Đề tài Giải pháp nâng cao hiệu quả xuất khẩu than ở Tập đoàn Công nghiệp Than - Khoáng sản Việt Nam

Tài liệu Đề tài Giải pháp nâng cao hiệu quả xuất khẩu than ở Tập đoàn Công nghiệp Than - Khoáng sản Việt Nam: MỤC LỤC TRANG PHẦN MỞ ĐẦU 1. Sự cần thiết của đề tài Ngày nay, xuất khẩu đã trở thành xu hướng phát triển tất yếu và ngày càng đóng vai trò quan trọng và tích cực đối với nền kinh tế mỗi quốc gia trong xu thế hội nhập kinh tế quốc tế và khu vực, đặc biệt với những nền kinh tế đang phát triển như Việt Nam. Là một mặt hàng quan trọng, than antraxit Việt Nam không chỉ thoả mãn, đáp ứng nhu cầu trong nước như sản xuất xi măng, điện, phân bón, giấy…và nhu cầu tiêu dụng của nhân dân, mà còn phục vụ cho nhu cầu nhập khẩu của các bạn hàng nước ngoài với quy mô ngày càng lớn. Với lịch sử khai thác hơn 100 năm, sản lượng sản xuất và tiêu thụ trên 40 triệu tấn/năm trong đó xuất khẩu đạt trên 20 triệu tấn, mặt hàng than hiện đang được xác định là một trong các mặt hàng xuất khẩu chủ yếu của Việt Nam, có đóng góp ngày càng to lớn trong sự tăng trưởng chung của nền kinh tế quốc dân. Để có được những thành tích trên, toàn thể lãnh đạo, cán bộ và công nhân viên của Tập đoàn Than - Khoáng sản Vi...

doc101 trang | Chia sẻ: hunglv | Lượt xem: 968 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem trước 20 trang mẫu tài liệu Đề tài Giải pháp nâng cao hiệu quả xuất khẩu than ở Tập đoàn Công nghiệp Than - Khoáng sản Việt Nam, để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
MỤC LỤC TRANG PHẦN MỞ ĐẦU 1. Sự cần thiết của đề tài Ngày nay, xuất khẩu đã trở thành xu hướng phát triển tất yếu và ngày càng đóng vai trò quan trọng và tích cực đối với nền kinh tế mỗi quốc gia trong xu thế hội nhập kinh tế quốc tế và khu vực, đặc biệt với những nền kinh tế đang phát triển như Việt Nam. Là một mặt hàng quan trọng, than antraxit Việt Nam không chỉ thoả mãn, đáp ứng nhu cầu trong nước như sản xuất xi măng, điện, phân bón, giấy…và nhu cầu tiêu dụng của nhân dân, mà còn phục vụ cho nhu cầu nhập khẩu của các bạn hàng nước ngoài với quy mô ngày càng lớn. Với lịch sử khai thác hơn 100 năm, sản lượng sản xuất và tiêu thụ trên 40 triệu tấn/năm trong đó xuất khẩu đạt trên 20 triệu tấn, mặt hàng than hiện đang được xác định là một trong các mặt hàng xuất khẩu chủ yếu của Việt Nam, có đóng góp ngày càng to lớn trong sự tăng trưởng chung của nền kinh tế quốc dân. Để có được những thành tích trên, toàn thể lãnh đạo, cán bộ và công nhân viên của Tập đoàn Than - Khoáng sản Việt Nam (trước kia là Tổng công ty Than Việt Nam) đã nỗ lực phấn đầu không ngừng để gia tăng sản lượng than khai thác và tiêu thụ, nâng cao chất lượng và giá trị của than, xây dựng thương hiệu cho Than Việt Nam trên thị trường quốc tế. Là một Tập đoàn kinh tế mạnh của đất nước, Tập đoàn Than - Khoáng sản Việt Nam luôn đặt vấn đề nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh nói chung, hiệu quả xuất khẩu than nói riêng làm mối quan tâm hàng đầu. Bởi, nâng cao hiệu quả kinh doanh là điều kiện tiên quyết để bất kỳ một doanh nghiệp nào tồn tại và phát triển trong cơ chế thị trường. Và trên hết, đối với riêng ngành than, xuất khẩu đã đưa ngành than ra khỏi tình trạng khủng hoảng và góp phần quan trọng vào việc bình ổn giá than trong nước. Nâng cao hiệu quả xuất khẩu than là mục tiêu sống còn của Than Việt Nam. Vì lẽ đó, tôi đã mạnh dạn chọn đề tài “Giải pháp nâng cao hiệu quả xuất khẩu than ở Tập đoàn Công nghiệp Than - Khoáng sản Việt Nam” làm nội dung nghiên cứu. 2. Mục tiêu nghiên cứu Dựa vào tình hình thị trường than trong nước và thế giới hiện nay, việc xuất khẩu than của Tập đoàn Than - Khoáng sản Việt Nam sang các nước đang gặp nhiều thuận lợi cũng như một số khó khăn nhất định đòi hỏi Tập đoàn phải tìm kiềm những giải pháp phù hợp và linh hoạt để duy trì và phát huy hiệu quả xuất khẩu than. Do đó đề tài được đề ra nhằm mục tiêu: - Phân tích tình hình và hiệu quả xuất khẩu than của Tập đoàn Than - Khoáng sản Việt Nam trong thời gian qua nhằm rút ra những kinh nghiệm cũng như tìm ra giải pháp cho kế hoạch kinh doanh sản xuất và tiêu thụ than nói chung, kế hoạch xuất khẩu than nói riêng trong những năm tiếp theo. -Tìm hiểu những thuận lợi và khó khăn của Tập đoàn làm cơ sở cho việc hoạch định kế hoạch chiến lược mới. - Giúp nâng cao hiệu quả xuất khẩu than của Tập đoàn.. - Làm tài liệu tham khảo cho công ty. 3. Phương pháp nghiên cứu Với những mục tiêu được đề ra ở phần trên, để thực hiện và phát triển đề tài theo chiều sâu, rộng thì cần phải dựa vào các phương pháp nghiên cứu sau: - Phương pháp thống kê - tập hợp phân tích mô tả số liệu : dùng công cụ thống kê tập hợp tài liệu, số liệu của công ty, sau đó tiến hành phân tích, so sánh, đối chiếu rút ra kết luận về bản chất, nguyên nhân của sự thay đổi. - Phương pháp phân tích tài chính : dùng công cụ các tỷ số tài chính để tính toán, xác định kết quả từ đó rút ra nhận xét về hiệu quả hoạt động của công ty. 4. Phạm vi nghiên cứu - Đề tài nghiên cứu hoạt động xuất khẩu gạo trong phạm vi Tập đoàn Than - Khoáng sản Việt Nam để nắm bắt được thực trạng hoạt động xuất khẩu than của Tập đoàn trong những năm gần đây có chiều hướng phát triển như thế nào (tăng hay giảm), hiệu quả xuất khẩu ra sao, có những thuận lợi và khó khăn ra sao để từ đó tìm ra giải pháp hoạch định kế hoạch cho tương lai. - Dựa vào số liệu do Tập đoàn Than - Khoáng sản Việt Nam cung cấp trong thời gian 3 năm gần nhất đó là 2005, 2006, 2007 và những số liệu tham khảo từ các tài liệu có liên quan để có thể so sánh, tổng hợp đưa ra các nhận định, nhận xét. 5. Kết cầu của chuyên đề Ngoài phần mục lục, phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, nội dung chuyên đề được kết cấu thành ba chương: Chương I: Những lý luận cơ bản về hiệu quả xuất khẩu hàng hoá của doanh nghiệp xuất nhập khẩu. Chương II: Thực trạng hiệu quả xuất khẩu than ở Tập đoàn Than - Khoáng sản Việt Nam. Chương III: Phương hướng và giải pháp nâng cao hiệu quả xuất khẩu than ở Tập đoàn Than - Khoáng sản Việt Nam. CHƯƠNG I: NHỮNG LÝ LUẬN CƠ BẢN VỀ HIỆU QUẢ XUẤT KHẨU HÀNG HOÁ CỦA DOANH NGHIỆP XUẤT NHẬP KHẨU 1.1.Khái niệm, vai trò và các hình thức xuất khẩu hàng hóa ở doanh nghiệp 1.1.1.Khái niệm Xuất khẩu là một quá trình thu doanh lợi bằng cách đưa các sản phẩm hoặc dịch vụ ra khỏi thị trường trong nước và bán chúng ở các thị trường nước ngoài khác với thị trường trong nước. Hoạt động xuất khẩu đã ra đời từ rất lâu và nó chính là phương thức phổ biến nhất với mức độ rủi ro và chi phí thấp để thâm nhập thị trường quốc tế. Xuất khẩu thực chất là hoạt động bán hàng hoặc cung cấp dịch vụ cho nước ngoài trên cơ sở sử dụng tiền tệ làm phương tiện thanh toán. 1.1.2.Vai trò của xuất khẩu ở doanh nghiệp Xu hướng hội nhập vào nền kinh tế cùng với sự phát triển của phân công lao động xã hội và phân công lao động hợp tác quốc tế đã làm cho hoạt động xuất khẩu ngày càng có ý nghĩa quan trọng. Ba động cơ chủ yếu để các công ty tham gia kinh doanh quốc tế là: - Tăng doanh số bán hàng: hầu hết các công ty lớn sử dụng xuất khẩu như là cách thức để tăng doanh số bán hàng khi thị trường trong nước bão hoà. - Đa dạng hoá thị trường đầu ra: thị trường đầu ra được đa dạng nó có thể ổn định luồng tiền của công ty để thanh toán cho các nhà cung cấp từ các khách hàng đa dạng hơn. Các công ty có nguồn thu từ nước ngoài đều có thể đa dạng thị trường bán hàng và luồng tiền của mình. - Thu được các kinh nghiệm quốc tế: các nhà kinh doanh và nhà quản lý sẽ thu được nhiều kiến thức qua việc tiến hành kinh doanh quốc tế. Trong những môi trường văn hoá kinh tế và chính trị khác nhau thì việc sử dụng xuất khẩu như là một cách thức để có được các kinh nghiệm quốc tế với chi phí và rủi ro thấp Xuất khẩu giúp doanh nghiệp thu về một khoản ngoại tệ phục vụ cho công tác nhập khẩu. Ngoài ra xuất khẩu còn góp phần tăng tích luỹ vốn, mở rộng sản xuất tăng thu nhập cho doanh nghiệp nói riêng, nên kinh tế nói chung. Thông qua xuất khẩu, hàng hóa của các doanh nghiệp trong nước sẽ tham gia vào cuộc cạnh tranh trên thị trường thế giới về giá cả, chất lượng, cuộc cạnh tranh này đòi hỏi các doanh nghiệp phải tổ chức lại sản xuất, hình thành cơ cấu sản xuất luôn thích nghi được với thị trường quốc tế Thông qua xuất khẩu, doanh nghiệp nói riêng, nền kinh tế nói chung mở rộng quan hệ đối ngoại với các nước trên thế giới; khai thác có hiệu quả lợi thế tương đối và tuyệt đối của đất nước từ đó kích thích các ngành kinh tế phát triển. 1.1.3.Các hình thức xuất khẩu hàng hoá ở doanh nghiệp 1.1.3.1.Xuất khẩu tại chỗ Là hình thức mà doanh nghiệp xuất khẩu ngay tại chính đất nước mình để thu ngoại tệ thông qua việc giao hàng bán cho các doanh nghiệp đang hoạt động trên lãnh thổ Việt Nam theo sự chỉ định của thương nhân nước ngoài; hoặc bán hàng sang khu chế xuất hoặc các xí nghiệp chế xuất đang hoạt động trên lãnh thổ Việt Nam. Ưu điểm của hình thức này là làm tăng kim ngạch xuất khẩu, giảm rủi ro trong kinh doanh xuất khẩu, giảm được các chi phí trong kinh doanh xuất khẩu như chi phí vận tải, chi phí bảo hiểm hàng hoá, đồng thời được hưởng ưu đãi về thuế . Bên cạnh đó, người kinh doanh xuất khẩu cũng không cần am hiểu kỹ các luật pháp quốc tế cũng như các tập quán thương mại của các nước khác. Tuy nhiên, hình thức xuất khẩu này cũng có những hạn chế nhất định: Thủ tục xuất khẩu khá phức tạp; thời gian xử lý hoàn thuế GTGT quá lâu. Với các nguyên nhiên vật liệu sản xuất tại chỗ phụ thuộc rất nhiều vào trình độ, năng lực của nền kinh tế; đây là cuộc cạnh tranh mà thông thường chúng ta bị thua do giá sản phẩm trong nước thường cao hơn giá nhập khẩu của sản phẩm đó từ nước ngoài vào; và như vậy không phát huy được thế mạnh của chúng ta là cung ứng sản phẩm tại chỗ cho các doanh nghiệp FDI. Do vậy, hình thức xuất khẩu tại chỗ thường được áp dụng tại những doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài được thực hiện xuất khẩu tại chỗ hàng hoá do doanh nghiệp sản xuất tại Việt Nam; thương nhân Việt Nam có tiềm lực kinh tế mạnh hoặc doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài khác có nhu cầu nhập khẩu tị chỗ khi mới tiếp cận thị trường. 