yếu. Trong sản xuất nông, lâm nghiệp: cả ba tỉnh không ngừng đẩy mạnh sản xuất cây lương thực, thực phẩm theo hướng thâm canh cao và mở rộng diện tích ở những nơi có điều kiện thuận lợi.Tập trung phát triển toàn diện cả lúa, ngô, và cây mầu để đảm bảo an ninh lương thực.Cây công nghiệp chủ yếu ở vùng là cây chè, tuy cả ba tỉnh nhất là Phú Thọ và Yên Bái đều có diện tích trồng chè lớn và có các nhà máy sản xuất chè như công ty chè Phú Đa ở Thanh Sơn (Phú Thọ), sản lượng chè búp tươi ở Yên Bái năm 2005 đạt 60 nghìn tấn, Lào Cai đạt 6 nghìn tấn. Do đó, việc liên kết trong sản xuất chè là một phướng hướng phát triển ngành chè trong tương lai của ba địa phương nhằm nâng cao chất lượng và mở rộng thị trường tiêu thụ sản phẩm.Ngoài ra, do đặc điểm địa hình,khí hậu ở Phú Thọ, Yên Bái, Lào Cai xuất hiện nhiều giống cây ăn quả truyền thống đang chiếm ưu thế trên thị trường như cam, quýt, mận, bưởi Đoan Hùng. Nhận thấy được đặc điểm của hoa quả nên các tỉnh đều có nhà may chế biến và bảo quản hoa quả như nhà máy chế biến hoa qủa ở huyện Lâm Thao- Phú Thọ, ở Yên Bình- Yên Bái,..Tuy nhiên các địa phương vẫn chỉ dừng lại ở các nhà máy bảo quản và chế biến rau quả trên địa bàn địa phương mình, chưa có sự liên kết giữa các địa phương để hình thành một cơ cấu sản xuất mang tính tập trung hóa cao. Trong sản xuất lâm nghiệp: tỷ trọng khai thác có xu hướng tăng lên, trồng rừng có xu hướng giảm xuống. Ở Phú Thọ,tài nguyên rừng được phát triển và bảo vệ tốt hơn, hình thành được vùng nguyên liệu giấy trên 30 nghìn ha phân bố ở 10 huyện, mỗi năm cung cấp cho nhà máy giấy Bãi Bằng từ 5- 6 nghìn tấn nguyên liệu.Còn về chăn nuôi gia súc gia cầm ở các tỉnh cũng có sự liên kết nhưng mới chỉ liên kết giữa các địa phương trong tỉnh với nhau như ở Phú Thọ đã hình thành vùng nuôi lợn xuất khẩu tập trung ở Việt Trì, Phù Ninh và Lâm Thao, ở Yên Bái dự tính cuối năm nay sẽ hình thành hợp tác xã chăn nuôi bò thịt ở Trạm Tấu và Văn Chấn. 2.2.Liên kết trong ngành dịch vụ Hiện nay, giữa ba tỉnh Phú Thọ, Yên Bái, Lào Cai đã có sự liên kết trong qúa trình phát triển ngành du lịch như tuyến du lịch hướng về cội nguồn đã được phát động. Phú Thọ với khu du lịch Đền Hùng, Khu du lịch nước khoáng nóng La Phù- Thanh Thủy, khu du lịch đầm Ao Châu (Hạ Hòa), khu du lịch rừng quốc gia Xuân Sơn... đã giúp Phú Thọ trong những năm tới du lịch sẽ trở thành kinh tế mũi nhọn của tỉnh. Du lịch Yên Bái có nhiều tiềm năng nhưng chưa được đầu tư khai thác để phát triển. Tuy nhiên, năm 2004 nhà nước bắt đầu xây dựng cơ sở hạ tầng khu du lịch hồ Thác Bà. Ở Lào Cai thì khu du lịch Sapa đã trở thành điểm dừng chân lý tưởng cho du khách. Tổng số lượt khách du lịch đến các tỉnh Chỉ tiêu Đơn vị tính Tổng số khách đến Năm 2000 Năm 2005 Phú Thọ 103 người 1069,5 1500,0 Yên Bái lượt 50.200 130.000 Lào Cai lượt 200.000 716.000 Nguồn: Viện PTDL- TCDL Viêt Nam Với sự phát triển du lịch ở các địa phương như vậy, sự phối hợp liên kết du lịch giữa ba tỉnh với nhau sẽ tạo điều kiện thuận lợi phát triển các tuyến du lịch liên tỉnh.Hiện nay, có nhiều tuyến du lịch xuất phát từ Hà Nội đi các tỉnh trong cả nước. Như: Tuyến du lịch Hà Nội- Yên Bái- Sapa- Điên Biên – Sơn La- Hòa Bình đi 7 ngày 6 đêm bằng ô tô. Tuyến du lịch Hà Nội- Vĩnh Phúc- Phú Thọ- Sapa Tuyến Hà Nội- Sapa- Lào Cai- Hà Khẩu – Yên Bái Tuyến Hà Nội- Sapa- Yên Bái- Đền Hùng Ngoài ra còn các tuyến du lịch đường sông như: Tuyến sông Đà, tuyến sông Lô, sông Thao (sông Hồng) và du lịch đường sắt như tuyến Hà Nội - Việt Trì- thị xã Phú Thọ- Hạ Hòa- Yên Bái- Lào Cai.Do đó liên kết trong ngành du lịch bước đầu đã thành công và đem lại lợi ích thiết thực đối với các địa phương khi tham gia vào liên kết. Từ các tuyến du lịch đó mà ở Phú Thọ, Yên Bái, Lào Cai số lượt khách đến ngày càng tăng, ở Lào Cai kể từ khi thành lập công ty du lịch đứng ra tổ chức các tuyến du lịch liên tỉnh đã mở rộng hoạt động du lịch làm doanh thu năm 2000 tăng 3,2 lần so với năm 1995, bình quân tăng 26,85 %/ năm, du lịch Yên Bái năm 2004 đạt doanh thu 16,172 tỷ đồng tăng 62,5% so với năm 2000. 