Đề tài Khái quát chung về cải cách doanh nghiệp nhà nước ở Trung Quốc từ 1978 đến nay

Tài liệu Đề tài Khái quát chung về cải cách doanh nghiệp nhà nước ở Trung Quốc từ 1978 đến nay: Lời mở đầu Bối cảnh quốc tế trong những thập kỷ cuối của thế kỷ 20 đã có nhiều thay đổi lớn lao. Sự cạnh tranh ngày càng trở nên gay gắt, việc toàn cầu hoá lĩnh vực tài chính và sự liên kết của các thị trường tài chính được tăng cường. Các thị trường riêng biệt và các nền kinh tế quốc gia ngày càng phụ thuộc lẫn nhau, cùng với cuộc cách mạng khoa học và công nghệ đã trở thành những yếu tố đặc biệt quan trọng thúc đẩy sự hợp tác và liên minh chiến lược giữa các công ty, dẫn đến sự mở rộng và phát triển mạnh mẽ của các tập đoàn kinh tế. Tập đoàn kinh tế trở thành biểu tượng sức mạnh của một quốc gia, bảo vệ nền kinh tế trong nước trước sự thâm nhập của các nền kinh tế khác. Cũng như nhiều nước đang phát triển trên thế giới, Chính phủ Trung Quốc đã nhận thức rõ được tầm quan trọng của việc hình thành và phát triển các tập đoàn kinh tế nếu muốn cạnh tranh bình đẳng với các nước phát triển hơn. Với đặc điểm là nền kinh tế thị trường xã hội chủ nghĩa, Trung Quốc đã chọn cho m...

doc67 trang | Chia sẻ: hunglv | Lượt xem: 1302 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem trước 20 trang mẫu tài liệu Đề tài Khái quát chung về cải cách doanh nghiệp nhà nước ở Trung Quốc từ 1978 đến nay, để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Lời mở đầu Bối cảnh quốc tế trong những thập kỷ cuối của thế kỷ 20 đã có nhiều thay đổi lớn lao. Sự cạnh tranh ngày càng trở nên gay gắt, việc toàn cầu hoá lĩnh vực tài chính và sự liên kết của các thị trường tài chính được tăng cường. Các thị trường riêng biệt và các nền kinh tế quốc gia ngày càng phụ thuộc lẫn nhau, cùng với cuộc cách mạng khoa học và công nghệ đã trở thành những yếu tố đặc biệt quan trọng thúc đẩy sự hợp tác và liên minh chiến lược giữa các công ty, dẫn đến sự mở rộng và phát triển mạnh mẽ của các tập đoàn kinh tế. Tập đoàn kinh tế trở thành biểu tượng sức mạnh của một quốc gia, bảo vệ nền kinh tế trong nước trước sự thâm nhập của các nền kinh tế khác. Cũng như nhiều nước đang phát triển trên thế giới, Chính phủ Trung Quốc đã nhận thức rõ được tầm quan trọng của việc hình thành và phát triển các tập đoàn kinh tế nếu muốn cạnh tranh bình đẳng với các nước phát triển hơn. Với đặc điểm là nền kinh tế thị trường xã hội chủ nghĩa, Trung Quốc đã chọn cho mình hướng đi là thiết lập các tập đoàn kinh tế của nhà nước – một dạng đặc biệt của mô hình tập đoàn kinh tế – thông qua quá trình cải cách toàn diện doanh nghiệp nhà nước. Hướng đi này tuy còn có những hạn chế cần khắc phục nhưng bước đầu đã đem lại những kết quả khả quan. Việt Nam đang từng bước hội nhập kinh tế quốc tế, việc thành lập các tập đoàn kinh tế ngày càng trở thành yêu cầu bức thiết và với lợi thế là một nước đi sau chúng ta có thể học hỏi được những kinh nghiệm trong quá trình thành lập và phát triển các tập đoàn kinh tế từ nhiều nước trên thế giới, đặc biệt là từ Trung Quốc – một đất nước có rất nhiều điểm tương đồng với nước ta trên tất cả các lĩnh vực kinh tế, chính trị, văn hoá, xã hội….Đây cũng là những nội dung chính được đề cập trong luận văn này. Luận văn bao gồm 3 chương: Chương 1: Khái quát chung về cải cách DNNN ở Trung Quốc từ 1978 đến nay. Chương 2: Mô hình tập đoàn kinh tế của Trung Quốc. Chương 3: Những bài học kinh nghiệm đối với Việt Nam trong hình thành và phát triển các tập đoàn kinh tế nhà nước. Chương 1 kháI quát chung về cảI cách doanh nghiệp nhà nước ở trung quốc từ 1978 đến nay 1.1. Cơ sở lý luận và thực tiễn của cải cách doanh nghiệp nhà nước ở Trung Quốc. 1.1.1. Cơ sở lý luận. Trong quá trình xây dựng và phát triển về mặt lý luận cho công cuộc cải cách nền kinh tế nói chung và cải cách doanh nghiệp nhà nước (DNNN) nói riêng, Trung Quốc luôn kế thừa và phát triển lý luận của chủ nghĩa Mác- Lênin trong điều kiện lịch sử mới. * Về tính độc lập tự chủ của các chủ thể kinh tế. Khi nghiên cứu chủ nghĩa tư bản(CNTB) ở giai đoạn tự do cạnh tranh, Mác-Anghen đã đi đến nhận định khái quát rằng: nâng cao năng suất lao động, sản phẩm thặng dư là cái cần thiết cho sự phát triển của tất cả mọi xã hội. Để đạt mục đích này, sản xuất hàng hoá tư bản chủ nghĩa cần dựa trên tiền đề khách quan : “những lao động tư nhân tiến hành độc lập với nhau” và “tiến hành việc trao đổi hàng hoá giữa các chủ thể kinh tế”. Trong những điều kiện cạnh tranh tự do tư bản chủ nghĩa, tính độc lập tự chủ của các chủ thể kinh tế được thể hiện ở chỗ: Các chủ thể kinh tế tự do tiến hành sản xuất, kinh doanh hàng hoá và cạnh tranh với nhau. Thông qua việc áp dụng các hình thức cạnh tranh trong cùng ngành và cạnh tranh giữa các ngành sản xuất khác nhau, các chủ thể kinh tế tìm mọi biện pháp nâng cao năng suất lao động, hạ giá thành, thu nhiều lợi nhuận. Thực tế kinh tế thế giới hiện đại cũng chứng minh rằng: càng tôn trọng tính độc lập, tự chủ cuả các chủ thể sản xuất kinh doanh trong nền kinh tế thị trường, các quốc gia càng có được những bước phát triển đáng kể về lực lượng sản xuất. * Về quyền sở hữu tách khỏi quyền sử dụng. Nghiên cứu loại hình tư bản trong giai đoạn tự do cạnh tranh của CNTB, Mác-Anghen đã cho ta biết: Tư bản công nghiệp không phải là loại hình tồn tại duy nhất của tư bản mà ở đó còn có tư bản cho vay…đó chính là do phân công lao động tạo thành. Tư bản cho vay có đặc trưng là quyền sở hữu tư bản tách rời quyền sử dụng tư bản. Thực chất của việc cho vay là nhường lại quyền sử dụng tư bản cho người khác. ở đây, cùng một tư bản nhưng đối với người đi vay thì nó là tư bản hoạt động, chức năng của nó là tạo ra lợi nhuận. Do đó, thực chất của lợi tức chỉ là một bộ phận của giá trị thặng dư mà nhà tư bản đi vay phải trả cho nhà tư bản cho vay. Việc tách tư bản tiền tệ ra khỏi tư bản sản xuất thành tư bản cho vay và phân biệt quyền sở hữu với quyền sử dụng tiền tệ thông qua hệ thống tín dụng, ngân hàng đã cho phép tạo lập môi trường kinh doanh thuận lợi cho các chủ thể kinh doanh hoạt động và từ đó tạo động lực mạnh mẽ phát triển nền kinh tế hàng hóa theo cơ chế thị trường. Chính khả năng cho phép “tách rời quyền sở hữu và quyền sử dụng” của lý luận Mácxít nêu trên đã và thực sự trở thành một trong những nguyên tắc, chìa khoá quan trọng nhất để định hướng tiến hành cải cách DNNN ở Trung Quốc nói riêng, chuyển đổi và phát triển nền kinh tế theo cơ chế thị trường nói chung của Trung Quốc. * Về mô hình doanh nghiệp. Nghiên cứu CNTB, Mác- Anghen đã khẳng định sự cần thiết khách quan của hình thức tổ chức kinh tế phải phù hợp với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất. Các nhà sáng lập ra chủ nghĩa Mác đã sớm chỉ rõ vai trò và triển vọng to lớn của loại hình sở hữu và công ty cổ phần với tư cách là hình thức phát triển tột cùng của chế độ tư hữu, trong đó tính xã hội đã đạt tới mức cao nhất, và do đó, đây là phương thức kinh doanh chủ yếu của xã hội hiện đại… Hình thức sở hữu này đã thể hiện những tác động to lớn của nó đối với sự phát triển kinh tế. Vì : + Nó huy động tốt nhất các nguồn vốn xã hội. + Phân phối và lưu chuyển vốn hữu hiệu tới những nơi có hiệu quả cao + Đặt quá trình sử dụng và lưu chuyển vốn dưới sự kiểm soát rộng rãi và công khai của xã hội thông qua các thông tin công khai về hoạt động tài chính của các công ty cổ phần. + Giảm bớt sự đối kháng giữa chủ sỡ hữu và người lao động, do phần lớn số lao động trong công ty cổ phần cũng là cổ đông. Công ty cổ phần là tiền đề cho sự ra đời của của các ngành công nghiệp nặng và sự hình thành các tập đoàn tư bản tài chính. Cùng với sự xâm nhập cổ phần của tư bản ngân hàng vào các lĩnh vực sản xuất công nghiệp cũng là lúc báo hiệu tự do canh tranh của CNTB kết thúc, chuyển sang giai đoạn có đặc điểm kinh tế như Lênin đã chỉ ra: “…Những công ty độc quyền tư bản công nghiệp đã thay thế cho cạnh tranh tự do tư bản công nghiệp… ”. Lênin cũng chỉ rõ logic phát triển để nảy sinh các hình thức tổ chức công ty cổ phần ở giai đoạn độc quyền là : “Cạnh tranh tự do là đặc tính cơ bản của CNTB và của nền sản xuất hàng hoá nói chung. Độc quyền là cái ngược hẳn với cạnh tranh tự do. Nhưng chúng ta đã thấy cạnh tranh tự do biến thành độc quyền trong khi tạo ra nền sản xuất lớn, loại bỏ nền sản xuất nhỏ, thay thế nền sản xuất lớn bằng một nền sản xuất lớn hơn nữa, thúc đẩy sự tập trung sản xuất và tư bản đến một trình độ nhất định làm cho tổ chức độc quyền xuất hiện: Cartel, Syndicate, Trust...”. Các tổ chức độc quyền trên ra đời thâu tóm trong tay hầu hết các ngành kinh tế. Sự phát triển đó đòi hỏi nhà nước phải ngày càng tham gia vào các quá trình kinh tế bằng các đạo luật, thuế khoá, tiền tệ và lập ra khu vực kinh tế nhà nước, nhằm duy trì sự ổn định và tăng trưởng nền kinh tế, góp phần nâng cao năng lực cạnh tranh trên thị trường quốc tế . 1.1.2. Thực tiễn hoạt động của doanh nghiệp nhà nước trước cải cách. DNNN ở Trung Quốc đã có một quá trình phát triển lâu dài và được hình thành, bổ sung từ nhiều nguồn khác nhau song hầu hết các doanh nghiệp nhà nước được hình thành do cải tạo công thương nghiệp đối với tư sản dân tộc (123.000 doanh nghiệp của tư sản dân tộc, hơn 4,02 triệu doanh nghiệp thương mại) hoặc do nhà nước đầu tư và xây dựng mới theo mô hình kinh tế kế hoạch hoá tập trung của Liên Xô cũ. Trong quá trình xây dựng và phát triển kinh tế ở Trung Quốc, DNNN đã có một vai trò hết sức quan trọng, là lực lượng chính tạo nên sự thay đổi kết cấu kinh tế công nghiệp; năm 1949 công nghiệp chỉ chiếm 15% GDP, nông nghiệp chiếm 85% GDP. Đến năm 1991, trị giá sản lượng công nghiệp lên tới 77%, nông nghiệp là 22% GDP. Sự phát triển DNNN đã thu hút số lượng lao động lớn. Trong 40 năm (1950-1990) số người làm trong DNNN từ 5,1 triệu tăng lên 43,64 triệu. DNNN là nguồn cung cấp những sản phẩm chủ yếu cho nhu cầu trong nước và xuất khẩu, đồng thời là nguồn thu chủ yếu cho ngân sách nhà nước Trung Quốc. Tuy nhiên, trong quá trình phát triển, các DNNN đã bộc lộ nhiều mặt yếu kém. Ngay từ đầu, việc quyết định đầu tư vào phát triển DNNN đã dựa vào ý chí chủ quan chứ không được kiểm định và điều chỉnh bởi thị trường, từ đó không đánh giá được nhu cầu xã hội về các loại hàng hoá….Khi thành lập rồi thì doanh nghiệp lại bị trói buộc trong cơ chế kinh tế kế hoạch hoá tập trung, chúng bị quản lý ở rất nhiều tầng nấc từ Quốc vụ viện đến phường xã. Lợi nhuận của doanh nghiệp làm ra hầu hết phải nộp vào ngân sách nhà nước theo kiểu “tát cạn ao để bắt cá”, “giết gà lấy trứng” làm cho doanh nghiệp luôn bị thiếu vốn, không thể tái đầu tư phát triển. Phân phối theo chế độ “bình quân và biên chế suốt đời” đã lọt được qua cổng là là người của doanh nghiệp, chỉ cần có đi làm là được hưởng tiền lương cố định, không kể làm tốt hay làm xấu. Quyền sở hữu tài sản DNNN thuộc về nhà nước, nhưng quan hệ về quyền tài sản không rõ ràng, chức năng của chính quyền và doanh nghiệp lẫn lộn, mọi người đều có phần nhưng không ai chịu trách nhiệm, quản lý lộn xộn, lãng phí nghiêm trọng, hiệu quả kém. Bảng 1 tình hình sản xuất tại các doanh nghiệp công nghiệp nhà nước trung quốc 1975-1978 Chỉ tiêu 1957 1978 - Giá trị tổng(triệuNDT-giá 1970) 53.075 327.559 - Tài sản cố định(triệu NDT) 33.660 319.340 - Vốn lưu động (triệu NDT giá hiện hành) 9.050 140.730 - Số CBCN bình quân hằng năm(nghìn người) 7.346 29.550 - Giá trị sản lượng/100 NDT vốn TSCĐ 158 103 - Giá trị sản lượng/100 NDT vốn lưu động 186 315 - Giá trị sản lượng/1 CBCNV 7225 11.085 Nguồn: Báo cáo Trung Quốc sau năm 1978 (Uỷ ban kế hoạch nhà nước Việt Nam 1988) Nhận xét: Giá trị tài sản cố định công nghiệp năm 1978 so với năm 1957 đã tăng lên 9 lần, nhưng sản lượng công nghiệp lại chỉ tăng lên 6 lần. Như vậy, hiệu quả đồng vốn đầu tư chỉ bằng 2/3 so với năm 1957. Cùng với thời điểm so sánh, số lượng lao động tăng gấp 4 lần, nhưng năng suất lao động lại chỉ được 50%. Sau một thời gian cải cách, mặc dù đã đạt được một số thành tựu nhất định, nhưng các xí nghiệp quốc doanh ở Trung Quốc vẫn ở tình trạng khốn đốn, vì thừa lao động, thiết bị lạc hậu, quản lý kém và nợ nần nghiêm trọng. Thể chế kế hoạch hoá tập trung ở Trung Quốc đã mất dần hiệu lực và nó không phù hợp với yêu cầu phát triển của nền kinh tế thị trường, từ đó đẩy nền kinh tế Trung Quốc lâm vào tình trạng khủng hoảng. Cải cách tổng thể cơ chế nền kinh tế Trung Quốc nói chung và khu vực DNNN nói riêng được đặt ra như một tất yếu không thể trì hoãn… 1.2. Các giải pháp cải cách DNNN ở Trung Quốc. 1.2.1. Tách quyền sở hữu nhà nước và quyền kinh doanh của DNNN. Trong thời kì kinh tế kế hoạch hoá tập trung ở Trung Quốc nhà nước vừa là chủ sở hữu vừa là cơ quan lập kế hoạch sản xuất kinh doanh cho các doanh nghiệp dẫn đến tình trạng hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp không gắn với thị trường mà chỉ nhằm hoàn thành kế hoạch nhà nước đã đề ra, không tính đến hiệu quả kinh doanh. Cải cách DNNN ở Trung Quốc đã tập trung vào việc phân định rõ vai trò của nhà nước và vai trò của DNNN thông qua việc tách quyền sở hữu và quyền kinh doanh nhằm thực hiện quyền tự chủ kinh doanh của DNNN. Trong giai đoạn 1978 –1984, Trung Quốc tiến hành thí điểm mở rộng quyền tự chủ kinh doanh đối với 66.000 DNNN. Trung Quốc một mặt chuyển từ chế độ cấp phát vốn đầu tư và vốn lưu động cho các doanh nghiệp trước đây thành các hình thức vay ngân hàng, mặt khác, Trung Quốc còn đẩy mạnh cải cách ở các lĩnh vực khác như: Mở rộng quyền lập kế hoạch sản xuất, quyền mua bán sản phẩm, quyền định giá, quyền sử dụng vốn, quyền trả lương, quyền sử dụng lao động…xây dựng một số đặc khu kinh tế như Thâm Quyến, Chu Hải, Sán Dầu, Hạ Môn, đây là những môi trường để mở rộng quyền tự chủ cho DNNN. Trong giai đoạn cải cách tiếp theo từ 1984 – 1992, Trung Quốc thực hiện chủ trương tăng cường sức sống cho các DNNN bằng cách tích cực đẩy mạnh viêc giao quyền cho các doanh nghiệp, tách quyền sở hữu khỏi quyền kinh doanh, phân định rõ chức năng của chính quyền và doanh nghiệp, phát huy đúng chức năng quản lý kinh tế của bộ máy chính quyền. Chính quyền các cấp không được trực tiếp làm công việc kinh doanh. Các doanh nghiệp trở thành một thực thể tương đối độc lập: lãi ăn, lỗ chịu, có khả năng cạnh tranh, tự cải tạo để phát triển và có tư cách pháp nhân. Nhà nước cũng giao trách nhiệm cho các doanh nghiệp qua các chế độ khác như khoán kinh doanh, chế độ nộp thuế… Từ năm 1992 đến nay, Trung Quốc đã đi sâu vào cải cách toàn diện DNNN, nhằm thực hiện hàng loạt quyền lợi của DNNN đã được quy định trong “Luật doanh nghiệp công nghiệp thuộc sở hữu toàn dân của Cộng hoà Nhân dân Trung Hoa”. Những quyền lợi đó là thực hiện một cách triệt để việc tách bạch giữa quan hệ nhà nước với doanh nghiệp để nhà nước tập trung vào chức năng quản lý vĩ mô, còn chức năng kinh doanh thuộc về doanh nghiệp. Hơn nữa, việc tách bạch này còn được thể chế hoá trong văn bản mang tính cưỡng chế là Luật khiến cho cả cơ quan nhà nước, cơ quan kinh tế, tổ chức xã hội phải tuân theo, sức mạnh của nó mang tính tổng hợp. Việc Trung Quốc thực hiện tách quyền sở hữu và quyền kinh doanh của DNNN một cách triệt để đã đem lại nhiều hệ quả như: đa dạng hoá quyền sở hữu và tiêu biểu là sự phát triển của chế độ cổ phần, di chuyển hợp lý và phối hợp tối ưu các yếu tố sản xuất, thúc đẩy viêc tạo lập môi trường kinh doanh ngoài quốc doanh … nhanh chóng đưa DNNN hoạt động trong cơ chế thị trường. Trên cơ sở đó Trung Quốc xúc tiến việc đi sâu cải cách nội bộ doanh nghiệp, thực hiện đầy đủ quyền làm chủ của doanh nghiệp trên nhiều phương diện. 1.2.2 Thực hiện sự tự chủ kinh doanh của DNNN. * Tự chủ về tài chính: Trong thể chế kế hoạch hoá tập trung ở Trung Quốc trước đây tài chính của doanh nghiệp được thực hiện theo cơ chế cấp phát, nếu doanh nghiệp bị thua lỗ thì nhà nước sẽ bù đắp, khi chuyển sang cơ chế thi thị trường, tự chủ về tài chính đối với doanh nghiệp là yêu cầu khách quan. Yêu cầu về tự chủ tài chính đòi hỏi DNNN phải thực hiện hoàn toàn kinh doanh theo nguyên tắc có lợi nhuận để tái sản xuất mở rộng. Doanh nghiệp có thể chủ động, tự chịu trách nhiệm trong việc huy động vốn từ nhiều nguồn để mở rộng quy mô sản xuất, đầu tư chiều sâu và tìm các biện pháp để sử dụng vốn có hiệu quả trong khuôn khổ pháp luật. DNNN phải biết tích tụ vốn biết vay, biết trả. Các chủ DNNN được phép linh hoạt về tài chính, chính phủ chỉ tiến hành kiểm tra, thanh tra khi phát hiện thấy doanh nghiệp có vấn đề. Sự can thiệp của chính phủ chủ yếu là việc tạo ra môi trường hành lang để hoạt động tài chính thuận lợi, phục vụ đắc lực và có hiệu quả cao nhất cho hoạt động sản xuất và trao đổi hàng hoá. Thực hiện chế độ quản lý vốn và tài sản trong các DNNN đã giúp cho các doanh nghiệp tăng cường quyền tự chủ tài chính, thông qua cơ chế vốn riêng của doanh nghiệp, từng bước đưa doanh nghiệp độc lập vào cạnh tranh thị trường, giảm bớt các chi phối về vốn của nhà nước, khuyến khích các doanh nghiệp tăng vốn, đó chính là nội dung cơ bản của tự chủ về tài chính của doanh nghiệp. Để ổn định tự chủ về tài chính, hoàn thiện quyền tự chủ kinh doanh, chương trình cải cách doanh nghiệp còn coi trọng việc cho phép các DNNN đó được tự chủ các mặt liên quan khác. * Tự chủ về lao động, tiền lương và phân phối thu nhập: Cải cách DNNN ở Trung Quốc đã coi trọng nội dung về tự chủ lao động. Năm 1979 Trung Quốc thực hiện thí điểm cải cách quản lý doanh nghiệp tại 8 doanh nghiệp tại 3 thành phố: Bắc Kinh, Thiên Tân, Thượng Hải, cho phép các doanh nghiệp lựa chọn, tuyển dụng nhân công và quyền khen thưởng, xử phạt, sa thải công nhân viên chức theo qui chế. Sau thời gian thực hiện nội dung này quyền tự chủ về lao động được mở rộng thêm. Doanh nghiệp có quyền tuyển chọn, sử dụng công nhân viên chức theo kế hoạch lao động của nhà nước, có quyền thưởng phạt dựa trên biểu hiện của các công nhân viên. Doanh nghiệp có quyền dựa vào nguyên tắc tinh giảm và nâng cao hiệu quả kinh tế, dựa trên nhu cầu thực tế để sắp xếp cơ cấu nhân sự và định mức biên chế của mình. Tự chủ về lao động theo yêu cầu cải cách DNNN ở Trung Quốc cũng đã đặt rõ yêu cầu làm chủ tiền lương và phân phối thu nhập. Trong thời kỳ 1978 –1984, Trung Quốc đã áp dụng văn bản “Quy định tạm thời về việc mở rộng tự chủ của doanh nghiệp công nghiệp nhà nước”, trong đó quy định doanh nghiệp có quyền dựa vào các chính sách hữu quan của nhà nước để xác định các hình thức tiền lương: lương theo thời gian, lương theo sản phẩm, phân phối tiền thưởng và sắp xếp phúc lợi…Giám đốc có quyền thưởng phạt đối với công nhân viên chức theo quy định của nhà nước. Từ năm 1992 đến nay, dựa trên cơ sở “ Luật doanh nghiệp công nghiệp thuộc sở hữu toàn dân của nước Cộng hoà Nhân dân Trung Hoa”, nhiều doanh nghiệp thuộc các thành phố: Thiên Tân, Thượng Hải, Hắc Long Giang đã sôi nổi kết hợp chặt chẽ đồng bộ quyền làm chủ lao động, tiền lương, bảo hiểm, hợp đồng lao động, cùng với những kinh nghiệm quản lý của các doanh nghiệp chung vốn nước ngoài, khiến cho viêc tự chủ của doanh nghiệp không ngừng được mở rộng. * Tự chủ về kế hoạch và thị trưòng: Suốt 30 sau khi thành lập nước Cộng hoà Nhân dân Trung Hoa, nền kinh tế Trung Quốc vận hành theo cơ chế kế hoạch hoá và tập trung cao độ, với chiến lươc ưu tiên phát triển công nghiệp nặng trong điều kiện khiên cưỡng, nhà nước phân bổ các nguồn lực một cách chủ quan, thực hiện hệ thống quản lý ngành theo chiều dọc và hệ thống hành chính theo chiều ngang ở địa phương, chức năng của hai hệ thống này không rõ ràng chồng chéo, gây ra tình trạng tranh giành quyền lực một cách phi kinh tế, làm triệt tiêu động lực phát triển của nền kinh tế, cơ chế thị trường bị thủ tiêu. Do đó một trong các nội dung qua trọng của cải cách DNNN ở Trung Quốc là từng bước thực hiện tự chủ kế hoạch và thị trường đối với các doanh nghiệp. Ngay từ khi bắt đầu cải cách mở cửa, Trung Quốc đã cho phép các doanh nghiệp có kế hoạch bổ sung dựa trên nhu cầu phát triển sản xuất và nhu cầu thị trường ngoài kế hoạch kinh tế mà nhà nước giao. Các doanh nghiệp có thể dựa vào chính sách giá cả do nhà nước quy định để tiêu thụ các sản phẩm sản xuất ngoài kế hoạch, hoặc có thể uỷ thác cho các ngành thương nghiệp, ngoại thương, vật tư tiêu thụ. Doanh nghiệp có quyền tham gia hoặc tổ chức hoạt động hợp tác kinh tế liên ngành, liên khu vực, có quyền chọn đối tác tổ chức hợp tác sản xuất hoặc mở rộng thị trường. 1.2.3. Đổi mới các hình thức tổ chức DNNN. * Công ty hoá: Cho rằng chế độ công ty là định hướng cần thiết cho cải cách DNNN, Trung Quốc tiến hành chuyển các DNNN đang hoạt động theo Luật xí nghiệp quốc hữu (ban hành năm 1998) đủ điều kiện theo quy định thành dạng công ty hoàn toàn vốn nhà nước hoạt động theo Luật công ty (ban hành năm 1993). + Về nguyên tắc Trung Quốc quy định rõ: - Công ty hoạt động độc lập. - Thực hiện dân chủ song trùng (dân chủ đối với người góp vốn, các cổ đông và công nhân viên chức) - Công khai hoá tài sản, thực hiện chế độ công khai định kỳ cho cá cổ đông về nợ đọng, vốn. - Trách nhiệm và quyền hạn rõ ràng. - Mở cửa để kết hợp kinh doanh. - Chuẩn mực hoá hành vi. - Nghiêm chỉnh chấp hành pháp luật. + Về hình thức, Trung Quốc chủ yếu áp dụng hai hình thức công ty: Công ty trách nhiệm hữu hạn: Công ty trách nhiệm hữu hạn có hai người trở lên hoặc hai cổ đông trở lên tổ chức ra; mỗi người góp vốn hoặc mỗi cổ đông chịu trách nhiệm đối với công ty theo số vốn của họ, toàn bộ số vốn không chia thành cổ phần bằng nhau, không phát hành cổ phiếu, thường phát hành giấy chứng nhận cổ phần. Theo pháp luật của Trung Quốc, người góp vốn hoặc cổ đông, có thể góp bằng tiền và cũng có thể góp bằng hiện vật, bằng quyền sở hữu công nghệ,quyền sở hữu kỹ thuật, quyền sử dụng đất. Công ty cổ phần hữu hạn: Hình thức công ty này hoạt động và tổ chức gần giống với công ty trách nhiệm hữu hạn. Điểm khác nhau giữa hai loại công ty này ở chỗ, trong các công ty cổ phần hữu hạn, toàn bộ vốn của công ty được chia thành nhữmg cổ phần bằng nhau, có phát hành cổ phần, có loại có thể mang ra giao dịch tại thị trường chứng khoán, cổ đông có thể mua một hoặc nhiều cổ phần và trách nhiệm của cổ đông cũng giới hạn trong số cổ phần đã mua. Đại hội cổ đông là cơ quan quyền lực cao nhất của các doanh nghiệp cổ phần Cho đến nay, Trung Quốc đã chuyển đổi được 10% số doanh nghiệp sang hoạt động theo Luật công ty. Đây thực chất là một định hướng đúng đắn, đã phân định rõ trách nhiệm của doanh nghiệp với tư cách là pháp nhân hoạt động kinh doanh và của nhà nước với tư cách là nhà đầu tư vốn vào kinh doanh; tách bạch rõ chức năng quản lý nhà nước và chức năng quản lý của chủ sở hữu. Đồng thời, làm tăng thêm tính chủ động, năng động trong kinh doanh của doanh nghiệp, khắc phục ỷ lại vào Nhà nước. * Cổ phần hoá: Bắt đầu từ những năm 80 trở đi, Trung Quốc đã tiến hành thí điểm thực hiện chế độ cổ phần. Hình thức thí điểm chế độ cổ phần ban đầu chủ yếu là trong nội bộ công nhân viên chức của doanh nghiệp hoặc những pháp nhân định hướng giữ cổ phần, sau này được mở rộng đối tượng ra để thu hút đầu tư. Quá trình thực hiện cổ phần hoá cũng là quả trình giải quyết vấn đề sở hữu tài sản đối với các DNNN. Căn cứ vào tính chất ngành nghề và mức độ phân bổ sở hữu cổ phần để quyết định tỷ lệ cổ phần của kinh tế nhà nước. Đối với các ngành sản xuất trụ cột và sản xuất cơ bản do nhà nước nắm cổ phần khống chế, đồng thời thu hút các thành phần ngoài quốc doanh tham cổ phần. Còn với các doanh nghiệp thuộc ngành chế biến thông thường có tính chất cạnh tranh trên thị trường, có thể phát hành cổ phiếu thu hút mọi thành phần xã hội tham gia đầu tư, trong đó nhà nước có thể tham gia cổ phần khống chế hoặc cổ phần thông thường. Với chế độ công ty cổ phần, trong đó các công ty do nhà nước nắm cổ phần khống chế có 3 hình thức: - Nhà nước nắm cổ phần khống chế đơn thuần. Tức là nhà nước chỉ đầu tư cổ phần mà không tham gia vào hoạt động sản xuất kinh doanh. Đối với các doanh nghiệp cơ cấu theo hình thức công ty cổ phần này thì nhà nước không thực hiện chỉ đạo mang tính chiến lược trong công ty vì mục đích của nhà nước là đầu tư để thu lợi nhuận, có lợi thì đầu tư không có lợi thì rút vốn. - Nhà nước nắm cổ phần khống chế hỗn hợp. Với hình thức này, nhà nước vừa đầu tư cổ phần vừa trực tiếp tham gia vào hoạt động sản xuất kinh doanh, hình thành nên các tập đoàn công ty, các Tổng công ty nhà nước. Nhà nước thông qua kinh doanh vốn, tham gia cổ phần, khống chế cổ phần của các doanh nghiệp khác để thúc đẩy hơn nữa việc phát triển sản xuất kinh doanh. - Nhà nước nắm cổ phần khống chế mang tính chiến lược. Loại công ty cổ phần này, nhà nước nắm cổ phần khống chế với tỷ lệ tuyệt đối đối với các công ty con mang tính chiến lược và nhà nước có quyền về nhân sự, quyền ra các quyết sách về đầu tư. Ngoài ra, khi các DNNN có đủ điều kiện cổ phần hoá có thể chuyển thành công ty cổ phần hữu hạn có nhiều chủ sở hữu. Trong các doanh nghiệp này, trách nhiệm của nhà nước sẽ được giới hạn tuỳ thuộc vào số cổ phần mà nhà nước tham gia. Trung Quốc cũng cho phép bán cổ phần của những doanh nghiệp này cho các nhà đầu tư nước ngoài với mức khống chế từ 30% - 50% cổ phần của công ty. * Sát nhập DNNN: Thực chất của việc sát nhập doanh nghiệp ở Trung Quốc là liên kết kinh tế theo chiều ngang nhằm thực hiện mục tiêu: Doanh nghiệp mạnh hơn, cơ cấu tổ chức của doanh nghiệp hợp lý hơn, phát huy cao hơn hiệu quả vốn và tài sản của doanh nghiệp, thúc đẩy các TĐKT lớn, có sức cạnh tranh quốc tế, hoà giải các khoản nợ có khả năng thanh toán. Hình thức sát nhập: sát nhập dưới hình thức gánh chịu nợ, sát nhập dưới hình thức hợp nhất. * Bán, giải