1.1.3.2.Gia công xuất khẩu Là một phương thức sản xuất hàng xuất khẩu, trong đó người đặt gia công ở nước ngoài cung cấp máy móc, thiết bị, nguyên phụ liệu hoặc bán thành phẩm theo mẫu và định mức cho trước; người nhận gia công trong nước tổ chức quá trình sản xuất sản phẩm theo yêu cầu của khách. Toàn bộ sản phẩm làm ra người nhận gia công sẽ giao lại cho người đặt gia công để nhận tiền công. Đây là hình thức thích hợp với các doanh nghiệp Việt Nam trong điều kiện vốn đầu tư hạn chế, chưa am hiểu về pháp luật quốc tế, chưa có thương hiệu, kiểu dáng công nghiệp nổi tiếng; thông qua hoạt động này để tận dụng nguồn lao động dồi dào, tận dụng cơ sở nhà xưởng, máy móc, sử dụng nguyên phụ liệu, vật tư sẵn có trong nước hoặc nhập khẩu từ các nước khác nhau, sử dụng thương hiệu, kênh phân phối hàng hoá của bên đặt gia công ở nước ngoài. Bên cạnh đó, rủi ro trong hình thức xuất khẩu này cũng ít hơn vì đầu vào và đầu ra của quá trình kinh doanh đều do phía đối tác đặt gia công nước ngoài lo. Và có thể nói, đây là hình thức giải quyết công ăn việc làm cho người lao động, thu ngoại tệ. Tuy nhiên, bên cạnh những ưu điểm của hình thức gia công hàng hoá xuất khẩu, có thể thấy rằng, đây là loại hoạt động rất khó kiểm soát đối với cơ quan nhà nước, bị phụ thuộc nhiều vào đối tác nước ngoài đặt gia công; ngoại tệ thu được chủ yếu là tiền gia công, mà đơn giá gia công ngày một giảm trong điều kiện cạnh tranh lớn giữa các đơn vị nhận gia công. 1.1.3.3.Xuất khẩu uỷ thác Đây là hình thức doanh nghiệp xuất khẩu kinh doanh dịch vụ thương mại thông qua nhận xuất khẩu hàng hóa cho một doanh nghiệp khác và được hưởng phí trên việc xuất khẩu đó. Ở khía cạnh nào đó, hình thức này làm tăng tiềm lực kinh doanh xuất khẩu cho công ty nhận uỷ thác như duy trì khách hàng, thị trường…đồng thời phát triển hoạt động thương mại dịch vụ, tăng thu nhập cho doanh nghiệp mà không cần đầu tư nhiều vốn. Nhưng mặt khác, doanh nghiệp nhận uỷ thác lại phụ thuộc hoàn toàn vào đối tác, nên tính chủ động trong tiếp cận thị trường kém (không nắm bắt được nhu cầu của thị trường, khiến sản phẩm làm ra không tiêu thụ được, giá xuất khẩu quá thấp so với giá bán thực tế)và có thể phải liên đới chịu trách nhiệm trong các tranh chấp thương mại. Vì vậy, nhiều doanh nghiệp nhận uỷ thác đã bị thiệt hại không ít khi quá phụ thuộc vào các đối tác trung gian. 1.1.3.4.Xuất khẩu qua đại lý ở nước ngoài Là hình thức doanh nghiệp có hàng xuất khẩu thuê doanh nghiệp nước ngoài làm đại lý bán hàng hoá của mình để thu ngoại tệ về. Ưu điểm của hình thức này là doanh nghiệp không cần đầu tư vào cơ sở vật chất kỹ thuật cho hoạt động thương mại ở nước ngoài mà vẫn có thể thâm nhập sâu và rộng vào thị trường khu vực và thế giới; phát triển thương hiệu và thị phần ở nước ngoài; chịu ít rủi ro khi thâm nhập vào thị trường nước ngoài. Tuy nhiên, nếu không am hiểu tận tường đối tác nhận đại lý hoặc không ký hợp đồng đại lý chặt chẽ, dễ bị chiếm dụng vốn (do đối tác không trả) và giải quyết có yếu tố nước ngoài phức tạp; tốn nhiều chi phí thuê người quản lý có năng lực ở nước ngoài. Do vậy, hình thức này chỉ nên áp dụng với các công ty có thương hiệu và kiểu dáng công nghiệp, thiết kế sản phẩm có uy tín nhưng chưa biết cách tiếp cận thị trường nước ngoài. 1.1.3.5.Tạm nhập tái xuất Hình thức kinh doanh tạm nhập tái xuất được hiểu là việc mua bán hàng hoá của một nước để bán cho một nước khác trên cơ sở hợp đồng mua bán hàng hoá ngoại thương, có làm thủ tục nhập khẩu hàng hoá vào Việt Nam, rồi làm thủ tục xuất khẩu mà không qua khâu chế biến. Mọi hình thức tạm nhập nhằm mục đích dự hội chợ, triển lãm hoặc sửa chữa máy móc, phương tiện theo quy định của hợp đồng hợp tác đầu tư, liên doanh sản xuất… để rồi tái xuất không được coi là kinh doanh theo hình thức tạm nhập để tái xuất. 1.1.3.6.Chuyển khẩu Được hiểu là việc mua hàng của một nước (nước xuất khẩu) để bán cho một nước khác (nước nhập khẩu) mà không làm thủ tục nhập khẩu vào Việt Nam và không làm thủ tục xuất khẩu từ Việt Nam. Đặc điểm của hình thức này là mặt hàng kinh doanh phụ thuộc vào chính sách mặt hàng của nước bên bán và của nước bên mua, theo thông lệ và tập quán quốc tế. Vì vậy nó đòi hỏi thương nhân phải am hiểu thị trường, luật lệ, giá cả, các phương thức thanh toán quốc tế của nhiều nước. Doanh nghiệp kinh doanh xuất khẩu theo hình thức này có thể kiếm lợi nhuận mà không cần bỏ vốn, đồng thời không phải nộp thuế xuất nhập khẩu, tuy nhiên cũng phải chịu nhiều rủi ro do phải vận chuyển nhiều. 1.1.3.7.Thương mại biên giới Đây là hình thức trong đó các hoạt động mua, bán trao đổi hàng hóa diễn ra ở khu vực biên giới các nước láng giềng, bao gồm: mua bán chính ngạch, tiểu ngạch, mua bán ở chợ biên giới, mua bán của cư dân biên giới. 1.2.Nội dung của hoạt động xuất khẩu hàng hoá ở Doanh nghiệp 1.2.1.Lập kế hoạch xuất khẩu. Khi bắt tay vào một chiến lược xuất khẩu một hay một nhóm loại hàng hóa nào đó, doanh nghiệp cần phải tiến hành lập kế hoạch xuất khẩu với trình tự và nội dung cơ bản như sau: Một là, đánh giá các điều kiện nội tại của Doanh nghiệp. Mục đích của bước này là tìm ra điểm mạnh và điểm yếu trong kinh doanh của doanh nghiệp để từ đó có thể đầu tư vào những điểm mạnh và khắc phục những điểm yếu của doanh nghiệp. Doanh nghiệp cần có đánh giá đúng đắn về những kết quả đã đạt được, những lợi thế cạnh tranh hoặc những điểm mạnh mà doanh nghiệp tin chắc có thể làm tốt hơn những đối thủ cạnh tranh khác; đồng thời cũng cần nhìn nhận và đánh giá đúng đắn những điểm yếu trong cạnh tranh của doanh nghiệp mình. Hai là, đánh giá các điều kiện và yếu tố bên ngoài. Sau khi tiến hành đánh giá, phân tích các điều kiện bên trong, cần nghiên cứu những yếu tố bên ngoài có ảnh hưởng đến việc xuất khẩu sản phẩm của doanh nghiệp: tiềm năng của thị trường; yếu tố cạnh tranh; môi trường chính sách, pháp luật; môi trường kinh tế và kinh doanh; môi trường văn hoá xã hội; môi trường kỹ thuật; hệ thống phân phối… Ba là, nghiên cứu sản phẩm. Doanh nghiệp cần định ra những sản phẩm, dịch vụ mà doanh nghiệp có thể tìm được thị trường nước ngoài để tiêu thụ với những đặc điểm về bao gói, chất lượng, hình dạng vật lý, cách thức sử dụng, … Bốn là, phân tích SWOT. Sau khi thu thập các dữ liệu thông tin ở các bước trên, cần thực hiện tổng kết và phân tích để chỉ ra điểm mạnh - yếu, cơ hội - thách thức đối với doanh nghiệp. Điều này sẽ giúp doanh nghiệp tập trung và phát huy những điểm mạnh, giảm thiểu những điểm ýêu của mình, từ đó đầu tư vốn vào các cơ hội thị trường. Năm là, xác định các nhân tố quan trọng quyết định đến sự thành công của thương vụ xuất khẩu. Sáu là, đặt ra những mục tiêu, chiến lược và kế hoạch hành động. Bảy là, đánh giá mức độ sẵn sàng xuất khẩu của doanh nghiệp, như là: kỹ năng, kinh nghiệm có liên quan đến xuất khẩu; các mối liên hệ giữa doanh nghiệp và thị trường xuất khẩu mục tiêu; khả năng tài chính; nhân lực và thời gian… 1.2.2.Nghiên cứu thị trường xuất khẩu Cũng như trong các hoạt động kinh doanh khác, vai trò của nghiên cứu thị trường trong xuất nhập khẩu rất quan trọng. Nó giúp doanh nghiệp đánh giá chính xác về thị trường xuất nhập khẩu, có nguồn thông tin toàn diện, chuẩn xác làm nền tảng cho chiến lược marketing xuất nhập khẩu. Nếu không thực hiện nghiên cứu thị trường xuất nhập khẩu hoặc thực hiện sơ sài, doanh nghiệp sẽ phải đối mặt với những rủi ro rất lớn. Trong việc nghiên cứu này, doanh nghiệp kinh doanh xuất nhập khẩu cần nắm vững những nội dung sau: điều kiện chính trị - thương mại chung, luật pháp và chính sách buôn bán, điều kiện về tiền tệ và tín dụng, điều kiện vận tải và tình hình giá cước…Bên cạnh đó, doanh nghiệp cũng cần nắm vững những điều có liên quan đến mặt hàng kinh doanh của mình trên thị trường nước ngoài đó, như: dung lượng thị trường, tập quán và thị hiếu tiêu dung, những kênh tiêu thụ (các phương thức tiêu thụ), sự biến động giá cả… Khi nghiên cứu những nội dung trên, người ta áp dụng hai phương pháp chủ yếu là nghiên cứu tại văn phòng (điều tra qua tài liệu, sách báo…) và điều tra thực địa. Ngoài hai phương pháp này, người ta còn có thể sử dụng các phương pháp như: mua, bán thử; mua dịch vụ thông tin của các công ty điều tra tín dụng; thông qua người thứ ba để tìm hiểu khách hàng v.v... 1.2.3.Định giá xuất khẩu Giá cả là yếu tố quan trọng trong giao dịch ngoại thương. Do vậy, việc xác định giá xuất khẩu như thế nào hết sức có ý nghĩa đối với doanh nghiệp, nó là cơ sở để doanh nghiệp tiến hành các bước giao dịch hay đàm phán kí kết hợp đồng. Doanh nghiệp cần lưu ý rằng nếu giá xuất khẩu được đính giá quá thấp so với giá nên xuất thì sẽ bị giảm lợi nhuận; còn nếu định giá cao hơn giá nên bán thì ảnh hưởng đến sức cạnh tranh của sản phẩm. Thông thường trong xuất khẩu việc xác định giá thường dựa trên phương pháp sai biệt phí tổn. 1. Giá thành chế tạo (manufacturing cost) + các chi phí xuất khẩu (special exporting cost) = giá thành sản xuất (factory cost) 2. Giá thành sản xuất – thuế được hoàn lại = giá thành sản xuất thuần 3. Giá thành xuất khẩu + lợi nhuận + chi phí bán hàng = giá xuất xưởng (Ex Works Price). 4. Giá xuất xưởng + chi phí vận tải nội địa + các chi phí lưu kho, lưu bãi cầu cảng, bốc xếp = giá FOB 5. Giá FOB + chi phí vận tải = giá CFR 6. Giá CFR + phí bảo hiểm = giá CIF Ngoài ra còn cần phải cộng thêm chi phí khác như : phí ngân hàng, phí ký quỹ (phí bảo đảm); ngoại hối kỳ hạn (cost of forward exchange cover); các phí EFIC v.v... 1.2.4.Giao dịch và đàm phán, tiến tới kí kết hợp đồng xuất khẩu Để tiến tới ký kết hợp đồng mua bán với nhau, người xuất khẩu và người nhập thường phải qua một quá trình giao dịch, thương thảo về các điều kiện giao dịch. Quá trình đó gồm các bước chính sau: - Hỏi hàng (hỏi giá): Là việc người mua gửi tới một hay một nhóm người cung cấp về những hàng hoá mình quan tâm hoặc có nhu cầu. - Chào hàng: Là việc người bán gửi tới một (chào hàng cố định) hoặc một nhóm (chào hàng tự do) người mua những thông tin về hàng hoá của mình nhằm giới thiệu và thu hút người mua quan tâm tới hàng hoá của doanh nghiệp mình. Đơn chào hàng cần rõ ràng và hấp dẫn, không chỉ thể hiện ở giá thấp hay sự giảm giá, mà có thể ở cả dịch vụ cung cấp cho người mua, phẩm chất hàng tốt, điều kiện thanh toán có lợi cho người mua. - Đặt hàng: là đề nghị chắc chắn về việc ký kết hợp đồng, xuất phát từ người mua. Khi đặt hàng, cần xác định chính xác tên hàng, phẩm chất, quy cách, số lượng hàng cần đặt mua… 1.2.5.Thực hiện hợp đồng xuất khẩu Sau khi hợp đồng mua bán hàng hóa ngoại thương đã được ký kết, các bên tham gia ký kết phải tổ chức thực hiện hợp đồng đó. Đây là công việc rất phức tạp vì nó đòi hỏi phải tuân thủ luật quốc gia và quốc tế, đồng thời bảo đảm được quyền lợi quốc gia và đảm bảo uy tín kinh doanh của doanh nghiệp xuất nhập khẩu. Về mặt kinh doanh, trong quá trình thực hiện các khâu công việc để thực hiện hợp đồng, doanh nghiệp kinh doanh xuất nhập khẩu phải cố gắng tiết kiệm chi phí lưu thông, nâng cao tính doanh lợi và hiệu quả của toàn bộ nghiệp vụ giao dịch. Để thực hiện một hợp đồng xuất khẩu, doanh nghiệp phải tiến hành các khâu công việc sau đây: Giục mở L/C và kiểm tra L/C (nếu hợp đồng quy định sử dụng phương thức tín dụng chứng từ), xin giấy phép xuất khẩu, chuẩn bị hàng hóa, thuê tàu hoặc lưu cước, kiểm nghiệm và kiểm dịch hàng hoá, làm thủ tục hải quan, gian hàng lên tàu, mua bảo hiểm, làm thủ tục thanh toàn và giải quyết khiếu nại (nếu có). 1.3.Hiệu quả hoạt động xuất khẩu hàng hoá ở Doanh nghiệp 1.3.1.Quan niệm về hiệu quả xuất khẩu hàng hoá ở DN 1.3.1.1.Phạm trù hiệu quả kinh tế trong doanh nghiệp. Ngày nay, người ta thường sử dụng rất nhiều đến thuật ngữ “hiệu quả” khi đánh giá khả năng làm việc của một hoặc một nhóm người, đánh giá tình hình thực hiện của một công việc hay đánh giá hoạt động của một ngành, một lĩnh vực…Vậy “hiệu quả” là gì? Căn cứ vào đâu để đánh giá một người, một doanh nghiệp, một ngành…hoạt động có hiệu quả hay không? Thực tế, phạm trù “hiệu quả” đã xuất hiện từ xã hội chiếm hữu nô lệ, nhưng cho đến nay vẫn còn nhiều quan điểm khác nhau về hiệu quả, xuất phát từ hình thái xã hội, hoàn cảnh lịch sử và góc độ nghiên cứu khác nhau. Theo quan điểm của nhà kinh tế học người Anh, Adam Smith thì “hiệu quả là kết quả đạt được trong hoạt động kinh tế, là doanh thu tiêu thụ hàng hoá”. Cách hiểu này đã đồng nhất hiệu quả với kết quả hoạt động sản xuất kinh doanh, do đó sẽ không giải thích được sự gia tăng doanh thu của doanh nghiệp là do tăng chi phí, mở rộng các nguồn lực sản xuất hay do tăng năng suất lao động…Và như vậy, nếu hai hoạt động có cùng một mức kết quả nhưng có hai mức chi phí khác nhau thì theo quan điểm này, chúng vẫn có cùng hiệu quả. Quan điểm thứ hai cho rằng “hiệu quả là quan hệ tỷ lệ giữa phần tăng thêm của kết quả và phần tăng thêm của chi phí”. Quan điểm này mặc dù biểu hiện được mối quan hệ giữa kết quả bổ sung và chi phí bổ sung, nhưng trong thực tế, các sự vật và hiện tượng đều có mối quan hệ ràng buộc hữu cơ, tác động qua lại chứ không tồn tại một cách độc lập riêng rẽ. Vì vậy, trong kinh doanh, các yếu tố tăng thêm có quan hệ mật thiết với các yếu tố sẵn có, nên khi đánh giá hiệu quả không thể chỉ xem xét phần tăng thêm của kết quả và chi phí. Quan