2.3.Liên kết phát triển cơ sở hạ tầng Liên kết phát triển hạ tầng giao thông:Dù trong điều kiện kinh tế- xã hội nào thì liên kết phát triển giao thông đều được thực hiện ở các địa phương, bởi do đặc điểm của ngành giao thông vận tải là nối các địa phương, các vùng trong cả nước lại thành một thể thống nhất. Hiện nay, các địa phương đều tiếp tục củng cố, nâng cấp kết cấu hạ tầng giao thông hiện có, không ngừng đầu tư chiều sâu một số công trình giao thông quan trọng và xây dựng mới một số công trình cấp thiết để từng bước hoàn chỉnh mạng lưới giao thông. Đối với giao thông đường bộ: Phú Thọ có tổng chiều dài hệ thống đường bộ gần 10.000 km, trong đó có 5 tuyến quốc lộ với chiều dài qua tỉnh là 262 km.Hiện Phú Thọ đang tăng cường năng lực cho công tác bảo trì kết cấu hạ tầng giao thông. Cụ thể: đoạn quốc lộ số 2 (Việt Trì- Đoan Hùng), quốc lộ 32A (Trung Hà- Cổ Tiết), quốc lộ 32C (Việt Trì- Tam Nông), quốc lộ 70(Đoan Hùng- Yên Bái) đạt tiêu chuẩn đường cấp III.Các đoạn tuyến còn lại đạt cấp IV.Cùng với Phú Thọ, Yên Bái đang nâng cấp quốc lộ 70, mở rộng tuyến đường xuyên Á trong tuyến hành lang kinh tế Côn Minh- Hà Nội- Hải Phòng. Đường sắt: Hiện nay, nhu cầu vận tải đường sắt ngày càng tăng, chiếm 17% nhu cầu vận tải hàng hóa của vùng.Các địa phương trong vùng đang củng cố, cải tạo tuyến đường hiện có là Yên Viên- Lạng Sơn, Lào Cai- Hà Nội- Hải Phòng, đang nâng cấp một số đoạn từ ga Văn Phú (Yên Bái) đến ga Phố Lu (Lào Cai) để rút ngắn hành trình chạy tàu. Đường thủy: Đường sông Lào Cai chưa thực sự phát triển mạnh mặc dù trên địa bàn tỉnh có rất nhiều sông lớn như sông Hồng dài 130km, đoạn đường sông Hồng từ Lào Cai- Yên Bái khả năng vận tải vẫn ở quy mô nhỏ, hiện đang xây dựng một cảng trên sông Hồng thuộc địa phận Lào Cai.Yên Bái đang duyệt dự án khả thi đầu tư nâng cấp toàn tuyến sông Hồng (Việt Trì- Yên Bái- Lào Cai), xây dựng các bến cảng Hồ Thác Bà, Mậu A, Văn Phú... Đối với hệ thống cung cấp điện: Yên Bái đã hoàn thành việc xây dựng các công trình đường dây tải điện có sự liên kết với các địa phương trong vùng như: đường dây tải điện 220KV Việt Trì- Yên Bái, đường dây 220 KV Yên Bái- Lào Cai; Khu vực Phú Thọ, Yên Bái, Lào Cai, Tuyên Quang, Hà Giang được tăng cường cung cấp điện bằng đường dây220 KV Hòa Bình- Lâm Thao và trạm Lâm Thao 220 KVcông suất 125MVA... Đó là một số nội dung liên kết giữa ba tỉnh Phú Thọ, Yên Bái, Lào Cai vùng trung du miền núi phía Bắc. III. ĐÁNH GIÁ CHUNG 1. Những tồn tại trong quá trình liên kết Bên cạnh những kết quả cơ bản đạt được, trong liên kết phát triển kinh tế giữa Phú Thọ, Yên Bái, Lào Cai vẫn tồn tại một số hạn chế nhất định. Quan hệ liên kết giữa ba tỉnh và với các địa phương khác trong vùng chủ yếu mới được tiến hành một cách tự phát, nhỏ bé trên một vài lĩnh vực, chưa có sự chỉ đạo chung nhằm tổ chức thực hiện một cách thống nhất. Phần lớn quan hệ hợp tập trung vào quan hệ giữa nơi cung cấp nguyên liệu và nơi sản xuất, chế biến, giữa cơ sở sản xuất và thị trường tiêu thụ sản phẩm. Việc triển khai hợp tác phát triển kinh tế chưa được hoạch định theo chiến lược chung cho toàn vùng.Các cấp, các ngành, các địa phương và đơn vị cơ sở chưa nhận thức rõ vai trò quan trọng của liên kết phát triển kinh tế của mỗi địa phương, của vùng và của cả nước. Điều này đã ảnh hưởng không nhỏ đến việc phát huy tiềm năng và lợi thế so sánh những đặc điểm riêng có của mỗi tỉnh, thành phố trong quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế, phát triển bền vững,chủ động trong hội nhập kinh tế quốc tế. Chính vì lý do này dẫn đến sự yếu kém trong sự phát triển của vùng, chưa tương xứng với tiềm năng, thế mạnh của vùng, chưa thực sự là động lực thúc đẩy nền kinh tế của cả nước. Hầu hết các chỉ tiêu kinh tế - xã hội đạt được đều thấp hơn so với mục tiêu đề ra trong quy hoạch vùng. Các địa phương chưa tận dụng, triệt khai triệt để tiềm năng nguồn lực, lợi thế so sánh của mình cho phát triển kinh tế và cho liên kết phát triển giữa các tỉnh, thành phố trong vùng. Đầu tư phát triển trong vùng trung du miền núi phía Bắc chưa đạt hiệu