Đề tài Kết quả bước đầu sử dụng thủy tinh thể nhân tạo cài mống mắt điều trị cận thị cao trên mắt còn thủy tinh thể - Vũ Thị Thái

Tài liệu Đề tài Kết quả bước đầu sử dụng thủy tinh thể nhân tạo cài mống mắt điều trị cận thị cao trên mắt còn thủy tinh thể - Vũ Thị Thái: 43 KẾT QUẢ BƯỚC ĐẦU SỬ DỤNG THỦY TINH THỂ NHÂN TẠO CÀI MỐNG MẮT ĐIỀU TRỊ CẬN THỊ CAO TRÊN MẮT CÒN THỦY TINH THỂ VŨ THỊ THÁI, BÙI THỊ VÂN ANH Bệnh viện Mắt Trung ương TÓM TẮT Chúng tôi nghiên cứu với mục đích: Đánh giá kết quả bước đầu của phẫu thuật trên trong điều trị cận thị nặng. Đối tượng nghiên cứu là những bệnh nhân cận thị nặng ≥10D, tuổi từ 18 tới 40 mong muốn được phẫu thuật để bỏ kính. Tại Bệnh viện Mắt Trung ương trong thời gian 3 tháng, chúng tôi đã tiến hành mổ đặt thuỷ tinh thể nhân tạo cài mống mắt (PIOL) điều trị cận thị nặng cho 10 mắt của 6 bệnh nhân (3 nam, 3 nữ). Tuổi trung bình của các bệnh nhân là 29.1 ± 5 tuổi (từ 18 đến 32). Độ cận thị trung bình -15.1D. Sau mổ 80% khúc xạ cầu trong khoảng ±1D. Trước mổ thị lực không kính 90% < ĐNT 3m, thị lực chỉnh kính tối đa đều tăng và 60% trong khoảng 1-3/10, 30% từ 3-5/10, 10% từ 5-7/10. Ngay ngày đầu tiên sau phẫu thuật, 90% có thị lực không kính tốt hơn thị lực chỉnh kính tối đa trướ...

pdf9 trang | Chia sẻ: Đình Chiến | Ngày: 11/07/2023 | Lượt xem: 131 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem nội dung tài liệu Đề tài Kết quả bước đầu sử dụng thủy tinh thể nhân tạo cài mống mắt điều trị cận thị cao trên mắt còn thủy tinh thể - Vũ Thị Thái, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
43 KẾT QUẢ BƯỚC ĐẦU SỬ DỤNG THỦY TINH THỂ NHÂN TẠO CÀI MỐNG MẮT ĐIỀU TRỊ CẬN THỊ CAO TRÊN MẮT CÒN THỦY TINH THỂ VŨ THỊ THÁI, BÙI THỊ VÂN ANH Bệnh viện Mắt Trung ương TÓM TẮT Chúng tôi nghiên cứu với mục đích: Đánh giá kết quả bước đầu của phẫu thuật trên trong điều trị cận thị nặng. Đối tượng nghiên cứu là những bệnh nhân cận thị nặng ≥10D, tuổi từ 18 tới 40 mong muốn được phẫu thuật để bỏ kính. Tại Bệnh viện Mắt Trung ương trong thời gian 3 tháng, chúng tôi đã tiến hành mổ đặt thuỷ tinh thể nhân tạo cài mống mắt (PIOL) điều trị cận thị nặng cho 10 mắt của 6 bệnh nhân (3 nam, 3 nữ). Tuổi trung bình của các bệnh nhân là 29.1 ± 5 tuổi (từ 18 đến 32). Độ cận thị trung bình -15.1D. Sau mổ 80% khúc xạ cầu trong khoảng ±1D. Trước mổ thị lực không kính 90% < ĐNT 3m, thị lực chỉnh kính tối đa đều tăng và 60% trong khoảng 1-3/10, 30% từ 3-5/10, 10% từ 5-7/10. Ngay ngày đầu tiên sau phẫu thuật, 90% có thị lực không kính tốt hơn thị lực chỉnh kính tối đa trước mổ. Sau phẫu thuật 3 tháng 30% thị lực không kính từ 1-3/10, 70% trường hợp thị lực >3/10, có 1 trường hợp thị lực đạt tới 8/10. 