Tài liệu Đề tài Kết quả bước đầu của phẫu thuật cắt thể thủy tinh – dịch kính đục do chấn thương qua Pars Plana phối hợp đặt thể thủy tinh nhân tạo – Đỗ Như Hơn: 31
AKẾT QUẢ BƯỚC ĐẦU CỦA PHẪU THUẬT CẮT THỂ THỦY 
TINH – 
DỊCH KÍNH ĐỤC DO CHẤN THƯƠNG QUA PARS PLANA 
PHỐI HỢP ĐẶT THỂ THỦY TINH NHÂN TẠO 
ĐỖ NHƯ HƠN, NGUYỄN THU YÊN, NGUYỄN QUỐC ANH 
Bệnh viện Mắt Trung ương 
NGÔ VĂN THẮNG 
Bệnh viện đa khoa huyện Gia Lộc- Hải Dương 
HOÀNG HẢI 
Bệnh viện Mắt Thái Nguyên 
TÓM TẮT 
 Đục thể thủy tinh (TTT) và dịch kính (DK) do chấn thương (CT) thường dẫn đến 
hậu quả mất thị lực (TL) trầm trọng. Mục tiêu: Đánh giá kết quả bước đầu của phẫu 
thuật (PT) cắt TTT- DK đục do CT phối hợp đặt thể thuỷ tinh nhân tạo (IOL: Intraocular 
lens) hậu phòng. Nhận xét về chỉ định và ứng dụng kỹ thuật mổ. Phương pháp nghiên 
cứu: Nghiên cứu can thiệp lâm sàng tiến cứu gồm 30 bệnh nhân (BN) với 30 mắt bị CT 
đụng giập, vết thương xuyên (VTX) được xác định dựa trên kết quả siêu âm và X-quang 
tại khoa chấn thương Bệnh viện Mắt Trung ương từ tháng 12/2005 đến tháng 8/2006. Kết 
quả: Trong số 30 BN trong nhóm nghiên cứu (28 nam, 2 nữ), tuổi từ 3 - 45. VT...
                
              
                                            
                                
            
 
            
                 7 trang
7 trang | 
Chia sẻ: Đình Chiến | Ngày: 11/07/2023 | Lượt xem: 430 | Lượt tải: 0 
              
            Bạn đang xem nội dung tài liệu Đề tài Kết quả bước đầu của phẫu thuật cắt thể thủy tinh – dịch kính đục do chấn thương qua Pars Plana phối hợp đặt thể thủy tinh nhân tạo – Đỗ Như Hơn, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
 31
AKẾT QUẢ BƯỚC ĐẦU CỦA PHẪU THUẬT CẮT THỂ THỦY 
TINH – 
DỊCH KÍNH ĐỤC DO CHẤN THƯƠNG QUA PARS PLANA 
PHỐI HỢP ĐẶT THỂ THỦY TINH NHÂN TẠO 
ĐỖ NHƯ HƠN, NGUYỄN THU YÊN, NGUYỄN QUỐC ANH 
Bệnh viện Mắt Trung ương 
NGÔ VĂN THẮNG 
Bệnh viện đa khoa huyện Gia Lộc- Hải Dương 
HOÀNG HẢI 
Bệnh viện Mắt Thái Nguyên 
TÓM TẮT 
 Đục thể thủy tinh (TTT) và dịch kính (DK) do chấn thương (CT) thường dẫn đến 
hậu quả mất thị lực (TL) trầm trọng. Mục tiêu: Đánh giá kết quả bước đầu của phẫu 
thuật (PT) cắt TTT- DK đục do CT phối hợp đặt thể thuỷ tinh nhân tạo (IOL: Intraocular 
lens) hậu phòng. Nhận xét về chỉ định và ứng dụng kỹ thuật mổ. Phương pháp nghiên 
cứu: Nghiên cứu can thiệp lâm sàng tiến cứu gồm 30 bệnh nhân (BN) với 30 mắt bị CT 
đụng giập, vết thương xuyên (VTX) được xác định dựa trên kết quả siêu âm và X-quang 
tại khoa chấn thương Bệnh viện Mắt Trung ương từ tháng 12/2005 đến tháng 8/2006. Kết 
quả: Trong số 30 BN trong nhóm nghiên cứu (28 nam, 2 nữ), tuổi từ 3 - 45. VTX gặp 
nhiều hơn CT đụng giập. Tổn thương rách giác mạc thường gặp (73,3%). Kết quả TL sau 
mổ 0,05 đạt 56,6%, IOL nằm đúng vị trí giải phẫu 56,6%. Kết luận: Đặt IOL ở cùng 
thời điểm cắt TTT -DK qua pars plana cho phép phục hồi lại TL và chức năng thị giác 
hai mắt. 