điểm thứ ba lại cho rằng hiệu quả là trình độ sử dụng các yếu tố cần thiết tham gia vào hoạt động nhằm đạt mục tiêu nhất định, “hiệu quả được đo bằng hiệu số giữa kết quả và chi phí bỏ ra để đạt được kết quả đó”. Quan điểm này đã phản ánh được mối quan hệ bản chất hiệu quả kinh tế , gắn kết quả với chi phí, coi hiệu quả kinh doanh là trình độ sử dụng các chi phí. Tuy nhiên, nó vẫn chưa biểu hiện một cách toàn diện mối tương quan về lượng và chất giữa kết quả với chi phí và chưa phản ánh mức độ chặt chẽ của mối liên hệ này. Vì để tạo ra kết quả của một hoạt động, một quá trình nào đó không chỉ có chi phí mà còn cả các nguồn được huy động hay được sử dụng. Trong khi đó, để phản ánh được tình hình sử dụng các nguồn lực, chúng ta phải cố định một trong hai yếu tố là kết quả đạt được hoặc chi phí bỏ ra. Nhưng theo quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin, các yếu tố này không ở trạng thái tĩnh mà luôn vận động và biến đổi. Một quan điểm nữa cho rằng “hiệu quả là mối tương quan giữa đầu vào các yếu tố khan hiếm với đầu ra hàng hoá và dịch vụ”. Như vậy, có thể thấy, mặc dù “hiệu quả” là một phạm trù quen thuộc trong bất kỳ hoạt động nào của con người, của một tổ chức, của toàn xã hội, nhưng ở mỗi giai đoạn lịch sử, mỗi giác độ nghiên cứu lại có những quan điểm khác nhau về hiệu quả. Trong nền kinh tế Xã hội chủ nghĩa, để làm sáng tỏ bản chất của khái niệm hiệu quả, chúng ta cần phải xuất phát từ những luận điểm của triết học Mác - Lênin. Có nghĩa là, phải xem xét tới tính biện chứng của các yếu tố kết quả đạt được và các chi phí nguồn lực bỏ ra, sau đó là mức độ phản ánh mối liên hệ giữa các hiện tượng. Theo nghĩa tổng quát, hiệu quả của một hoạt động, một quá trình nào đó được hiểu là mối quan hệ so sánh giữa kết quả - gắn với mục đích - và chi phí - gắn với nguồn lực được sử dụng. Như vậy, phạm trù hiệu quả phán ánh mối liên hệ tương hỗ giữa mục đích, kết quả, chí phí và nguồn lực trong hoạt động hay quá trình được nghiên cứu. Trong điều kiện nền kinh tế thị trường với mức độ cạnh tranh gay gắt như ngày nay, việc thực hiện tốt chế độ hạch toán kinh tế, bảo đảm lấy thu bù chi và có lãi trong hoạt động sản xuất kinh doanh hàng hoá và dịch vụ là cơ sở để các thành phần kinh tế, các doanh nghiệp tồn tại và phát triển khi tham gia các hoạt động kinh tế trong môi trường kinh tế quốc dân nói riêng, môi trường kinh tế quốc tế nói chung. Điều này đòi hỏi các doanh nghiệp phải hoạt động có hiệu quả và luôn đặt hiệu quả làm mối quan tâm hàng đầu. Đối với một doanh nghiệp, khi đánh giá hiệu quả, người ta thường xét đến hiệu quả xuất khẩu và hiệu quả kinh tế. Hiệu quả xã hội là những lợi ích mà doanh nghiệp tạo ra, đem lại cho xã hội trong hoạt động kinh doanh của mình. Những khía cạnh thường thấy khi đánh giá hiệu quả xã hội của doanh nghiệp là vấn đề giải quyết công ăn việc làm trong phạm vi toàn xã hội hoặc trong từng khu vực kinh tế, giảm số người thất nghiệp, nâng cao mức sống cho nhân dân, nâng cao đời sống văn hóa tinh thần cho nhân dân, vấn đề bảo vệ môi trường, bảo vệ sức khoẻ người dân… Hiệu quả kinh tế phản ánh trình độ sử dụng các nguồn lực xã hội trong lĩnh vực thương mại thông qua những chỉ tiêu kinh tế kỹ thuật được xác định bằng tỷ lệ so sánh giữa các đại lượng phán ánh kết quả đạt được về kinh tế với các đại lượng phản ánh chi phí đã bỏ ra hoặc nguồn vật lực đã được huy động vào trong lĩnh vực kinh doanh. Hiệu quả kinh tế được xác định thông qua việc so sánh giữa các chỉ tiêu phản ánh kết quả kinh doanh và chi phí bỏ ra để đạt được kết quả đó. Về giá trị tuyệt đối: Về giá trị tương đối: 1.3.1.2.Hiệu quả kinh tế ngoại thương Hiệu quả hoạt động ngoại thương của một đất nước là hiệu quả kinh tế - xã hội thông qua hoạt động xuất nhập khẩu, là quan hệ so sánh giữa kết quả (về hai mặt giá trị và giá trị sử dụng) theo mục đích với nguồn lực để thực hiện các hoạt động lưu thông đối ngoại về hàng hoá và dịch vụ. Như vậy, hiệu quả hoạt động ngoại thương là toàn bộ lợi ích mà ngoại thương mang lại cho đất nước, bao gồm lợi ích xã hội và lợi ích kinh tế. Lợi ích về xã hội của ngoại thương đối với nền kinh tế quốc dân được xác định thông qua sự đóng góp vào công cuộc xây dựng và cải tạo cơ cấu, cân đối nền kinh tế quốc dân, phát triển kinh tế, nâng cao năng suất lao động xã hội, giảm giá thành sản xuất kinh doanh, tăng tổng sẩn phẩm quốc nội. Lợi ích kinh tế của hoạt động ngoại thương là hiệu quả hoạt động ngoại thương xét về nội dung kinh tế, là phần lợi ích tài chính thu được trong hoạt động xuất nhập khẩu của mỗi nước thông qua việc đối sánh trực tiếp chí phí với kết quả. 1.3.1.3.Hiệu quả kinh doanh xuất khẩu Hiệu quả kinh doanh xuất khẩu được hiểu là phần hiệu quả kinh tế ngoại thương thông qua xuất khẩu, là phần lợi ích tài chính thu được trong xuất khẩu hàng hoá và dịch vụ của mỗi nước (hoặc mỗi doanh nghiệp xuất nhập khẩu) thông qua việc so sánh trực tiếp kết quả với chi phí. Trong đó, kết quả kinh doanh xuất khẩu là tổng doanh thu hàng hoá, tổng lợi nhuận, tổng giá trị tài sản gia tăng sau một thương vụ xuất khẩu hoặc một khoảng thời gian nhất định như tháng, quý, năm; chi phí kinh doanh là toàn bộ chi phí để có được hàng hoá xuất khẩu, bao gồm giá mua vào sản phẩm, các chi phí cần thiết khác như chi phí phí hoàn thiện sản phẩm, chi phí hành chính khác…Tuy nhiên, cần phải lưu ý rằng, đặc điểm của đồng tiền thanh toán trong xuất nhập khẩu là ngoại tệ, chứ không phải là đồng tiền bản tệ, do đó để tính đúng được hiệu quả kinh tế ta cần phải quy đổi về cùng một đơn vị tiền tệ, lấy tỷ giá hối đoái tại thời điểm thực hiện hợp đồng và tỷ giá hối đoái khi tính hiệu quả, nếu có chênh lệch phải cộng (trừ) vào kết quả hoạt động kinh doanh xuất khẩu của doanh nghiệp. Để đánh giá được hiệu quả kinh doanh xuất khẩu, cần phải xem xét một cách toàn diện cả về thời gian và không gian trong mối quan hệ với hiệu quả chung của toàn bộ nền kinh tế quốc dân., nhất là trong giai đoạn hiện này. Với đường lối chính sách mở cửa của nước ta, để tạo đà cho sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hoá đất nước, hoạt động xuất khẩu có ý nghĩa hết sức quan trọng để thực hiện những nhiệm vụ, chủ trương mà Đảng đã để ra. Về mặt thời gian, hiệu quả mà doanh nghiệp đạt được trong từng giai đoạn, thời kỳ không được làm giảm sút hiệu quả của các giai đoạn, thời kỳ tiếp theo. Tức là doanh nghiệp phải quan tâm đến lợi ích lâu dài, không vì lợi ích trước mắt mà làm tổn hại đến lợi ích lâu dài. Không thể coi việc giảm chi phí tăng doanh thu là có hiệu quả được khi giảm một cách tuỳ tiện, thiếu cân nhắc như: giảm chi phí đào tạo nhân lực, sử dụng đầu vào chất lượng thấp làm gây hại đến môi trường, đến sức khoẻ người lao động và cộng đồng… Về mặt không gian, hiệu quả kinh doanh xuất khẩu được coi là có hiệu quả khi nó không làm ảnh hưởng đến các hoạt động kinh doanh khác trong nội bộ ngành và trong toàn bộ nền kinh tế quốc dân. Hiệu quả củahd xuất khẩu phải phù hợp với chủ trương, chính sách của Đảng, Nhà nước. Tóm lại, đứng trên góc độ nền kinh tế quốc dân, hiệu quả mà doanh nghiệp đạt được phải gắn chặt với hiệu quả của toàn xã hội. Đạt được hiệu quả cao là chưa đủ mà còn phải mang lại hiệu quả cho xã hội cả về hai mặt kinh tế và xã hội. Đánh giá hiệu quả kinh doanh của doanh nghiệp nhằm mục đích nhận thức đúng đắn về trình độ, năng lượng và chất lượng kinh doanh của doanh nghiệp. Từ đó tìm ra những tồn tại, những nguyên nhân ảnh hưởng đến hiệu quả kinh doanh để đề ra phương hướng, biện pháp khắc phục và giúp doanh nghiệp đưa ra được những phương án kinh doanh hiệu quả nhất. 1.3.2.Sự cần thiết phải nâng cao hiệu quả xuất khẩu hàng hoá ở DN Khi xét đến hiệu quả xuất khẩu là xét đến mối tương quan giữa kết quả xuất khẩu và chi phí xuất khẩu, tỷ lệ này càng lớn thì hiệu quả xuất khẩu càng cao, tỷ lệ này nhỏ hơn 1, rõ ràng xuất khẩu không có hiệu quả vì kết quả không đủ bù đắp chi phí. Do đó, trong hoạt động xuất khẩu, vấn đề không phải chỉ là chũng ta xuất khẩu được bao nhiêu tỷ đồng, tốc độ tăng trưởng là bao nhiêu, mà còn phải tính đến những chi phí đã bỏ ra để có được kết quả xuất khẩu như vậy. Để nâng cao hiệu quả xuất khẩu, một mặt chúng ta phải tìm cách nâng cao kết quả xuất khẩu, nhưng mặt khác quan trọng hơn là phải giảm được chi phí xuất khẩu một cách hợp lý. Kết quả xuất khẩu có thể không tăng nhưng việc làm giảm chi phí xuất khẩu sẽ làm tăng hiệu quả xuất khẩu. Vì vậy việc nâng cao hiệu xuất khẩu có ý nghĩa rất quan trọng, không chỉ đối với hoạt động sản xuất kinh doanh của công ty mà còn có ý nghĩa đối với toàn xã hội. 1.3.2.1. Nâng cao hiệu quả xuất khẩu góp phần nâng cao hiệu quả kinh doanh nói chung và là cơ sở đảm bảo cho sự tồn tại và phát triển của doanh nghiệp . Xuất khẩu là một trong những hoạt động kinh doanh quan trọng của các doanh nghiệp xuất nhập khẩu, do đó việc nâng cao hiệu quả kinh doanh xuất khẩu sẽ góp phần nâng cao hiệu quả kinh doanh chung của doanh nghiệp. Đồng thời, nâng cao hiệu quả kinh doanh xuất khẩu sẽ giúp doanh nghiệp gia tăng lợi nhuận, có thể bù đắp cho các hoạt động khác làm ăn kém, nhờ đó doanh nghiệp có thể duy trì hoạt động kinh doanh của mình. Bên cạnh đó, nâng cao hiệu quả hoạt động xuất khẩu tạo điều kiện cho doanh nghiệp có thể đầu tư chiều sâu, đổi mới công nghệ, phát triển cơ sở hạ tầng vật chất kỹ thuật phục vụ cho hoạt động sản xuất kinh doanh, nâng cao chất lượng sản phẩm, giảm giá thành, phát triển thị trường… từ đó, mở rộng quy mô sản xuất kinh doanh, củng cố thêm sức mạnh và uy tín cho doanh nghiệp trên thị trường. 1.3.2.2. Nâng cao hiệu quả xuất khẩu là nhân tố góp phần nâng cao khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp. Xu thế hội nhập kinh tế quốc tế cùng với cơ chế kinh tế thị trường đang diễn ra như hiện nay làm cho yếu tố cạnh tranh càng trở nên gay gắt. Cạnh tranh diễn ra ở mọi lúc, mọi nơi, mọi lĩnh vực, mọi hoạt động. Nó có thể làm cho doanh nghiệp phát triển mạnh mẽ hơn hoặc cũng có thể làm cho doanh nghiệp bị phá sản một cách nhanh chóng. Đối với hoạt động xuất khẩu, mức độ cạnh tranh khốc liệt hơn bất kỳ hoạt động kinh doanh nào khác. Doanh nghiệp xuất khẩu không phải chỉ cạnh tranh với các doanh nghiệp kinh doanh cùng ngành, cùng lĩnh vực, cùng mặt hàng trong cùng một quốc gia mà còn phải cạnh tranh với các doanh nghiệp ở các quốc gia xuất khẩu khác và các doanh nghiệp bản địa tại thị trường xuất khẩu. Do đó, để có thể tồn tại và chiến thắng trong cạnh tranh, doanh nghiệp phải thực hiện tốt tất cả các khâu trong quá trình xuất khẩu hàng hoá, như: thu thập và xử lý thông tin nhanh chóng, chính xác giúp doanh nghiệp tiết kiệm thời gian và chi phí, từ đó đưa ra các quyết định kinh doanh đúng đắn; công tác hậu cần đầu vào phải đảm bảo chất lượng nguyên vật liệu với chi phí tiết kiệm, hạn chế tối đa những tổn thất trong quá trình thu gom, vận chuyển và lưu kho…; phải làm tốt công tác quản lý, phát huy tối đa năng lực của người lao động…Nhờ đó, hạ giá thành sản phẩm, gia tăng lợi nhuận và tăng cường khả năng cạnh tranh của mình. 1.3.2.3. Nâng cao hiệu quả hoạt động xuất khẩu hàng hoá ở doanh nghiệp góp phần phát triển nền kinh tế đất nước và gia tăng lợi ích xã hội. Hiệu quả kinh doanh xuất khẩu được cải thiện và nâng cao sẽ làm gia tăng lợi nhuận cho doanh nghiệp, nhờ đó làm tăng thu nhập cho người lao động. Người lao động có động lực và điều kiện để làm việc tốt hơn, được đào tạo để nâng cao chuyên môn nghiệp vụ và đời sống của họ nhờ đó cũng được cải thiện và nâng cao. Bên cạnh đó, phần lợi nhuận gia tăng từ việc nâng cao hiệu quả kinh doanh xuất khẩu sẽ góp phần tạo điều kiện cho doanh nghiệp đầu tư tái sản xuất mở rộng, tăng quy mô hoạt động xuất khẩu. Nhờ vậy, tạo ra