thể, phá sản doanh nghiệp: Việc bán DNNN ở Trung Quốc chủ yếu áp dụng với các doanh nghiệp nhỏ, không thuộc các ngành huyết mạch quan trọng. Giữa những năm 90 số lượng doanh nghiệp vừa và nhỏ làm ăn thua lỗ nhiều, với chủ trương đa dạng hoá quyền sở hữu DNNN, đổi mới các hình thức DNNN, Trung Quốc đã khuyến khích bán một phần hoặc toàn bộ doanh nghiệp. Hiện nay Trung Quốc đã có chủ trương bán cả một số xí nghiệp lớn. Dựa theo luật phá sản của Trung Quốc, những doanh nghiệp phá sản phải là những doanh nghiệp thua lỗ nghiêm trọng, mất khả năng thanh toán các khoản nợ đến kỳ hạn, trình độ quản lý doanh nghiệp yếu kém. Nhưng khi thực hiện biện pháp phá sản Trung Quốc rất thận trọng vì nó động chạm đến cuộc sống của công nhân viên chức và an toàn xã hội. Đến năm 1996, chỉ có 6.000 doanh nghiệp được phá sản, so với thực tế thì con số này còn khá khiêm tốn. * Xây dựng chế độ DNNN hiện đại: Từ năm 1987, Uỷ ban cải cách thể chế nhà nước Trung Quốc trong quy hoạch trung hạn của cải cách thể chế kinh tế Trung Quốc (1988-1995) đã xác định rõ việc xây dựng chế độ doanh nghiệp hiện đại được coi là nhiệm vụ trọng tâm của công cuộc cải cách thể chế kinh tế ở Trung Quốc. Về bản chất chế độ doanh nghiệp hiện đại ở Trung Quốc có các đặc trưng sau: + Quan hệ về tài sản rõ ràng, tài sản nhà nước trong doanh nghiệp thuộc về nhà nước, doanh nghiệp trở thành thực thể pháp nhân độc lập, được hưởng quyền lợi và nghĩa vụ dân sự. + Doanh nghiệp với toàn bộ tài sản của mình, có quyền tự chủ kinh doanh theo pháp luật, tự chịu lỗ lãi, nộp thuế theo quy định, có trách nhiệm bảo toàn và tăng giá trị tài sản trước người bỏ vốn. + Người bỏ vốn, dựa trên mức vốn đầu tư vào doanh nghiệp được hưởng các quyền lợi chính: quyền lựa chọn người quản lý, quyền thu lợi tức từ tài sản, người bỏ vốn chịu trách nhiệm hữu hạn trong phần vốn của mình. + Nhà nước được coi là người bỏ vốn, không được can thiệp vào hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp và chỉ có thể quản lý gián tiếp doanh nghiệp với tư cách là một cổ đông. Doanh nghiệp tổ chức kinh doanh theo nhu cầu thị trường, tồn tại và đào thải trong cạnh tranh… + Xây dựng hệ thống lãnh đạo và chế độ tổ chức, quản lý doanh nghiệp khoa học, điều tiết mối quan hệ giữa người sở hữu, người kinh doanh và người lao động, xây dựng cơ chế ràng buộc. Cuối năm 1996, bước thí điểm được triển khai rộng khắp và đã thu được kết quả bước đầu. Theo thống kê đến cuối năm 1996, tổng giá trị tài sản của 100 doanh nghiệp thí điểm là 308,3 tỷ NDT, tăng hơn 15,5% so với năm 1995. Tỷ lệ nợ tài sản bình quân là 65,85%, giảm 2,11% so với năm 1995. Trong 100 doanh nghiệp thí điểm có 4 bệnh viện được tách ra do tổ chức xã hội đảm nhiệm, chi phí đã giảm 130.000 NDT. Ngoài ra 93.000 lao động dư thừa cũng được sắp xếp, như đào tạo lại 9.413 người, nghỉ hưu 2.300 người….100 doanh nghiệp thí điểm đã thành lập 584 công ty con, 310 công ty chi nhánh và 619 công ty tham gia cổ phần …Ngoài 100 doanh nghiệp thí điểm của trung ương, các tỉnh, khu tự trị và thành phố cũng chọn hơn 2.000 doanh nghiệp khác thí điểm toàn diện, xây dựng chế độ doanh nghiệp hiện đại. Kết quả thu được rất khả quan. 1.2.4. Tạo lập môi trường kinh doanh thuận lợi cho DNNN. * Không ngừng bổ sung, hoàn thiện cơ sở pháp lý kinh doanh thuận lợi cho DNNN. Để cải cách DNNN phát triển thuận lợi, nhanh chóng và đúng hướng, nhà nước Trung Quốc đã rất coi trọng việc tạo hành lang pháp lý, tiến dần từ thấp đến cao, từ trung ương đến địa phương. Đặc biệt, từ năm 1988 trở lại đây, nhà nước Trung Quốc đã ban hành các đạo luật nhằm tạo ra môi trường kinh doanh thuận lợi thúc đẩy các DNNN hoạt động theo cơ chế thị trường. “Luật doanh nghiệp công nghiệp sở hữu toàn dân của nước Cộng hoà Nhân dân Trung Hoa” được thông qua ngày 23/4/1988 quy định khá cụ thể những quyền lợi của DNNN, hưóng dẫn DNNN chuyển đổi sang cơ chế thị trường phù hợp với định hướng phát triển kinh tế xã hội của Trung Quốc. Quá trình chuyển đổi cơ chế kinh doanh đối với xí nghiệp công nghiệp thuộc sở hữu toàn dân, đòi hỏi phải có luật về hình thức tổ chức, do đó, tháng 7/1994 “Luật công ty nước Cộng hoà Nhân dân Trung Hoa” ra đời. Trong đạo luật công ty đã xác định hai hình thức công ty: công ty trách nhiệm hữu hạn và công ty cổ phần hữu hạn. Hai hình thức công ty trên vừa phù hợp với hình thức tổ chức kinh tế thị trường hiện đại, vừa phù hợp với yêu cầu chuyển dịch từ DNNN hoạt động trong nền kinh tế kế hoạch hoá sang nền kinh tế thị trường XHCN ở Trung Quốc. Trong tiến trình cải cách, vấn đề lập pháp, xây dựng một hệ thống luật pháp hoàn chỉnh tạo cơ sở cho sự phát triển kinh tế theo đúng định hướng luôn được DNNN Trung Quốc quan tâm. Vì thế cho tới nay hệ thống pháp luật của Trung Quốc vẫn không ngừng được hoàn thiện để phù hợp với hoạt động ngày càng đa dạng và phức tạp của các DNNN, cũng như các thành phần kinh tế khác trong nền kinh tế thị trường mang đặc sắc Trung Quốc. * Phối hợp sử dụng đồng bộ các chính sách vĩ mô: + Về chính sách thuế: Mục tiêu cơ bản của chính sách thuế là thông qua thể chế quản lý và cơ chế vận hành thuế, thực hiện chuẩn mực quan hệ phân phối giữa nhà nước và doanh nghiệp, giữa trung ương và địa phương, tạo lập thể chế tài chính có lợi cho các doanh nghiệp cạnh tranh một cách bình đẳng và tăng nguồn thu ngân sách một cách ổn định. Thực hiện mục tiêu này, từ năm 1983, chính phủ Trung Quốc chủ trương chuyển các khoản lợi nhuận sang thuế lợi tức, nghĩa là, số lợi nhuận sau khi trừ thuế được chia thành hai phần: một phần xí nghiệp được giữ lại để phát triển sản xuất, phần còn lại nộp theo tỷ lệ nhất định . Đến năm 1994, Trung Quốc có quy định mới cho các doanh nghiệp thống nhất nộp 33% thuế lợi tức, trong 33% này, 30% mức thuế của toàn quốc, còn 3% là mức thuế của địa phương, riêng doanh nghiệp liên doanh chỉ nộp 24%. Bên cạnh đó, Quốc vụ viện đã chủ trương xoá bỏ thuế doanh thu và áp dụng hàng loạt thuế mới: thuế giá trị gia tăng, thuế xuất nhập khẩu, thuế tài nguyên và thuế lợi tức. Trung Quốc cũng đã xúc tiến đổi mới cơ chế quản lý thu thuế hiệu quả và hiện đại hơn theo hướng: - Xây dựng phương thức nộp thuế giản đơn, khoa học và từng bước đưa vào quy pháp các biểu thuế. - Xây dựng hệ thống quản lý giám sát bằng mạng vi tính. - Xây dựng hệ thống kiểm tra giữa nhân công và máy vi tính. - Tinh giản, hiệu quả bộ máy nghiệp vụ và quản lý thuế. Nhìn chung việc xây dựng hệ thống thuế và cơ chế quản lý thu thuế ngày càng hợp lý, khoa học hơn, đã giúp ngăn chặn hiện tượng thất thu thuế, thất thoát tài sản nhà nước, đặc biệt trong DNNN cũng như giúp cho DNNN phát huy tính chủ động, sáng tạo định hướng đầu tư, sử dụng vốn, tài sản nhà nước hợp lý và hiệu quả, từ đó thúc đẩy tiến độ cải cách DNNN ở Trung Quốc. + Về chính sách giá cả: Để tạo sự đồng bộ trong sự vận hành của DNNN cổ phần hoá theo cơ chế thị trường, Trung Quốc đã tiến hành cắt giảm dần hầu hết các khoản bao cấp qua giá đối với DNNN. Đặc biệt từ ngày 29/01/1997, chính phủ Trung Quốc đã có chủ trương cho các doanh nghiệp, các nhà kinh doanh được quyền định giá hàng hoá và dịch vụ, tiến tới xây dựng một chế độ giá mới, phù hợp với cơ chế thị trường. Nhà nước chỉ còn quản lý một số mặt hàng, dịch vụ có tính chất quan trọng ảnh hưởng đến sự phát triển của nền kinh tế quốc dân và đời sống của người dân. Chủ trương trên đã tạo điều kiện thuận lợi để doanh nghiệp nói chung và DNNN nói riêng tự chủ, chủ động và bình đẳng trong sản xuất kinh doanh, đồng thời qua đó cũng giảm bớt gánh nặng trợ cấp tài chính của nhà nước, từng bước xoá bỏ những dấu ấn của chế độ bao cấp trong DNNN. + Về chính sách lãi suất: Trung Quốc chủ trương giảm mức lãi suất ngân hàng để hỗ trợ DNNN nhà nước tăng năng lực về vốn, đáp ứng yêu cầu mở rộng sản xuất. Cụ thể, trong hai năm 1996-1997 Trung Quốc đã ba lần thực hiện giảm lãi suất ngân hàng và tiếp tục điều chỉnh mức lãi suất một cách linh hoạt, phù hợp với sự biến động của thị trường, Trung Quốc cũng đã dành 12 tỷ USD để xoá các khoản nợ khó dòi cho DNNN. Bên cạnh đó, chính phủ Trung Quốc xúc tiến tách hệ thống ngân hàng chính sách và ngân hàng thương mại, lập ngân hàng xuất khẩu, từng bước điều chỉnh tỷ giá hối đoái chính thức sát với tỷ giá thị trường tự do, dần dần thực hiện chế độ một tỷ giá và phát triển thị trường tín dụng, tiền tệ để giúp cho các doanh nghiệp tiếp cận được với thị trường vốn trong xã hội, thu hút được các nguồn vốn rộng rãi thông qua các kênh như phát hành cổ phiếu trái phiếu….phát triển thị trường tín dụng tiền tệ. 1.3. Những thành tựu chủ yếu của cải doanh nghiệp Nhà nước ở Trung Quốc từ 1978 đến nay. 1.3.1. Tăng sức cạnh tranh của DNNN, góp phần ổn định kinh tế vĩ mô. Nhìn một cách tổng quát, từ khi Trung Quốc tiến hành cải cách DNNN, khu vực kinh tế nhà nước đã có những chuyển biến khá mạnh mẽ và góp phần ổn định tích cực vào sự phát triển ổn định và nhanh chóng của nền kinh tế nói chung. Về giảm số lượng các DNNN : Qua hơn 20 năm tiến hành cải cách, số lượng DNNN của Trung Quốc đã giảm xuống một cách đáng kể, cụ thể từ 348.000 DNNN trong đó có 4.400 DNNN cỡ lớn, với chính sách “nắm lớn buông nhỏ”, Trung Quốc chỉ giữ lại một 1.000 doanh nghiệp 100% vốn nhà nước, trong đó có 512 doanh nghiệp cỡ lớn làm trọng điểm. Trung Quốc quan niệm việc giảm tỷ trọng DNNN không làm ảnh hưởng đến tính chất XHCN, vai trò chủ đạo của kinh tế nhà nước, mà ngược lại còn tạo điều kiện để nhà nước tập trung đầu tư vào các ngành trọng điểm, từ đó sẽ làm tăng thêm vị trí kinh tế nhà nước. Về tăng giá trị sản lượng: Chỉ tính riêng về công nghiệp, giá trị sản lượng công nghiệp do khu vực DNNN tạo ra năm 1990 đạt 1306,38 tỷ NDT, đến năm 1995 đã tăng xấp xỉ 2,5 lần, đạt 3121,97 tỷ NDT. Về tốc độ tăng trưởng: Từ năm 1981 đến năm 1995, tốc độ tăng trưởng bình quân hàng năm của tổng giá trị sản lượng công nghiệp của Trung Quốc là 14,9%. Trong đó công nghiệp nhà nước đạt 7,8 %, công nghiệp tập thể là 19,9%, công nghiệp cá thể là 85%, các loại hình công nghiệp khác là 50,5%. Nếu so sánh tốc độ tăng trưởng của khu vực kinh tế nhà nước thì kém xa so với các thành phần kinh tế khác nhưng tỷ lệ tăng trưởng bình quân hàng năm 7,8% vẫn được coi là đạt tốc độ tăng trưởng kinh tế cao. Năm 1996, GDP của Trung Quốc là 6.800 tỷ NDT, trong đó kinh tế nhà nước là 2.800 tỷ (chiếm 41% GDP); kinh tế tập thể là 2.400 tỷ NDT (chiếm 35% GDP); kinh tế phi nhà nước là 1.600 tỷ NDT (chiếm 24% GDP). Trong giai đoạn 1991- 1996, giá trị gia tăng của công nghiệp nhà nước hạch toán độc lập tăng bình quân 10,5% mỗi năm. Các DNNN đóng góp tới 60% ngân sách nhà nước. Hiệu quả của cải cách DNNN không chỉ thể hiện ở tốc độ phát triển sản xuất mà còn thể hiện ở vấn đề tài chính và lợi nhuận. Năm 1999, 11 ngàn xí nghiệp công nghiệp nhà nước cỡ vừa và cỡ lớn đã thu lợi nhuận tổng cộng là 48,2 tỷ NDT, tăng gấp 2.4 lần so với năm 1998, trong đó các xí nghiệp có lãi thực hiện doanh thu 97,5 tỷ NDT tăng 24% so với năm 1997, còn các xí nghiệp bị lỗ đã giảm bớt 15% mức thua lỗ. Hơn nữa, việc chuyển lỗ sang lãi ở các xí nghiệp trọng điểm đã có tiến độ rõ rệt, trong 6.599 xí nghiệp công nghiệp nhà nước khống chế cổ phần vừa và lớn bị thua lỗ cuối năm 1997, đến năm 1999 đã có 3.211 đơn vị thực hiện chuyển lỗ sang lãi. Từ tháng 1- 6 năm 2000 các DNNN và các xí nghiệp do nhà nước không chế cổ phần vừa và lớn đã thu lợi nhuận 90,3 tỷ NDT tăng gấp 3,06 lần so với năm 1999. đến cuối tháng 6 năm 2000 đã có 3.626 đơn vị doanh nghiệp tháo gỡ được khó khăn chiếm 55% tổng số xí nghiệp bị thua lỗ. Theo kết quả điều tra của Trung Quốc ở 31 tỉnh, khu tự trị và thành phố, thì có 26 tỉnh, thành có số doanh nghiệp nhà nước, doanh nghiệp nhà nước khống chế cổ phần đạt hiệu quả tốt hơn trước, trong đó đáng chú ý là Liêu Ninh, An Huy, Quảng Tây, Thanh Hải, Ninh Hạ mức độ giảm thua lỗ tới 50%. Đại bộ phận các ngành nghề có chuyển biến rõ rệt về hiệu quả. Các ngành như công nghiệp hoá chất, dầu mỏ cơ khí, điện tử, công nghiệp nhẹ, công nghiệp dệt …tình hình được cải thiện rõ rệt, như tăng lợi nhuận, chuyển từ lỗ sang lãi hoặc giảm lỗ. Chẳng hạn như ngành dệt có những bước đột phá, như năm 1997, toàn ngành lỗ 7,2 tỷ NDT, năm 1998 lỗ 1,9 tỷ NDT, nửa đầu năm 1999 lỗ 1,2 tỷ NDT, tháng 6 năm 1999, thực hiện được lợi nhuận 390 triệu NDT về cơ bản đã chuyển từ lỗ sang lãi. Ngành đường sắt là ngành thua lỗ nghiêm trọng sau ngành dệt cũng có chuyển biến tốt: năm 1997 lỗ 3,7 tỷ NDT, năm 1998 lỗ 2,2 tỷ NDT, năm 1999 chuyển lỗ thành lãi, thực hiện sớm hơn một năm so với dự kiến. Cùng với những thành tựu nêu trên, môi trường bên ngoài của DNNN cũng được cải thiện rõ rệt, hệ thống bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế, bảo hiểm thất nghiệp, bảo hiểm tai nạn lao động xã hội đang dần dần được hoàn thiện. Năm 1999, mức thu phí bảo hiểm cả năm của Trung Quốc đã lên tới 139,3 tỷ NDT (bao gồm cả cơ cấu doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài) tăng 10,2% so với năm trước. Gánh nặng nợ của DNNN từng bước được giải quyết. Đối với các doanh nghiệp có cổ phiếu trên thị trường còn được bổ sung vốn thông qua huy động vốn tại thị trường chứng khoán. Tính đến tháng 5/1998 tại hai sở giao dịch chứng khoán Thượng Hải và Thâm Quyến có 791 công ty tham gia giao dịch, tổng số giao dịch vượt 223,6 tỷ NDT, số cổ phần đã lưu thông là 74,4 tỷ cổ phần, có 105 doanh nghiệp phát hành cổ phiếu ở đại lục để gọi vốn ở nước ngoài, và 43 doanh nghiệp phát hành cổ phiếu ở nước ngoài để gọi vốn. Tổng số vốn huy động trên thị trường cổ phiếu khoảng 316 tỷ NDT. Cải cách DNNN đã góp phần đảm bảo yêu cầu ổn định cuộc sống cơ bản của công nhân viên. Năm 1999, nâng cao 30% tiền bảo hiểm thất nghiệp đảm bảo mức sống tối thiểu của dân cư thành thị, tiền lương hưu công nhân viên chức được cải thiện và đã thanh toán dứt điểm tiền dưỡng lão DNNN nợ giai dẳng của công nhân viên DNNN. Tổng chi phí các loại trên là 54 tỷ NDT lấy từ ngân sách nhà nước và có hơn 84 triệu người được hưởng các chế độ trên. Tái tạo việc làm trong xã hội đã có bước tiến mới. Riêng cuối năm 1998 và năm 1999 số công nhân viên rời DNNN là 5,64 triệu người, nhưng lại thông qua con đường tái tạo có việc làm là 4,92 triệu người. 