 Từ khoá: cắt thể thủy tinh, dịch kính đục, đặt thể thủy tinh nhân tạo 
I. ĐẶT VẤN ĐỀ 
 Đục TTT và DK là hai tổn thương 
phối hợp thường gặp trong bệnh cảnh 
lâm sàng phức tạp của CT nhãn cầu. Tổn 
thương có thể làm giảm TL một cách 
trầm trọng tức thì và nhiều nguy cơ gây 
biến chứng nặng cho mắt do hậu quả của 
CT còn tồn tại dai dẳng trong nhãn cầu. 
Nhưng nhờ những tiến bộ của khoa học 
kỹ thuật trong vài thập kỷ qua mà việc 
cắt TTT- DK và đặt IOL lên phần còn lại 
của bao trước và khe thể mi trong một 
lần mổ đã mang lại những kết quả khả 
quan trong việc xử lý những tổn thương 
phối hợp phức tạp này. Nhưng cho đến 
nay các nghiên cứu của các tác giả trên 
thế giới cũng như ở Việt Nam về vấn đề 
này vẫn còn ít những báo cáo và thường 
chỉ có trong những chuyên đề riêng biệt. 
Vì vậy, chúng tôi bước đầu tiến hành 
nghiên cứu ứng dụng kỹ thuật mổ cắt 
TTT-DK đục do CT phối hợp đặt IOL 
hậu phòng với mục tiêu: Đánh giá kết 
quả bước đầu của phẫu thuật cắt TTT-
DK đục do CT phối hợp đặt IOL. Nhận 
xét về chỉ định và ứng dụng kỹ thuật mổ. 
 32
II. ĐỐI TƯỢNG VÀ PHƯƠNG 
PHÁP 
2.1. Đối tượng nghiên cứu 
 Là những BN được nằm điều trị tại 
khoa Chấn thương - Bệnh viện Mắt Trung 
ương từ tháng 12/2005 đến tháng 8/2006, 
tuổi 45, bị đục vỡ TTT có đục DK do CT 
đụng giập, VTX có hoặc không có dị vật 
nội nhãn (DVNN) được chẩn đoán xác 
định dựa vào các triệu chứng lâm sàng, 
XQ, siêu âm hệ thống A-B. Loại trừ những 
bệnh nhân CT nặng hoặc viêm nhiễm cấp 
tính do CT chưa được xử trí cấp cứu ban 
đầu, thị lực sáng tối (ST) (-). 
2.2. Phương pháp nghiên cứu 
2.2.1. Phương tiện nghiên cứu và 
đánh giá kết quả: Máy sinh hiển vi 
khám và phẫu thuật; máy siêu âm - XQ; 
máy đếm tế bào nội mô không tiếp xúc; 
máy cắt DK; dụng cụ vi phẫu; IOL cứng 
đường kính phần quang học 6 mm,với A 
(A: hằng số IOL) =118,4... 
2.2.2. Phương pháp tiến hành: 
Khám lâm sàng, hỏi bệnh sử; khám xét 
phân loại CT; các xét nghiệm về chức 
năng; tính công suất IOL theo công thức 
SRK II (S: Sanders; R: Retzlaff; K: Kraff). 
Kỹ thuật mổ: cắt TTT - DK đục do CT qua 
pars plana, đặt IOL hậu phòng. 
- Đánh giá kết quả giải phẫu: Biến 
đổi mật độ tế bào nội mô giác mạc, tình 
trạng DK trên lâm sàng và bằng siêu âm 
hệ thống B: Tốt: DK trong; Trung bình: 
DK đục khu trú; Xấu: DK đục nhiều, che 
lấp võng mạc trung tâm hay toàn bộ 
võng mạc; vị trí IOL. Đánh giá kết quả 
vềTL, đánh giá về khúc xạ sau mổ, các 
biến chứng sau mổ. 
 Xử lý số liệu theo chương trình 
phần mềm EPI-INFO 6.0. 
III. KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU 
3.1. Đặc điểm bệnh nhân 
 Trong số 30 BN (30 mắt), tuổi từ 3 
- 45 (trung bình 26 tuổi), trong đó 28 
nam và 2 nữ. 
Bảng 1. Đặc điểm tổn thương phối hợp 
Tổn thương n =30 
VTX c ó DVNN 15 
Viêm DK 27 
Xuất huyết DK 17 
Tổ chức hoá DK 5 
Rách giác mạc 22 
Tổn thương mống mắt 18 
Tổn thương phối hợp thường gặp nhất là rách giác mạc 22/30 mắt, với chiều dài vết 
rách ≥ 5 mm: 19/22 mắt; > 5 mm: 3/22 mắt. 
 33
3.2. Kết quả về giải phẫu 
Bảng 2. Biến đổi về mật độ tế bào nội mô giác mạc trước và sau mổ 
Thời điểm 
Mật độ tế bào 
Trước mổ 
(n = 25) 
Ra viện 
(n = 12) 
3 tháng 
(n = 24) 
Mắt không bị CT 2634,123±716,642 2319,167±583,158 2698,375±766,665 
Mắt chấn thương 2090,56±746,776 1588,750±786,92 1643,125 ± 556,443 
p 0,011563 0,016949 0,00002 
Số lượng tế bào nội mô mất đi ở mắt. CT so với mắt không bị CT trước phẫu thuật 
trung bình 20,6%. 
Bảng 3. Tình trạng dịch kính - võng mạc sau phẫu thuật 
 Lần khám cuối 
Ra viện 
Tốt Trung bình Xấu Tổng cộng 
Tốt 15 1 1 17 
Trung bình 5 4 0 9 
Xấu 0 2 2 4 
Tổng cộng 20 7 3 30 
DK trong - võng mạc áp ở thời điểm ra viện 17/30 đã tăng lên 20/30 trường hợp ở 
thời điểm thăm khám lần cuối. 
Bảng 4. Tình trạng thể thủy tinh nhân tạo 
Lần khám cuối 
Ra viện 
Cân Lệch ít Lệch nhiều Tổng cộng 
Cân 15 8 1 24 
Lệch ít 2 2 1 5 
Lệch nhiều 0 0 1 1 
Tổng cộng 17 10 3 30 
Tình trạng nghiêng lệch IOL tăng lên theo thời gian ở thời điểm ra viện 6/30 trường 
hợp tăng lên 13/30 trường hợp ở lần khám cuối. 
3.3. Kết quả về chức năng 
Bảng 5. Tình trạng thị lực trước và sau mổ 
Thời gian 
Thị lực 
Trước mổ 
(n = 30) 
Ra viện 
(n = 30) 
3 tháng 
(n = 30) 
ST (-) 0 0 2 
ST (+) - 0,02 22 14 6 
0,02 - <0,05 2 0 4 
0,05 - <0,2 3 9 3 
0,2 - 0,5 2 5 9 
 34
> 0,5 0 1 5 
Không xác định 1 1 1 
Mức độ TL từ ST (+) - <0,02 trước 
mổ chiếm đa số (22/30 mắt) giảm xuống ở 
thời điểm khám lần cuối còn 6/30 trường 
hợp và TL đạt ≥0,05 là 18/30 mắt. 
3.4. Tình trạng khúc xạ cầu tương 
đương sau mổ 
 16/30 mắt được đo lại khúc xạ cầu 
tương đương (SE: spherical equivalent), 
2 mắt ở thời điểm khám lại lần cuối thấy 
hiệu lệch khúc xạ SE trung bình giữa 2 
mắt là -1,813 (1,548 với test-t, p = 
0,0028). 
3.5. Biến chứng sau PT 
Bảng 6. Biến chứng sớm sau phẫu thuật 
Các biến chứng n = 30 
Phù giác mạc 27 
Xuất huyết nội nhãn 4 
Viêm màng bồ đào 5 
Viêm mủ nội nhãn 1 
Bong võng mạc 5 
 Biến chứng sớm thường gặp nhất là 
phù giác mạc 27/30 mắt. 