công ăn việc làm cho người lao động, góp phần nâng cao mức sống xã hội, giảm tỷ lệ thất nghiệp, đói nghèo và tệ nạn xã hội. Đối với nền kinh tế nói chung, việc nâng cao hiệu quả xuất khẩu không chỉ làm tăng nguồn thu cho ngân sách nhà nước, mang lại nguồn ngoại tệ lớn hơn để đầu tư phát triển, mà còn góp phần không nhỏ vào việc thúc đẩy các ngành kinh tế khác phát triển và chuyển dịch cơ cấu nền kinh tế theo hướng công nghiệp hoá - hiện đại hoá. 1.3.3.Một số chỉ tiêu đánh giá hiệu quả xuất khẩu hàng hoá ở DN 1.3.3.1 Chỉ tiêu đánh giá hiệu quả xuất khẩu tổng hợp a) Chỉ tiêu tuyệt đối Hiệu quả = Doanh thu xuất khẩu - Chi phí xuất khẩu Chỉ tiêu này thực tế phản ánh lợi nhuận từ hoạt động xuất khẩu mà công ty đạt được trong một thời kỳ nhất định. b) Chỉ tiêu tương đối * Chỉ tiêu đánh giá hiệu quả theo doanh thu Doanh thu xuất khẩu Chi phí xuất khẩu HXK = Chỉ tiêu này phản ánh một đồng chi phí xuất khẩu mang lại bao nhiêu đồng doanh thu từ hoạt động xuất khẩu. Chỉ tiêu này càng lớn, nghĩa là trình độ sử dụng các nguồn lực tham gia vào quá trình hoạt động sản xuất kinh doanh càng tốt và ngược lại, chỉ tiêu này càng nhỏ thì trình độ sử dụng các yếu tố chi phí càng kém hiệu quả. * Chỉ tiêu tỷ suất lợi nhuận theo doanh thu Lợi nhuận xuất khẩu Doanh thu xuất khẩu H1 = Chỉ tiêu này phản ánh một đồng doanh thu xuất khẩu mang lại bao nhiêu đồng lợi nhuận xuất khẩu. * Chỉ tiêu tỷ suất lợi nhuận theo chi phí Lợi nhuận xuất khẩu Chi phí xuất khẩu H2 = Chỉ tiêu này cho phép doanh nghiệp xác định được một đồng chi phí mang lại bao nhiêu đồng lợi nhuận, cho phép đánh giá sâu hơn hiệu quả hoạt động xuất khẩu vì lợi nhuận mới là cái doanh nghiệp được giữ lại, là nguồn để trả lương cho nhân viên, đầu tư cải tiến máy móc thiết bị, cơ sở hạ tầng và lập nên các quỹ cho doanh nghiệp. Chỉ tiêu này càng cao thì hiệu quả kinh tế càng cao. * Tỷ suất ngoại tệ xuất khẩu Chi phí xuất khẩu ( nội tệ ) Doanh thu xuất khẩu( ngoại tệ ) H2 = Chỉ tiêu này cho biết phải chi ra bao nhiêu đồng nội tệ để có một đồng ngoại tệ. Nếu tỷ số này nhỏ hơn tỷ giá hối đoái thì xuất khẩu không có hiệu quả. 1.3.3.2 Chỉ tiêu đánh giá hiệu quả xuất khẩu bộ phận a) Nhóm chỉ tiêu phản ánh hiệu quả sử dụng vốn * Nhóm chỉ tiêu phản ánh hiệu quả sử dụng vốn lưu động Doanh thu xuất khẩu Sức sản xuất của vốn lưu động Vốn lưu động = Chỉ tiêu này cho biết một đồng vốn lưu động tạo ra bao nhiêu đồng doanh thu xuất khẩu. Lợi nhuận xuất khẩu Vốn lưu động Sức sinh lời của vốn lưu động = Chỉ tiêu này cho biết một đồng vốn lưu động đem lại bao nhiêu đồng lợi nhuận xuất khẩu. Vốn lưu động Giá trị sản xuất công nghiệp Suất hao phí vốn lưu động = = Chỉ tiêu này phản ánh bao nhiêu đồng vốn lưu động thì tạo ra một đơn vị hàng hoá xuất khẩu. * Nhóm chỉ tiêu phản ánh hiệu quả sử dụng vốn cố định Doanh thu xuất khẩu Sức sản xuất của vốn cố động Vốn cố định = Chỉ tiêu này cho biết một đồng vốn cố định tạo ra bao nhiêu đồng doanh thu xuất khẩu. Lợi nhuận xuất khẩu Sức sinh lời của vốn cố định Vốn cố định = Chỉ tiêu này cho biết một đồng vốn cố định đem lại bao nhiêu đồng lợi nhuận xuất khẩu. Vốn cố định = Suất hao phí vốn cố định Giá trị sản xuất công nghiệp = Chỉ tiêu này phản ánh bao nhiêu đồng vốn cố định thì tạo ra một đơn vị hàng hoá xuất khẩu. b) Nhóm chỉ tiêu phản ánh hiệu quả sử dụng lao động trong hoạt động xuất khẩu. * Năng suất lao động Q = W T Trong đó: W: Là năng suất lao động Q: Là số lượng hoặc giá trị hàng hoá được sản xuất ra trong kỳ. T: Là số lượng lao động làm ra hàng hoá trong thời kỳ đó. Chỉ tiêu này phản ánh số lượng hoặc giá trị hàng hoá mà một người lao động làm ra trong một thời kỳ nhất định. T * Suất hao phí lao động W Q = Công thức tính suất hao phí lao động thực chất là nghịch đảo của công thức năng suất lao động. Chỉ tiêu này cho biết để tạo ra một đơn vị sản phẩm (hoặc một đơn vị giá trị sản phẩm) cần bao nhiêu lao động. * Hiệu suất sử dụng tiền lương Lợi nhuận xuất khẩu Hiệu suất sử dụng tiền lưong Tiền lương = Chỉ tiêu này cho biết một đợn vị tiền lương của công nhân tương ứng với bao nhiêu đồng lợi nhuận xuất khẩu. 1.4.Những nhân tố ảnh hưởng đến hiệu quả xuất khẩu hàng hoá ở doanh nghiệp Kinh doanh là các hoạt động nhằm mục đích sinh lợi của các chủ thể kinh doanh trên thị trường. Nghĩa là các doanh nghiệp luôn luôn phải phụ thuộc vào thị trường và hoạt động theo quy luật của thị trường. Do đó, sự tồn tại và phát triển của mỗi doanh nghiệp phụ thuộc vào rất nhiều yếu tố chủ quan cũng như khách quan bên ngoài doanh nghiệp. 1.4.1.Nhân tố bên ngoài doanh nghiệp 1.4.1.1.Nhân tố chính trị - luật pháp Các công ty, doanh nghiệp một khi đã mở rộng hoạt động ra khỏi phạm vi biên giới một quốc gia, thì không những phải tuân thủ luật pháp nước mình, mà còn phải thích nghi với những thể chế chính trị và hệ thống pháp luật mới. Môi trường chính trị mới có thể mở ra và đưa đến cho doanh nghiệp các cơ hội thương mại nếu doanh nghiệp am hiểu và có chính sách thích nghi hợp lý với nó và ngược lại, có thể tạo ra những rào cản, khó khăn khi doanh nghiệp không thích nghi được với sự thay đổi về thể chế chính trị đó. Ngoài ra, sự ổn định của môi trường chính trị cũng là một trong những điều kiện tiền đề quan trọng cho hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp, đặc biệt là hoạt động xuất khẩu. Xuất khẩu hàng hoá sang một quốc gia có tình hình chính trị bất ổn thì doanh nghiệp sẽ phải đối mặt với nhiều rủi ro, như: rủi ro từ sự biến đổi đột ngột về nhu cầu khách hàng, rủi ro trong vận chuyển hàng hoá, hay các rủi ro về chính trị…Những rủi ro này sẽ ảnh hưởng rất lớn đến kế hoạch xuất khẩu, đến việc triển khai hoạt động xuất khẩu, đến lợi nhuận xuất khẩu của doanh nghiệp. Bên cạnh những tác động của môi trường chính trị, hệ thống luật pháp của quốc tế và của từng quốc gia cũng có ảnh hưởng trực tiếp đến tình hình và kết quả xuất khẩu của doanh nghiệp. Nói cách khác, luật sẽ quy định và cho phép doanh nghiệp được xuất khẩu những mặt hàng nào, trong những lĩnh vực nào, với những phương thức nào; đồng thời cũng quy định những mặt hàng, những lĩnh vực, những phương thức doanh nghiệp không được phép tiến hành khi xuất khẩu hoặc được phép nhưng phải có điều kiện nhát định. Vì vậy, chỉ trên cơ sở tìm hiểu rõ thể chế chính trị và nắm chắc hệ thống luật pháp của từng quốc gia cũng như khu vực, mới cho phép doanh nghiệp đưa ra được những phương án xuất khẩu đúng đắn, nhằm giảm thiểu thách thức, hạn chế rủi ro, tối đa hoá lợi nhuận và hiệu quả xuất khẩu. 1.4.1.2.Nhân tố văn hoá - xã hội Nhân tố văn hoá - xã hội có ảnh hưởng lớn đén hoạt động kinh doanh xuất khẩu của doanh nghiệp. Nó góp phần hình thành nên thị trường tiêu thụ của doanh nghiệp với những đặc trưng riêng: Đặc trưng đầu tiên là nền văn hoá. Doanh nghiệp xuất khẩu luôn hướgn tới nhiều thị trường ở nhiều quốc gia khác nhau. Vì vậy, việc hiểu được môi trường văn hoá khác nhau giữa các quốc gia và ảnh hưởng của môi trường này đến hiệu quả xuất khẩu của doanh nghiệp là rất cần thiết. Văn hóa là một tổng thể phức tạp, bao gồm ngôn ngữ, tôn giáo, nghệ thuật, đạo đức, luật pháp, phong tục…quy định hành vi của mỗi con người, mối quan hệ giữa người với người trong tất cả các lĩnh vực đời sống xã hội. Do đó, nó ảnh hưởng đến tất cả các quyết định của doanh nghiệp, đặc biệt là các quyết định về quản lý nguồn nhân lực và quyết định về marketing, dẫn đến ảnh hưởng tới hiệu quả xuất khẩu của doanh nghiệp. Đặc trưng thứ hai là đặc trưng về dân số. Nói tới dân số, người ta thường nhắc đến các yếu tố như quy mô dân số, xu hướng vận động của dân số, phân bố dân cư... Quy mô dân số sẽ quyết định quy mô và tính đa dạng của thị trường: dân số càng lớn thì quy mô thị trường càng lớn, nhu cầu và khối lượng tiêu thụ một nhóm sản phẩm cầng lớn, nhờ đó khả năng đảm bảo doanh số tiêu thụ, doanh thu xuất khẩu của doanh nghiệp càng cao. Mật độ phân bố dân cư phản ánh mức độ phân bố của nhu cầu thị trường về một hay một dòng sản phẩm. Xu hướng vận động của dân số lại ảnh hưởng tới sự vận động của dung lượng thị trường và tính đa dạng của thị trường trong tương lai, dẫn đến việc có thể hình thành những cơ hội mới cho doanh nghiệp xuất khẩu và suy tàn những cơ hội hiện tại của doanh nghiệp. Đặc trưng tiếp theo là đặc trưng về thu nhập và phân bố thu nhập của dân cư. Trong điều kiện nguồn lực có hạn, khách hàng sẽ phân bổ thu nhập để trang trải cho những nhu cầu của mình theo tỷ lệ và mức độ ưu tiên khác nhau. Điều này sẽ ảnh hưởng đến sự lựa chọn loại sản phẩm, hình thành nên khái niệm chất lượng theo cách đánh giá của từng nhóm khách hàng. Vì vậy, muốn hoạt động xuất khẩu đạt hiệu quả, doanh nghiệp phải quan tâm và nắm bắt được yếu tố này trong quyết định về sản phẩm, về chất lượng sản phẩm, về giá bán của doanh nghiệp mình trên những thị trường cụ thể. 1.4.1.3.Nhân tố cạnh tranh Quá trình quốc tế hoá đời sống kinh tế thế giới cùng với sự phát triển bùng nổ của khoa học và công nghệ, một mặt làm tăng khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp, mặt khác làm cho quá trình cạnh tranh quốc tế ngày càng gay gắt và khốc liệt hơn. Trong điều kiện như vậy, đòi hỏi các doanh nghiệp kinh doanh quốc tế nói chung, các doanh nghiệp xuất khẩu nói riêng phải nhanh nhạy trong việc nắm bắt thị trường, tìm kiếm những cơ hội kinh doanh ở nước ngoài và phải có những chính sách linh hoạt để thích nghi và vươn lên trong cạnh tranh. Theo mô hình cạnh tranh của M.Porter, môi trường cạnh tranh vi mô của doanh nghiệp gồm 5 yếu tố cơ bản chi phối hoạt động của doanh nghiệp, đó là: đối thủ cạnh tranh hiện tại, khách hàng, nhà cung cấp, các đối thủ cạnh tranh tiềm tàng và sản phẩm thay thế. Việc phân tích các yếu tố này là hết sức cần thiết đối với sự sống còn và phát triển của doanh nghiệp, đặc biệt đối với doanh nghiệp xuất khẩu bởi phạm vi hoạt động của doanh nghiệp không còn bó hẹp trong thị trường nội địa, và thị trường xuất khẩu của doanh nghiệp không chỉ có một thị trường duy nhất. 1.4.1.4.Chính sách tiền tệ và tỷ giá hối đoái. Tỷ giá hối đoái là giá của một đơn vị tiền tệ nước này thể hiện bằng số lượng đơn vị tiền tệ nước kia. Thực chất, đó là sự so sánh tương quan giá trị giữa hai đồng tiền của hai quốc gia. Tỷ giá có vai trò hết sức quan trọng đối với hoạt động xuất nhập khẩu hàng hoá vì nó tác động đến giá cả tương đối của hàng hoá trong nước và háng nước ngoài. Qua đó, nó ảnh hưởng đến lợi nhuận xuất nhập khẩu hàng hoá và khả năng cạnh tranh của hàng hoá giữa các nước với nhau trên thị trường quốc tế. Một sự tăng giá của đồng tiền có thể làm cho các doanh nghiệp gặp khó khăn khi xuất khẩu hàng hoá ra nước ngoài. Ngược lại, sự giảm giá của đồng tiền có thể làm cho doanh nghiệp có ưu thế cạnh tranh trong việc xuất khẩu và bán hàng hoá của mình ở nước ngoài, đồng thời hạn chế nhập khẩu vào nước mình. 1.4.2.Nhân tố bên trong doanh nghiệp 1.4.2.1.Tiềm lực tài chính Tiềm lực tài chính là một yếu tố tổng hợp phản ánh sức mạnh của doanh nghiệp thông qua khối lượng vốn mà doanh nghiệp có thể huy động vào kinh doanh, khả năng phân phối và quản lý có hiệu quả các nguồn vốn. Tiềm lực tài chính có ảnh hưởng lớn đến hoạt động xuất khẩu của doanh nghiệp, quyết định quy mô doanh nghiệp và quy mô cơ hội có thể khai thác, tham gia vào việc hình thành và khai thác cơ hội của doanh nghiệp. Có tiềm lực tài chính mạnh, doanh nghiệp mới có thể tạo ra niềm tin với đối tác, nhất là đối tác nước ngoài, có điều kiện để nghiên cứu thị trường nước ngoài và nắm bắt được cơ hội kinh doanh ở thị trường ngoài nước. Một số chỉ tiêu thường dùng để đánh giá tiềm lực tài chính của doanh nghiệp là vốn chủ sở hữu, vốn vay, khả năng thanh toán nợ ngắn hạn, nợ dài hạn, khả năng quay vòng vốn… 1.4.2.1. Nhân tố con người Trong kinh doanh, con người là nhân tố quan trọng ảnh hưởng trực tiếp đến hiệu quả kinh doanh và chất lượng sản phẩm của doanh nghiệp bởi chính con người mới có thể kết hợp các yếu tố vốn, tài sản, kỹ thuật, công nghệ… trong quá trình sản xuất kinh doanh để tạo ra kết quả cuối cùng cho doanh nghiệp. Người cán bộ, công nhân kỹ thuật phải có trình độ khoa học kỹ thuật, nắm chắc chuyên môn, nghề nghiệp. Thực tế cho thấy, dù có vốn lớn, máy móc thiết bị hiện đại mà người lao động không có trình độ, tay nghề thì sẽ không phát huy được tác dụng của máy móc, công nghệ. Do đó, hoạt động sản xuất kinh doanh của chắc chắn sẽ không đạt hiệu quả cao. Ngược lại, người công nhân có trình độ kỹ thuật, nắm chắc chuyên môn, không những khai thác được tối đa tác dụng của máy móc, công nghệ, mà còn có thể đưa ra những sáng kiến nhằm đổi mới quá trình làm việc giúp cho hiệu quả hoạt động của doanh nghiệp được nâng lên đáng kể. Bên cạnh đó, người lãnh đạo cũng giữ vai trò hàng đầu trong một doanh nghiệp sản xuất kinh doanh nói chung, doanh nghiệp xuất nhập khẩu nói riêng. Một nhà lãnh đạo giỏi, có tầm nhìn chiến lược, đề ra những định hướng đúng đắn cho doanh nghiệp phát triển; có những mối quan hệ tốt trong và ngoài phạm vi doanh nghiệp cũng như phạm vi quốc gia; tạo ra cho nhân viên môi trường làm việc cởi mở, chuyên nghiệp; và biết phát huy khả năng của nhân viên là một trong những yếu tố quyết định tới chất lượng sản phẩm của doanh nghiệp, qua đó trực tiếp ảnh hưởng tới hiệu quả kinh doanh xuất nhập khẩu của doanh nghiệp. 