quả cao. Lý do chủ yếu là đầu tư chưa thực sự gắn với quy hoạch ngành, vùng nên có sự chồng chéo, lãng phí, sản xuất trùng lặp, dư thừa công suất so với nhu cầu của thị trường. Nhiều dự án đầu tư hiệu quả thấp, nhất là trong đầu tư xây dựng kết cấu hạ tầng ở nhiều khu công nghiệp chưa được phát huy. Việc đầu tư phát triển các khu công nghiệp thiếu sự phối hợp giữa các địa phương trong vùng, nên địa phương nào cũng có các khu công nghiệp có chức năng tương tự nhau dẫn đến tình trạng cạnh tranh không cần thiết, thậm chí chèn ép lẫn nhau để thu hút đầu tư, trong khi các chính sách kinh tế hàng rào kể cả hạ tầng xã hội lại chưa được quan tâm đúng mức. Sự liên kết trong quản lý và tổ chức sản xuất kinh doanh còn nhiều bất cập. Quan hệ hợp tác, liên kết cần thiết trong phát triển giữa vùng kinh tế với các vùng khác chưa được hình thành. Giữa các địa phương trong vùng trung du miền núi phía Bắc và cả nước chưa có sự phân công hợp tác nên một số trường hợp các địa phương không tính đến yếu tố thị trường và hiệu quả chung dẫn đến việc phát triển chủ quan, đầu tư trùng lặp, gây lãng phí và giảm sức cạnh tranh của công nghiệp Việt Nam. Mối quan hệ trong việc chế tạo thiết bị, khai thác chế biến các nguồn nguyên liệu nông, lâm, thủy sản còn hạn chế. Đối với một nền kinh tế đang trong thời kỳ chuyển đổi, nhiều yếu tố thị trường chưa hình thành và phát triển thì sự phối hợp giữa các địa phương quyết định sự phát triển của vùng nói riêng và của cả nước nói chung. Những tồn tại và hạn chế trong liên kết phát triển kinh tế giữa Phú Thọ, Yên Bái, Lào Cai và các tỉnh thành trong vùng trung du miền núi phía Bắc và lân cận đã kìm hãm sự phát triển của vùng, chưa tương xứng với tiềm năng, thế mạnh của vùng, làm khó khăn thêm cho nền tài chính quốc gia, ảnh hưởng tiêu cực đến sự phát triển kinh tế -xã hội của đất nước nói chung và các ngành, các địa phương nói riêng. 2. Nguyên nhân chủ yếu +Về chất lượng của quy hoạch phát triển và những vấn đề triển khai thực hiện. Quy hoạch tổng thể phát triển kinh tế -xã hội, các quy hoạch ngành, quy hoạch phát triển vùng chính là khung vĩ mô cần thiết để thực hiện phối hợp phát triển ngành và vùng thống nhất trong tổng thể kinh tế đất nước. Tuy nhiên, thực tế cho thấy quy hoạch tổng thể chưa được coi trọng, quy hoạch của những ngành chưa được thông qua, tính khả thi kém. Việc đánh gia và xác định mục tiêu phát triển không phù hợp với khả năng của từng địa phương, quy hoạch ngành và quy hoạch vùng thường xâydựng tách rời nhau, chưa hỗ trợ nhau. Các quy hoạch phát triển ngành, địa phương, vùng chưa được triển khai, tổ chức thực hiện đặc biệt là sự phối hợp trong quy hoạch và kế hoạch còn yếu. Đối với vùng trung du miền núi phía Bắc mới chỉ có quy hoạch, định hướng phát triển kinh tế - xã hội và quy hoạch một số ngành chủ yếu chưa có được quy hoạch chi tiết và kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội chủ yếu thực hiện trên phạm vi ngành (các Bộ, ngành) và cấp độ địa phương (từng tỉnh, thành phố). Việc phối hợp giữa các tỉnh thành phố trong việc xử lý những vấn đề có tính chất liên vùng còn rất hạn chế. Thêm vào đó quy hoạch tổng thể phát triển kinh tế - xã hội của tỉnh, thành phố, vùng, quy hoạch các ngành chưa có tính khoa học cao, thiếu tính thống nhất, chưa gắn kết kinh tế trung ương với kinh tế địa phương. Hơn nữa, việc triển khai thực hiện lại chưa đồng bộ thiếu sự chỉ đạo chung chưa có cơ chế quản lý, kiểm tra, xử lý việc thực hiện quy hoạch của mỗi địa phương. + Chưa có bộ máy tổ chức, quản lý vùng và thiếu một số cơ chế phối hợp các địa phương và các ngành trên vùng. Phạm vi vùng là phạm vi thuận lợi nhất đảm bảo sự phát triển của các ngành, các địa phương. Cho đến nay,chúng ta chưa có một bộ máy quản lý nào, cũng chưa có một bộ ngành hay cơ quan cụ thể nào được giao trách nhiệm thực hiện công tác phối hợp đối với cả vùng kinh tế trọng điểm này. Các ngành, các địa phương trong vùng thực hiện sự phối hợp chủ yếu mang tính tự phát, gặp gì làm lấy, chưa có sự chỉ đạo chung tổ chức và thực hiện một cách thống nhất và