1.3.2. Đa dạng hoá quyền sở hữu. Quá trình cải cách từng bước chuyển DNNN từ chế độ sở hữu độc quyền nhà nước sang đa dạng hoá quyền sở hữu, lấy chế độ công hữu làm chủ thể. Trung Quốc đã xây dựng được một nền kinh tế nhiều thành phần, xoá bỏ sự độc quyền của nhà nước không phải bằng cách tư nhân hoá như Nga và các nước Đông Âu mà là giảm số lượng các xí nghiệp quốc doanh, tạo điều kiện cho khu vực ngoài quốc doanh phát triển nhanh hơn khu vực quốc doanh. Việc giảm số lượng của xí nghiệp quốc doanh không có nghĩa là từ bỏ vị trí chủ đạo của kinh tế quốc doanh. Trung Quốc đạt tốc độ tăng trưởng kinh tế cao trong khi vẫn duy trì vị trí chủ đạo của kinh tế quốc doanh, các xí nghiệp quốc doanh vẫn là nguồn thu chủ yếu của ngân sách và chiếm một tỷ trọng cao trong tổng sản phẩm công nghiệp. Tính đến cuối năm 1998, Quốc vụ viện Trung Quốc đã chuyển hơn 200 chức năng xuống cho các địa phương, doanh nghiệp và các tổ chức trung gian xã hội, đồng thời cũng điều chỉnh chuyển dời hơn 100 chức năng giữa các bộ các ngành. Các đơn vị sản xuất kinh doanh của các cơ quan Đảng, quân đội, công an và các cơ quan pháp luật được chuyển cho địa phương. Chỉ tính riêng năm 1998, thực hiện cải cách cơ cấu chính quyền các bộ, ngành, Quốc vụ viện đã bàn giao lại hơn 20 chức năng các loại, điều chỉnh và cắt giảm đối với các bộ, ngành kinh tế chuyên ngành, để không còn trực tiếp can thiệp vào quản lý các doanh nghiệp như trước đây. Mặt khác, Quốc vụ viện còn quyết định xây dựng chế độ đặc phái viên, thay mặt nhà nước kiểm tra tài khoản doanh nghiệp tại 92 doanh nghiệp nhà nước trọng điểm. DNNN từng bước chuyển từ chỗ chỉ trông chờ vào các khoản cấp phát trước đây cho doanh nghiệp sang doanh nghiệp vay ngân hàng và chủ động thu hút các nguồn vốn xã hội trong và ngoài nước thông qua thị trường vốn, ý thức làm chủ của doanh nghiệp trong hoạt động sản xuất kinh doanh và tự quản lý đồng vốn ngày càng được tăng cường. Quá trình cải cách DNNN ở Trung Quốc được thực hiện dần dần từng bước, Trung Quốc đã không chủ trương đột ngột cắt giảm hoàn toàn mối liên hệ kinh tế giữa các doanh nghiệp với kế hoạch truyền thống. Trong quá trình cải cách các DNNN, nhà nước vẫn ít nhiều, trực tiếp hoặc gián tiếp tiếp tục trợ cấp cho các ngành thuộc khu vực kinh tế nhà nước. Các hình thức tài trợ bao gồm trợ cấp tài chính và trợ cấp thông qua các khoản vay với lãi suất thấp và các khoản vay không lãi…hoặc bao tiêu sản phẩm ở thời kì đầu cải cách. Đặc biệt hệ thống quản lý tài sản nhà nước đã hoàn thiện hơn, nhờ đó trong quá trình cổ phần hoá, tài sản nhà nước ít bị thất thoát hơn. Trên thực tế bước chuyển dần như vậy đã giúp các DNNN tiếp cận vào kinh doanh theo cơ chế thị trường, vừa ổn định vừa phát triển, củng cố được vai trò DNNN trong nền kinh tế quốc dân. 1.3.3. Xây dựng chế độ doanh nghiệp hiện đại. Trung Quốc đã hoàn thành việc thí điểm và xây dựng được khung cơ bản về chế độ doanh nghiệp hiện đại. Hội nghị trung ương Đảng cộng sản Trung Quốc lần thứ nhất khoá XV(ngày 16/9/1997) đã quyết định: “Trong thời gian ba năm, thông qua cải cách, cải tổ, cải tạo và tăng cường quản lý, làm cho đại đa số doanh nghiệp nhà nước lớn và vừa thoát khỏi khó khăn, phấn đấu đến cuối thế kỉ này đại đa số doanh nghiệp loại lớn và vừa bước đầu xây dựng được chế độ doanh nghiệp hiện đại”. Từ năm 1994, Trung Quốc đã chọn ra 100 doanh nghiệp tiến hành thí điểm xây dựng chế độ doanh nghiệp hiện đại. Qua thí điểm, bước đầu đã dựng nên cơ cấu quản lý pháp nhân tương đối tuân thủ theo quy trình của doanh nghiệp hiện đại, đẩy mạnh tiến trình đa dạng hoá chủ thể đầu tư doanh nghiệp. Các doanh nghiệp thí điểm nhìn chung đều tăng cường thực lực, nâng cao sức sống, tìm ra một số biện pháp hữu hiệu giải quyết được những khó khăn chủ yếu. Trong số 100 doanh nghiệp thí điểm thì bình quân vốn vay trước thí điểm là 67%, sau giảm xuống 65%, tổng vốn tăng trưởng trên 40%. Ngoài các doanh nghiệp nhà nước chọn làm thí điểm còn có 1.989 doanh nghiệp cải cách theo chế độ công ty, có 1080 doanh nghiệp đổi thành công ty trách nhiệm hữu hạn, hoặc công ty cổ phần, hay công ty cổ phần hữu hạn. Có thể nói, thông qua quá trình cải cách, cải tổ, tăng cường quản lý doanh nghiệp, bước đầu Trung Quốc đã xây dựng khung cơ bản về chế độ doanh nghiệp hiện đại phù hợp với đặc điểm của Trung Quốc, đồng thời thông qua cải cách xây dựng được chế độ trách nhiệm hữu hạn, doanh nghiệp hoạt động theo nguyên tắc tự chủ kinh doanh, đa nguyên hoá chủ thể đầu tư. Những doanh nghiệp xây dựng chế độ doanh nghiệp hiện đại đã thực sự tăng cường được thực lực, nâng cao sức sống, thực hiện cạnh tranh theo cơ chế thị trường. Đặc biệt cần nhấn mạnh rằng, thành công trong cải cách DNNN còn ở chỗ Trung Quốc đã tìm đúng mắt xích trong cải cách DNNN, đó chính là chủ trương “ nắm cái lớn, buông cái nhỏ”. Nhà nước đã thiết lập được những tập đoàn kinh tế mạnh của nhà nước trong những ngành nghề quan trọng, những lĩnh vực then chốt của nền kinh tế quốc dân Đây là cơ sở để nhà nước điều hành kinh tế vĩ mô, điều chỉnh hoạt động của các doanh nghiệp khác và toàn bộ nền kinh tế cũng như để xây dựng lực lượng chủ yếu trong cạnh tranh quốc tế. Chương 2 mô hình tập đoàn kinh tế của Trung Quốc 2.1. khái quát chung về tập đoàn kinh tế nhà nước của Trung Quốc 2.1.1. Khái niệm và vai trò của tập đoàn kinh tế đối với sự phát triển kinh tế của mỗi quốc gia. Hiện nay chưa có một định nghĩa thống nhất giữa các quốc gia về TĐKT. Tuỳ theo điều kiện, trình độ phát triển kinh tế, môi trường xã hội và hệ thống luật pháp, TĐKT cũng khác nhau về hình thức tổ chức, cũng như trình độ và cấp độ liên kết nội bộ. Tuy nhiên tựu chung lại, có thể định nghĩa TĐKT như sau: Đó là tổ hợp lớn các doanh nghiệp có tư cách pháp nhân hoạt động trong một ngành hay những ngành khác nhau, có quan hệ với nhau về vốn, tài chính, công nghệ, thông tin, đào tạo, nghiên cứu và liên kết khác xuất phát từ lợi ích của các doanh nghiệp tham gia liên kết, trong đó thường có một “công ty mẹ”nắm quyền lãnh đạo, chi phối hoạt động của “công ty con” về tài chính và chiến lược phát triển . Thực tế cho thấy TĐKT đóng vai trò hết sức quan trọng trong nền kinh tế của mỗi quốc gia, đặc biệt là đối với các nước đang phát triển. Vai trò đó được thể hiện trên các mặt sau: - Sự hình thành và phát triển của các TĐKT làm tăng khả năng kinh tế của cả tập đoàn và các công ty thành viên, nó cho phép các nhà quản lý kinh doanh huy động được tất cả các nguồn lực trong xã hội để phục vụ việc phát triển kinh tế, việc tập trung các công ty vào trong một đầu mối làm cho họ có điều kiện thuận lợi khi cạnh tranh với các tập đoàn nước ngoài. - Đối với các nền kinh tế mới phát triển, nền công nghiệp trong nước còn manh mún thì các TĐKT là một biện pháp hữu hiệu để chống sự thâm nhập một cách ồ ạt của các công ty khổng lồ trên thế giới và giúp cho sản xuất trong nước có thể đứng vững và từng bước vươn ra được các thị trường khu vực và thế giới. - Các TĐKT sẽ khắc phục được khả năng hạn chế về vốn của từng công ty riêng lẻ, việc các tập đoàn có công ty tài chính sẽ cho phép thống nhất trong tích tụ và tập trung vốn; khi có nguồn vốn lớn các tập đoàn sẽ đầu tư vào các dự án có hiệu quả cao nhất, từ đó sẽ góp phần tăng nguồn thu và thúc đẩy nền kinh tế phát triển. - TĐKT có tác dụng rất lớn trong việc cung cấp trao đổi thông tin và những kinh nghiệm quan trọng trong tổ chức nghiên cứu ứng dụng khoa học, công nghệ vào sản xuất. Sự hợp tác về nghiên cứu ứng dụng khoa học công nghệ trong tập đoàn còn cho phép các công ty thành viên có khả năng nhanh chóng đưa các kết quả nghiên cứu vào thực tiễn trên một quy mô rộng lớn hơn, nâng cao hiệu quả của hoạt động nghiên cứu ứng dụng và thu hồi vốn nhanh. Nhờ đó các tập đoàn giảm được hao mòn vô hình, sự thống nhất trong việc nhập các thiết bị sẽ tránh trùng lắp và có thể chỉ cần một số loại thiết bị trong một dây chuyền, giảm chi phí và tránh bị ép giá. Sự thống nhất trong tập đoàn sẽ góp phần thúc đẩy chuyển giao công nghệ ra nước ngoài cũng như việc thay đổi cơ cấu sản xuất một cách hợp lý. Nó là cầu nối để tiếp thu nhanh chóng các thành tựu khoa học trên thế giới, làm thu hẹp khoảng cách về trình độ giữa các nước chậm phát triển, thúc đẩy công nghiệp hoá và hiện đại hoá các nền kinh tế. - Việc hình thành các TĐKT sẽ làm thay đổi bộ mặt xã hội cho từng địa phương hay một quốc gia, nó giải quyết được việc làm cho một phần dân cư tại khu vực, làm chuyển dịch cơ cấu kinh tế và chuyên môn hoá các ngành nghề, thúc đẩy phát triển các đặc khu kinh tế, các khu công nghiệp và làm tăng khả năng lớn mạnh của nền kinh tế. 2.1.2. Quan điểm của chính phủ Trung Quốc về hình thành và phát triển tập đoàn kinh tế. Tập đoàn kinh tế Trung Quốc theo quan điểm của Trung Quốc là: Tổ chức kinh tế có kết cấu tổ chức nhiều cấp, nó đáp ứng đòi hỏi của nền sản xuất hàng hoá xã hội chủ nghĩa và của nền sản xuất xã hội hoá. Doanh nghiệp nòng cốt của nó là nòng cốt của tập đoàn, là thực thể kinh tế có tư cách pháp nhân, tự chủ kinh doanh, hạch toán độc lập, tự chịu trách nhiệm đối với kết quả kinh doanh. Bằng các hình thức nắm giữ cổ phần khống chế, tham gia cổ phần, hiệp tác, doanh nghiệp nòng cốt gắn bó với một loạt doanh nghiệp ở mức độ chặt chẽ nửa chặt chẽ và liên kết lỏng lẻo. Những doanh nghiệp này đều có tư cách pháp nhân độc lập. Như vậy quan điểm của các nhà lãnh đạo và các doanh nghiệp Trung Quốc về TĐKT là nhất quán và tương đối đồng nhất với quan điểm chung trên thế giới. Năm 1978, khi Trung Quốc bắt đầu thực hiện cải cách DNNN đồng chí Đặng Tiểu Bình đã vạch ra rằng: “ Thành lập tập đoàn kinh tế thì sẽ tạo ra được sức mạnh, thông tin thông suốt, nhanh nhạy hơn”. Muốn nâng cao tố chất chỉnh thể của DNNN thì không những phải cải cách từng doanh nghiệp riêng lẻ, mà còn phải căn cứ vào yêu cầu xã hội hoá, để liên hiệp các doanh nghiệp lại với nhau, lập ra các tập đoàn kinh tế, tạo ra cơ cấu tổ chức tốt hơn giữa các doanh nghiệp. Nếu nói rằng kinh doanh theo chiều sâu mà chủ yếu là nâng cao trình độ kinh doanh trong nội bộ doanh nghiệp thì liên kết các doanh nghiệp lại với nhau, đặc biệt là thành lập ra các tập đoàn kinh tế là nâng cao trình độ tổ chức lực lượng sản xuất trong phạm vi xã hội. Chỉ có phát triển theo hướng tập đoàn hoá thì các DNNN mới thực sự trở thành vật tải lực lượng sản xuất hiện đại, mới trở thành chủ thể thứ nhất của nền kinh tế thị trường, mới có thể triệt để phát huy được lợi thế của mình. Trung Quốc cho rằng đổi mới về thể chế tổ chức doanh nghiệp, hình thành nên các TĐKT có thể khắc phục được các bất cập của thị trường trong quá trình chuyển đổi kinh tế, do quá trình phát triển nền kinh tế thị trường ở Trung Quốc vẫn đang tiếp tục, nên các chức năng của thị trường vẫn còn yếu kém và đôi khi phải chịu nhiều phí tổn. Bằng việc hình thành các tập đoàn kinh tế, mỗi doanh nghiệp thành viên có thể tận dụng các thông tin tốt hơn, có khả năng đối phó với những rủi ro đi kèm với cơ cấu thị trường chưa phát triển và có khả năng tiếp cận với các khoản tín dụng mà bình thường phải rất tốn kém hoặc không thể có được. Điều quan trọng hơn là việc thành lập các tập đoàn kinh tế có thể tạo điều kiện cho quá trình cải cách DNNN khi việc tư nhân hoá hàng loạt không phải là giải pháp được lựa chọn. Đồng thời các tập đoàn có thể nâng cao năng lực cạnh tranh của các doanh nghiệp Trung Quốc so với các tập đoàn đa quốc gia khi tham gia vào tổ chức thương mại thế giới (WTO). Nền kinh tế Trung Quốc là nền kinh tế thị trường xã hội chủ nghĩa, với sự hoạt động của nhiều thành phần kinh tế khác nhau trong đó thành phần kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ đạo. Muốn làm được điều này phải có các doanh nghiệp nhà nước thực sự lớn mạnh, hoạt động theo mô hình tập đoàn kinh tế thay thế cho hình thức tổ chức doanh nghiệp nhà nước kém hiệu quả đã tồn tại trong một thời gian dài. Do vậy cần phải xây dựng các tập đoàn kinh tế theo hướng đa sở hữu trong đó sở hữu nhà nước chiếm tỷ trọng lớn. Việc hình thành và phát triển tập đoàn kinh tế là một vấn đề lớn ảnh hưởng đến trên nhiều phương diện kinh tế, chính trị, văn hoá, xã hội…do vậy Trung Quốc chủ trương tiến hành thực hiện từng bước. Nhà nước sẽ tiến hành thử nghiệm nhằm xác định được mô hình quản lý hiệu quả đồng thời áp dụng và điều chỉnh linh hoạt các chính sách qua từng thời kỳ nhằm tạo điều kiện cho các tập đoàn kinh tế phát triển. 