1 ca (10%) thị lực không đổi ngay sau phẫu thuật do phản ứng viêm, phản ứng này hết sau 1 tuần. Cận thị là tình trạng khá phổ biến trên thế giới cũng như ở Việt Nam. Cận thị khiến ta không thể nhìn rõ hình ảnh vật nếu không có sự trợ giúp. Tình trạng này càng trở nên trầm trọng ở những mắt bị cận thị nặng. Cận thị nặng trên 10D không những gây giảm thị lực cả nhìn gần lẫn nhìn xa mà còn khiến chất lượng hình ảnh bị biến đổi. Khắc phục tình trạng này có rất nhiều biện pháp từ những phương pháp kinh điển như đeo kính gọng, kính tiếp xúc... tới những phương pháp hiện đại như phẫu thuật can thiệp vào nội nhãn hoặc điều chỉnh khúc xạ giác mạc. Các phương pháp làm thay đổi cấu trúc tự nhiên của nhãn cầu tuy đem lại kết quả thị lực cũng như khúc xạ rất khả quan nhưng đã làm thay đổi nhiều về chất lượng thị giác, nhất là các phương pháp tác động lên giác mạc. Phẫu thuật đặt thêm kính nội nhãn trên mắt vẫn còn thủy tinh thể, đặc biệt phẫu thuật cài càng TTTNT vào mống mắt là một trong 44 những phương pháp hiện được nhiều nhà nhãn khoa trên thế giới áp dụng (Camille Budo (1998) Jorge L. Alio (2002). Phương pháp này tuy còn một số e ngại do tác động vào nội nhãn nhưng kết quả khả quan về chất lượng của thị giác, ổn định thị lực lâu dài, sớm đạt được thích ứng cũng như ổn định thị giác mới, đạt được yêu cầu thẩm mỹ của bệnh nhân, phẫu thuật dễ dàng và không đòi hỏi trang thiết bị cao cấp đã khiến cho phương pháp ngày càng được chú ý tới . Ở Việt Nam, trong những năm gần đây điều trị cận thị cũng đã bắt đầu được chú ý tới. Các phương pháp Laser, các phẫu thuật tác động trên giác mạc, các phẫu thuật nội nhãn điều trị cận cũng bắt đầu được thực hiện. Từ giữa năm 2005, phương pháp cài IOL vào mống mắt trên mắt còn thủy tinh thể bắt đầu được thực hiện ở Bệnh viện Mắt Trung ương. Chúng tôi tiến hành nghiên cứu phương pháp mổ cài TTTNT vào mống mắt với mục đích: Đánh giá kết quả bước đầu của phẫu thuật trên trong điều trị cận thị nặng. ĐỐI TƯỢNG VÀ PHƯƠNG PHÁP Chúng tôi thực hiện nghiên cứu tại Bệnh viện Mắt TW trong thời gian 3 tháng từ tháng 7 – 10/2005. 1. Đối tượng nghiên cứu: Các bệnh nhân trẻ bị cận thị nặng có mong muốn được phẫu thuật để bỏ kính. Tiêu chuẩn lựa chọn: - BN có tuổi từ 18 tới 40, độ cận ổn định từ 1 năm trở lên, bỏ kính tiếp xúc ít nhất 6 tháng. - Độ cận thị ≥10D ; độ loạn thị ≤3D. Thị lực tăng khi thử kính. - Độ sâu tiền phòng ≥3 mm. Số tế bào nội mô giác mạc ≥ 2000TB/mm2 - Kích thước đồng tử trong bóng tối ≤6mm. Tiêu chuẩn loại trừ: - Các bệnh mắt khác: loạn dưỡng giác mạc, sẹo giác mạc, viêm thoái hóa mống mắt, đục lệch thủy tinh thể, glôcôm,... - Các bệnh toàn thân: collagen, bệnh hệ thống hoặc các bệnh nhân không thể phối hợp được trong quá trình phẫu thuật. 2. Phương pháp nghiên cứu: Phương pháp tiến cứu không đối chứng. 