lâu dài. Chính phủ mới chủ yếu khuyến cáo các tỉnh, thành phố xây dựng quy hoạch, kế hoạch của địa phương phù hợp với quy hoạch, kế hoạch phát triển chung của toàn vùng chứ chưa có văn bản hướng dãn cụ thể và thiếu những quy định chặt chẽ về mặt pháp lý. Mặt khác, Chính phủ vẫn chưa có cơ chế, chính sách khuyến khích ưu đãi, áp dụng cho phát triển kinh tế -xã hội vùng. + Chưa có kế hoạch phát triển vùng cụ thể: Hiện nay, để thực hiện chức năng quản lý phối hợp phát triển ngành và vùng. Chính phủ có các quy hoạch phát triển tổng thể, quy hoạch ngành, địa phương và vùng lãnh thổ, có các kế hoạch dài hạn, trung hạn cho cả nước, cho các ngành, tỉnh, thành phố. Tuy vậy, hiện tại chưa có quy hoạch phát triển vùng, lãnh thổ, kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội vùng thể hiện trong kế hoạch dài hạn của ngành và của từng tỉnh. Việc không có kế hoạch ở cấp vùng đã thực sự gây khó khăn cho quá trình đầu tư phát triển của các địa phương trong vùng. Tuy vậy, việc xây dựng các kế hoạch phát triển vùng lại không có sự tham gia tích cực của các tỉnh có liên quan. Vì vậy, kết quả là kế hoạch phát triển vùng là không được triển khai. Mặt khác, hiện nay chúng ta còn thiếu một cơ quan chịu trách nhiệm thực hiện điều phối và giám sát các hoạt động kinh tế - xã hội nói chung đối với vùng và việc thực hiện kế hoạch phát triển vùng. + Sự tồn tại khá nặng nề chế độ cấp chủ quản của các doanh nghiệp nhà nước và cấu trúc kinh tế trung ương và kinh tế địa phương trên vùng. Trong cơ chế kế hoạch cũ (tập trung, bao cấp) mỗi doanh nghiệp nhà nước đều đặt dưới sự quản lý trực tiếp của một số cơ quan quản lý nhà nước và được coi là cơ quan chủ quản. Như vậy chỉ trến cùng một địa bàn vùng và lân cận đã bao gồm nhiều cơ quan chủ quản khác nhau, và hình thành nên cấu trúc kinh tế trung ương (bao gồm các doanh nghiệp do các bộ ngành trung ương là chủ quản) và kinh tế địa phương (bao gồm các doanh nghiệp do địa phương là chủ quản). Đứng trên góc độ phát triển ngành và vùng thì sự tồn tại chế độ nêu trên địa bàn là tạo ra các hàng rào ngăn cản khả năng hội nhập và liên kết giữa các ngành với nhau, các đơn vị kinh tế thuộc các cấp chủ quản khác nhau. Việc tồn tại cấu trúuc kinh tế trung ương và địa phương gây khó khăn cho việc lập và triển khai các kế hoạch phát triển ngành, địa phương và kế hoạch phát triển vùng vì khả năng tiếp cận và “xâm nhập” theo tuyến ngang cực kỳ khó. Việc phân định các cấp chủ quản khác nhau, các cấp kinh tế khác nhau trên cùng một vùng sẽ tạo ra sân chơi, các luật chơi, và người điều khiển các luật chơi khác nhau trên cùng một địa bàn. Điều này gây ra những lực cản cho chính quá trình phát triển không giống nhau giữa các doanh nghiệp, hạn chế khả năng hợp tác, phối hợp và kìm hãm sự phát triển của thị trường. 3. Những vấn đề đặt ra Cần có cơ chế phối hợp chặt chẽ rõ ràng, thống nhất giữa quan hệ của các địa phương với quy hoạch chung của của vùng và quy hoạch của ngành, giữa các Bộ ngành và địa phương trong vùng. Chấm dứt triệt để việc thực hiện không theo quy hoạch. Các địa phương trong vùng phải có kế hoạch chi tiết, cụ thể để triển khai chủ trương của Nhà nước, trong đó phải hết sức chú ý phát huy nội lực tận dụng cho được đội ngũ cán bộ và lao động có năng lực, tạo điều kiện thuận lợi cho cá nhân làm ăn, sản xuất được nhiều mặt hàng có sức cạnh tranh trên thị trường trong nước và nước ngoài. Quán triệt chủ trương phát triển vùng kinh tế đầy đủ thống nhất. Cần có sự thống nhất từ các cơ quan trung ương đến địa phương, các tổ chức doanh nghiệp về chủ trương phát triển vùng và hướng liên kết phát triển kinh tế cho các địa phương trong vùng, khẩn trương rà soát, chỉnh sửa bổ sung các quy hoạch phát triển kinh tế -xã hội của các địa phương trong vùng, xây dựng cơ chế phối hợp triển khai các nội dung hợp tác phát triển thống nhất. Để thúc đẩy phát triển vùng, một vấn đề quan trọng là địa phương phải xuất phát từ điều kiện và lợi thế của mình để chủ động xây dựng kế hoạch liên kết với các tỉnh trong vùng, khai thác tối đa ưu lợi thế của nhau