2.1.3. Những đặc điểm của tập đoàn kinh tế nhà nước của Trung Quốc. * Đặc điểm về cơ cấu tổ chức. Đặc điểm đầu tiên và nổi bật nhất thể hiện ở chỗ các TĐKT ở Trung Quốc là những cụm doanh nghiệp có mối quan hệ chặt chẽ đan xen giữa các doanh nghiệp thành viên trong đó lấy chế độ công hữu về TLSX làm chủ thể. Các doanh nghiệp nòng cốt, các doanh nghiệp ở cấp độ trực tiếp của tuyệt đại đa số các TĐKT lấy chế độ sở hữu toàn dân hoặc sở hữu tập thể về TLSX làm chủ thể, không giống như các TĐKT ở các nước tư bản lấy chế độ sở hữu tư nhân làm chủ thể. Đặc điểm thứ hai, là các tập đoàn được tổ chức trên cơ sở tự nguyện , cùng có lợi, cùng phát triển, không phải theo phương thức “cá lớn nuốt cá bé” của các nước tư bản. Các TĐKT Trung Quốc ra đời trong điều kiện một mặt là, giữa các doanh nghiệp có sự thống nhất về lợi ích căn bản, mặt khác trên thực tế thì tài sản của các DNNN là tài sản của các doanh nghiệp thuộc chính quyền địa phương, thuộc các ngành, cho nên giữa các doanh nghiệp ấy có sự khác nhau về lợi ích. Do vậy, các doanh nghiệp Trung Quốc liên hiệp với nhau trên cở sở được các chính quyền các cấp và các ngành hướng dẫn bằng chính sách, chỉ đạo theo quy hoạch, bắc cầu, tổ chức phối hợp , tự nguyện liên kết, cùng có lợi, cùng phát triển, đồng thời thông qua các hình thức thôn tính, sát nhập, mua cổ phiếu, thầu, thuê để giao dịch, chuyển nhượng có bồi hoàn về quyền sử dụng doanh nghiệp hoặc quyền kinh doanh. ở Trung Quốc việc thôn tính, sáp nhập, thầu, thuê doanh nghiệp và mô hình cổ phần khác một cách căn bản ở các nước tư bản ở chỗ đông đảo công nhân viên chức ở các doanh nghiệp bị thầu, thuê, bị nắm giữ cổ phần khống chế vẫn là chủ nhân của doanh nghiệp, chẳng những quyền lợi của họ được pháp luật bảo vệ, được bố trí sắp xếp thích đáng trong phạm vi tập đoàn mà còn được nhiều thực lợi hơn, như những sự đãi ngộ về tiền lương, tiền thưởng, phúc lợi, bảo hộ lao động…dần được nâng cao. Đặc điểm thứ ba, là mục đích của việc thành lập TĐKT của nhà nước, của các đơn vị thành viên và của công nhân, viên chức về cơ bản là thống nhất với nhau. Đặc điểm này xuất phát từ tính chất của chế độ XHCN ở Trung Quốc. Chính quyền các cấp căn cứ vào đòi hỏi khách quan của sự phát triển kinh tế để hướng dẫn các DNNN tăng cường liên kết, hợp tác, lấy dài bù ngắn, bổ sung lợi thế cho nhau, phát huy tốt hơn nữa tác dụng của các yếu tố lực lượng sản xuất, nâng cao hiệu quả kinh tế, nâng cao đời sống công nhân viên chức. Chính quyền các cấp là người đại biểu cho quyền sở hữu tài sản tại các doanh nghiệp có vai trò quan trọng trong việc giao dịch quyền sử dụng tài sản trên thị trường quyền sử dụng tài sản. Một là, căn cứ vào quy hoạch phát triển kinh tế và xã hội để định ra chính sách ngành nghề, hướng dẫn việc lưu động và phân phối hợp lý tài nguyên, thúc đẩy việc tổ chức lại các yếu tố sản xuất một cách hợp lý. Hai là, căn cứ vào nguyên tắc xác định quyền tài sản để định ra quy tắc quản lý thị trường, cung cấp các dịch vụ pháp luật, công chức quản lý hành chính, bảo đảm cho giao dịch diễn ra bình thường. Ba là, cung cấp thông tin, thúc đẩy hạ giá thành giao dịch, thúc đẩy giao dịch có kết quả, giúp cho việc nâng cao hiệu qủa và ngạch giao dịch. Bốn là, khi cần thiết thì dùng các biện pháp hành chính, pháp luật và kinh tế để điều tiết giao dịch quyền sử dụng tài sản, bảo vệ lợi ích của nhà nước, ngăn chặn các hành vi làm tổn hại đến lợi ích của nhà nước. * Đặc điểm về mô hình tổ chức. Hình thức thứ nhất, là TĐKT tổng hợp nhiều cấp: Đây là loại TĐKT nắm trong tay nhiều lĩnh vực: khoa học công nghệ, thương mại, tài chính, dịch vụ và lấy vốn làm nút liên kết chủ yếu. Chúng được tổ chức thành 4 cấp, thực hiện nhất thể hoá kinh doanh bằng cách thôn tính, sáp nhập, xoá bỏ tư cách pháp nhân của các doanh nghiệp cũ “lập ra TĐKT trong đó công ty có tư cách pháp nhân làm nòng cốt (tức là công ty mẹ) bằng cách nắm giữ cổ phần khống chế, thầu khoán, thuê các doanh nghiệp có liên quan, doanh nghiệp nòng cốt sẽ nắm quyền lãnh đạo đối với các doanh nghiệp này trong việc đưa ra các quyết sách về nhân lực, vật lực, sản xuất, cung ứng, tiêu thụ….biến chúng thành những doanh nghiệp ở cấp dưới trực tiếp (tức là công ty con) của tập đoàn. Các doanh nghiệp này vẫn bảo lưu tư cách pháp nhân của chúng, tiến hành các hoạt động sản xuất kinh doanh một cách độc lập tương đối. Bằng cách tham dự cổ phần, doanh nghiệp nòng cốt biến những doanh nghiệp có tư cách pháp nhân này thành các doanh nghiệp ở cấp nửa trực tiếp (tức là công ty cháu) của tập đoàn; thông qua việc ký kết hợp đồng với những doanh nghiệp có quan hệ tương đối chặt chẽ về nghiệp vụ doanh nghiệp ở cấp nòng cốt, xây dựng quan hệ hiệp tác với các doanh nghiệp này biến chúng thành các doanh nghiệp ở cấp lỏng lẻo (tức là công ty chắt của) tập đoàn. Tóm lại: Loại TĐKT này phần nhiều là các tổ chức liên hiệp giữa các pháp nhân doanh nghiệp, bản thân tập đoàn không phải là tổ chức pháp nhân. Nó giúp điều chỉnh kết cấu tổ chức doanh nghiệp, bổ sung lợi thế cho nhau, sử dụng hiệu quả, hợp lý các yếu tố sản xuất, kinh doanh đa dạng, cùng có lợi…. Hình thức thứ hai, là tập đoàn theo mô hình liên kết dây chuyền: Loại này chủ yếu là tổ chức liên hiệp lỏng lẻo, lấy sản xuất làm nút liên kết. Chúng thường lấy một doanh nghiệp lớn làm nòng cốt của Tập đoàn, lấy sản phẩm nổi tiếng độc đáo của Tập đoàn này làm đặc trưng, áp dụng hình thức chuyên môn hoá, hiệp tác sản xuất kinh doanh thúc đẩy lực lượng sản xuất phát triển. Hình thức thứ ba, là Tập đoàn phối hợp đồng bộ: Loại Tập đoàn lấy hợp đồng đồng bộ nhận thầu công trình làm nút liên kết. Chúng hình thành chủ yếu dựa vào một số doanh nghiệp công nghiệp lớn, đơn vị nghiên cứu, thiết kế, lấy việc liên doanh nhận thầu đồng bộ hạng mục công trình lớn làm hình thức chủ yếu. Dưới sự lãnh đạo của hội đồng giám đốc, doanh nghiệp đầu đàn loại lớn tổ chức thành công ty liên doanh thống nhất, lớn mạnh, lập ra các đơn vị thành viên có tư cách pháp nhân nhằm đạt được mục tiêu vì lợi ích chung. Hình thức thứ tư, là Tập đoàn hoà nhập nghiên cứu khoa học với sản xuất kinh doanh: Lấy liên kết phát triển kỹ thuật mới làm nút liên kết. Loại tập đoàn này lấy những đơn vị nghiên cứu khoa học trong cùng ngành hoặc xí nghiệp công nghiệp lớn làm chủ thể, bổ sung cho nhau lợi thế khoa học kỹ thuật và vốn nhằm phát triển sản phẩm kỹ thuật cao từ đó chế tạo sản phẩm có giá trị cao, nâng cao năng lực cạnh tranh. Hình thức thứ năm, là Tập đoàn liên kết mạng lưới cùng ngành: Đây là hình thức biến tướng của những liên hiệp các xí nghiệp đặc biệt lớn có cùng ngành nghề, nó xuất hiện khi cải cách thể chế kinh tế kế hoạch. Chúng chính là sản phẩm của sự cải cách thể chế liên doanh cũ thành Tập đoàn liên kết màng lưới cùng ngành, gồm nhiều hình thức sở hữu, nhiều khu vực trong đó chế độ công hữu làm chủ thể. Hình thức thứ sáu, là Tập đoàn theo mô hình cổ phần: Loại TĐKT này lấy công ty của nhà nước có thực lực rất mạnh nắm giữ cổ phần khống chế làm nòng cốt. Doanh nghiệp nòng cốt thể hiện sự khống chế của mình với doanh nghiệp khác bằng cách mua cổ phần hoặc các doanh nghiệp, các nhà đầu tư trong và ngoài nước, các cá nhân khác…tự nguyện tham gia tập đoàn bằng hình thức tham dự cổ phần. Toàn bộ tập đoàn lấy tài sản dưới hình thức cổ phần làm nút liên kết, hình thành thể liên hợp các pháp nhân, triển khai hoạt động sản xuất kinh doanh theo hình thức cổ phần. * Đặc điểm về hoạt động kinh doanh và quản lý điều hành của TĐKT Trung Quốc. Chiến lược hoạt động tác nghiệp của các TĐKT Trung Quốc là đa dạng hoá, sản xuất kinh doanh theo chiều sâu và tiến tới quốc tế hoá. Các TĐKT không chỉ là những Tập đoàn xuyên vùng, xuyên ngành mà còn nhiều hình thức, nhiều chức năng sản xuất, thương mại, nghiên cứu khoa học, vận tải, tài chính, dịch vụ… Nó thể hiện khá rõ ở chỗ: Một là, các doanh nghiệp thành viên được chuyên môn hoá, tổ chức quản lý phân công sâu sắc với nhiều chi nhánh, nhiều cấp độ. Hai là, sản phẩm đa dạng hoá, sản xuất hàng loạt, sản xuất các sản phẩm và dịch vụ liên quan xoay quanh sản phẩm chuyên biệt có lợi thế. Ba là, biện pháp kinh doanh đa dạng với nhiều hình thức phong phú như: liên kết đầu tư, đầu tư 100% vốn, liên kết kinh doanh, kinh doanh chặt chẽ, nửa chặt chẽ, lỏng lẻo… Xu hướng kinh doanh quốc tế hoá, xuyên quốc gia hoá cũng được các TĐKT ở Trung Quốc chú trọng từ rất sớm. Năm 1988, được Quốc vụ viện chính thức phê chuẩn, Tổng công ty xuất nhập khẩu công nghiệp hoá chất bắt đầu làm thử kinh doanh quốc tế hoá, chuyển từ chuyên doanh xuất nhập khẩu sang kinh doanh đa ngành đồng thời cũng là “doanh nghiệp đầu tiên bước lên vũ đài cạnh tranh quốc tế ”. Tính đến cuối năm 1991, TĐKT Hoá chất Trung Quốc đã thành lập 54 chi nhánh ở các nơi trên thế giới, đạt mức doanh thu 35 tỷ USD, đầu tư ra nước ngoài 200 triệu USD, có lượng tích luỹ kinh doanh quốc tế 12,3 tỷ USD, thu ngoại tệ cho nhà nước 11,6 tỷ USD, nộp ngân sách 10,8 tỷ NDT. Tổng đầu tư vào mỏ sắt Slana ở áo là 280 triệu đồng tiền áo, trong đó Tổng công ty xuất nhập khẩu luyện kim Trung Quốc góp 40% vốn (đây là mức đầu tư cao nhất Trung Quốc tại thời điểm đó vào một hạng mục nước ngoài). Những năm gần đây, với ảnh hưởng mạnh mẽ của xu hướng mở cửa, hội nhập, các TĐKT Trung Quốc đã nhanh chóng vươn ra thị trường quốc tế, ví dụ: Công ty gang thép Bắc Kinh đã mua 70% cổ phần của công ty công trình Maxta (Mỹ) – một xí nghiệp luyện kim nổi tiếng thế giới, tạo nên một ưu thế mới trong cạnh tranh quốc tế; Công ty đầu tư tín dụng quốc tế của Trung Quốc hợp tác với ba công ty của Nhật Bản lập ra công ty thương mại chung vốn tại Tokyo; Ngân hàng Trung Quốc bắt tay với ngân hàng nước ngoài lập ra Doanh nghiệp tài chính chung vốn ở Hồng Kông… Đó là số ít trong những con số minh chứng cho sự phát triển xuyên quốc gia mạnh mẽ của các TĐKT Trung Quốc. Cũng với chính sách mở cửa, cải cách rất “thông thoáng” như hiện nay, đồng thời với việc Trung Quốc ra nhập WTO chắc chắn các TĐKT Trung Quốc sẽ còn tiến nhanh, mạnh và vững chắc trên con đường hội nhập quốc tế của mình. Về quản lý và cơ chế điều hành trong TĐKT Trung Quốc cũng tương đối phức tạp với nhiều hình thức khác nhau, có thể khái quát thành ba dạng chủ yếu sau: Loại thứ nhất: Đối với TĐKT có quy mô cực lớn, thi trường hướng nội, thường áp dụng hình thức công ty – tập đoàn, thể chế quản lý hai cấp đối với công ty con. Công ty tập đoàn là một cổ đông lớn, thông qua việc nắm giữ cổ phần khống chế và hội đồng quản trị để nắm quyền quản lý vỡi công ty con. Loại thứ hai: TĐKT có quy mô tương đối lớn, thị trường hướng ngoại, thường áp dụng thể chế quản lý ba cấp, kết hợp tập quyền và phân quyền,nhưng trên thực tế các phòng nghiệp vụ là cầu nối công ty mẹ đối với công ty con. Loại thứ ba: Là những TĐKT quy mô không lớn, thị trường hướng ngoại, thường áp dụng thể chế quản lý kiểu song song, ở trong nước thì có 2 cấp Công ty tập đoàn – công ty con; ở nước ngoài thì quản lý kiểu 3 cấp, Công ty tập đoàn – phòng nghiệp vụ ở nước ngoài – công ty con. *So sánh mô hình TĐKT của Trung Quốc với TĐKT của một số nước Châu á khác. - Mô hình TĐKT của Hàn Quốc : Đầu những năm 70 của thế kỷ XX, để thúc đẩy nhanh chóng tiến trình công nghiệp hoá, Chính phủ Hàn Quốc đã tăng cường đáng kể vai trò can thiệp của mình vào quá trình kinh tế. Trọng điểm là tập trung đầu tư phát triển các ngành công nghiệp nặng và hoá chất đồng thời hình thành các tổ hợp công nghiệp lớn (thường gọi là các Chaebol): Có hai yếu tố dẫn đến sự phát triển của Chaebol là vay nợ nước ngoài và những ưu đãi đặc biệt của chính phủ. Với nguồn vốn hạn hẹp trong nước chính phủ Hàn Quốc đã dựa vào nguồn vốn nước ngoài và cấp vốn cho một số doanh nghiệp để đạt được những mục tiêu tăng trưởng kinh tế. Sự phát triển kinh tế ở Hàn Quốc thực chất là dựa vào “ Chủ nghĩa tư bản mệnh lệnh”. Theo phương thức này, hệ thống doanh nghiệp tự do được chính phủ khuyến khích và chịu sự can thiệp gián tiếp. Điều đó có nghĩa là chính phủ giành quyền kiểm soát các dự án và hướng các Chaebol vào thực hiện các dự án đặc biệt. Chính phủ đảm bảo việc thanh toán nợ nước ngoài trong trường hợp doanh nghiệp đó không giành được quyền vay nợ từ các ngân hàng trong nước. Hơn nữa, chính phủ còn ưu đãi giá cả, chính sách thu nhập, chính sách thuế cho các Chaebol. Dưới sự giúp đỡ mở rộng của chính phủ hầu hết các ngân hàng đều được lệnh cung cấp nhiều vốn hơn nữa cho các Chaebol. Ngoài ra , những ưu đãi đặc biệt về ngoại thương cũng được áp dụng, chính phủ còn thực hiện các biện pháp ưu đãi khác như, cho vay bằng ngoại tệ, trợ cấp tài chính quota xuất khẩu. Cơ cấu Chaebol: Trước hết, Chaebol là sở hữu gia đình. Hầu hết các Chaebol đều có nguồn gốc từ gia đình quy mô nhỏ, trong một ngành công nghiệp cụ thể, sau này, khi đã hoạt động kinh doanh trên quy mô lớn mối quan hệ gia đình và theo đẳng cấp vẫn được duy trì. Mọi quyết định quan trọng đều được chỉ định ở cấp cao nhất. Mỗi Chaebol đều có vai trò chi phối các thành viên khác trong hội đồng chủ tịch. Mối quan hệ giữa người quản lý và công nhân không phải là mối quan hệ giai cấp mà là “quan hệ cha con”. Quyền kiểm soát Chaebol được truyền từ thế hệ này sang thế hệ khác. Đặc thù về quy mô và hoạt động tác nghiệp: Tiềm lực của các Chaebol lớn mạnh tới mức họ kiểm soát cả lĩnh vực kinh tế, chính trị, xã hội và những lĩnh vực phi kinh tế. Đầu thập kỷ 90 của thế kỷ 20, 30 Chaebol lớn nhất Hàn Quốc chiếm tới 90% GDP Hàn Quốc. 4 Chaebol lớn nhất là Huyndai, Samsung, LG, Deawoo chiếm tới 84% GDP và 60% giá trị xuất khẩu của Hàn Quốc. Xét về quy mô, các Chaebol không chỉ gây ảnh hưởng trong nước mà còn trên phạm vi toàn cầu. Ngay thời kỳ đầu thực hiện công nghiệp hoá, nhiều Chaebol đã vươn ra thị trường quốc tế và khẳng định vai trò vị trí của chúng. Ví dụ Huyndai có 45 công ty chi nhánh ở nước ngoài, tổng số tài sản 54,6 tỷ USD, doanh số kinh doanh 75 tỷ USD, là một tập đoàn sản xuất ôtô lớn nhất, đóng tàu lớn nhất và là một trong những công ty xây dựng hàng đầu Hàn Quốc; Samsung là một tập đoàn lớn thứ 12 trên thế giới, có 140 chi nhánh ở nước ngoài, sản xuất trên 3000 mặt hàng khác nhau, là công ty sản xuất chất bán dẫn, điện tử, thương mại, bảo hiểm lớn nhất Hàn Quốc. Deawoo có khoảng 1000 chi nhánh ở nước ngoài, hiện chiếm khoảng 10% thị phần các sản phẩm điện tử, ôtô trên thị trường thế giới và phát triển mạnh khắp các châu lục. Các nhà kinh doanh Hàn Quốc quan niệm rằng mỗi Chaebol có ít chi nhánh mà lại có mặt ở tất cả các ngành công nghiệp thì phạm vi quốc tế hoá sẽ rộng hơn rất nhiều so với các Chaebol có nhiều chi nhánh mà chỉ tập trung vào một số ngành công nghiệp. Tóm lại: Phạm vi hoạt động của các Chaebol là vô cùng rộng lớn và đa dạng, nó hoạt động ở mọi lĩnh vực kinh tế, sản xuất, kinh doanh từ những sản phẩm nhỏ nhất như cái kim, sợi chỉ đến những ngành công nghiệp bậc cao, các ngành công nghiệp điện tử, hàng không, vũ trụ, đến các ngành tài chính, bảo hiểm… -Mô hình TĐKT của Đài Loan: ở Đài Loan phần lớn các công ty, tập đoàn có quy mô vừa và nhỏ là chủ yếu, chiếm tới 98% về số lượng và 70% lao động, tạo ra hơn 50% GNP. Số lượng các tập đoàn lớn không nhiều nhưng chúng cũng đã đóng góp những thành tựu đáng kể cho nền kinh tế phát triển. Đài Loan chủ yếu hình thành “Thể chế trung tiểu doanh nghiệp ” lấy trung tiểu doanh nghiệp làm trung tâm của tăng trưởng kinh tế. Như vậy, thể chế doanh nghiệp vừa và nhỏ xuất hiện ở Đài Loan mang tính lịch sử tất yếu, do ảnh hưởng của nhiều yếu tố. Cơ cấu sản xuất trong thời gian dài sau chiến tranh đều là lấy loại hình sản xuất tập trung lao động làm chủ yếu trong phát triển, thích ứng với vốn và kỹ thuật thấp, thích hợp với quy mô tương đối nhỏ của Đài Loan lúc đó, tức là không cần nhiều vốn và kỹ thuật mà vẫn xây dựng được nhà xưởng, đầu tư sản xuất và xuất khẩu. Phần lớn các xí nghiệp, tập đoàn Đài Loan đều thuộc gia tộc. Hiện nay có khoảng trên 100 xí nghiệp gia tộc lớn, được xây dựng trong quan hệ huyết thống. Riêng tổng doanh thu của 4 tập đoàn: Lâm Viên, Hoà Tín, Đài Tố, Tâm Quang đã đạt 25.000 tỷ đài tệ, chiếm 1/3 tổng tài sản của 100 tập đoàn kinh tế lớn. Thành công của các xí nghiệp, tập đoàn trên là do họ rất coi trọng vai trò của việc xây dựng thể chế tập đoàn. Thể chế này có vai trò quyết định sự thành bại đối với hoạt động kinh doanh của tập đoàn. Điển hình ở Đài Loan là tập đoàn Trung Cương, được hình thành từ năm 1971, áp dụng cách quản lý theo tinh thần chữ “ái” kiểu nho gia, và “kỷ luật sắt” kiểu pháp gia đã mang lại kết quả bước đầu trong hoat động sản xuất kinh doanh. Đặc biệt công tác quản lý theo tinh thần chữ “ái”, lấy xưởng làm nhà, lấy xưởng làm trường học…và luôn áp dụng 4 phương pháp: tinh thần quên mình, lấy mình làm gương, quan tâm đến công nhân viên, yêu cấp dưới như con, đã tạo nên sự gắn bó giữa các thành viên trong tập đoàn. Tuy nhiên ai vi phạm kỷ luật sẽ bị xử phạt không chút nơi tay và luôn lấy kỷ luật làm nền tảng quán triệt chấp hành, nên thúc giục mọi người phải làm việc hết mình. Do vậy tập đoàn đã xây dựng được thể chế quản lý linh hoạt như: chế độ tiền thưởng đã khuyến khích được công nhân viên, phúc lợi ưu đãi đã hấp dẫn được nhân tài ưu tú, tạo điều kiện cho mọi người đều được hưởng các quyền lợi, tạo nên sự gắn kết trên dưới một cách chặt chẽ. Phương pháp tự quản được thực hiện, tức là quản lý từ dưới lên, không dựa vào mệnh lệnh, mà trong phạm vi công tác cá nhân phát hiện đề xuất rồi tìm cách giải quyết. Nó tạo cho con người tính tự giác, tự giải quyết vấn đề trong việc làm rất cao. Qua chế độ quản lý của tập đoàn ở Đài Loan ta thấy được sự duy trì của mối quan hệ gia đình, huyết thống rất chặt chẽ. Do đó quyền lực của chủ tịch tập đoàn bị hạn chế nhiều so với các Chaebol của Hàn Quốc. Như vậy, có thể thấy sự khác biệt lớn nhất giữa TĐKT của Trung Quốc với TĐKT của TĐKT của Hàn Quốc và Đài Loan đó là vấn đề sở hữu của các tập đoàn. Các TĐKT Trung Quốc thuộc sở hữu nhà nước hoàn toàn hoặc công ty mẹ trong tập đoàn là DNNN, do vậy mọi hoạt động kinh doanh của tập đoàn đều hướng đến mục tiêu hiệu quả kinh tế xã hội, tập đoàn trở thành phương tiện để nhà nước điều tiết kinh tế vĩ mô, nhà nước gián tiếp thông qua tập đoàn để định hướng phát triển kinh tế. Trong khi đó TĐKT ở Hàn Quốc và Đài Loan đều thuộc sở hữu gia đình. Các Chaebol ban đầu là các tổ hợp công nghiệp thuộc sỡ hữu gia đình nhờ sự “ cưng chiều” của chính phủ mà phát triển nhanh chóng và trở thành lực lượng nòng cốt đưa nền kinh tế Hàn Quốc phát triển hùng mạnh. Nhưng chính sự cưng chiều của chính phủ Hàn Quốc đã làm nảy sinh những tác động không tốt của Chaebol đối với nền kinh tế như: làm mất cân đối cơ cấu kinh tế, bất chấp trách nhiệm xã hội và nảy sinh tệ quan liêu. “Bàn tay hữu hình” của chính phủ trong quá trình công nghiệp hoá đã đem lại sức mạnh cho các Chaebol, tạo nên sự độc quyền thị trường dẫn tới sự thải loại các công ty vừa và nhỏ khỏi nền kinh tế. Những ưu đãi mà chính phủ Hàn Quốc đưa ra cho các Chaebol là tập trung phần lớn sinh lực và tài nguyên quốc gia vào tay một nhóm người trong xã hội, tạo nên sự bất bình đẳng và những bất ổn trong nền kinh tế. Sự phá sản cuả các Chaebol từ năm 1997 đến nay là kết quả tất yếu của tư tưởng quy mô hoá và đa dạng hoá, dẫn đến sự khủng hoảng trong các khoản vay và thanh toán tín dụng và phá vỡ những lợi thế tương đối “giả tạo” mà chính phủ đã đưa ra cho các Chaebol. Ngược lại trong khi Hàn Quốc quá chú trọng đến sự phát triển cảu các Chaebol thì Đài Loan phổ biến phát triển các xí nghiệp vừa và nhỏ có mói quan hệ mật thiết với các tập đoàn lớn, trong đó lấy tập đoàn lớn làm bộ khung và các xí nghệp vừa và nhỏ là chủ thể. Chính vì vậy trong cuộc khủng hoảng tài chính tiền tệ vừa qua nền kinh tế Đài Loan vẫn tăng trưởng 6% và các xí nghiệp vẫn tiếp tục mở rộng sản xuất, ít chịu ảnh hưởng của cuộc khủng hoảng. Cũng từ những ưu nhược điểm của các mô hình TĐKT như vậy chính phủ Trung Quốc đã phát triển những TĐKT của nhà nước đồng thời sử dụng chúng như một chỗ dựa cho hệ thống doanh nghiệp vừa và nhỏ trong nước, đây có thể coi là ưu điểm vượt trội của các TĐKT Trung Quốc. Tuy nhiên, xét về tiềm lực kinh tế và khả năng cạnh tranh quốc tế thì các TĐKT của Trung Quốc vẫn thua kém các TĐKT của các nước trên. Do các TĐKT của nhà nước vốn xuất thân từ một thành phần kinh tế kém năng động nhất lại được đặt trong môi trường cạnh tranh ngày càng cao nên chưa thể một bước thực hiện được mục tiêu lý tưởng mà chính phủ Trung Quốc đã đề ra. Hơn nữa ngay trong quá trình hình thành và phát triển TĐKT ở Trung Quốc cũng tồn tại nhiều vấn đề cần khắc phục. 2.2. Thực trạng hình thành và phát triển tập đoàn kinh tế nhà nước của Trung Quốc. 2.1.2. Các nguyên tắc thành lập tập đoàn. Tập đoàn được thành lập với mục đích tăng cường hiệu quả quản lý, nâng cao khả năng cạnh tranh, tranh thủ những lợi thế về quy mô và kết hợp các ưu thế của sự chuyên môn hoá với hoạt động kinh doanh da dạng.Với đặc điểm nền kinh tế thị trường XHCN, Trung Quốc đề ra nguyên tắc thành lập thành lập đoàn là: + Trong những ngành, lĩnh vực không mở cửa, không cho phép nước ngoài hoặc khu vực tư nhân đầu tư thì có thể thành lập một số tập đoàn để tránh độc quyền và tăng chất lượng sản phẩm, hiệu quả hoạt động tốt, không cho phép chỉ lập một tập đoàn hoặc một Tổng công ty trong một ngành (vì dẫn đến độc quyền) + Trong những ngành, lĩnh vực có tính cạnh tranh cao (tức là cho phép nước ngoài hoặc khu vực tư nhân cùng đầu tư với DNNN) hoặc ngành, lĩnh vực cần chiếm lĩnh thị trường nước ngoài thì có thể cho phép thành lập một tập đoàn kinh tế mà nhà nước giữ địa vị chi phối. + Công ty mẹ trong tập đoàn phải là một doanh nghiệp lớn có vốn đăng ký trên 100 triệu NDT và có ít nhất 5 công ty thành viên. + Ưu tiên lựa chọn những doanh nghiệp thuộc những ngành nghề, lĩnh vực quan trọng, giữ vị trí then chốt trong nền kinh tế quốc dân để phát triển thành các tập đoàn kinh tế. 2.2.2. Các giải pháp, chính sách đối với việc hình thành và phát triển tập đoàn kinh tế nhà nước. Trong thời kì đầu của cải cách doanh nghiệp, chính phủ Trung Quốc đã nhận thấy tầm quan trọng của sự hợp tác giữa các doanh nghiệp trong sản xuất, marketing và đổi mới công nghệ. Điều này là để thích ứng với sự phân tách nặng nề về ngành và thị trường giữa các cơ quan hành chính nhà nước. Các hoạt động trong nhiều ngành thường được thực hiện theo kế hoạch chứ không phải là hoạt động tự thân của các doanh nghiệp, do đó không cần phải có các tập đoàn kinh tế. Kể từ khi thực hiện cải cách, hệ thống kế hoạch hoá tập trung bắt đầu bị phá bỏ cùng với mức độ cải cách kinh tế và mở cửa ngày càng sâu rộng, Trung Quốc đã thực hiện một số biện pháp nhằm sớm hình thành và phát triển TĐKT. * Thúc đẩy liên kết và hợp tác kinh tế giữa các doanh nghiệp nhà nước. Từ đặc điểm chung của các tập đoàn kinh tế trên thế giới là có quy mô lớn về vốn, lao động, phạm vi hoạt động rộng, các doanh nghiệp trong tập đoàn liên kết với nhau thông qua vốn, sản phẩm công nghệ, chiến lược phát triển…Trung Quốc đã thực hiện các biện pháp để thúc đẩy liên kết và hợp tác kinh tế giữa các doanh nghiệp DNNN nhằm hình thành nên các tập đoàn kinh tế. Trong giai đoạn đầu cải cách khi hệ thống luật pháp về doanh nghiệp chưa hoàn thiện, chính phủ Trung Quốc đã sử dụng các biện pháp hành chính để bắt buộc các doanh nghiệp sáp nhập lại với nhau. Đây thường là các doanh nghiệp nhà nước đã có sẵn mối liên kết theo ngành từ trước nhưng cũng có khi chính phủ dựa trên nhu cầu, định hướng của nền kinh tế để sáp nhập các doanh nghiệp không cùng ngành lại với nhau. Để tập đoàn kinh tế hoạt động thực sự hiệu quả sự tự nguyện, cùng có lợi giữa các bên tham gia là yếu tố quyết định. Năm 1993, Trung Quốc đã ban hành luật công ty, nhằm “thiết lập hệ thống DNNN hiện đại với quyền và trách nhiệm về tài sản được xác định rõ ràng; tách bạch DNNN khỏi quản lý nhà nước với cơ cấu quản lý hiện đại phù hợp với nền kinh tế thị trường”. Theo đó các doanh nghiệp nhà nước đang hoạt động theo luật xí nghiệp quốc hữu (1988) đủ điều kiện sẽ được chuyển sang hoạt động theo mô hình công ty hoàn toàn vốn nhà nước. Sở dĩ Trung Quốc lựa chọn giải pháp công ty hoá là vì công ty là hình thức căn bản của doanh nghiệp hiện đại có ưu điểm là có thể khắc phục được các khuyết điểm của các doanh nghiệp nhà nước trước đây. Điều đó được thể hiện qua các điểm sau: - Công ty hoá với nghĩa rộng bao gồm chế độ cổ phần mà chế độ cổ phần có nhiều hình thức, ngoài ra còn có các hình thức công ty khác (như công ty trách nhiệm hữu hạn do nhà nước đầu tư 100% vốn) có thể được làm hình thức quá độ tiến tới thực hiện chế độ cổ phần và lập