2.1. Phương tiện nghiên cứu: Phương tiện khám: - Bảng đo thị lực Landolt, máy đo khúc xạ tự động, bộ kính thử. - Máy đếm tế bào nội mô giác mạc. - Máy sinh hiển vi khám bệnh, máy soi đáy mắt, kính tiếp xúc Goldmann 3 mặt gương. - Bộ đo nhãn áp, máy đo thị trường. Phương tiện phẫu thuật: - Bộ dụng cụ vi phẫu, máy hiển vi phẫu thuật. - Bộ dao Phaco (gồm 1 dao chọc tiền phòng 15°, 1 dao lạng, 1 dao mở đường hầm 3.2mm). - Bộ dụng cụ cài mống mắt (pince cặp TTTNT, kim cài mống mắt, dụng cụ chỉnh TTTNT). - Chất nhầy có trọng lượng phân tử lớn (Healon GV của hãng AMO). 45 2.2. Khám trước phẫu thuật: - Khám thị lực không kính và có kính. - Đo khúc xạ bằng máy đo khúc xạ tự động. - Khám mắt toàn diện bằng máy sinh hiển vi khám bệnh. - Khám đáy mắt phát hiện những tổn thương võng mạc chu biên để điều trị dự phòng trước mổ. 2.3. Phương pháp phẫu thuật: - Bộc lộ mi, cố định nhãn cầu - Rạch tạo đường hầm củng giác mạc kích thước 5.2 hoặc 6.2mm ở 12h. - Mở 2 đường phụ vào tiền phòng ở 10h và 2h. - Bơm chất nhầy vào tiền phòng. - Đặt TTTNT vào tiền phòng. Dùng dụng cụ để chỉnh TTTNT về vị trí thích hợp. - Dùng pince cặp cố định TTTNT, dùng kim đưa qua đường phụ 2 bên đẩy mống mắt kẹt vào càng TTTNT. Kiểm tra lại xem vị trí TTTNT so với đồng tử. - Cắt mống mắt chu biên. - Rửa sạch tiền phòng. Khâu kín mép mổ. 2.4. Các chỉ số đánh giá: - Thị lực không kính trước, sau phẫu thuật và các thời điểm khám lại. - Thị lực chỉnh kính tối đa trước, sau phẫu thuật và các thời điểm khám lại. - Khúc xạ trước, sau phẫu thuật và các thời điểm khám lại. - Cảm giác chủ quan của bệnh nhân sau phẫu thuật và các thời điểm khám lại. - Các yếu tố cần chú ý trong phẫu thuật. - Các biến chứng trong và sau phẫu thuật. KẾT QUẢ Trong thời gian 3 tháng chúng tôi đã tiến hành phẫu thuật cho 10 mắt của 6 bệnh nhân (3 nam, 3 nữ) có tuổi trung bình 29.1±5 tuổi (18-33 tuổi). Tất cả bệnh nhân của chúng tôi đều mong muốn được phẫu thuật với hy vọng bỏ kính dù thị lực chỉ đạt được như đang có trước mổ. 1. Tình hình BN trước phẫu thuật: Thị lực không kính trước mổ có 90% trường hợp ≤ ĐNT 3m và chỉ 10% có thị lực trên ĐNT 3m tới 1/10. Thị lực chỉnh kính tối đa trước mổ 60% trong khoảng từ 1-3/10, 30% trong khoảng >3/10- 5/10 và 10% trường hợp TL >5- 7/10. Tỷ lệ này cho thấy dù đã được chỉnh kính nhưng thị lực của bệnh nhân đa số vẫn rất thấp dưới 5/10.Trong nghiên cứu, chỉ có 1 trường hợp có thị lực chỉnh kính tối đa đạt tới 7/10, tuy nhiên trường hợp này trước mổ bệnh nhân hoàn toàn không đeo kính vì lý do thẩm mỹ. Các chỉ số khúc xạ trước phẫu thuật cũng rất cao, chỉ số khúc xạ kính cầu trung bình trước mổ -15.1± 3.05D (10- 20D). Khúc xạ trụ trung bình trong nghiên cứu là 0.65D (0-3D). Trong bước đầu nghiên cứu, chúng tôi loại trừ khỏi nhóm những mắt có khúc xạ trụ cao hơn 3D để đánh giá sát hơn giá trị của phương pháp trong điều trị cận thị cao. 46 Ngoài ra, chúng tôi còn tiến hành đếm số lượng tế bào nội mô giác mạc (số lượng trung bình 2871TB/mm2) và loại ra khỏi nhóm những mắt có số lượng tế bào quá thấp có thể dẫn đến biến chứng giác mạc sau phẫu thuật. Tất cả các trường hợp trong nghiên cứu đều có tổn thương hắc võng mạc cận thị và liềm cận thị cạnh gai nhưng chúng tôi không phát hiện được trường hợp nào có tổn thương võng mạc chu biên cần điều trị dự phòng. 2. Kết quả sau phẫu thuật: Sau phẫu thuật, chúng tôi tiến hành đánh giá sự thay đổi về khúc xạ cầu cũng như khúc xạ trụ của bệnh nhân. Chúng tôi nhận thấy khi ra viện, khúc xạ cầu của bệnh nhân là -1.38 ±1.21 (-0.25 --> - 4.25D), sau 3 tháng là -1.00 ± 1.50 (0 --> -4D). Khúc xạ cầu trung bình thay đổi rất đáng kể, từ 15D xuống còn 1D. Nghiên cứu của chúng tôi có 80% trường hợp khúc xạ cầu sau mổ trong khoảng 0-1D. Tuy nhiên trong nghiên cứu, chúng tôi không phải điều chỉnh kính bổ sung cho trường hợp nào sau phẫu thuật. Bên cạnh kết quả khúc xạ cầu hết sức khả quan, sự biến đổi khúc xạ trụ trong giai đoạn hẫu phẫu không theo xu hướng tốt từ 0.65 ± 0D trước mổ tăng lên 2.5 ± 1.44D khi ra viện và 1.5 ± 0.3D sau 3 tháng. Tuy nhiên, trong nghiên cứu chúng tôi thấy thị lực sau mổ cũng không thay đổi khi ta chỉnh kính theo khúc xạ trụ. Mặc dù trước phẫu thuật tỷ lệ mắt bị xếp loại mù lòa theo phân loại của Tổ chức Y tế Thế giới chiếm tới 90%, ngay sau mổ tỷ lệ này chỉ còn 10% và sau 3 tháng thì không còn trường hợp nào bị mù lòa nữa. Các nhóm thị lực không chỉnh kính từ 1-3/10 ; 3-7/10 trước mổ đều không có nhưng ngay sau phẫu thuật và sau 3 tháng đều có tỷ lệ tương đối cao. Ngay sau mổ, 60% TL không kính từ 1-3/10 ; 30% từ 3-7/10. Sau mổ 3 tháng 30% TL không kính từ 1-3/10 ; 60% TL không kính từ 3-7/10. Đặc biệt, sau phẫu thuật có 10% trường hợp có thị lực rất cao >7/10, đây là nhóm thị lực trước mổ không có kể cả với thị lực đã chỉnh kính tối đa. Bảng 1: Thay đổi thị lực trước và sau mổ Thị lực so với trước mổ Ngay sau mổ Lần khám cuối TL không kính ↑ 90% 100% Không đổi 10% 0% ↓ 0% 0% TL có kính ↑ 60% 80% 47 Không đổi 30% 20% ↓ 10% 0% TL không kính SM ≥TL kính TM 60% 100% Theo bảng tổng kết trên đây chúng tôi nhận thấy tăng thị lực thường đạt được ngay sau phẫu thuật (90% trường hợp). 10% có thị lực ngay sau phẫu thuật không thay đổi do mắt bệnh nhân có phản ứng viêm sau phẫu thuật, tuy nhiên thị lực cũng nhanh chóng tăng lên sau khi phản ứng viêm được xử trí. Sau phẫu thuật 3 tháng, chúng tôi cũng tiến hành so sánh và nhận thấy 100% thị lực không chỉnh kính sau mổ ≥ thị lực có chỉnh kính tối đa trước mổ. 3. Cảm giác chủ quan: Sau phẫu thuật, chúng tôi cũng tiến hành đánh giá một số cảm