trong quá trình phát triển. Đồng thời tăng cường đầu tư cho khu vực sản xuất, nhất là các lĩnh vực có khả năng cạnh tranh cao. Chương III: PHƯƠNG HƯỚNG VÀ GIẢI PHÁP THỰC HIỆN LIÊN KẾT KINH TẾ GIỮA BA TỈNH PHÚ THỌ, YÊN BÁI, LÀO CAI I. QUAN ĐIỂM CHỈ ĐẠO 1. Tư tưởng chỉ đạo. Liên kết phát triển kinh tế giữa Phú Thọ, Yên Bái, Lào Cai trong vùng trung du miền núi phía Bắc là một yêu cầu thực tế khách quan, xuất phát từ sự đòi hỏi của phát triển kinh tế của từng tỉnh trong toàn vùng chứ không thể tùy tiện, chủ quan, duy ý chí. Do đó cần nghiên cứu thật kỹ những đòi hỏi khách quan trong quá trình phát triển kinh tế của từng tỉnh, thành phố trong toàn vùng để xây dựng nội dung – mức độ - hình thức cho phù hợp và có hiệu quả. Mở rộng hợp tác, phát triển kinh tế giữa Phú Thọ, Yên Bái, Lào Cai trong điều kiện kinh tế thị trường. Nhà nước (với vai trò quản lý kinh tế vĩ mô của mình) chỉ có thể làm tốt chức năng định hướng, tạo điều kiện hỗ trợ cho sự hợp tác, liên kết kinh tế giữa các nhà đầu tư, các chủ doanh nghiệp là chính chứ không thể áp đặt hoặc làm thay họ. Mục tiêu tổng quát của liên kết kinh tế giữa Phú Thọ, Yên Bái, Lào Cai là phát huy thế mạnh, khai thác và phát huy thế mạnh của từng tỉnh trong vùng, thúc đẩy sự nghiệp xây dựng và phát triển của các địa phương trong thì kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa – hiện đại hóa ; đóng góp tích cực vào sự phát triển kinh tế - xã hội của mỗi địa phương trong vùng và cả nước. Liên kết phát triển toàn diện, tích cực nhưng có những bước đi vững chắc, có trọng tâm, trọng điểm, thiết thực, có hiệu quả. Trong thời gian đầu cần có sự lựa chọn một số lĩnh vực kinh tế cụ thể, có tính khả thi, có thể triển khai và phát huy hiệu quả ngay để thực hiện nhằm tạo đà cho các bước liên kết phát triển cao hơn. 2. Quan điểm liên kết phát triển. Quan điểm 1: Quan hệ hợp tác giữa ba tỉnh Phú Thọ, Yên Bái, Lào Cai trong vùng phải nhằm phát huy và kết hợp hiệu quả các tiềm năng thế mạnh và lợi thế so sánh của mình phải đặt trong mối liên hệ với toàn vùng và cả nước.Do đang ở điểm xuất phát thấp nên phát triển kinh tế- xã hội của tỉnh phải đảm bảo mục tiêu tăng trưởng nhanh và bền vững, tạo ra được các khâu đột phá để đưa nền kinh tế phát triển nhanh hơn, từng bước khắc phục nguy cơ tụt hậu so với cả nước. Quán triệt quan điểm này, mỗi địa phương khi xác định tiềm năng thế mạnh và lợi thế so sánh của mình phải đặt trong mối liên hệ với toàn vùng và cả nước. Mỗi địa phương phải dựa vào tiềm năng của toàn vùng để phát huy và kết hợp hiệu quả thế mạnh của mình. Liên kết kinh tế với các địa phương trong vùng trung du miền núi phía Bắc, các địa phương phải khai thác, kết hợp tốt các tiềm năng của mình với tiềm năng của các địa phương và toàn vùng và tìm ra, phát huy những lợi thế so sánh nhằm phát triển nhanh và bền vững tạo điều kiện phát triển cho toàn vùng và cả nước. Quan điểm 2: Quan hệ hợp tác giữa Phú Thọ, Yên Bái, Lào Cai trong vùng kinh tế trung du miền núi phía Bắc phải phù hợp với nhu cầu, khả năng của mỗi địa phương, gắn với định hướng, chiến lược, quy hoạch phát triển kinh tế - xã hội của mỗi địa phương, cảu vùng và cả nước. Chính phủ đã xây dựng chiến lược, phương hướng, kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội cho cả nước, quy hoạch tổng thể phát triển kinh tế - xã hội đến năm 2010 của vùng trung du miền núi phía Bắc, của các địa phương (Phú Thọ, Yên Bái, Lào Cai) đã được chính phủ phê duyệt; một số quy hoạch trung gian, chi tiết, quy hoạch ngành... cũng đã được các địa phương xây dựng. Vì vậy những nội dung phát triển kinh tế giữa các tỉnh Phú Thọ, Yên Bái, Lào Cai vần được xây dựng, triển khai thống nhất với chiến lược, định hướng, quy hoạch phát triển kinh tế xã hội của các địa phương, của cả vùng và cả nước. Trên cơ sở các quy hoạch chung của cả nước, của vùng cà mỗi địa phương, những nội dung hợp tác giữa Phú Thọ, Yên Bái, Lào Cai là một trong những nhiệm vụ quan trọng góp phần thực hiện thắng lợi trong những mục tiêu kinh tế - xã hội của địa phương, vùng trung du miền núi phía Bắc và