1.4.2.2.Nhân tố công nghệ Trình độ tiên tiến của hệ thống máy móc, nhà xưởng, thiết bị, dây chuyền sản xuất trong doanh nghiệp tác động trực tiếp đến năng suất chất lượng sản phẩm cũng như các chỉ tiêu về giá thành, chi phí và lợi nhuận của doanh nghiệp. Đặc biệt trong thời đại ngày nay, theo xu hướng hội nhập kinh tế quốc tế, việc giảm giá thành và chi phí sản xuất để tối đa hoá lợi nhuận là mục tiêu sống còn của các doanh nghiệp trong môi trường kinh doanh quốc tế. Một doanh nghiệp được đầu tư đúng đắn về nhà xưởng, máy móc với công nghệ và dây chuyền tiên tiến chắc chắn sẽ thu được những sản phẩm đạt chất lượng cao. Vì thế, để nâng cao khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp, lựa chọn được những cơ hội kinh doanh tốt trên thị trường, đặc biệt là thị trường quốc tế, doanh nghiệp nên quan tâm đến việc đầu tư đổi mới công nghệ, tiếp thu công nghệ tiên tiến và trình độ khoa học kỹ thuật cao của dây chuyền sản xuất trong Doanh nghiệp. 1.4.2.3.Trình độ quản trị doanh nghiệp. Đây là một trong những nhân tố có vai trò quyết định đến sự thành bại của doanh nghiệp. Quản trị doanh nghiệp chú trọng đến việc sác định cho doanh nghiệp một hướng đi đúng, một chiến lược hành động để phát triển doanh nghiệp. Quá trình quản trị hoạt động kinh doanh của một doanh nghiệp nói chung, doanh nghiệp xuất nhập khẩu nói riêng gồm các khâu cơ bản như: định hướng chiến lược cơ bản phát triển doanh nghiệp, chiến lược kinh doanh, xây dựng kế hoạch - phương án kinh doanh, tổ chức thực hiện các hoạt động kinh doanh, đán giá kiểm tra và điều chỉnh các hoạt động kinh doanh. Nếu thực hiện tốt các khâu cơ bản của quá trình này sẽ tạo điều kiện làm tăng sản lương, nâng cao chất lượng và hạ giá thành sản phẩm, dịch vụ, giảm chi phí quản lý, chiếm được lợi thế trong cạnh tranh, tăng thị phần, ngăn ngừa thất bại trong kinh doanh và quan trọng là tăng lợi nhuận. Việc này càng có ý nghĩa quan trọng đối với các doanh nghiệp xuất nhập khẩu khi tham gia thị trường quốc tế với mức độ cạnh tranh gay gắt. 1.4.2.4.Chất lượng hàng hoá Chất lượng hàng hóa là nhân tố ảnh hưởng trực tiếp tới kết quả và hiệu quả hoạt động kinh doanh nói chung, hoạt động xuất khẩu nói riêng. Hàng hoá có chất lượng tốt không chỉ thu hút được khách hàng, tạo dựng uy tín cho doanh nghiệp, làm tăng khối lượng sản phẩm tiêu thụ mà còn tạo điều kiện cho doanh nghiệp có thêm ưu thế trong việc định giá sản phẩm ở mức cao hơn mà không làm ảnh hưởng đến doanh số bán của doanh nghiệp. Ngược lại, hàng hoá kém chất lượng hoặc không đáp ứng được yêu cầu của khách hàng sẽ làm cho hoạt động tiêu thụ bị chậm lại, uy tín của doanh nghiệp đối với khách hàng bị giảm sút, dẫn đến hoạt động kinh doanh không đạt hiệu quả mong muốn. Điều mà mỗi doanh nghiệp cần lưu ý là, chất lượng sản phẩm phải được đánh giá dựa trên quan điểm của khách hàng chứ không phải là chất lượng do doanh nghiệp tự đánh giá. Chất lượng đó thể hiện ở sự thoả mãn tối đa nhu cầu của khách hàng. 1.4.3.Sản phẩm than và những nhân tố ảnh hưởng đến hiệu quả xuất khẩu than Từ lâu, Than đã trở thành một nguồn nhiên liệu quan trọng trong quá trình sản xuất cũng như trong đời sống con người. Trong sản xuất, than là nguồn nhiêu liệu chính của nhiều ngành công nghiệp, như công nghiệp gang thép, công nghiệp luyện kim, công nghiệp hoá dầu, công nghiệp điện… làm nguyên liệu luyện cốc, sản xuất than nhiệt luyện, điện cực… Đó là một loại khoáng sản rắn, có nguồn gốc trầm tích, được hình thành trong quá trình than hoá (carbon hoá) các tàn dư thực vật, có thành phần là các chất hữu cơ, các chất khoáng và độ ẩm; thời gian phân hủy càng dài, than càng già và hàm lượng cacbon trong than càng cao. Than được phân chia làm nhiều loại và theo nhiều phương pháp, dựa trên các đặc điểm về thành phần thạch học, tính chất vật lý, đặc tính hoá học và công nghệ… Tuy nhiên, có những loại than dưới đây thường được đề cập và sử dụng phổ biến là: - Than nâu bao gồm lignit và á bitum, là than biến chất thấp có thành phần acid và màu nâu, được tạo thành chủ yếu từ vật chất mùn và bitum. - Than đá còn được gọi là than bitum là than biến chất trung bình, đặc trưng bởi sự carbon hoá đến mức trong chúng không còn vật chất acid, thường có khả năng thiêu kết. Than đá là nguồn nhiên liệu sản xuất điện năng lớn nhất thế giới. - Antraxit bao gồm siêu antraxit, antraxit và bán antraxit, là loại than biến chất cao, có màu đen, đen xám, ánh kim loại phớt vàng. - Than bùn loại than có độ tro cao, nhiệt lượng thấp, ở một số khu vực có thể khai thác làm nhiên liệu, còn lại chủ yếu sẽ được sử dụng làm phân bón phục vụ nông nghiệp Việt Nam là nước có tiềm năng về trữ lượng than rất lớn và công nghiệp than là một ngành kinh tế quan trọng, đặc thù, và chiếm tỷ trọng xấp xỉ 30% trong bảng cân bằng năng lượng quốc gia. Than được khai thác ở Việt Nam hiện nay hầu hết là Antraxit, đây là loại than hiếm, trên thế giới không có nhiều. Nó là nguyên liệu trực tiếp cho nhiều ngành kinh tế khác như Điện lực, Xi măng, Vật liệu xây dựng và phục vụ các nhu cầu dân sinh trong nước. Không những vậy, còn mang lại cho nền kinh tế một nguồn ngoại tệ lớn thông qua xuất khẩu. Xuất khẩu than có đạt hiệu quả hay không phụ thuộc vào rất nhiều yếu tố, trong đó có những yếu tố cơ bản sau: 1) Sản xuất và khai thác than 2) Điều kiện tài nguyên và môi trường tự nhiên Ngành công nghiệp than phụ thuộc rất nhiều vào các yếu tố thuộc về môi trường tự nhiên. Với hai phương pháp khai thác than, khai thác lộ thiên và khai thác hầm lò, bất kỳ một sự biến động nào về địa chất và thời tiết đều có ảnh hưởng trực tiếp đến kết quả và hiệu quả hoạt động khai thác. Do đó, nó ảnh trực tiếp đến chất lượng sản phẩm than. Trong khi đó, đối với xuất khẩu than, giá bán than lại phụ thuộc chủ yếu vào chất lượng và phẩm cấp than. Chất lượng có tốt, than xuất khẩu mới được định giá cao, nhờ đó, doanh nghiệp sẽ đạt được doanh thu và lợi nhuận xuất khẩu cao hơn. Bên cạnh đó, khai thác than là một ngành sản xuất trong điều kiện tài nguyên là đối tượng khai thác chính dần cạn kiệt và không tái tạo được; trong khi điều kiện khai thác ngày càng khó khăn. Điều này ảnh hưởng trực tiếp tới sản lượng than khai thác nói chung, sản lượng than xuất khẩu nói riêng. 3) Công tác dự trữ, bảo quản và vận chuyển than xuất khẩu Như trên đã đề cập, chất lượng than quyết định đến giá bán than. Nếu dự trữ than với cơ cấu không hợp lý, bảo quản không tốt trong cả quá trình dự trữ lẫn vận chuyển than, sẽ dẫn tới việc làm thay đổi một số thông số kỹ thuật của than. Than khi giao lên tàu để vận chuyển so với than khi giao cho khách hàng tại điểm đến có sự chênh lệch về phẩm cấp, sẽ không đáp ứng được yêu cầu của người sử dụng. Bên cạnh đó, người cung cấp còn phải mất thêm chi phí để khắc phục. Do vậy, kết quả cũng như hiệu quả của việc xuất khẩu than không được đảm bảo. 4) Chính sách quản lý của Chính phủ Ở Việt Nam, với chính sách ưu tiên tiêu thụ than trong nước của Chính phủ, giá bán than nội địa thấp hơn giá thành sản xuất và càng thấp hơn nhiều so với giá bán xuất khẩu. Và theo quy luật thị trường, xuất khẩu than càng gia tăng khi chênh lệch giữa giá bán than nội địa và giá than xuất khẩu ngày càng lớn nhằm góp bù lỗ phần sản lượng than tiêu thụ trong nước. Tuy nhiên, 5 đến 10 năm nữa, khi nhu cầu nội địa về than sẽ tăng nhanh theo sự phát triển của các ngành công nghiệp, cùng với chiến lược an ninh năng lượng quốc gia, Chính phủ sẽ hạn chế mức than xuất khẩu. Vì thế, doanh thu cũng như lợi nhuận từ hoạt động xuất khẩu than sẽ giảm. CHƯƠNG II. THỰC TRẠNG HIỆU QUẢ XUẤT KHẨU THAN Ở TẬP ĐOÀN THAN - KHOÁNG SẢN VIỆT NAM 2.1. Tổng quan chung về Tập đoàn Than - Khoáng sản Việt Nam. Tên doanh nghiệp: TẬP ĐOÀN CÔNG NGHIỆP THAN – KHOÁNG SẢN VIỆT NAM Tên giao dịch: VIETNAM NATIONAL COAL, MINERAL INDUSTRIES GROUP. Tên viết tắt: VINACOMIN Quyết định thành lập doanh nghiệp nhà nước số: 653/TTg ngày 10/10/1994 của Thủ tướng Chính phủ và số 345/2005/QĐ-TTg ngày 26/12/2005 của Thủ tướng chính phủ về việc Thành lập Tập Đoàn Công nghiệp Than - Khoáng sản Việt Nam. Địa chỉ trụ sở chính: Số 226 Lê Duẩn, Phường Trung Phụng, Quận Đống Đa, Thành phố Hà Nội. Điện thoại: (84)04.5180141 - (84)04.8510780 - Fax: (84)04.8510724 Email: vp.tkv@vinacomin.vn Website: www.vinacomin.vn , www.vinacomin.com.vn 2.1.1. Quá trình hình thành và phát triển 2.1.1.1. Sơ lược về quá trình phát triển của ngành Than Việt Nam và bối cảnh ra đời Tổng Công ty Than Việt Nam Ngành công nghiệp Than của Việt Nam đã ra đời rất sớm, từ dưới triều nhà Nguyễn (1802). Nhưng nó thực sự trở thành một ngành công nghiệp khai thác khoáng sản kể từ khi thực dân Pháp tiến hành xâm lược nước ta (1885). Đến năm 1955, Nhà nước ta tiếp quản ngành công nghiệp khai khoáng này sau khi thực dân Pháp thất bại và rút về nước. Thời kỳ trước đổi mới (1955-1987), chúng ta đã khai thác được trên 100 triệu tấn, năm cao nhất đạt 6,4 triệu tấn. Tuy nhiên, kể từ sau đó đến trước khi thành lập Tổng công ty Than Việt Nam (1988-1994), kinh tế nước ta bị khủng hoảng, nhu cầu sử dụng than giảm sút nghiêm trọng. Sản lượng hàng năm không vượt khỏi con số 6,1 triệu tấn. Đến năm 1994, ngành than có 10 công ty trực thuộc Bộ Năng Lượng (sau này là Bộ Công nghiệp, rồi Bộ Công thương), trong đó có 6 công ty trực tiếp khai thác than; trên 10 đơn vị Quân đội tham gia khai thác than và 4 đơn vị sản xuất than trực tiếp thuộc tỉnh Quảng Ninh. Chính việc cho phép các tổ chức không chuyên khai thác than một cách ồ ạt tại các lộ vỉa, thiếu sự tổ chức và quản lý thống nhất, vi phạm kỹ thuật, thuê mướn lao động không có nghề với chi phí thấp… đã đẩy các công ty than, các mỏ than chính thống vào tình thế phải thu hẹp sản xuất, giảm hệ số bóc đất để khai thác than ở các mỏ lộ thiên, giảm đào lò ở các mỏ hầm lò; phải đưa một phần thiết bị máy móc vào niêm cất; tiền lương của người lao động bị suy giảm để đảm bảo cân đối tài chính trong điều kiện phải tự trang trải. Người lao động thiếu việc làm trầm trọng, thợ bậc cao, thợ lành nghề bỏ xí nghiệp ra ngoài kiếm sống. Có thể nói rằng, thời gian những năm 1991-1994, ngành than đã rơi vào khủng hoảng trầm trọng. 