giác chủ quan của bệnh nhân như cảm giác lóa sáng, nhìn hình nét, thị lực với tương phản ánh sáng yếu, mầu sắc và thị trường... Ngay sau phẫu thuật 80% trường hợp cảm thấy thực sự hài lòng với kết quả đạt được và sau phẫu thuật 3 tháng tỷ lệ này đạt tới 100%. Bảng 2: Triệu chứng chủ quan sau mổ Triệu chứng Ngay sau mổ Lần khám cuối Lóa sáng 0% 0% Nhìn mờ buổi tối 0% 0% Nhìn bờ không nét 20% 0% Nhìn gần khó 10% 0% Rối loạn màu 0% 0% Song thị 0% 0% Thị trường 100% ↑ 100%↑ Nhận xét của BN 80% hài lòng 100% hài lòng Chúng tôi nhận thấy tỷ lệ lóa sáng cũng như nhìn mờ vào buổi tối trong nghiên cứu của chúng tôi là 0% trong cả hai thời điểm hậu phẫu. Hiện tượng nhìn gần khó xảy ra ở 10% trường hợp và cũng nhanh chóng mất đi. Trong nghiên cứu chúng tôi gặp 20% trường hợp bệnh nhân thấy nhìn hình không rõ nét ngay sau mổ và mất đi sau vài tuần.. 4. Biến chứng: Trong phẫu thuật chúng tôi không gặp các biến chứng nặng nề khó xử trí như xuất huyết tống khứ, thoát dịch kính, đứt dây Zinn... như trong các phẫu thuật 48 nội nhãn khác. Biến chứng phổ biến nhất chúng tôi hay gặp là thoát mống mắt qua mép mổ hoặc xẹp tiền phòng. Nhưng nhờ khâu hẹp bớt mép mổ và với sự trợ giúp của chất nhầy cao phân tử (Healon GV) các biến chứng này được khắc phục nhẹ nhàng. Chúng tôi gặp 10% trường hợp có phản ứng màng bồ đào sau phẫu thuật, tuy nhiên phản ứng này qua đi nhanh chóng sau 1 tuần nhờ thuốc tra Maxitrol và Naclof 5 lần/ngày. Đây cũng là nguyên nhân gây giảm thị lực chỉnh kính ngay sau mổ ở 10% trường hợp. Do thời gian nghiên cứu còn ngắn nên chúng tôi chưa đánh giá được các biến chứng lâu dài của phương pháp. BÀN LUẬN Trong nghiên cứu, trước phẫu thuật tất cả các mắt đều có thị lực rất kém và nếu không đeo kính thì tới 90% trường hợp bị xếp vào loại mù lòa (theo phân loại của WHO). Hơn nữa, trong tất cả các trường hợp với chỉ số khúc xạ cao trên 10D, dù bệnh nhân sử dụng kính để tăng thị lực thì chất lượng hình ảnh cũng bị thay đổi như thay đổi về màu sắc vật, kích thước vật.... Do việc đánh giá khúc xạ ngay sau phẫu thuật thường không hoàn toàn chính xác do mắt chưa ổn định nên chúng tôi chỉ đi vào quan sát các chỉ số khúc xạ sau phẫu thuật 3 tháng. Nghiên cứu của chúng tôi có 80% trường hợp khúc xạ cầu sau mổ trong khoảng 0-1D, với khúc xạ này bệnh nhân có thể tự điều tiết được khi đọc sách và không cần xử dụng kính trong sinh hoạt hàng ngày. Sự thay đổi khúc xạ cầu cũng được các tác giả trên thế giới đặc biệt chú ý: nghiên cứu Đa trung tâm Nhãn khoa tại Châu Âu thực hiện năm 1991 sau 3 năm đạt 78.8% khúc xạ trong khoảng 0-1D, nghiên cứu của Hiệp hội thuốc và thực phẩm Mỹ thực hiện năm 1999 đạt tới 89% khúc xạ trong khoảng 0-1D. Tỷ lệ này được các nhà nhãn khoa đánh giá rất cao khi so với kết quả đạt được