cả nước. Quan điểm 3: Hợp tác, liên kết phát triển giữa Phú Thọ, Yên Bái, Lào Cai phải được tiến hành đồng bộ, toàn diện trên nhiều lĩnh vực nhưng có trọng tâm, trọng điểm; hình thức thích hợp, bước đi vững chắc, giải pháp năng động, sáng tạo; bảo đảm phân bổ và khai thác có nguồn lực cân bằng, hiệu quả tạo nên sự thống nhất và sức mạnh tổng hợp nền kinh tế, văn hóa, xã hội của toàn vùng. Tăng cường liên kết phát triển kinh tế giữa các địa phương trong vùng cho phép khai thác tiềm năng, lợi thế, khắc phục những hạn chế, vấn đề bức xúc phát sinh của từng địa phương và cả vùng; cho phép tập trung nguồn lực vùng cần thiết để xây dựng và phát triển những ngành, lĩnh vực thích hợp nhất với điều kiện cụ thể của địa phương, của vùng làm động lực góp phần phát triển kinh tế - xã hội của vùng và cả nước. Liên kết phát triển kinh tế không thể dem lại hiệu quả mong muốn nếu chỉ tiến hành riêng rẽ ở một vài lĩnh vực nào đó. Phú Thọ, Yên Bái, Lào Cai cần chủ động, sáng tạo khi tiến hành liên kết trên các lĩnh vực này cũng cần lựa chọn một số nội dung liên kết cụ thể có tính khả thi để triển khai nhanh. Quan điểm 4: Liên kết phát triển kinh tế giữa Phú Thọ, Yên Bái, Lào Cai pahỉ xử lý hài hòa giữa các lợi ích ngắn hạn và dài hạn, lợi ích tập thể và lợi ích cá nhân, bảo đảm kết hợp giữa lợi ích kinh tế và các mục tiêu xã hội, môi trường. Phát triển kinh tế phải gắn với tiến bộ công bằng xã hội, bảo vệ môi trường sinh thái, giữ gìn bản sắc văn hóa dân tộc, bảo đảm an ninh quốc phòng... 3. Nguyên tắc liên kết phát triển Quán triệt những quan điểm liên kết trên, trong liên kết phát triển 3 tỉnh cần tuân thủ các nguyên tắc sau: Thứ nhất:Phải có sự đồng thuận và tự nguyên, bảo đảm bình đẳng và tôn trọng lẫn nhau giữa các địa phương tham gia liên kết. Mỗi một địa phương trong vùng là một thể chế bình đẳng, dù vị thế và trình độ phát triển có khác nhau, những nội dung liên kết phải là những vấn đề được 2 bên tham gia liên kết cùng quan tâm. Yêu cầu về sự bình đẳng, tôn trọng lẫn nhau và cùng có lợi phải tuân thủ ngay trong quá trình bàn bạc, trong xác định nghĩa vụ, trách nhiệm cũng như trong xử lý các vấn đề lợi ích của các bên. Có sự chỉ đạo tập trung, thống nhất và chủ động tích cực phối hợp chặt chẽ của các tỉnh trong vùng. Mặt khác, liên kết là một quá trình tự nguyện nên sự liên kết phát triển trong vùng không thể tiến hành có hiệu quả đơn phương từ một phía, hoặc từ sự kiên cưỡng thụ động và thiếu tích cực của các bên. Vì vậy các bên tham gia liên kết cần chủ động, tích cực và phối hợp chặt chẽ để đạt hiệu quả cao. Thứ hai: Vừa liên kết vừa cạnh tranh lành mạnh. Liên kết phát triển kinh tế giữa các địa phương phải phù hợp quá trình chuyển sang nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, do vậy quá trình liên kết, các nội dung vừa phải mang tính hợp tác với tư cách là các tỉnh anh em, vừa bảo đảm sự cạnh tranh lành mạnh với tư cách là các chủ thể trong nền kinh tế thị trường, cạnh tranh để thúc đẩy nhau cùng phát triển, trong hợp tác không hề thủ tiêu cạnh tranh.Cạnh tranh đồng thời vẫn mang tính hỗ trợ nhau cùng phát triển để bảo đảm lợi ích chung của toàn vùng. 4. Mục tiêu liên kết phát triển. Phát huy đồng bộ sức mạnh tổng hợp của các tỉnh liên kết trong vùng nhằm phát triển kinh tế - xã hội với tốc độ cao, bền vững, cơ cấu hợp lý, đáp ứng yêu cầu phát triển kinh tế của từng địa phương; chủ động hội nhập kinh tế quốc tế, từng bước nâng cao đời sống vật chất tinh thần cho nhân dân. Bảo đảm khai thác, phân bổ các tiềm năng nguồn lực hợp lý giữa các địa phương: xây dựng đồng bộ và thống nhất hệ thống kết cấu hạ tầng, hạn chế sự đầu tư trùng lặp, lãng phí, bảo đảm sự phát triển và hiệu quả trong sử dụng các tiềm năng nguồn lực của mỗi địa phương và toàn vùng thông qua cung cấp thông tin, trao đổi kế hoạch và phối hợp đầu tư hệ thống cơ sở hạ tầng, xây dựng vùng nguyên liệu; liên kết trong tiêu thụ và cung cấp sản phẩm; tạo điều kiện thuận lợi, ưu đãi các nhà đầu tư của các địa phương đầu tư phát triển sản xuất trên địa bàn của nhau (ví dụ đầu tư phát triển