2.1.1.2. Thành lập Tổng Công ty Than Việt Nam Trong bối cảnh như trên, Thủ tướng Chính phủ đã ban hành hai Quyết định số 381/TTg và 382/TTg ngày 28/7/1994 yêu cầu tăng cường quản lý, lập lại trật tự trong khai thác than và kinh doanh than. Theo đó, ngành than được tổ chức lại - Tổng Công ty Than Việt Nam được thành lập theo Quyết định số 563/TTg ngày 10/10/1994 trên cơ sở sắp xếp lại các doanh nghiệp trực thuộc Bộ Năng lượng, các công ty trực thuộc tỉnh Quảng Ninh, và công ty Đông Bắc trực thuộc Bộ Quốc Phòng. Và từ ngày 01/01/1995, Tổng Công ty Than Việt Nam chính thức đi vào hoạt động, trở thành một trong hai tổng công ty 91 đầu tiên. Nhiệm vụ chính mà Đảng và Chính phủ giao cho Tổng công ty Than là: Lập lại trật tự trong khai thác, kinh doanh than. Thoả mãn các nhu cầu về than của nền kinh tế, Phát triển các ngành nghề khác trên nền công nghiệp than một cách có hiệu quả để giải quyết việc làm cho người lao động. Do đó, ngay từ khi mới được thành lập, Tổng Công ty Than Việt Nam đã xác định cho mình chiến lược phát triển lâu dài theo hướng công nghiệp hóa, hiện đại hoá là: “Xây dựng Tổng Công ty Than Việt Nam thành tập đoàn kinh doanh đa ngành trên nền sản xuất than”; sử dụng và phát huy hiệu quả các nguồn lực (vốn, tài nguyên, lao động) được Chính phủ giao quản lý; Khẳng định và hoàn thiện cơ chế hoạt động với mô hình tổ chức Than Việt Nam phù hợp với chính sách phát triển kinh tế xã hội của Đảng và Nhà Nước; Đáp ứng nhu cầu về than cho các ngành kinh tế trong nước, đặc biệt là nhu cầu than cho phát triển điện và các ngành công nghiệp khác; dành một khối lượng than phù hợp để xuất khẩu tạo nguồn vốn cho đầu tư phát triển; Phục vụ đắc lực cho sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hoá đất nước; củng cố xây dựng đội ngũ giai cấp công nhân vững mạnh, cải thiện điều kiện làm việc và nâng cao thu nhập người lao động. 2.1.1.3. Các mốc quan trọng trong 10 năm phát triển của TVN (1994-2004) - 01/01/1995: Tổng Công ty Than Việt Nam chính thức đi vào hoạt động - 11/1996: Ngành than đón nhận Huân chương Sao Vàng do có nhiều công lao trong 50 năm xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. - 12/1997: Đạt 10,7 triệu tấn than thương phẩm, hoàn thành vượt mức chỉ tiêu sản lượng của năm 2000 do Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VIII đề ra cho ngành than (10 triệu tấn). - 5/1999: Điều chỉnh giảm sản xuất than do chịu ảnh hưởng của khủng hoảng kinh tế khu vực. - 5/2001: Tiếp nhận Tổng Công ty Cơ khi Năng lượng và Mỏ sáp nhập vào TVN. - 4/2002: Khởi công xây dựng nhà máy điện Na Dương. - 8/2003: xuất xưởng lô xe tải KRAZ đầu tiên được lắp ráp tại Việt Nam. - 12/2003: Đạt 18,8 triệu tấn than thương phẩm, vượt mức chỉ tiêu sản lượng của năm 2005 do Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ IX đề ra cho ngành than (15-16 triệu tấn). - 12/2004: Đạt 24,7 triệu tấn than thương phẩm (trong đó xuất khẩu 10,5 triệu tấn) đạt mục tiêu quy hoạch của năm 2010 (23-24 triệu tân). - 6/01/2005: Chủ tịch nước kí quyết định phong tặng danh hiệu Anh hùng Lao động thời kỳ đổi mới. 2.1.2. Bộ máy tổ chức và chức năng nhiệm vụ. 2.1.1.1. Sơ đồ tổ chức 2.1.1.2. Bộ máy tổ chức a) Ban lãnh đạo Ban lãnh đạo điều hành Tập đoàn gồm có Hội đồng quản trị, Ban kiểm soát, Tổng Giám đốc, các Phó Tổng giám đốc (12 người), Kế toán trưởng. - Hội đồng quản trị Tập đoàn Công nghiệp Than – Khoáng sản Việt Nam là đại diện trực tiếp chủ sở hữu Nhà nước tại Tập đoàn Công nghiệp Than – Khoáng sản Việt Nam, gồm 7 thành viên, là cơ quan quản lý cao nhất trong Tập đoàn, có quyền quyết định mọi hoạt động trong Tập đoàn. - Tổng Giám đốc: Thực hiện các quyền và nghĩa vụ của người đại diện theo pháp luật của Tập đoàn công nghiệp than - khoáng sản Việt Nam, là tổng điều hành các hoạt động kinh doanh của Tập đoàn và kế hoạch phối hợp kinh doanh của Tập đoàn các công ty; Trực tiếp chỉ đạo công tác tổ chức, cán bộ; chiến lược phát triển và quan hệ quốc tế; Là Chủ tịch Hội đồng thi đua Tập đoàn; Thực hiện các nhiệm vụ khác được phân công. - Các phó tổng giám đốc: trong đó có 1 phó tổng giám đốc thường trực giải quyết công việc thường ngày của Tập đoàn, thay Tổng giám đốc (là quyền Tổng giám đốc) điều hành Tập đoàn khi Tổng giám đốc vắng mặt (nghỉ ốm, nghỉ phép, đi học, đi công tác nước ngoài...) và 11 phó tổng giám đốc có trách nhiệm điều hành toàn diện hoạt động sản xuất, kinh doanh của các Khối kinh doanh cụ thể của Tập đoàn; thực hiện các nhiệm vụ khác được phân công. - Kế toán trưởng:Thực hiện chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của Kế toán trưởng Tập đoàn theo quy định của pháp luật, theo Điều lệ và các quy chế quản lý của Tập đoàn, đồng thời là Trưởng ban Kế toán - Thống kê - Tài chính theo Luật kế toán; Thường trực Ban đổi mới và phát triển doanh nghiệp Tập đoàn; Thực hiện các nhiệm vụ khác được phân công. b) Bộ máy giúp việc Bao gồm 41 phòng ban, trong đó: - 14 ban chức năng thuộc khối quản lý tổng hợp có chức năng tham mưu, giúp việc HĐQT, Tổng giám đốc Tập đoàn trong việc sắp xếp, tổ chức và quản lý các hoạt động chung trong toàn Tập đoàn - 27 ban chức năng thuộc 7 khối kinh doanh có nhiệm vụ tham mưu, giúp việc HĐQT, Tổng giám đốc Tập đoàn trong việc sắp xếp, tổ chức và quản lý các hoạt động của từng khối. c) Cơ cấu tổ chức Cơ cấu các công ty trong Tập đoàn Than - Khoáng sản Việt Nam như sau: - 11đơn vị trong cơ cấu tổ chức công ty mẹ - Tập đoàn Công nghiệp Than – Khoáng sản Việt Nam,. - 8 Công ty hoạt động theo mô hình công ty mẹ - công ty con, trong đó công ty mẹ do Tập đoàn Công nghiệp Than – Khoáng sản Việt Nam nắm giữ 100% vốn điều lệ. - 42 công ty cổ phần do Tập đoàn nắm giữ trên 50% vốn điều lệ. - 6 công ty do Tập đoàn Công nghiệp Than – Khoáng sản Việt Nam nắm giữ dưới 50% vốn điều lệ. - 3 trường đào tạo nghề: 2.1.3. Ngành nghề kinh doanh - Công nghiệp than: khảo sát, thăm dò, đầu tư xây dựng, khai thác, sàng tuyển, chế biến, vận tải, mua, bán, xuất nhập khẩu các sản phẩm than, khí mỏ, nước ngầm và khoáng sản khác đi cùng với than. - Công nghiệp khoáng sản (bao gồm công nghiệp bô xít – alumin - nhôm và các khoáng sản khác): khảo sát, thăm dò, đầu tư xây dựng, khai thác, làm giàu quặng, gia công, chế tác, vận tải, mua, bán, xuất nhập khẩu các sản phẩm alumin, nhôm, đồng, chì, kẽm, crôm, thiếc, đá quý, vàng, các kim loại đen, kim loại mầu khác và khoáng sản khác. - Công nghiệp điện: đầu tư xây dựng, khai thác vận hành các nhà máy nhiệt điện, các nhà máy thuỷ điện; bán điện cho các hộ kinh doanh và tiêu dùng theo quy định của pháp luật. - Cơ khí: đúc, cán thép; sửa chữa, lắp ráp, chế tạo các sản phẩm cơ khí, xe vận tải, xe chuyên dùng, phương tiện vận tải đường sông, đường biển, thiết bị mỏ, thiết bị điện, thiết bị chịu áp lực và các thiết bị công nghiệp khác. - Vật liệu nổ công nghiệp: đầu tư xây dựng, sản xuất, mua bán, dự trữ, xuất nhập khẩu các loại vật liệu nổ công nghiệp; cung ứng dịch vụ khoan nổ mìn, sử dụng vật liệu nổ công nghiệp. - Quản lý, khai thác cảng biển, bến thuỷ nội địa và vận tải đường bộ, đường sắt, đường thuỷ chuyên dùng, xếp dỡ, chuyển tải hàng hóa. - Vật liệu xây dựng: khai thác đá, sét, cát, sỏi, các loại phụ gia; sản xuất xi măng, gạch ngói và các loại vật liệu xây dựng khác. - Xây lắp đường dây và trạm điện; xây dựng các công trình công nghiệp, luyện kim, nông nghiệp, giao thông và dân dụng. - Đầu tư, kinh doanh kết cấu hạ tầng và bất động sản. - Cấp nước, xử lý chất thải, trồng rừng và sản xuất, dịch vụ trong lĩnh vực bảo vệ môi trường. - Sản xuất kinh doanh dầu mỡ bôi trơn, nitơ, ôxy, đất đèn, hàng tiêu dùng, cung ứng vật tư, thiết bị. - Các dịch vụ: đo đạc, bản đồ, thăm dò địa chất; tư vấn đầu tư, thiết kế; khoa học công nghệ, tin học, kiểm định, giám định hàng hóa; in ấn, xuất bản; đào tạo, y tế, điều trị bệnh nghề nghiệp và phục hồi chức năng; thương mại, khách sạn, du lịch; hàng hải; xuất khẩu lao động; bảo hiểm, tài chính. - Các ngành nghề khác theo quy định của pháp luật. 2.1.4. Hệ thống cơ sở, vốn và nguồn lực 2.1.4.1. Cơ sở vật chất - hạ tầng kỹ thuật a) Công nghiệp than: - Trong Tập đoàn hiện có 29 mỏ và các điểm được khai thác bằng phương pháp lộ thiên, trong đó có 6 mỏ lớn công xuất thiết kế mlix mỏ từ 800.000 – 1.500.000 tấn/năm; các mỏ còn lại công xuất tử 200.000 – 400.000 tấn/năm. Thiết bị công nghệ chủ yếu được sử dụng tại các mỏ lộ thiên nay là các loại khoan xoay cầu có đường kính mũi khoan 100 – 250 mm; máy xúc với dung tích gầu xúc 4-5 m 3   và 8-12m 3 ; Vận tải than từ mỏ đến nhà máy tuyển than và cảng tiêu thụ bằng ôtô, hoặc liên hợp ôtô- băng tải. - có 20 mỏ khai thác hầm lò, trong đó có 7 hầm lò có công xuất từ 1.000.000 tấn than trở lên. Ở hầu hết các mỏ hầm lò, sơ đồ khai thông, mở vỉa được áp dụng là phương pháp khai thông bằng giếng nghiêng kết hợp lò bằng từng tần, sử dụng băng tải vận chuyển than trên giếng chính để đáp ứng yêu cầu nâng công suất mỏ hàng năm. Khâu đào lò than hiện đại đã có 11 tổ hợp máy Combai đào lò AM – 45 và AM -50Z đang hoạt động. - Hiện tại có ba cụm sàng tuyển trung tâm ở tỉnh Quảng Ninh: Cửa ông (Cẩm Phả), Nam Cầu Trắng (thành phố Hạ Long) và nhà máy sàng Vàng Danh (Uông Bí). Cụm sàng tuyển Cửa ông gồm hai nhà máy tuyển than là nhà máy tuyển than l với công suất 2,7 triệu tấn/năm do Pháp xây dựng từ năm 1924 và nhà máy tuyển than 2 với công suất 3 triệu tấn/năm sử dụng công nghệ tiên tiến cúa Australia, được đưa vào vận hành từ năm 199l. Nhà máy sàng tuyển Nam Cầu Trắng công suất 2 triệu tấn/năm là nhà máy mới, công nghệ của Ốtxtrâylia được đưa vào vận hành từ năm 1996. Nhà máy sàng Vàng Danh chủ yếu sàng và chế biến than cho mỏ Vàng Danh theo công nghệ của Liên Xô. b) Công nghiệp cơ khí: Hệ thống cơ sở cơ khí, cơ điện phục vụ sản xuất than của Tập đoàn Than Việt Nam hiện nay bao gồm 5 nhà máy cơ khí tập trung và 24 xưởng cơ khí, cơ điện tại các mỏ, các xí nghiệp. Ngoài ra trên địa bàn Quảng Ninh còn có 3 nhà máy cơ khí lớn trực thuộc Tập đoàn Cơ khí Năng lượng và Mỏ, các nhà máy này được xây dựng với nhiệm vụ chủ yếu là phục vụ sản xuất than. c) Vật liệu xây dựng: Tập đoàn có hai nhà máy xi măng: La Hiên (Thái Nguyên) công suất 140 ngàn tấn/năm và Đại Yên (Quảng Ninh) công suất 20 ngàn tấn/năm; các cơ sở sản xuất gạch với tổng công suất 20 triệu viên/năm, hiện nay các cơ sở này đang hoạt động tốt, cung cấp sản phấm cho các đơn vị xây dựng trong và ngoài ngành. 2.1.4.2. Nguồn nhân lực Tính đến tháng 10/2007, tổng số công nhân, viên chức trong toàn Tập đoàn là 115.992 người. Trong đó: Nữ giới chiếm 20,22%; Đảng viên Cộng Sản chiếm 20,65 % và người Dân tộc thiểu số chiếm 2,12 %. (Nguồn: Phòng Tổ chức cán bộ - TKV) Bảng 2.1: Cơ cấu nguồn nhân lực của TKV. Với chính sách khuyến khích người lao động phát huy sáng kiến, cải tiến kỹ thuật, động viên công nhân tăng năng suất lao động, Tập đoàn Tập đoàn Than - Khoáng sản Việt Nam luôn có kế hoạch đào tạo, bồi dưỡng, nâng cao trình độ cho người lao động theo nhu cầu kinh doanh, chính sách và tiêu chuẩn công nhân viên chức. Trong giai đoạn 2003-2007, đã có tổng số 46.057 lượt công nhân, viên chức được cử đi học (đào tạo, bồi dưỡng). Trong đó: đào tạo trong nước 44.504 lượt người, đào tạo ở nước ngoài 1.533 lượt người; xuất thân từ công nhân có 26.912 lượt người (57,87%), người dân tộc thiểu số có 449 lượt người được đào tạo, bồi dưỡng. 