khi điều trị cận thị nặng bằng Laser. Bên cạnh sự thay đổi khúc xạ cầu, khúc xạ trụ cũng có những biến đổi nhất định. Dù chưa được đánh giá kỹ lưỡng do thời gian và số lượng nghiên cứu còn ít nhưng nhìn sơ bộ chúng tôi nhận thấy chỉ số khúc xạ trụ tăng lên chút ít Tuy nhiên kết quả này không quá bất ngờ do thông thường, khúc xạ trụ trên các mắt được phẫu thật nội nhãn đều có thay đổi. Hơn nữa, do chỉ tập trung nghiên cứu hiệu quả của phương pháp trên mắt cận thị nặng (khúc xạ cầu), chúng tôi đã loại khỏi nhóm các bệnh nhân có khúc xạ trụ cao hơn 3D, đồng thời do mới ở giai đoạn nghiên cứu đầu tiên nên chúng tôi đã không sử dụng IOL dạng trụ để điều chỉnh loạn thị. Biến đổi đáng kể của khúc xạ cầu đã kéo theo một kết quả thị lực hết sức khả quan. Sau 3 tháng điều trị, khi thị lực đã tương đối ổn định 60% trường hợp TL không kính từ 3-7/10, 10% trường hợp có thị lực rất cao >7/10, đây là nhóm thị lực trước mổ không có kể cả với thị lực đã chỉnh kính tối đa. Thông thường mục đích của các phương pháp điều chỉnh cận thị nặng khác là đạt được thị lực sau phẫu thuật bằng thị lực chỉnh kính tối đa trứơc phẫu thuật. Phương pháp phẫu thuật cài IOL trên mống mắt do duy trì được chức năng 49 quang học của các cấu trúc nhãn cầu nên nếu tính toán công suất IOL chính xác việc đạt được thị lực bằng thị lực chỉnh kính tối đa trước mổ là hoàn toàn không khó khăn. Hơn nữa, do không bị giới hạn bởi gọng kính, do không bị thu nhỏ hình ảnh vật bởi kính gọng phân kỳ, thị lực đạt được của phương pháp thường cao hơn so với thị lực chỉnh kính tối đa trước mổ. Đây là tính ưu việt tuyệt đối của phương pháp cài IOL trên mống mắt so với kính gọng phân kỳ. Bảng 3: So sánh kết quả với các tác giả khác Châu Âu (1991) Mỹ (1999) Vũ Thị Thái Bùi Vân Anh Số mắt 518 775 10 KX cầu trước mổ (D) -5->-20 TB -12.46 TB-15.1 ± 3.05D KX cầu sau mổ (D) 78.8% ± 1.0 89% ± 1.0 63% ± 0.5 80% ± 1D TL không kính sau mổ 76.2% ≥ 20/40 33.7% ≥ 20/20 90% ≥ 20/40 69% ≥ 20/25 100% ≥ 1/10 60% ≥ 3/10 10% ≥ 7/10 TL kính sau mổ TB 0.87 ± 0.20 71% + 1Snellen 20% + 2Snellen 0.8% - 1Snellen 100% ≥ 1/10 60% ≥ 3/10 10% ≥ 7/10 Chỉ số hiệu quả 1.03 1.00 >1.00 Hiệu quả biến đổi thị lực sau phẫu thuật cũng được các tác giả trên thế giới đề cập tới. Chỉ số hiệu quả (= Trung bình thị lực không kính sau mổ / trung bình thị lực có kính trước mổ) trong nghiên cứu của châu Âu năm 1991 là 1.03, nghiên cứu của FDA Mỹ năm 1999 là 1.00 (phương pháp có hiệu quả khi giá trị ≥1). Việc sử dụng bảng thị lực vòng hở Landolt không cho phép chúng tôi tiến hành tính được giá trị trung bình thị lực nên không tính được chỉ số hiệu quả một cách chính xác. Tuy vậy, sau phẫu thuật 3 tháng, chúng tôi cũng tiến hành so sánh và nhận thấy 100% thị lực không chỉnh kính sau mổ ≥ thị