IV. BÀN LUẬN 
4.1. Đặc điểm nhóm nghiên cứu 
 Với 30 BN (28 nam, 2 nữ), tuổi 
trung bình 26, bị CT đụng giập, VTX có 
hoặc không có DVNN đã được xử trí cấp 
cứu ban đầu, có đục TTT và DK hầu hết 
là có tổn thương phối hợp trên giác mạc 
(73,3%), tổn thương mống mắt (60%) và 
(50%) số BN có DVNN, kèm theo có 
xuất huyết và viêm DK nặng, thường gặp 
ở những người trong độ tuổi lao động, do 
thiếu hiểu biết, chủ quan trong lúc làm 
việc mà dẫn đến những hậu quả bị CT 
nghiêm trọng này. 
4.2. Kết quả về giải phẫu 
- Biến đổi mật độ tế bào nội mô giác 
mạc: bảng 2 cho thấy số lượng tế bào nội 
mô trung bình bị mất đi giữa mắt CT và 
mắt không CT trước PT là 544, như vậy, 
trung bình tế bào bị mất là 20,6%, nhưng tỷ 
lệ mất tế bào ở thời điểm trước PT và ra 
viện ở mắt CT có sự khác biệt chưa có ý 
nghĩa thống kê (p > 0,05). Nhưng ở thời 
điểm trước PT với thời điểm khám lại lần 
cuối thì tỷ lệ mất tế bào nội mô trung 
bình là 21,09%, sự khác biệt có ý nghĩa 
thống kê (p < 0,05). 
- Tình trạng DK và võng mạc: Kết 
quả khám lâm sàng và hình ảnh của siêu 
âm B, cho thấy ngay sau mổ DK thường 
bị mờ đục ở mức độ nhẹ (56,6%) do sự 
hòa tan của cục máu đông cũng như 
những sản phẩm thoái hóa của hồng cầu 
và phản ứng viêm sau phẫu thuật. Nhưng 
 35
quá trình tiêu những thành tố này diễn ra 
khá nhanh chóng trong khoảng thời gian 1 
tháng sau mổ làm tình trạng DK được cải 
thiện một cách đáng kể (tốt: 66,6%). Kết 
quả của chúng tôi thấp hơn so với kết quả 
nghiên cứu của Nguyễn Thị Thu Yên 
(2004): 71,5%, có lẽ là do nghiên cứu của 
tác giả chỉ đề cập đến vấn đề cắt DK trong 
VTX [2]. 
- Vị trí IOL: Độ nghiêng lệch của 
IOL phụ thuộc vào khá nhiều yếu tố: 
trong đó phản ứng viêm dính mống mắt 
với IOL hoặc bao trước TTT là nguyên 
nhân chủ yếu dẫn đến tình trạng nghiêng 
lệch IOL. Nhiều báo cáo trước đây cho 
rằng việc đặt IOL mà hai càng nằm được 
trong túi bao là lý tưởng về mặt giải 
phẫu, đã hạn chế tối đa biến chứng lệch 
IOL sau mổ. Nhưng theo chúng tôi, với 
những mắt bị CT thì thương tổn do lực 
cơ học làm rách hoặc liệt cơ vòng đồng 
tử kết hợp phản ứng viêm dính bờ đồng 
tử với bao trước TTT làm đồng tử biến 
dạng, khó giãn thường phải tách dính 
mống mắt trong PT và phản ứng viêm 
tạo màng fibrin diễn ra khá nhanh trong 
mổ, đặc biệt là trên người trẻ thì việc đặt 
IOL hậu phòng mà hai càng nằm đúng 
trong túi bao là khó có thể thực hiện 
được [5]. Vì vậy, giải pháp khắc phục 
của chúng tôi trong nghiên cứu này là lựa 
chọn loại IOL cứng có đường kính quang 
học 6 mm và đường kính toàn bộ IOL 13 
mm là phù hợp với việc để lại viền bao 
trước kích thước 5 mm cũng như đường 
kính trung bình của rãnh thể mi (11 ± 
0,37 mm) [4], đã giảm thiểu tối đa tình 
trạng nghiêng lệch IOL. Tuy nhiên, trong 
NC vẫn còn 13/30 trường hợp (43,3%) 
lệch IOL. Kết quả này phù hợp với NC 
của Nguyễn Kiên Trung (2003): 42,3%, 
mặc dù tác giả đã đặt IOL hậu phòng 
trong túi bao chiếm phần lớn trên những 
mắt bị CT đục vỡ TTT đơn thuần [1]. 