trang trại, làng nghề, khu du lịch, nhà nghỉ, các nhà máy và cơ sở sản xuất công nghiệp, thương mại dịch vụ...) Bảo đảm thống nhất phát triển kinh tế - xã hội của mỗi địa phương, của vùng và cả nước theo chiến lược, kế hoạch, quy hoạch đã được duyệt. Phát huy các tiềm năng, thế mạnh, tăng cường hợp tác, xác định các ngành kinh tế mũi nhọn, những sản phẩm có ưu thế cạnh tranh của vùng và mội địa phương trong vùng. Nâng cao năng lực đội ngũ cán bộ các cấp, tăng cường hiệu quả quản lý của nhà nước trong điều hành, phát triển kinh tế - xã hội ở các địa phương thông qua thường xuyên trao đổi thông tin, kinh nghiệm, phối hợp xây dựng và đề xuất các cơ chế chính sách. Nâng cao hiệu quả hoạt động của mỗi địa phương thông qua khai thác và sử dụng các thông tin nói chung và phối hợp hành động trong quản lý dân cư, phòng chống tội phạm và tệ nạn xã hội, phối hợp quản lý chống buôn lậu và gian lận thương mại, kiểm sóat vệ sinh an toàn thực phẩm và phòng ngừa dịch bệnh, trao đổi các thông tin về thị trường, xuất nhập khẩu, các thông tin về khoa học công nghệ mới và khả năng ứng dụng, chuyển giao, quảng bá các sản phẩm văn hóa và phát triển du lịch... II. PHƯƠNG HƯỚNG LIÊN KẾT PHÁT TRIỂN KINH TẾ GIỮA BA TỈNH: PHÚ THỌ - YÊN BÁI – LÀO CAI 1. Phương hướng liên kết trong công nghiệp Liên kết trong lĩnh vực đầu tư mới và mở rộng các cơ sở sản xuất.Trên cơ sở năng lực sản xuất hiện có và xuất phát từ yêu cầu công tác quản lý đô thị và chuyển dịch cơ cấu kinh tế, cần có sự chuyển dịch nguồn vốn đầu tư đối với một số lĩnh vực từ thành phố đến một số tỉnh. 1.1.Lĩnh vực công nghiệp dệt may Công nghiệp may mặc đòi hỏi trình độ của người lao động không cao- chi phí đào tạo thấp, có thể thực hiện một số công đoạn sản xuất tại các hộ gia đình. Hoạt động này phù hợp với chủ trương của Đảng và Nhà nước, hoàn toàn có khả năng thực hiện được xuất phát từ tiềm năng và nhu cầu từ các phía. Trước mặt đầu tư vào mở rộng sản xuất các sản phẩm: + Sản phẩm may mặc phục vụ cho đối tượng có thu nhập thấp (mẫu mã và chất lượng đòi hỏi không cao do đó giá thành hạ) + Sản phẩm phục vụ chuyên ngành (quần áo bảo hộ, trang phục phục vụ cho lực lượng vũ trang...) + Thực hiện tốt một số công đoạn đối với sản phẩm đòi hỏi mẫu mã và chất lượng cao nhất là sản phẩm phục vụ xuất khẩu. Hiện nay, việc liên kết trong lĩnh vực công nghiệp dệt may giữa ba tỉnh chưa được thực hiện rõ nét, đó chỉ là những hình thức đặt hàng giản đơn. Do đó, phương hướng trong những năm tới, công nghiệp dệt may của Thụy Vân- Việt Trì – Phú Thọ sẽ đáp ứng phần nào cho ba địa phương trên đồng thời cho toàn vùng và cả nước. 1.2.Công nghiệp hóa chất Do đặc điểm địa hình, điều kiện tự nhiên, Phú Thọ, Yên Bái, Lào Cai là ba tỉnh có tiềm năng khoáng sản lớn. Mặc dù công nghiệp hóa chất ở Yên Bái,Lào Cai chưa phát triển nhưng với sự phát triển mạnh mẽ của ngành công nghiệp hóa chất ở Phú Thọ như nhà máy Supe phot phat và hóa chất Lâm Thao – Phú Thọ đã cung cấp phân bón cho phát triển nông nghiệp ở các tỉnh trong cả nước và xuất khẩu. Nếu có sự liên kết thì Yên Bái, Lào Cai sẽ trở thành thị trường rộng lớn cho ngành công nghiệp hóa chất này Nhưng do đặc điểm của ngành sản xuất nên nguy cơ gây ô nhiễm môi trường của ngành sản xuất này cao hơn so với các ngành khác. Việc tồn tại những cơ sở sản xuất thuộc lĩnh vực này nếu không được quan tâm, điều chỉnh theo những trình tự và mức độ nhất định sẽ thể hiện sự bất hợp lý. Việc di rời và mở rộng cơ sở sản xuất tới các vùng lân cận trước hết xem xét tới một số lĩnh vực cụ thể sau: sản xuất sơn, sản xuất chế biến phân bón, sản xuất chất tẩy rửa, chế biến cao su, thuốc lá, giấy... 1.3.Lĩnh vực công nghiệp chế biến rau quả Do đặc điểm khí hậu và điều kiện tự nhiên của Phú Thọ, Yên Bái, Lào Cai nên ngành trồng trọt ngày càng được quan tâm phát triển.Nhưng do nguyên liệu rau quả là nông sản có những đặc trưng khác biệt, chẳng hạn như tính mùa vụ, khối lượng lớn nguyên liệu nguyên thủy dễ bị hao hụt nhanh chóng, sự nhayh cảm trước những thay đổi về chính sách của Nhà nước và của thị trường. Do