lực có chỉnh kính tối đa trước mổ. Điều này đảm bảo cho chỉ số hiệu quả của phương pháp ≥ 1. Cảm giác chủ quan: Hiệu quả của phương pháp khiến cho bệnh nhân của chúng tôi hết sức hài lòng. 100% bệnh nhân cảm thấy hài lòng sau phẫu thuật là kết quả hết sức khuyến khích giúp chúng tôi tiến hành những nghiên cứu nhiều hơn về số lượng và thời gian. Cảm giác lóa sáng, nhìn mờ vào buổi tối (tương phản ánh sáng yếu) được chúng tôi rất chú ý khi thăm dò bệnh nhân. Với các phương pháp điều chỉnh khác như Laser, đặt vòng nhu mô giác 50 mạc thì đây là những tác dụng phụ khiến bệnh nhân hết sức khó chịu. Với các phương pháp này, đôi khi thị lực đạt được 10/10 nhưng bệnh nhân không thấy hài lòng do họ không làm việc được do nhìn luôn bị lóa và không nhìn được vào buổi chiều tối. Phương pháp cài IOL vào mống mắt do không làm biến đổi cấu trúc quang học của nhãn cầu nên đã loại bỏ được biến chứng này và tỷ lệ lóa sáng cũng như nhìn mờ vào buổi tối trong nghiên cứu của chúng tôi là 0% trong cả hai thời điểm hậu phẫu. Hiện tượng nhìn gần khó xảy ra ở 10% trường hợp và cũng nhanh chóng mất đi. Đây cũng là một ưu thế của phương pháp so với phẫu thuật lấy thủy tinh thể sớm do nó bảo tồn được thủy tinh thể tự nhiên nhờ đó việc điều tiết của bệnh nhân được duy trì. Tuy nhiên, ưu thế này của phương pháp cũng chỉ có được trên những bệnh nhân trẻ tuổi, khi thủy tinh thể chưa bị xơ hóa và vẫn còn khả năng điều tiết. Do TTTNT nằm trong cấu trúc mắt, bệnh nhân không phải bảo quản thường xuyên cũng như không bị va chạm thường xuyên gây hỏng, mất, đồng thời khoảng không gian nhìn được không còn bị giới hạn do gọng kính đeo nên thị trường được mở rộng. Đây cũng là những ưu điểm luôn được nhắc đến của phương pháp. Biến chứng: Ngay sau phẫu thuật chúng tôi gặp 10% trường hợp có phản ứng màng bồ đào sau phẫu thuật. Trong nghiên cứu của mình năm 1994, Jose’L. Menezo cũng ghi nhận 3.5% hay Jorge L. Alio’ năm 2002 ghi nhận 3.4% trường hợp có phản ứng màng bồ đào sau phẫu thuật. Tất cả các tác giả đều nhận xét rằng các trường hợp có phản ứng viêm đều qua đi rất nhanh với các thuớc chống viêm tra sau phẫu thuật. Do thời gian nghiên cứu còn ngắn nên chúng tôi chưa đánh giá được các biến chứng lâu dài của phương pháp. Tuy nhiên, trên y văn một số biến chứng cũng đã được nhắc đến như: thoái hóa mống mắt, đục thủy tinh thể... Thoái hóa mống mắt thường xảy ra tại vị trí càng TTTNT cài vào. Hiện tượng thoái hóa mống mắt khiến đồng tử trở nên xếch nhẹ nhưng không gây cản trở phản xạ đồng tử. Đục thủy tinh thể có thể do sự xơ hóa theo tuổi của thủy tinh thể nhưng cũng có thể do sự va chạm vào thủy tinh thể khi phẫu thuật. Việc xử trí đục thủy tinh thể được tiến hành không quá phức tạp theo phương pháp phaco sau khi đã lấy bỏ TTTNT