4.3. Kết quả về thị lực 
Thị lực sau mổ trong NC này tuy 
không cao (chỉ có 56,6% TL >0,05) 
nhưng chúng tôi nhận thấy rằng ngoài 
những yếu tố khách quan như những tổn 
thương phức tạp phối hợp ban đầu do CT, 
biến chứng sau PT, thì việc tính công suất 
IOL trước mổ đóng một vai trò rất quan 
trọng ảnh hưởng đến kết quả về TL sau 
mổ. Khi khảo sát lại tình trạng khúc xạ 
của 16/30 BN ở cả hai mắt tại thời điểm 
khám lại sau mổ lần cuối cho thấy hiệu số 
khúc xạ SE trung bình lệch giữa hai mắt 
là -1,813 ± 1,548D (với t-test p = 0,0028), 
kết quả này phù hợp với kết quả NC của 
Lamkin J.C (1992) [6], Koenig S.B 
(1992) [5], Rubsamen P.E (1995) [7], 
Điều này cho thấy việc tính công suất IOL 
dựa trên công thức kinh điển SRK II được 
cải biên năm 1998, vẫn đang được áp 
dụng ở nước ta hiện nay, cần phải hiệu 
chỉnh lại cho từng trường hợp riêng biệt. 
4.4. Biến chứng sau mổ 
Biến chứng có thể là hậu quả của 
chính CT ban đầu hoặc là do PT này, vì 
vậy khó có thể đánh giá một cách rõ ràng 
nguyên nhân từ đâu. Biến chứng sớm 
nhất thường gặp sau mổ là phù giác mạc 
(90%); màng xuất huyết diện đồng tử 
(20%), nhưng đây cũng chỉ là biến chứng 
nhẹ. Một trường hợp viêm mủ nội nhãn 
sau mổ ngày thứ tư là biến chứng nặng 
nhưng nhờ xử trí kịp thời bằng các thuốc 
kháng sinh, chống viêm toàn thân và tại 
chỗ, phối hợp PT cắt DK mủ và bơm dầu 
silicone nội nhãn ở thời điểm thích hợp mà 
tình trạng nhiễm trùng đã được giải quyết 
một cách triệt để, tránh được hiểm họa phải 
 36
bỏ nhãn cầu cho BN và TL sau mổ 2 tuần 
cũng đạt >0,02. 
4.5. Nhận xét về chỉ định và ứng 
dụng kỹ thuật mổ 
Cắt TTT và DK đục trên những mắt 
CT cho đến nay vẫn còn nhiều vấn đề bàn 
cãi: Về thời gian của PT cũng như việc có 
nên đặt IOL một thì hay không vẫn phải 
phụ thuộc vào từng trường hợp cụ thể đặc 
biệt là những tổn thương phức tạp cũng 
như biến chứng của tổn thương ban đầu. 
Mắt CT ít nhiều có phản ứng viêm dính 
mống mắt, đồng tử khó giãn, chất TTT 
nằm sau mống mắt hoặc rơi vào buồng DK 
không thể quan sát được dễ bị sót nếu lựa 
chọn phương pháp rửa hút chất TTT hoặc 
cắt TTT qua đường giác mạc sẽ không thể 
lấy hết được tác nhân gây viêm còn tồn tại, 
đó là một trong những nguyên nhân của 
lệch IOL và viêm màng bồ đào sau mổ kéo 
dài [1]. Đặc biệt khó có thể làm sạch được 
buồng DK khi đã bị đục do xuất huyết 
hoặc tăng sinh xơ và sự tồn tại của dị vật 
bên trong hoặc cắm thành nhãn cầu. Đó là 
lý do mà chúng tôi đưa ra trong chỉ định 
của PT này. Viền bao trước TTT để lại 
trong PT có tác dụng nâng đỡ IOL mà 
không cần phải cố định càng IOL bằng chỉ, 
bị đục hóa diễn ra khá nhanh chóng sau 
PT. Nhưng phần bao trước quanh trục thị 
giác đã được cắt đi một cách chủ động với 
kích thước khoảng 5 mm đủ lớn để lại đã 
phòng được sự tái bít của màng xơ dày 
trên diện cắt quanh trục quang học, giữ cho 
trục nhìn được trong và đây là một lợi thế 
lớn của PT này, tránh được việc phải can 
thiệp PT mở bao đục xơ thứ phát sau PT 
đặt IOL. 