ra công ty cổ phần hữu hạn. - ưu điểm lớn nhất là nó thúc đẩy quan hệ quyền tài sản trở nên rõ ràng, rành mạch. Công ty cổ phần hữu hạn, công ty trách nhiệm hữu hạn có hai người trở lên góp vốn đều phải lấy sự rõ ràng, rành mạch về quyền tài sản làm tiền đề. - Công ty hoá doanh nghiệp nhà nước có lợi cho việc thu hút tài sản của các doanh nghiệp khác hoặc tham gia vào các doanh nghiệp khác kể cả công ty do nhà nước đầu tư 100% vốn (do quyền sở hữu cuối cùng và quyền sở hữu pháp nhân đã được phân định rõ ràng). Cho nên các doanh nghiệp có thể thu hút các pháp nhân khác tham gia vào doanh nghiệp của mình, từ đó trở thành công ty trách nhiệm hữu hạn có cổ phần pháp nhân, hoặc tham gia vào công ty khác, góp cổ phần, các doanh nghiệp đan xen nhau. Điểm quan trọng hơn là nó có thể thật sự phát triển các tập đoàn kinh tế, thống nhất chỉ huy các doanh nghiệp tham gia tập đoàn thông qua sự kết tụ và ràng buộc về quan hệ tài sản. Biện pháp cổ phần hoá cũng được áp dụng nhằm tạo điều kiện cho các DNNN mở rộng quy mô. Các DNNN sau khi cổ phần hoá, tiếp tục tham gia cổ phần, nắm giữ cổ phần khống chế, hình thành chuỗi công ty mẹ – công ty con – công ty cháu. Đặc biệt là công ty đầu tư tài sản nhà nước có thực lực hùng hậu là công ty mẹ của một số công ty lớn (hoặc một số doanh nghiệp cổ phần), bằng cách nắm giữ quyền sở hữu cổ phần chủ yếu nó kiểm soát các công ty lớn. Các công ty lớn cũng dùng phương thức ấy để kiểm soát các công ty con công ty cháu. Có trường hợp Trung Quốc cải tạo cơ quan chủ quản của ngành cũ thành công ty có tư cách pháp nhân kinh tế, cổ phần hoá ngân hàng chuyên ngành thành doanh nghiệp cổ phần, hoặc thành lập doanh nghiệp cổ phần mới…Do chúng đều là các pháp nhân độc lập cho nên quan hệ với nhau không phải là quan hệ hành chính mà là quan hệ quan hệ kinh tế thuần tuý giữa các pháp nhân bình đẳng, là quan hệ kiểm soát cổ phần giữa công ty mẹ và công ty con. Như vậy công ty hoá và cổ phần hoá đều thích ứng với đòi hỏi của nền sản xuất xã hội hoá, giúp cho việc hình thành hệ thống kết cấu mạng, cấu trúc lực lượng sản xuất theo chiều dọc và chiều ngang, hình thành nên các tập đoàn kinh tế. * Thực hiện các chính sách ưu đãi, hỗ trợ. Các TĐKT nhà nước được chính phủ Trung Quốc linh hoạt áp dụng các chính sách ưu đãi nhằm tạo điều kiện cho các doanh nghiệp này không ngừng lớn mạnh. Trung Quốc thành lập Uỷ ban trung ương các doanh nghiệp lớn nhằm tách rời các tập đoàn kinh tế với các cơ quan hành chính của chính phủ. Chúng trở thành những đơn vị lập kế hoạch độc lập không phụ thuộc vào cơ quan hành chính địa phương và các cơ quan nhà nước khác. Dưới sự bảo lãnh của ngân hàng các tập đoàn kinh tế nhà nước được phép thành lập các công ty tài vụ, cho phép tăng khả năng huy động vốn trong toàn bộ tập đoàn. Các tập đoàn kinh tế mới thành lập được hưởng các khoản vay ưu đãi, và các chính sách đãi ngộ khác nhau ở mỗi địa phương…Các tập đoàn kinh tế nhà nước quản lý trực tiếp xuất nhập khẩu của tập đoàn và được hưởng đặc quyền nộp thuế chung ở câp tập đoàn. * Nâng cao chất lượng đội ngũ quản trị doanh nghiệp. Sau một thời gian dài của thể chế kinh tế kế hoạch hoá tập trung đội ngũ cán bộ quản lý kinh tế ở Trung Quốc phần lớn trở nên kém năng động, chậm thích nghi với cơ chế thị trường, không đáp ứng được với đòi hỏi ngày càng cao của nên kinh tế. Vì vậy, đào tạo đội ngũ các nhà doanh nghiệp được chính phủ Trung Quốc quan tâm hàng đầu. Bên cạnh nâng cao chất lượng nền giáo dục trong nước Trung Quốc còn chú trọng đến vấn đề tài trợ cho các lưu học sinh sang học tập tại các nước tư bản tiên tiến nhằm đào tạo nguồn nhân lực chất lượng cao. Trung Quốc cũng là một trong số ít những nước đang phát triển đã thành công trong lĩnh vực ngăn chặn tình trạng chảy máu chất xám. Với biện pháp trả lương bằng hoặc tương đương với các phát triển Trung Quốc đã huy động được số lượng lớn các Hoa kiều, các lưu học sinh và các doanh nhân nước ngoài làm việc cho các doanh nghiệp trong nước. Trung Quốc cũng sử dụng kinh ngiệm của đội ngũ này để xây dựng các loại hình doanh nghiệp, các chiến lược kinh doanh, cạnh tranh….đã được áp dụng thành công ở các nước phát triển. * Xây dựng các định chế thị trường thuận lợi cho hoạt động kinh doanh của các tập đoàn kinh tế. Trung Quốc hình thành và phát triển các TĐKT trong giai đoạn chuyển từ nền kinh tế kế hoạch hoá tập trung sang nền kinh tế thị trường, sự can thiệp của các cơ quan hành chính nhà nước vào hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp sẽ ngày càng giảm, các doanh nghiệp phải chấp nhận cạnh tranh để tự lớn mạnh. Muốn vậy phải xây dựng một hệ thống thị trường hoàn chỉnh nhằm tạo điều kiện cho sự phát triển của các TĐKT. Trong đó phải kể đến thị trường chứng khoán, thị trường thông tin, thị trường hàng hoá tiêu dùng… - Phát triển thị trường chứng khoán. Thị trường chứng khoán có nhiều tác động tích cực thúc đẩy sự phát triển của các công ty và các tập đoàn kinh tế. Nó là cộng sự hữu hiệu để huy động vốn của các công ty, là nơi bỏ vào hoặc rút vốn ra một cách nhanh chóng của các nhà đầu tư. Mặt khác, đó là nơi phản ánh đúng đắn giá trị của công ty cũng như cổ phần của nó. Do đó, tạo điều kiện thuận lợi cho việc mua bán một hay toàn bộ công ty, thúc đẩy sự xâm nhập, thôn tính lẫn nhau giữa các công ty tạo thành những công ty có quy mô lớn hơn hoặc chùm các công ty gắn bó với nhau qua góp vốn. Phát triển thị trường chứng khoán góp phần thúc đẩy nhanh quá trình cổ phần hoá doanh nghiệp nhà nước, khơi thông dòng lưu chuyển vốn giữa các thành phần kinh tế. Trung Quốc đã giảm và từng bước xoá bỏ sự khống chế quá cứng nhắc đối với doanh nghiệp phát hành chứng khoán, nới lỏng điều kiện phát hành chứng khoán doanh nghiệp, đơn giản hoá thủ tục phê duyệt doanh nghiệp phát hành chứng khoán, tăng số lượng và hình thức chứng khoán doanh nghiệp, thoả mãn nhu cầu của các nhà đầu tư. Giải quyết nhu cầu về vốn của các doanh nghiệp nhà nước loại vừa và lớn, của các tập đoàn kinh tế bằng cách ngày càng dựa nhiều vào việc phát hành trái khoán công khai ngoài xã hội, tăng lượng phát hành trên thị trường. Thông qua thị trường chứng khoán các doanh nghiệp có thể lựa chọn những doanh nghiệp nhà nước đã cổ phần hoá làm ăn hiệu quả để đầu tư vốn, tạo mối quan hệ ràng buộc, đan xen nhau thông qua việc nắm giữ cổ phần nhiều hay ít. Bên cạnh đó Quốc vụ viện còn chú trọng xây dựng các thị trường khác về quyền tài sản như: thị trường đấu giá doanh nghiệp, thị trường thuê mướn doanh nghiệp, thị trường giao dịch của doanh nghiệp phá sản, thị trường sát nhập doanh nghiệp v.v…để giao dịch về quyền sở hữu, quyền sử dụng, quyền kinh doanh, tạo điều kiện cho các doanh nghiệp mở rộng quy mô kinh doanh, hình thành nên các TĐKT. - Phát triển thị trường thông tin. Trung Quốc chủ trương thị trường hoá ngành thông tin, dồn sức gây dựng và phát triển thị trường thông tin, đi đôi với quản lý thị trường này. Một mặt chính phủ coi trọng việc định ra các pháp quy và điều lệ để đảm bảo việc vận hành bình thường của thị trường thông tin mặt khác nhà nước có chính sách hỗ trợ đầu tư phát triển để phục vụ nhu cầu phát triển của các TĐKT . Trung Quốc đặc biệt quan tâm phát huy vai trò chủ lực của các trung tâm thông tin thuộc các cơ quan nhà nước các cấp, phát triển hệ thống dịch vụ thông tin với nhiều ngành khác nhau, nhiều cấp độ khác nhau, hình thành mạng thông tin thông suốt có hiệu quả cao. - Phát triển thị trường hàng hoá tiêu dùng. Thị trường hàng hoá tiêu dùng cũng là điều kiện quan trọng đối với các TĐKT, vì nó đảm bảo tái sản xuất mở rộng sức lao động, mở rộng thị trường và cơ hội đầu tư sản xuất kinh doanh ( Trung Quốc có thị trường nội địa rộng lớn với hơn một tỷ dân). Chính quyền các cấp, các cơ quan hữu quan đã quán triệt tinh thần tôn trọng quy luật giá trị, tạo ra môi trường để các TĐKT thật sự tự do giao dịch, mở cửa để họ thực sự tiếp cận thị trường Đông – Tây, tôn trọng sự bình đẳng giữa các loại hình doanh nghiệp, các thành phần kinh tế trên cơ sở cạnh tranh lành mạnh. Bên cạnh đó chính phủ còn đẩy mạnh việc cải cách chế độ tiền lương, thưởng, bảo hiểm xã hội cho cán bộ công nhân viên chức. Từ đó mở rộng cơ hội lựa chọn tiêu dùng và tăng dung lượng tiêu dùng của dân chúng. 2.2.3. Quá trình hình thành và phát triển các tập đoàn kinh tế nhà nước ở Trung Quốc. Quá trình hình thành và phát triển của các TĐKT tại Trung Quốc đã trải qua 5 giai đoạn khác nhau: Giai đoạn 1: Sự phôi thai của các TĐKT. Đặc điểm chính của giai đoạn này là tạo điều kiện cho việc cùng quản lý giữa các doanh nghiệp có liên quan mà không làm thay đổi cơ cấu sở hữu. Kể từ năm 1978, cải cách doanh nghiệp đã mang lại nhiều quyền tự chủ hơn cho các DNNN. Các lãnh đạo doanh nghiệp bắt đầu chịu trách nhiệm tối đa hoá lợi nhuận của doanh nghiệp. Sự phối hợp giữa các doanh nghiệp trở nên quan trọng đối với sự tồn tại và phát triển của các doanh nghiệp . Đầu năm 1980, Quốc vụ viện Trung Quốc đã thực hiện chính sách nhằm “tận dụng các lợi thế so sánh, xây dựng một môi trường cạnh tranh và thúc đẩy sự hợp tác”, theo đó nhiều tập đoàn dựa trên việc cùng quản lý đã được thành lập. Việc cùng quản lý đã loại bỏ được những rào cản giữa các lĩnh vực và các ngành công nghiệp, tái thiết lại ngành công nghiệp tạo điều kiện cho chuyên môn hoávà tránh được những trùng lặp về dự án. Tuy nhiên, những hạn chế của việc cùng quản lý cũng rất lớn. Sự thay đổi cơ cấu sở hữu, mối quan hệ giữa các doanh nghiệp và các cơ quan hành chính nhà nước (chủ sở hữu của các DNNN) và sự thay đổi của hoạt động tài chính và cách thức phân chia lợi nhuận là không được phép. Giai đoạn 2: Sự xuất hiện của các TĐKT. Vào ngày 23/3/1996 Quốc vụ viện Trung Quốc ban hành một văn bản chính thức là “Quy chế thúc đẩy liên kết và hợp tác kinh tế theo chiều ngang ”. Các DNNN được khuyến khích thành lập các TĐKT mà không có bất kì một hạn chế nào về địa bàn, lĩnh vực và ngành nghề. Đây là mốc cơ bản đánh dấu sự ra đời của các tập đoàn kinh tế tại Trung Quốc. Vào cuối năm 1996, đã có tới 31.000 loại hình tổ chức liên kết doanh nghiệp khác nhau trong các ngành các lĩnh vực. Một thời gian ngắn sau đó, hầu hết đều trở thành các tập đoàn kinh tế. Sự hợp tác giữa các doanh nghiệp xuất hiện đầu tiên trong lĩnh vực sản xuất sau đó lan các lĩnh vực khác như nghiên cứu và đổi mới công nghệ, cung cấp nguyên liệu thô, bán sản phẩm, tiếp cận nguồn tín dụng và đầu tư các dịch vụ chia sẻ thông tin. Trên cơ sở những lĩnh vực vày, nhiều đơn vị, dù có quan hệ chặt chẽ hay lỏng lẻo đều liên kết với nhau thông qua vốn, sản phẩm, công nghệ chiến lược phát triển, dịch vụ, thông tin, v.v… Việc hình thành sự hợp tác giữa các doanh nghiệp và sau đó là các tập đoàn kinh tế đã làm giảm đáng kể sự can thiệp của các cơ quan hành chính nhà nước vào hoạt động của các doanh nghiệp, phát triển thị trường khu vực, và phá vỡ sự xé lẻ theo lĩnh vực của hệ thống kế hoạch hoá. Giai đoạn 3: Sự hình thành các tập đoàn kinh tế. Tuy nhiên, chính sách sau đó đã không cho phép việc sáp nhập và mua lại giữa các DNNN. Các doanh nghiệp có thể thiết lập hợp tác chiến lược nhưng không được phép tái cơ cấu để tận dụng những lợi thế của việc liên kết. Để giải quyết vấn đề này, Uỷ ban cải cách cơ cấu nhà nước và Uỷ ban kinh tế nhà nước đã đề xuất tiếp tục thúc đẩy hình thành các tập đoàn kinh tế dựa trên hợp tác doanh nghiệp qua “Đề xuất thành lập và phát triển các tập đoàn kinh tế ” vào tháng 12/1987, bao gồm các đề xuất sau: Thứ nhất: Lý do thúc đẩy hình thành các TĐKT là để thống nhất thị trường bị phân tách, cải cách các DNNN đã tự đảm bảo cho hoạt động của mình, tái cơ cấu các ngành, thúc đẩy sự hợp tác giữa các doanh nghiệp cùng với quá trình chuyên môn hoá, tận dụng những lợi thế kinh tế nhờ quy mô và phân bổ các nguồn lực một cách có hiệu quả. Hơn nữa, tập đoàn kinh tế sẽ thúc đẩy sự đổi mới công nghệ và củng cố công nghệ cho các doanh nghiệp, và do đó sẽ nâng cao khả năng cạnh tranh của các doanh nghiệp. Thứ hai: Các nguyên lý cho việc hình thành các tập đoàn kinh tế là cùng có lợi, tự do tham gia và rút khỏi, và chống lại độc quyền trong hoạt động. Thứ ba: Những đòi hỏi cho việc thành lập các tập đoàn kinh tế là rõ ràng. Với cấu trúc doanh nghiệp có cấp độ, tập đoàn kinh tế được phép thống nhất quản lý trong đầu tư, tài sản, các chiến lược kinh doanh và marketing. Đồng thời TĐKT cũng khai thác được khả năng thành lập các công ty cổ phần, tách rời sở hữu với quản lý. Thứ tư: Các chính sách đặc biệt thúc đẩy sự hình thành các TĐKT cũng được đưa ra. Tập đoàn kinh tế cần có tự chủ trong quản lý, quyền định giá, quyền quyết định bán ở đâu, đầu tư vào đâu, và sản xuất cái gì, quyền xuất khẩu sản phẩm và nhập công nghệ nước ngoài. Hầu hết các quyền kiểm soát do các cơ quan hành chính nhà nước nắm giữ phải được chuyển giao