cài mống mắt. Một biến chứng được nhiều nhà Nhãn khoa lo lắng trước khi lựa chọn phương pháp cài TTTNT vào mống mắt điều trị cận thị cao là gây mất tế bào nội mô lâu dài. Theo nghiên cứu Đa trung tâm Nhãn khoa Châu Âu (1991), sau 3 năm số lượng tế bào nội mô mất đi 4.8%, nghiên cứu FDA (năm 1999) sau 2 năm số lượng tế bào nội mô mất đi 1.28%; các chỉ số này không khác nhiều so với phẫu thuật phaco thông thường (theo Benjaminn F. Boyd, 2004). Hơn nữa, sự tìm tòi liên tục của các nhà nghiên cứu đã đưa ra rất nhiều mẫu TTTNT cài mống mắt dạng mới nhằm hạn chế các va 51 chạm có thể xảy ra với nội mô giác mạc như thay đổi kích thước, thay đổi mặt trước của TTTNT từ dạng cong lõm thành dạng phẳng... Những kết quả này đã giúp cho chỉ định của phương pháp trong được mở rộng. Kỹ thuật phẫu thuật: Phẫu thuật cài TTTNT vào mống mắt điều trị cận thị cao là phẫu thuật không quá phức tạp, tất cả những ai có khả năng thực hiện vi phẫu thuật đều có khả năng thực hiện được. Tuy nhiên, do ưu thế của phương pháp là đảm bảo duy trì tính hoàn chỉnh của các tổ chức trong suốt của nhãn cầu nên nếu trong quá trình phẫu thuật phẫu thuật viên gây va chạm nhiều vào các tổ chức trong nhãn cầu, các ưu thế của phương pháp sẽ mất đi, hiệu quả của phương pháp không còn. Sự va chạm vào nội mô cũng như vào thủy tinh thể sẽ được hạn chế nếu ta sử dụng chất nhầy cao phân tử cũng như tra co đồng tử tốt trước khi phẫu thuật. Ngoài ra, khi thực hiện cài mống mắt vào càng TTTNT - động tác khó khăn nhất của phẫu thuật, phẫu thuật viên phải hết sức nhẹ nhàng tránh gây tổn thương cho mống mắt. Điều này có thể khắc phục dễ dàng nhờ tập luyện tốt trên thực nghiệm. KẾT LUẬN Cận thị nặng có tỷ lệ không cao nhưng gây giảm thị lực trầm trọng ảnh hưởng tới cuộc sống của bệnh nhân. Tất cả các phương pháp điều chỉnh cận thị đều có những ưu, khuyết điểm nhất định. Phẫu thuật cài TTTNT vào mống mắt là phương pháp điều chỉnh có hiệu quả, an toàn và không phức tạp trong điều chỉnh cận thị nặng. Tuy nhiên, để đánh giá được phương pháp một cách toàn diện hơn, chúng tôi sẽ tiến hành những nghiên cứu lâu dài hơn, số lượng lớn hơn trong thời gian tới. TÀI LIỆU THAM KHẢO 1. BENJAMINN F. BOYD: PhakicIOL’s surgical management of High myopia. Lasik and beyond lasik., Highlights of ophthalmology, 2004: 469-498. 2. BERNARD DELBOSC: Les complications rétiniennes de la chirurgie réfractive du myope. Réflexions Ophtalmologiques. 6/1998; N°18, 50-53 3. CAMILLE J. R. BUDO: The Artisan lens. Highlights of ophthalmology.2004 4. GEORGES BAIKOFF: Phakic myopic intraocular lenses. Refrative surgical. Masson, 2000,163-173.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • pdfde_tai_ket_qua_buoc_dau_su_dung_thuy_tinh_the_nhan_tao_cai_m.pdf
Tài liệu liên quan