2.1.4.3. Trình độ công nghệ - Trang thiết bị ngành than hầu hết đều được đầu tư đã khá lâu, giá trị còn lại của các chủng loại máy công tác cũng như thiết bị điện đều chỉ nằm trong khoảng 40-60%. Thế hệ các trang thiết bị và sự đồng bộ của chúng trong dây chuyền sản xuất còn ở mức thấp. Nhìn chung, so với các nước, ngành khai thác than lộ thiên nước ta có trình độ kỹ thuật công nghệ có thể coi vào loại trung bình tiên tiến. - Trình độ kỹ thuật công nghệ của nhân lực ngành than ở mức trung bình. Cấp độ tinh xảo của công nhân chỉ ở mức có “khả năng tiếp thu và cải tiến công nghệ”, chưa đạt đến mức có khả năng có những phát minh sáng chế. Bảng 2.2: Tổng hợp về tuổi thọ và năng suất của thiết bị ngành than Bảng 2.3: Tổng hợp về bậc thợ công nhân ngành than (Nguồn: Tạp chí Khoa học công nghệ Mỏ - 2007) Bảng 2.4: Tuổi nghề của công nhân, cán bộ ngành than 2.1.4.4. Cơ cấu nguồn vốn/tài sản Tình hình nguồn vốn/tài sản của Tập đoàn Than - Khoáng sản Việt Nam tính đến hết ngày 31/12/2006 được thể hiện trong bảng dưới đây: (Đơn vị: Triệu đồng) (Nguồn: Ban Kế toán - Thống kê - Tài chính, TKV) Bảng 2.5: Bảng cân đối Tài sản - Nguồn vốn của TKV đến 31/12/2006 2.2. Phân tích chung về tình hình hoạt động của Tập đoàn thời gian vừa qua. Tập đoàn Than - Khoáng sản Việt Nam là một tập đoàn kinh tế hàng đầu của nền kinh tế nước ta trong những năm gần đây với quy mô hoạt động rộng lớn, sản xuất kinh doanh đa ngành trên nền công nghiệp than. Với xuất phát là Tổng công ty Than Việt Nam và sự sát nhập của Tổng công ty Khoáng sản Việt Nam trước đây, Tập đoàn Than - Khoáng sản Việt Nam đã gìn giữ và phát huy những thành tựu vốn có để tiếp tục và mở rộng quy mô hoạt động, tăng doanh thu, lợi nhuận và nguồn thu cho ngân sách nhà nước, đóng góp tích cực vào sự phát triển của nền kinh tế. 2.2.1. Kết quả hoạt động sản xuất kinh doanh trong giai đoạn 2005-2007. Trong các ngành kinh doanh của Tập đoàn, công nghiệp than là ngành nền tảng, sự phát triển của nó quyết định sự phát triển của các ngành khác. Do đó, doanh thu từ sản xuất và tiêu thụ than luôn chiếm tỷ trọng lớn (65-80%) trong tổng doanh thu hàng năm của Tập đoàn và trong đó, phần lớn doanh thu có được từ việc xuất khẩu than. Điều này chứng tỏ vai trò quyết định của xuất khẩu than đối với sự phát triển của công nghiệp than nói riêng, của Tập đoàn Than - Khoáng sản Việt Nam nói chung. (Nguồn: Báo cáo kinh doanh của TKV) Bảng 2.6: Kết quả sản xuất kinh doanh theo ngành nghề của TKV (2005-2007) Các số liệu từ bảng trên đây cho thấy TKV đã đạt mức tăng trưởng cao và đều qua các năm. Tổng doanh thu năm sau tăng từ 15-20% so với năm trước. Tất cả các ngành nghề đều có mức tăng trưởng cao: - Doanh thu sản xuất than năm 2005 là 15.792 tỷ đồng, năm 2006 tăng lên 19.265 tỷ đồng (tăng 22%), năm 2007 là 22.073 tỷ đồng (tăng 15%). - Doanh thu sản xuất cơ khí năm 2005 là 855 tỷ đồng, năm 2006 tăng lên 1.108 tỷ đồng (tăng 22%), năm 2007 là 1.435 tỷ đồng (tăng 30%). - Sản xuất vật liệu nổ năm 2005 thu về 1.040 tỷ đồng, năm 2006 tăng lên 1.126 tỷ đồng (tăng khoảng 10%), năm 2007 là 1.300 tỷ đồng (tăng 15%). - Sản xuất kinh doanh khác năm 2005 đạt 4.918 tỷ đồng, năm 2006 tăng lên 6.470 tỷ đồng (tăng khoảng 32%), năm 2007 là 7.300 tỷ đồng (tăng 13%). - Sản xuất điện có giá trị doanh thu không lớn bằng các ngành khác nhưng lại có mức tăng trưởng cao trong năm 2006-2007 so với năm 2005. Từ giá trị sản xuất năm 2005 là 183 tỷ đồng, sang đến năm 2006 là 608 tỷ đồng và 2007 là 630 tỷ đồng. Đây là kết quả của việc nhà máy nhiệt điện Na Dương chính thức được đưa vào vận hành thương mại. - Sản xuất khoáng sản sau 2 năm hoạt động kể từ khi Tổng công ty Khoáng sản Việt Nam sát nhập vào Tập đoàn Than - Khoáng sản Việt Nam cũng có mức tăng trưởng cao: doanh thu năm 2007 tăng 30% so với năm 2006. 2.2.2. Các chỉ tiêu hiệu quả sản xuất kinh doanh trong giai đoạn 2005-2007 (Nguồn: Ban Kế toán- Thống kê - Tài chính, TKV) Bảng 2.7: Kết quả hoạt động kinh doanh của TKV giai đoạn 2005-2007 Nhận xét: Các chỉ tiêu kết quả hoạt động kinh doanh của Tập đoàn Than - Khoáng sản Việt Nam đều có sự tăng trưởng qua các năm. Đặc biệt là sự tăng trưởng của năm 2006 so với năm 2005. Điều này thể hiện, Tập đoàn hoạt động tốt và ngày càng phát triển. - So với năm 2005, các chỉ tiêu của năm 2006 đều tăng trưởng cao (trừ chỉ tiêu lợi nhuận trước thuế có sự giảm sút): doanh thu đạt 29713 tỷ đồng, tăng 28% so với năm 2005 (22788 tỷ đồng); chi phí là 27052 tỷ đồng, trong khi năm 2005 là 16555 tỷ đồng (tăng 38%); nộp ngân sách nhà nước tăng từ 1250 tỷ đồng năm 2005 lên 1630 tỷ đồng năm 2006 (tăng 30%); tổng giá trị tài sản tăng 35%, vốn chủ sở hữu tăng 55% cho thấy quy mô kinh doanh đã được mở rộng. Nhờ đó, thu nhập bình quân của người lao động đã tăng từ 3.3 triệu đồng/tháng/người năm 2005 lên 3.7 triệu đồng/tháng/người. Có được sự tăng trưởng này là do có bước chuyển đổi quan trọng trong mô hình hoạt động kinh doanh của Tập đoàn. Năm 2005, với mô hình Tổng công ty 91, Tổng công ty Than Việt Nam (tiền thân của Tập đoàn Công nghiệp Than - Khoáng sản Việt Nam) hoạt động độc lập với kết quả kinh doanh được phản ánh như trong bảng kết quả trên. Chuyển sang năm 2006, theo quyết định của Thủ tướng Chính phủ, Tập đoàn Công nghiệp Than – Khoáng sản Việt Nam được thành lập, hoạt động theo mô hình công ty mẹ - công ty con trên cơ sở Tập đoàn Than Việt Nam và Tổng công ty Khoáng sản Việt Nam. Nhờ có sự chuyển đổi mô hình kinh doanh này, mà vốn chủ sở hữu, tổng tài sản của Tập đoàn Than - Khoáng sản Việt Nam được bổ sung và tăng lên rất nhiều (55% và 35%). Bên cạnh đó, với việc phát triển kinh doanh đa ngành, đa lĩnh vực (công nghiệp than, cơ khí, khoáng sản, điện…), Tập đoàn đã đạt được doanh thu 29713 tỷ đồng, tăng gần 30% so với năm 2005. Nhưng kéo theo đó, để đáp ứng nhu cầu mở rộng kinh doanh, chi phí hoạt động của Tập đoàn (chí phí quản lý doanh nghiệp, chi phí mua sắm trang thiết bị, đổi mới công nghệ…) cũng như đầu tư cho xây dựng cơ bản (xây dựng nhà máy sàng tuyển, nhà máy nhiệt điện, mở rộng khai thác hầm lò…) đều tăng cao (38% và 113%), làm cho lợi nhuận trước thuế giảm xuống và thấp hơn lợi nhuận năm 2005 là 15%. Điều này tất yếu dẫn đến, tỷ suất lợi nhuận trước thuế/doanh thu và tỷ suất lợi nhuận/vốn chủ sở hữu năm 2006 thấp hơn so với năm 2005 (9% và 20% so với 12% và 40%) - Sang đến năm 2007 là năm thứ hai hoạt động theo mô hình Tập đoàn kinh doanh, Tập đoàn Than - Khoáng sản Việt Nam tiếp tục đạt được nhiều kết quả khả quan. Doanh thu toàn Tập đoàn là 34,4 ngàn tỷ đồng, tăng 16% so với năm 2006. Về hiệu quả sản xuất kinh doanh, lợi nhuận trước thuế đạt 2680 tỷ đồng, đạt 116% kế hoạch, tương đương lợi nhuận năm 2006. Tỷ suất lợi nhuận trước thuế/doanh thu đạt 7,7%, tỷ suất lợi nhuận/vốn chủ sở hữu đạt 27%, nộp ngân sách nhà nước 3100 tỷ đồng, tăng 90% so với năm 2006. Lao động bình quân của Tập đoàn là 115 ngàn người với mức thu nhập bình quân 4 triệu đồng/người/tháng, trong đó sản xuất than 83,5 ngàn ngưồi với thu nhập bình quân 4,2 triệu đồng/người/ tháng. Năng suất lao động trong sản xuất than đạt 519 tấn/người/năm, tăng 7,5% so với năm 2006 và 215% so với năm 2001. Tổng số tài sản năm 2007 của Tập đoàn là 26.629 tỷ đồng, tăng 23% so với năm 2006, nguồn vốn chủ sỡ hữu là 9.500 tỷ đồng, tăng 11% so với năm 2006. Tập đoàn và các công ty thành viên đã bảo toàn và phát triển được vốn kinh doanh. GDP năm 2007 thực hiện 13.200 tỷ đồng, tăng 28% so với năm 2006. Về đầu tư xây dựng cơ bản, trong năm đã thực hiện 11.340 tỷ đồng, tăng 30% so với năm 2006. 2.2.3 Đánh giá chung. a) Ưu điểm: - Về công tác tổ chức quản lý: Sau hai năm thực hiện theo mô hình Tập đoàn kinh doanh, Tập đoàn Than - Khoáng sản Việt Nam đã hoàn thành việc chuyển đổi sang hoạt động theo mô hình công ty mẹ - công ty con, chuyển đổi phần lớn các công ty con sang hoạt động theo luật doanh nghiệp; tiến hành cổ phần hoá 11 đơn vị, các công ty con cổ phần hoá đã bán cổ phần đạt giá cổ phiếu cao; đã thành lập mới các doanh nghiệp để mở động và phát triển các ngành nghề kinh doanh của Tập đoàn. - Về hoạt động bảo vệ môi trường: với quan điểm “phát triển hài hoà với môi trường”, Tập đoàn Than - Khoáng sản Việt Nam đã thành lập Quỹ môi trường và chi hàng trăm tỷ đồng mỗi năm cho mục tiêu bảo vệ môi trường trong các mỏ, nhà máy và đầu tư vào các dự án khôi phục môi trường. Hầu hết các hoạt động sản xuất của TKV đều có báo cáo đánh giá tác động môi trường. - Về hoạt động khoa học công nghệ: Tập đoàn đã đầu tư chiều sâu, đổi mới công nghệ khai thác và sàng tuyển than, sản xuất và sử dụng vật liệu nổ công nghiệp một cách mạnh mẽ nhằm tiết kiệm tài nguyên than; nâng cao mức độ đảm bảo an toàn trong khai thác than; đầu tư nâng cấp cơ sở hạ tầng. - Về phát triển nguồn nhân lực: Tập đoàn và các đơn vị thành viên đã thực hiện nghiêm túc quy hoạch cán bộ, luân chuyển cán bộ, tạo điều kiện cho cán bộ phát triển; đã tổ chức tốt việc chăm sóc sức khoẻ người lao động, các hoạt động văn hoá, thể thao, giải trí. TKV đặc biệt quan tâm giải quyết lao động dôi dư, đổi mới cơ cấu lao động và công tác bồi dưỡng, đào tạo cán bộ cũng hết sức được chú trọng. b) Hạn chế - Trong sản xuất than, công tác an toàn lao động tại các mỏ, nhà máy, xí nghiệp còn nhiều hạn chế, nên vẫn xảy ra nhiều vụ tai nạn lao động, sự cố gây ra những thiệt hại to lớn về người và của; chất lượng môi trường vùng than Quảng Ninh chưa được cải thiện một cách tích cực, chưa đáp ứng được yêu cầu của cơ sở hạ tầng giao thông và hậu cần vùng mỏ… - Công tác đầu tư xây dựng cơ bản còn chậm tiến độ nhiều công trình khiến cho hoạt động sản xuất chưa được thông suốt và hiệu quả chưa cao. - Công tác quản lý kỹ thuật cơ bản, quản trị chi phí quản trị tài nguyên của một số đơn vị vẫn còn chưa chặt chẽ. - Trình độ chuyên môn của nguồn nhân lực, đặc biệt là trình độ quản lý và trình độ văn hoá của các cấp lãnh đạo trong Tập đoàn vẫn chưa đáp ứng được yêu cầu của hoạt động sản xuất kinh doanh trong quá trình hội nhập kinh tế quốc tế. 2.3. Thực trạng hiệu quả xuất khẩu Than của Tập đoàn Than - Khoáng sản Việt Nam trong thời gian vừa qua 2.3.1. Thực trạng xuất khẩu than của TKV. 2.3.1.1. Quy trình xuất khẩu than. a) Công tác chuẩn bị giao hàng - Các đơn vị giao than xuất khẩu chủ động bố trí sản xuất, đảm bảo đủ khối lượng và chất lượng than giao xuất khẩu theo kế hoạch chuẩn bị chân hàng tháng, quý và kế hoạch năm phù hợp với Hợp đồng phối hợp kinh doanh năm hoặc hợp đồng kinh tế. Kế hoạch chuẩn bị chân hàng than xuất khẩu hàng quý được Giám đốc khối Thương mại và dịch vụ thông qua trên cơ sở Hợp đồng phối hợp kinh doanh hoặc Hợp đồng kinh tế đã ký và nhu cầu lấy than của khách hàng cũng như khả năng sản xuất của các đơn vị. Ban sản xuất than Tập đoàn (SXT) chủ trì cùng các Ban Kế hoạch (KH), Ban Xuất nhập khẩu (XNK), Ban Thị trường Than nội đia (TTN) cân đối báo cáo Giám đốc khối Thương mại và dịch vụ hay Giám đốc khối Công nghiệp than quyết định. - Đối với tàu xuất khẩu có khối lượng than chuyển tải trên 30.000 tấn than cám: không bố trí quá 5 đơn vị giao than. Các trường hợp còn lại, không bố trí quá 4 đơn vị giao than. Đối với những lô than có chất lượng đặc biệt, Ban SXT và Ban XNK báo cáo Giám đốc khối Thương mại và dịch vụ quyết định. - Hàng tháng, các bộ phận cùng các công ty thương mại họp và nhận kế hoạch tiêu thụ của tháng kế tiếp. Hàng tuần, họp tác nghiệp tàu và bố trí lịch tàu cập cầu của tuần kế tiếp. b) Tổ chức thực hiện giao hàng Giao hàng tại cảng chính Cẩm Phả và khu vực chuyển tải. 1) Căn cứ vào kế hoạch điều tàu của khách hàng và kế hoạch tiêu thụ hàng của tháng đã duyệt, Ban XNK phát hành thông báo giao than gửi các đơn vị giao than, đơn vị điều hành, đơn vị giám định, đơn vị bốc xếp, các công ty thương mại liên quan, ghi rõ: tên tàu, laycan, ngày tàu dự kiến đến cảng xếp hàng, tên hàng, khối lượng, chất lượng, các điều kiện giao hàng 2) Không muộn hơn 3 ngày trước khi tàu đến cảng, đơn vị điều hành thông báo cho các đơn vị giao than, đơn vị bốc xếp, đơn vị giám định thông báo thời gian dự kiến tàu đến cảng, sơ đồ rót than, thời gian cho phép làm hàng, thời gian dự kiến mở máng làm hàng… 3) Công ty Tuyển than Hòn Gai TKV và/hoặc công ty KHO VẬN Đá Bạc TKV thu xếp phương tiện, tổ chức vận chuyển than áp mạn tàu tại khu vực chuyển tải 4) Đơn vị giám định tổ chức giám định khối lượng, chất lượng than rót xuống tàu/sà lan chuyển tải rồi lập biên bản giao than . Kết quả giám định khối lượng, chất lượng than giao là cơ sở để thực hiện thanh toán tiền than cho các đơn vị giao than. Trường hợp thiếu than giao cho tàu, than bổ sung sẽ được lấy từ công ty Tuyển than Cửa Ông TKV, công ty Tuyển than Hòn Gai TKV và/hoặc công ty Kho vận Đá Bạc TKV. Trong mọi trường hợp, phải đảm bảo giao đủ than cho tàu với thời gian sớm nhất. 5) Khi tàu đến cảng xếp hàng, đơn vị điều hành phối hợp với đơn vị giám định tàu tiến hành kiểm tra hầm hàng. Khi tàu sẵn sàng xếp hàng trên mọi phương diện, thuyền trưởng sẽ trình Thông báo sẵn sàng - NOR, cán bộ điều hành tại cảng xếp hàng mới ký chấp nhận thông báo sẵn sàng làm hàng. 6) Đơn vị điều hành cùng đơn vị giám định tiến hành kiểm tra các tài liệu, sổ sách, thước đo mớn nước tàu để thống nhất phương thức giám định khối lượng cho các tàu xuất khẩu theo quy định của L/C hoặc hợp đồng thương mại. Việc làm hàng chỉ được thực hiện khi có xác nhận từ Tập đoàn và/hoặc các công ty thương mại về việc dã có L/C gốc hoặc xác nhận thanh toán của khách hàng trên Hóa đơn chiếu lệ hoặc giấy báo Có của ngân hàng cho người thụ hưởng. 