đó, để đảm bảo nguyên liệu chế biến cả về chất lượng và số lượng các địa phương cần liên kết trong lĩnh vực này, có thể xem xét đến những nội dung cụ thể sau: + Sử dụng công nghệ vi sinh xây dựng các trung tâm, trạm xử lý sản phẩm nhất là những sản phẩm thu hoạch theo mùa vụ, khó bảo quản (cà chua, khoai tây, các loại hoa quả...) + Xây dựng mới hoặc mở rộng các cơ sở chế biến hoa quả, chế biến sữa hoặc các loại hạt có dầu... + Sản xuất các thiết bị, công cụ thu hoạch, thiết bị chế biến theo quy mô khác nhau nhằm cung cấp cho các địa phương trong vùng và nâng cao năng suất và hiệu quả sản xuất trong nông nghiệp. 1.4.Lĩnh vực sản xuất vật liệu xây dựng Việc mở rộng hợp tác trong lĩnh vực khai thác, sản xuất vật liệu xây dựng ngoài việc giải quyết những yếu tố bất hợp lý để môi trường sạch và đẹp còn bảo đảm việc bố trí cơ sở sản xuất gần nguồn nhiên liệu đầu vào mà chủ yếu là đất, cát sỏi, ximent. Dự kiến hướng hợp tác đối với những sản phẩm như sau: khai thác vật liệu xây dựng truyền thống (cát, sỏi, đất sét...),sản xuất các loại vật liệu xây dựng thông dụng mà chủ yếu là gạch xây và gạch ốp lát, gạch trang trí, sản xuất các loại cấu kiện bê tông, bê tông thương phẩm, sản xuất một số chi tiết của thiết bị vệ sinh và một số vật liệu cao cấp khác. 2. Phương hướng liên kết phát triển du lịch và dịch vụ. Hoạt động du lịch mang tính liên vùng, liên ngành và xã hội hóa cao. Do tính xã hội hóa cao của hoạt động du lịch nên việc liên kết hợp tác giữa các địa phương trong vùng không những là chủ trương khai thác nội lực mà còn là yêu cầu khách quan của hoạt động này. Định hướng hợp tác giữa ba tỉnh Phú Thọ, Yên Bái, Lào Cai giai đoạn 2001-2010 tập trung vào những lĩnh vực sau: a)Liên kết trong đầu tư xây dựng các điểm, khu du lịch (bao gồm các danh lam thắng cảnh, các di tích lịch sử, các điểm văn hóa...) nhằm góp phần giữ gìn tôn tạo các di tích lịch sử, văn hóa, đồng thời tạo ra các sản phẩm du lịch mới, hiện đại, hấp dẫn góp phần đẩy ngành du lịch toàn vùng phát triển mạnh. Đối với tỉnh Phú Thọ: phát triển tổng hợp, đa dạng hóa các loại hình du lịch nhằm khai thác triệt để các tiềm năng phát triển kinh tế -xã hội. Trong đố ưu tiên phát triển du lịch lễ hội, du lịch nghỉ dưỡng, du lịch sinh thái. Thường Trọng tâm đầu tư: khu du lịch Đền Hùng, khu du lịch nước khoáng nóng La Phù- Thanh Thủy, khu du lịch đầm Ao Châu (Hạ Hòa), du lịch rừng quốc gia Xuân Sơn (Thanh Sơn)... Phú Thọ phấn đấu đến năm 2010-2020 du lịch sẽ trở thành ngành kinh tế mũi nhọn của tỉnh. Tổ chức các tuyến du lịch: + Các tuyến du lịch đường bộ: Tuyến Hà nội – Vĩnh Phúc - Việt Trì – Đoan Hùng – Tuyên Quang – Hà Giang hoặc Yên Bái – Lào Cai. Lộ trình theo quốc Lộ 2 Tuyến Hà nội – Sơn Tây – Trung Hà - Hạ Hòa – Yên Bái. Lộ trình theo quốc lộ 32C Tuyến Hà nội – Sơn Tây – Thanh Sơn – Xuân Sơn – Sơn La. Lộ trình theo quốc lộ 32A, 32B + Các tuyến du lịch đường sông: Tuyến Sông Đà, tuyến Sông Lô, tuyến Sông Thao (Sông Hồng) + Các tuyến du lịch theo đường sắt: Tuyến Hà nội - Việt trì - Thị xã Phú thọ - Hạ Hòa – Yên Bái – Lào Cai Tuyến Hà nội - Việt trì – Phú Thọ - Lào Cai – Côn Minh, Vân Nam – Trung Quốc Tuyến Vân Nam – Lào Cai – Phú Thọ - Hà nội - Hải Phỏng - Quảng Ninh Đối với tỉnh Yên Bái: Dự kiến từ năm 2015 khu du lịch hồ thác Bà sẽ là khu du lịch sinh thái chuyên đề mang tầm cỡ quốc gia, cùng với các điểm du lịch hấp dẫn khác sẽ đưa Yên Bái trở thành điểm dừng chân cho du khách trên tuyến du lịch từ Hà nôi, Hải Phòng và các tỉnh miền xuôi lên SaPa (Lào Cai) và Vân Nam (Trung Quốc). Năm 2010 dự kiếm có khỏang 350 nghìn lượt khác, năm 2015 có khỏang 500 nghìn lượt khách và năm 2020 có khỏang 800 nghìn lượt khách đến Yên Bái. Dự kiến doanh thu của các cơ sở lưu trú du lịch năm 2010 đạt 108 tỷ đồng, 2015 đạt 175 tỷ đồng và năm 2020 đạt 280 tỷ đồng. b)Liên kết trong xây dựng và khai thác các tuyến du lịch nhằm khai thác có hiệu quả tiềm năng du lịch của vùng, mở rộng thị trường du lịch và do đó đẩy mạnh hoạt động du

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc16036.DOC
Tài liệu liên quan