sang cho lãnh đạo của các tập đoàn kinh tế. “Đề xuất thành lập và phát triển tập đoàn kinh tế” dẫn đến làn sóng phát triển đầu tiên của các TĐKT . Vào cuối năm 1989, Trung Quốc đã có 1.630 tập đoàn kinh tế đăng ký thành lập. Tuy nhiên hầu hết đều là các tập đoàn kinh tế hình thành một cách lỏng lẻo, và vẫn chịu sự can thiệp lớn của chính phủ. Giai đoạn 4: Chính thức hoá các tập đoàn kinh tế. Để thúc đẩy sự phát triển của tập đoàn kinh tế, Quốc vụ viện Trung Quốc đã phê chuẩn “Đề án thí điểm tập đoàn kinh tế” vào tháng 12/1991. Mục tiêu chủ yếu của việc thí điểm là xác định những mô hình hiệu quả cho TĐKT, cung cấp thông tin cho các nhà hoạch định chính sách để đưa ra các chính sách thuận lợi cho TĐKT và thúc đẩy mạnh hơn sự phát triển của các TĐKT. Các biện pháp cụ thể về việc xây dựng các TĐKT cũng được đưa ra. Những biện pháp này mang lại cho doanh nghiệp nhiều quyền kiểm soát hơn. Công ty mẹ (công ty tập đoàn) được: (1) Báo cáo trực tiếp cho cơ quan chính phủ có thẩm quyền về kế hoạch hàng năm và kế hoạch phát triển của mình. (2) Ký kết các hợp đồng trực tiếp với cơ quan chính phủ được chỉ định và sau đó ký hợp đồng phụ với các công ty con hoặc doanh nghiệp thành viên của mình. (3) Chịu trách nhiệm đối với việc hoàn trả các khoản vay cho các đầu tư lớn trong tập đoàn. (4) Quản lý các hoạt động kinh doanh và thương mại khác. (5) Báo cáo tất cả việc mua bán tài sản cho Uỷ ban quản lý và giám sát tài sản của nhà nước. (6) Bổ nhiệm lãnh đạo của các công ty thành viên. Việc kiểm soát công ty mẹ được đảm bảo thông qua: + Thành lập mối quan hệ công ty mẹ – công ty con thông qua đầu tư. + Trực tiếp quản lý DNNN thành viên được phê duyệt. Vào năm 1997, thí điểm lần hai được bắt đầu với 63 TĐKT khác. Thí điểm lần này tập trung vào vấn đề tiếp cận tín dụng và đầu tư vốn ở các TĐKT. Công ty mẹ và công ty con của TĐKT cần phải được liên kết chủ yếu trên vốn đầu tư. Sự phát triển trong tương lai của các TĐKT cần phải hướng đến mục tiêu nâng cao năng lực tài chính, đổi mới công nghệ, ngoại thương và trao đổi thông tin. Một cuộc cải cách khác là tách rời DNNN với các cơ quan hành chính của chính phủ. Thay vào đó, chính phủ Trung Quốc đã thành lập Uỷ ban trung ương các DNNN lớn, là cơ quan trực tiếp giám sát các TĐKT. Từ đó trở đi, sự phát triển của TĐKT chuyển sang một giai đoạn mới. Giai đoạn 5: Tăng cường khả năng cạnh tranh quốc tế: Với việc gia nhập tổ chức thương mại thế giới Trung Quốc phải đối mặt với sự cạnh tranh quốc tế nhiều hơn. Điều này cũng có thể được phản ánh trong chiến lược phát triển của các TĐKT. Các tập đoàn đa quốc gia thành công như Nokia, Wal Mart, Sony hướng các nhà lãnh đạo Trung Quốc đi đến kết luận rằng việc phát triển các TĐKT là một cách hiệu quả để đuổi kịp với các tập đoàn khổng lồ đó trong một thời gian ngắn và có thể đây là cách duy nhất mà các doanh nghiệp của Trung Quốc có thể cạnh tranh với các tập đoàn quốc tế. Trong “kế hoạch 5 năm lần thứ mười” Trung Quốc đã đề ra mục tiêu thành lập các TĐKT có tiềm lực to lớn trong đổi mới công nghệ, thương hiệu, quyền tài sản và cạnh tranh quốc tế mạnh. 2.3. đánh giá mô hình tập đoàn kinh tế nhà nước của Trung Quốc. 2.3.1. Những mặt tích cực và hạn chế của mô hình tập đoàn kinh tế nhà nước. Những mặt tích cực: Mô hình TĐKT nhà nước đã thể hiện được vai trò tích cực của mình đối với sự phát triển kinh tế của Trung Quốc. được thể hiện trên các khía cạnh sau: *Tập đoàn kinh tế nhà nước là trụ cột trong nền kinh tế quốc dân. Từ khi xuất hiện TĐKT vào những năm 1980, Trung Quốc đã nhanh chóng mở rộng khu vực này. Số lượng các TĐKT không ngừng được tăng lên và hiệu quả hoạt động của các TĐKT không ngừng được cải thiện. Một số chỉ tiêu về TĐKT Trung Quốc được thể hiện trong bảng sau: Bảng 2 Các chỉ số về TĐKT Trung Quốc , 1998 - 2002. Chỉ tiêu 1998 1999 2000 2001 2002 Số lượng các TĐKT (đ/v) Tốc độ tăng trưởng (%) 2.369 2.472 4,35 2.757 11,53 2.655 - 3,70 2.710 2,07 Tổng giá trị tài sản (100 tr USD ) Tốc độ tăng trưởng (%) 50.346,76 66.993,98 33,07 87.322,59 30,34 106.983,8 22,52 128.045,1 19,69 D.thu hoạt động (100 tr USD) Tốc độ tăng trưởng (%) 28.205,22 35.076,75 24,36 43.766,37 24,77 53.259,87 21,71 65.622,78 23,21 Giá trị xuất khẩu (100 tr USD ) Tốc độ tăng trưởng (%) 2.579,79 2.685,08 4,08 3.585.15 33,52 4.578,73 27,71 5.404,01 18,02 Tổng lợi nhuận (100 tr USD ) Tốc độ tăng trưởng (%) 1.222,75 1.090,71 - 10,80 1.723,06 57,98 2.903,08 68,48 3.209,94 10,57 Chi ng.cứu ph.triển (100 tr USD) Tốc độ tăng trưởng (%) 155,43 214,46 37,98 354,78 65,43 480,2 35,35 669,13 39,34 Số lao động (1.000người) Tốc độ tăng trưởng (%) 18.504,3 20.904,2 12,97 23.421,2 12,04 22.817,1 - 2,58 25.244,3 10,64 Nguồn: Viện nghiên cứu quản lý kinh tế Trung ương. Các TĐKT nói chung ở Trung Quốc không ngừng gia tăng về số lượng cũng như không ngừng nâng cao hiệu quả hoạt động kinh doanh. Các TĐKT góp phần phân bổ hợp lý các nguồn lực, kết hợp tối ưu các yếu tố sản xuất, đạt được tính kinh tế nhờ quy mô, điều mà một doanh nghiệp đơn lẻ hoặc một hiệp hội với các doanh nghiệp thành viên có mối quan hệ lỏng lẻo không thể làm được, do vậy TĐKT là một sức mạnh khung và ngày càng trở thành một tổ chức kinh tế quan trọng của nền kinh tế quốc dân Trung Quốc . Tính đến cuối năm 2002, tổng giá trị tài sản của 2.710 TĐKT đạt 12.804,5 tỷ USD, đã vượt quá giá trị tài sản thuộc sở hữu nhà nước là 10.000 tỷ USD . Thu nhập từ hoạt động sản xuất kinh doanh là 6.562,278 tỷ USD, nếu tính phần nguyên liệu chi phí giữa các tập đoàn chiếm 50%, thì lượng giá trị kinh tế gia tăng mà các TĐKT tạo ra là 3.300 tỷ USD, chiếm 33% GDP. Tổng kim ngạch xuất khẩu của các tập đoàn là 540,4 tỷ USD, chiếm 25% tổng kim ngạch xuất khẩu. Các TĐKT đã đầu tư 545,035 tỷ USD cho tài sản cố định, chiếm 15% tổng giá trị đầu tư tài sản cố định. Phần chi phí cho nghiên cứu và phát triển là 669,13 tỷ USD, chiếm 75% tổng chi cho nghiên cứu và phát triển. Cùng với sự phát triển chung của các TĐKT, các TĐKT nhà nước ngày càng lớn mạnh khẳng định vị trí trụ cột trong nền kinh tế Trung Quốc: Bảng 3: Cơ cấu sở hữu của các TĐKT năm 2002 Phân loại Số lượng (đơn vị) Tỷ lệ (%) Tổng giá trị tài sản (100trUSD) Tỷ lệ (%) Doanh thu hoạt động (100trUSD) Tỷ lệ (%) Tổng 2710 100 128045,1 100 65622,78 100 Sở hữu nhà nước đa số 1651 60,92 116664,7 91,10 56311,13 85,81 Nhà nước nắm giữ cổ phần tương đối lớn 135 4,98 2529,25 1,98 1743,95 2,66 Sở hữu tập thể đa số 278 10,26 3097,75 2,42 2852,86 4,35 Tập thể nắm giữ cổ phần tương đối lớn 79 2,92 660,61 0,52 586,11 0,89 Khác 567 20,92 5092,84 3,98 4128,73 6,29 Nguồn: Viện nghiên cứu quản lý kinh tế Trung ương. Các TĐKT nhà nước chiếm số lượng lớn. Năm 2002, có 1768 tập đoàn kinh tế nhà nước (state holding enterprise group), chiếm tỷ lệ 65,9% trong tổng số các TĐKT với lượng vốn đầu tư lên tới 11,919395 tỷ USD tương đương với 93,1% tổng lượng vốn hiện có của tất cả các TĐKT và đạt doanh thu hoạt động là 5805,508 tỷ USD chiếm tỷ lệ 88,47%. Thực tại ở Trung Quốc các TĐKT nhà nước đã thể hiện được sức mạnh kinh tế quốc gia. Tập đoàn Công nghiệp hạt nhân Trung Quốc, tập đoàn Công nghệ hàng không Trung Quốc, tập đoàn Công nghiệp vũ khí Trung Quốc…là những tập đoàn kinh tế quân sự độc quyền trong ngành quốc phòng. Bảy công ty điện lớn nhất chịu sự quản lý trực tiếp của chính phủ trung ương như Tập đoàn Huadian Trung Quốc, Tập đoàn Datang Trung Quốc, Tập đoàn Huaneng Trung Quốc cung cấp tới 60% lương điện năng của cả nước. Trong ngành thép, 8 tập đoàn thép như Tập đoàn thép Bảo Sơn, Tập đoàn thép Anshan, Tập đoàn thép Vũ Hán, Tập đoàn thép Panzhihua chiếm 40% sản lượng thép quốc gia. Sáu tập đoàn ôtô, bao gồm: Tập đoàn ôtô số một, Tập đoàn ôtô Đông Phương, Tập đoàn ôtô hạng nặng, Tập đoàn ôtô Thượng Hải chiếm 60% tổng sản lượng quốc gia. Về ngành hàng không Trung Quốc, Tập đoàn Hàng không Trung Quốc, Hàng không Phương Đông … chiếm 60% tổng doanh thu của cả nước. Về hiệu quả hoạt đông kinh doanh của các TĐKT nhà nước được thể hiện trong bảng dưới đây Bảng 4: Khả năng sinh lời của các tập đoàn kinh tế 2002 Phân loại 2001 2002 Tỷ lệ gia tăng (%) Theo công ty mẹ: - Chủ yếu là sở hữu nhà nước - Sở hữu của DNNN chiếm đa số - Chủ yếu là sở hữu tập thể - Sở hữu tập thể chiếm đa số - Khác 2.506,39 82,03 132,73 23,85 158,08 2.693,45 90,03 145,65 24,50 256,30 7,5 9,8 9,7 2,7 62,1 Theo ngành nghề kinh doanh chính: - Nông, lâm, ngư nghiệp - Khai khoáng - Sản xuất - Điện, thuỷ điện và nhiệt điện - Xây dựng - GTVT và thông tin liên lạc - Bán buôn, bán lẻ lương thực - Ngân hàng và bảo hiểm - Kinh doanh bất động sản - Khác 15,68 517,14 1236,00 360,27 44,70 515,91 105,91 40,89 45,34 21,24 4,07 582,47 1183,66 420,48 63,20 643,92 139,81 20,72 50,02 101,59 - 74,0 12,6 - 4,2 16.7 41,4 24,8 32,0 - 49,3 10,3 378,3 Nguồn: Viện nghiên cứu quản lý kinh tế Trung ương. Nhận xét: Tổng lợi nhuận của tất cả các tập đoàn năm 2002 là 321 tỷ USD với tốc độ tăng trưởng là 10,6%. 1378 TĐKT có lợi nhuận cao hơn lợi nhuận năm 2001 và 110 tập đoàn đã chuyển từ làm ăn thua lỗ sang có lãi. Nếu phân tích tổng lợi nhuận theo ngành nghề kinh doanh, thì chúng ta có thể thấy rằng các tập đoàn trong ngành điện, sản xuất và cung cấp thuỷ điện và nhiệt điện, giao thông vận tải, thông tin liên lạc có tốc độ tăng trưởng cao nhất, với tỷ lệ tăng từ 16% đến 42%. Nông lâm ngư nghiệp, ngân hàng và bảo hiểm giảm tương ứng là 74% và 49,3%. Tuy nhiên, dù ngành sản xuất có tổng lợi nhuận lớn nhất nhưng tốc độ tăng trưởng cũng đã giảm khoảng 4,2%. Tổng lợi nhuận của các tập đoàn kinh tế thuộc sở hữu nhà nước và tập đoàn có phần vốn góp của nhà nước chiếm đa số là 278,384 tỷ USD với tốc độ tăng trưởng cao là 7,5% và 9,8%. Giá trị tài sản ròng tăng nhanh và chất lượng quản lý vốn cũng được nâng lên rõ rệt. Tính đến cuối năm 2002,tổng giá trị tài sản ròng của tất cả các TĐKT đã tăng 21,8% đạt 536,1 tỷ USD. Điều này cũng tương tự đối với các TĐKT thuộc sở hữu nhà nước. Hệ số tài sản/nợ của tất cả các tập đoàn đã giảm khoảng 0,7% và hệ số này của các TĐKT thuộc sở hữu nhà nước giảm 0,8%. Hệ số tài sản/nợ giảm làm tăng khả năng chống rủi ro trong hoạt động kinh doanh của tập đoàn. Thực tại ở Trung Quốc các TĐKT nhà nước đã thể hiện được sức mạnh kinh tế quốc gia. Tập đoàn Công nghiệp hạt nhân Trung Quốc, tập đoàn Công nghệ hàng không Trung Quốc, tập đoàn Công nghiệp vũ khí Trung Quốc…là những tập đoàn kinh tế quân sự độc quyền trong ngành quốc phòng. Bảy công ty điện lớn nhất chịu sự quản lý trực tiếp của chính phủ trung ương như Tập đoàn Huadian Trung Quốc, Tập đoàn Datang Trung Quốc, Tập đoàn Huaneng Trung Quốc cung cấp tới 60% lương điện năng của cả nước. Trong ngành thép, 8 tập đoàn thép như Tập đoàn thép Bảo Sơn, Tập đoàn thép Anshan, Tập đoàn thép Vũ Hán, Tập đoàn thép Panzhihua chiếm 40% sản lượng thép quốc gia. Sáu tập đoàn ôtô, bao gồm: Tập đoàn ôtô số một, Tập đoàn ôtô Đông Phương, Tập đoàn ôtô hạng nặng, Tập đoàn ôtô Thượng Hải chiếm 60% tổng sản lượng quốc gia. Về ngành hàng không Trung Quốc, Tập đoàn Hàng không Trung Quốc, Hàng không Phương Đông … chiếm 60% tổng doanh thu của cả nước. * Thúc đẩy cải cách nhân sự doanh nghiệp và điều chỉnh cơ cấu công nghiệp. Trong nền kinh tế quốc dân Trung Quốc trước đây, cơ cấu kinh tế không hợp lý là một vấn đề lớn, thể hiện ở chỗ số lượng doanh nghiệp thì rất lớn nhưng quy mô của từng doanh nghiệp lại nhỏ và mức độ tập trung hoá sản xuất thấp; các doanh nghiệp có trình độ kỹ thuật thấp, sản phẩm tương tự nhau và năng lực nghiên cứu và phát triển độc lập còn yếu; các doanh nghiệp cũng có những đặc trưng không tốt như “lớn và tất cả”, “nhỏ và tất cả”, cơ cấu ngành nghề trong khu vực là tương tự nhau, trình độ chuyên môn hoá và hợp tác thấp. Do đó với với việc hình thành và phát triển TĐKT Trung Quốc đã tiến hành một cách hiệu quả việc điều chỉnh cơ cấu tổ chức của doanh nghiệp, thực hiện kinh tế quy mô và dần thay đổi tình trạng vô lý của cơ cấu tổ chức không hợp lý. Dựa vào TĐKT hiện nay, Trung Quốc có thể đưa một số lượng lớn các doanh nghiệp vừa và nhỏ vào hệ thống chuyên môn hoá và hợp tác hoá thông qua các kênh hợp tác về sản phẩm để tiếp tục điều chỉnh và tối ưu hoá việc xác định năng suất lao động và cơ cấu tổ chức của doanh nghiệp. Trong những năm gần đây, nền kinh tế Trung Quốc đã đạt được một giai đoạn phát triển mới. Khi nền kinh tế Trung Quốc ở giai đoạn trình độ thấp, thị trường của người mua sản phẩm xây dựng được hình thành và xuất hiện sự mâu thuẫn về dư thừa năng lực xây dựng so với tốc độ tăng trưởng GDP, sự thay đổi cơ cấu về cầu trong nước và các điều kiện cung cấp và sự thay đổi của môi trường quốc tế. Nhưng đồng thời một số sản phẩm, đặc biệt là những sản phẩm sử dụng nhiều vốn và công nghệ lại phụ thu

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc24562.DOC
Tài liệu liên quan