V. KẾT LUẬN 
- Tổn thương nặng phối hợp đục 
TTT - DK phần lớn do VTX (93,3%) 
trong đó 50% các trường hợp có DVNN. 
- Thị lực sau mổ đạt >0,05 (56,6%), 
DK trong, võng mạc áp (66,6%), IOL nằm 
đúng vị trí (56,6%). Biến chứng sau mổ 
thường gặp là phù giác mạc (90%), viêm 
màng bồ đào (16,7%), tỷ lệ bị bong võng 
mạc (16,7%) còn cao do tổn thương ban 
đầu nặng kèm theo có DVNN. 
- Chỉ định PT chỉ nên áp dụng cho 
những trường hợp VTX có đục vỡ TTT 
kèm rách bao sau và tổn thương nặng ở 
bán phần sau có hoặc không có dị vật 
trong buồng DK hoặc cắm thành nhãn 
cầu. 
 Việc tính công suất IOL trước mổ 
cần chính xác hơn nữa với từng trường 
hợp đặt IOL hậu phòng, mới có thể góp 
phần tăngTL cho người bệnh một cách 
tối đa. 
TÀI LIỆU THAM KHẢO 
1. NGUYỄN KIÊN TRUNG (2003), Góp phần nghiên cứu các biến chứng và cách 
xử lý của phẫu thuật đặt thể thủy tinh nhân tạo hậu phòng trên mắt chấn thương, Luận 
văn tốt nghiệp bác sĩ nội trú các bệnh viện, Trường Đại học Y Hà Nội. 
2. NGUYỄN THỊ THU YÊN (2001), Nghiên cứu ứng dụng kỹ thuật cắt dịch kính 
trong điều trị vết thương xuyên nhãn cầu, Luận án tiến sỹ y học, Trường Đại học Y Hà 
Nội. 
3. BENEZRA D. (1997), "Traumatic cataract in children: correction of aphakia by 
contact lens of intraocular lens", Am. J. Ophthalmol., 123, pp. 773-82. 
4. DAVIS R.M, ET AL (1991), "Ciliary sulcus anatomical dimensions", Cornea, 10, 3, 
pp. 244-8. 
 37
5. KOENIG S.B (1992), "Pseudophakia for traumatic cataracts in children", 
Ophthalmology, vol. 100, 8, pp. 1218-224. 
6. LAMKIN J.C (1992), "Simultaneous corneal laceration repair, cataract removal, 
and posterior chamber intraocular lens implantation", Am. J. Ophthalmol., vol. 
113, pp. 626-31. 
7. RUBSAMEN P.E (1994), "Primary intraocular lens implantation in the setting of 
penetrating ocular trauma", Ophthalmology, vol. 102, 1, pp. 101-7. 
SUMMARY 
PRIMARY RESULTS OF TRANS PARS PLANA VITREO - LENSECTOMY IN 
COMBINATION WITH INTRAOCULAR LENS INSERTION AMONG PATIENTS 
WITH OCULAR INJURY 
Cataract and vitreous opacification caused by ocular injury result in significant 
visual loss. Objective: To evaluate the initial result of patients having ocular blunt or 
penetrating trauma had been vitreo - lensectomized trans pars plana and inserted intra 
ocular lens in posterior chamber. Remark on the indication and applying the technology 
of operation. Methods: In this prospective randomized trials study, a total of patients (30 
eyes) with blunt or penetrating ocular trauma were assessed by using X-ray, ultrasound 
in Trauma Department of National Institute of Ophthalmology, from December 2005 to 
August 2006. Results: Among 30 patients (28 male and 2 female) the age ranges from 3 
to 45 years. Penetrating injuries are more common than contusion ones,the cornea is a 
common site of injury (73.3%).The surgery can provide a visual acuity at over 0.05 
(56.6%) with anatomical stable intraocular lens. Conclusion: Intraocular lens 
implantation at the same time of trans pars plana vitreo-lensectomy can provide a 
reasonable restoration of visual acuity and binocular function. 
Keyword: vitreo-lensectomy, intraocular lens insertion 
            Các file đính kèm theo tài liệu này:
 de_tai_ket_qua_buoc_dau_cua_phau_thuat_cat_the_thuy_tinh_dic.pdf de_tai_ket_qua_buoc_dau_cua_phau_thuat_cat_the_thuy_tinh_dic.pdf