7) Đơn vị điều hành làm việc với nhà tàu, phối hợp với đơn vị giám định, đơn vị bốc xếp tổ chức điều hành, bốc rót và san gạt cho tàu trong cầu và tại các khu vực chuyển tải đảm bảo tiến độ, an toàn, đúng trình tự theo sơ đố hầm hàng đã thống nhất với nhà tàu. Nếu phát hiện thấy than giao không đảm bảo chất lượng thì việc giao hàng sẽ tạm ngừng để xử lý đến khi đảm bảo chất lượng. 8) Sau khi kết thúc giao than cho tàu, đơn vị điều hành có trách nhiệm hoàn thiện đầy đủ chứng từ tàu, sau đó chuyển nhanh và an toàn về Ban XNK hoặc các công ty thương mại có liên quan; Đơn vị giám định phát hành phải cấp, phát hành chứng thư khối lượng, chất lượng theo yêu cầu của L/C, Hợp đồng và chuyển nhan, an toàn về Ban XNK hoặc các công ty thương mại có liên quan. 9) Ban XNK Tập đoàn hoặc các công ty thương mại lập hoá đơn thương mại và các chứng từ khác (theo yêu cầu của L/C), hợp đồng; kiểm tra và hoàn thiện bộ chứng từ thanh toán, lập hối phiếu thu tiền hàng. 2.3.1.2.Mặt hàng xuất khẩu. Tài nguyên than của Việt Nam tập trung chủ yếu tại các khu vực thuộc Quảng Ninh, Thái Nguyên, Lạng Sơn, Quảng Nam với trữ lượng đã được thăm dò và đánh giá ở mức chính xác cao khoảng trên 3,5 tỷ tấn, trong đó trên 80% trữ lượng tập trung ở Quảng Ninh. Với hai phương pháp khai thác là khai thác lộ thiên và khai thác hầm lò, trải qua quá trình sàng tuyển, Tập đoàn Than Việt Nam đã sản xuất ra rất nhiều các chủng loại than với các chỉ tiêu kỹ thuật khác nhau theo tiêu chuẩn TCVN và TVN, không những đáp ứng được nhu cầu tiêu dùng trong nước mà còn đáp ứng được nhu cầu sử dụng của thị trường nước ngoài. Dưới đây là bảng tổng hợp các loại than thương phẩm của Tập đoàn Than - Khoáng sản Việt Nam. Sản phẩm Than Các chỉ tiêu kỹ thuật than theo TCVN (1790 -1999) TT Loại than Cỡ hạt Độ tro (AK%) Độ ẩm TB Chất bốc TB Lưu huỳnh Nhiệt nặng mm Trung bình Giới hạn WlvTB% VKTB% SKTB% QKmin(Cal/g) -1 -2 -3 -4 -5 -6 -7 -8 -9 I Than cục 1 Cục 2a 50-100 7.00 6.00-8.00 3 6 0.6 7800 2 ' 25-60 7.00 6.00-8.00 3 6 0.6 7800 3 Cục 2b 50-100 9.00 8.01-10.0 3.5 6 0.6 7650 4 ' 25-200 9.00 8.01-10.0 3.5 6 0.6 7650 5 Cục 3a 35-50 4.00 3.01-5.00 3 6 0.6 8100 6 Cục 4a 15-35 5.00 4.01-6.00 3.5 6 0.6 8000 7 Cục 4b 15-35 9.00 6.01-12.0 3.5 6 0.6 7450 8 Cục 5a 6-18 6.00 5.00-7.00 3.5 6 0.6 7900 9 Cục 5b 6-18 7.00 6.00-8.00 4 6 0.6 7450 II Than cám 1 Cám 1 0-15 7.00 6.00-8.00 8 6.5 0.6 7800 2 Cám 2 0-15 9.00 8.01-10.0 8 6.5 0.6 7600 3 Cám 2 1-10 8.50 8.01-10.0 8 6.5 0.6 7600 4 Cám 2 1-6 8.50 8.01-10.0 8 6.5 0.6 7600 5 Cám 2 1-5 9.00 8.01-10.0 8 6.5 0.6 7600 6 Cám 2 1-15 9.00 8.01-10.0 8 6.5 0.6 7600 7 Cám 3a 1-15 11.50 10.01-13 8 6.5 0.6 7350 8 Cám 3b 1-15 14.00 13.01-15 8 6.5 0.6 7050 9 Cám 3c 1-15 16.50 15.01-18 8 6.5 0.6 6850 10 Cám 4a 1-15 20.00 18.01-22 8 6.5 0.6 6500 11 Cám 4b 1-15 24.00 22.01-26 8 6.5 0.6 6050 12 Cám 5 1-15 30.00 26.01-33 8 6.5 0.6 5500 13 Cám 6a 1-15 36.00 33.01-40 8 6.5 0.6 4850 14 Cám 6b 1-15 42.00 40.01-45 8 6.5 0.6 4400 (Nguồn: Ban Xuất khẩu than - TKV) Bảng 2.8: Các chủng loại Than của TKV Trước hết, phải nói rằng than antraxit Việt Nam là loại than có đặc tính hoá học, lý học, thạch học đặc thù và hiếm có trên thế giới. Loại than này không được sử dụng rộng rãi và phổ biến như than cốc với nhiều loại công nghệ trong các ngành công nghiệp như điện, thép, xi măng, giấy…mà chỉ có một số ít máy móc, quy trình công nghệ trong các ngành này sử dụng than antraxit làm nguyên - nhiên liệu. Chẳng hạn công nghệ PCI và thiêu kết trong ngành sản xuất thép ở Nhật Bản sử dụng than cám (chủ yếu là cám số 8 của Việt Nam) làm nhiên liệu. Trong khi đó, việc sử dụng than Antraxit Quảng Ninh để luyện gang trong lò cao là rất phức tạp, đến nay còn nhiều vấn đề về kỹ thuật công nghệ chưa giải quyết được. Bởi than đá có độ rắn đặc trưng, nên quá trình cháy của than rất lâu để có được lượng nhiệt theo yêu cầu, nhưng bên cạnh đó, khi ở nhiệt độ cao (trong công nghệ luyện gang lò cao) lại rất dễ vỡ vụn, gây bí lò. (Nguồn: Ban Xuất khẩu than - TKV) Bảng 2.9: Thống kê XK than theo chủng loại của TKV . Biểu đồ 2.1: Chủng loại than XK của TKV Qua biểu đồ trên, ta thấy sản lượng than mỗi chủng loại đều có mức tăng cao qua các năm, đặc biệt là than cám. Than cục từ năm 2003 đến 2007 sản lượng gia tăng với mức tăng trưởng mỗi năm trên 40%, từ 609 ngàn tấn năm 2003 lên 1,2 triệu tấn năm 2007. Duy chỉ có năm 2005 thì sản lượng xuất khẩu giảm chỉ còn 586 ngàn tấn. Than cám cũng có mức tăng trưởng cao, trung bình 45-65 % từ 2003-2006.. Đến năm 2007 tuy sản lượng xuất khẩu vẫn tăng nhưng không nhiều do đó, tỷ lệ tăng trưởng chỉ là 9%. Năm 2003, sản lượng xuất khẩu mới chỉ đạt gần 6 triệu tấn, thì đến năm 2007, sản lượng xuất khẩu đã lên tới 22,5 triệu tấn. Dễ dàng nhận thấy than cám chiếm phần lớn (trên 90%) trong tổng sản lượng than xuất khẩu của Việt Nam. Mặc dù than cám có chất lượng thấp hơn than cục rất nhiều, độ nhiệt trị và nhiệt năng cũng thấp hơn, nhưng lại có sản lượng xuất khẩu chiếm ưu thế. Bởi nhu cầu tiêu thụ than này, đặc biệt là ở Thái Lan và Trung Quốc cho các nhà máy điện là rất lớn. Trong khi đó, giá than cục lại luôn ở mức cao dẫn đến việc nhà sử dụng (nhà máy thép, xi măng ở Nhật Bản, Tây Âu …) phải thay thế than antraxit bằng loại than khác nhằm tiết kiệm thêm chi phí đầu vào cho sản xuất. 2.3.1.3. Thị trường xuất khẩu (Nguồn: Ban Xuất khẩu than - TKV) Bảng 2.10: Thống kê than XK theo thị trường (2001-2007) Than là một trong số ít mặt hàng Việt Nam đã có lịch sử xuất khẩu lâu đời. Than Antraxit Việt Nam đã nổi tiếng ở hơn 40 thị trường trên thế giới dưới cái tên thương mại “Antraxit Hongay”. Trước năm 1989, Antraxit Việt Nam đã được xuất khẩu đi các nước châu Âu và Nhật Bản và chủ yếu dùng để sưởi ấm, đung nấu, làm điện cực, làm đất đèn. Từ năm 1989-1990, Antraxit Việt Nam bắt đầu được sử dụng thử nghiệm trong công nghiệp luyện thép của Nhật Bản, rồi ở Pháp; từ năm 1994 được sử dụng thử nghiệm trong sản xuất xi măng ở Công ty Xi măng Onoda Nhật Bản, năm 1996 được sử dụng để phát điện ở Bungari và năm 1998 đưa vào nhà máy Điện NPS Thái Lan. Công nghiệp thép, điện lực và xi măng ở Nhật Bản, Châu Âu, Thái Lan đã trở thành những hộ tiêu thụ nhiều than Việt Nam. Qua bảng số liệu trên, ta có nhận định ban đầu là sản lượng than xuất khẩu của TKV vào các thị trường biến động không đều qua các năm. Có thị trường biến động tăng, có thị trường lại biến động giảm, và có những thị trường vừa biến động tăng vừa biến động giảm trong giai đoạn 2001-2007. Năm 2001, sản lượng than xuất khẩu vào Nhật Bản là 1.091 ngàn tấn, Tây Âu 511 ngàn tấn, Trung Quốc 817 ngàn tấn, Hàn Quốc 105 ngàn tấn, Thái Lan 764 ngàn tấn, Đài Loan 101 ngàn tấn,…Đến năm 2007, chỉ có 3 thị trường Nhật Bản, Trung Quốc, Hàn Quốc là sản lượng than xuất khẩu vẫn tăng (Nhật Bản 2.250 ngàn tấn, Trung Quốc 18.850 ngàn tấn, Hàn Quốc 640 ngàn tấn), trong đó sản lượng xuất khẩu vào thị trường Trung Quốc có mức tăng mạnh mẽ nhất do nhu cầu sử dụng than cho các nhà máy nhiệt điện ở phía Nam tăng cao. Bên cạnh đó, sự xuất hiện của một số thị trường mới như Brazil, Lào, Ấn Độ, Indonesia từ năm 2006 giúp cho sản lượng than xuất khẩu cũng gia tăng tuy không nhiều. Ngược lại, sản lượng than xuất khẩu vào các thị trường như Thái Lan, Đài Loan lại sụt giảm do các nước này đã chuyển hướng sang nhập khẩu than từ Trung Quốc hay Indonesia với mức giá cạnh tranh hơn trong khi chất lượng của than Việt Nam lại dần không đáp ứng được yêu cầu của họ. Về cơ cấu thị trường Trong các thị trường xuất khẩu của Than Việt Nam, Nhật Bản, Trung Quốc và Tây Âu là những thị trường truyền thống và quan trọng, đồng thời cũng là những thị trường xuất khẩu lớn nhất của Than Việt Nam. Nếu như năm 2001, Nhật Bản là thị trường xuất khẩu lớn nhất của Than Việt Nam (22%), tiếp đến là Trung Quốc với mức chênh lệch sản lượng so với thị trường Nhật Bản không lớn lắm (19%), cuối cùng là thị trường Tây Âu (12%) thì sang đến năm 2007, đã có sự biến đổi lớn trong cơ cấu thị trường này. Trung Quốc đã vươn lên dẫn đầu trong các thị trường nhập khẩu than Việt Nam (80% - mức tăng trưởng bình quân là trên 200% mỗi năm) từ năm 2005, Nhật Bản lùi xuống vị trí thứ 2 (10%) và vị trí thứ 3 vẫn là Tây Âu (1%). Nguyên nhân của sự biến đổi này là: Từ cuối năm 2004, sang năm 2005 và cho đến 2007, nhu cầu than trên thị trường thế giới tăng mạnh để đáp ứng cho các ngành công nghiệp, nhất là ngành thép và điện lực. Đặc biệt với phát triển nóng của nền kinh tế Trung Quốc và việc hạn chế xuất khẩu than của họ đã dẫn đến thiếu thụ nguồn cung cấp than cho các nhà máy sử dụng. Nhưng mặt khác, do tác động cạnh tranh mãnh mẽ của các nguồn than gần như của Nga, Ukraina và do không phát triển nóng như khu vực châu Á - Thái Bình Dương nên xuất khẩu than vào Tây Âu giảm đáng kể. Biểu đồ 2.2: Thị trường than XK năm 2001 Biểu đồ 2.3: Cơ cấu thị trường XK than năm 2007 Có thể nói, hơn 10 năm qua, ngành than đã kế thừa và mở rộng thị trường tiêu thụ than tại Nhật Bản, Châu Âu, Nam Phi, Trung Quốc, Hàn Quốc, Đài Loan, Thái Lan, Philipin, Nam Mỹ và một số nước khác nhờ vào chính sách bạn hàng đúng đắn, cung cấp ổn định về khối lượng, chất lượng với giá cạnh tranh cho khách hàng; xây dựng được mối quan hệ tay ba tin cậy, hữu nghị giữa người bán (TVN) - Công ty thương mại - và người sử dụng cuối cùng; ký kết được các hợp đồng dài hạn cung cấp than cho một số nhà tiêu thụ ở Nhật Bản, Thái Lan, Philipin. 2.3.1.4. Kim ngạch và giá trị xuất khẩu. Biểu đồ 2.4 : Sản lượng than xuất khẩu của Việt Nam từ 2001-2007 Nhìn vào biểu đồ ta thấy, sản lượng than xuất khẩu những năm gần đây tăng mạnh. Năm 2003 Việt Nam mới xuất khẩu 6,5 triệu tấn, nhưng một năm sau đã vọt lên 10,6 triệu tấn (tăng 63% so với năm trước) và tiếp tục tăng lên 14,8 triệu tấn (tăng 40%) vào năm 2005. Đến cuối năm 2006, tổng lượng than xuất khẩu tiếp tục tăng mạnh, đạt 21,6 triệu tấn và sang năm 2007 là 23,8 triệu tấn. Lí giải cho việc xuất khẩu than tăng mạnh có 3 nguyên nhân sau: - Năm 2004, giá dầu thế giới bắt đầu tăng cao góp phần mở rộng thị trường tiêu thụ than ra nước ngoài, đẩy giá than xuất khẩu lên. Đây chính là cơ hội mà TKV có được để đẩy mạnh sản xuất, tăng sản lượng tiêu thụ. - Mặt khác, giá bán than trong nước thấp hơn giá thành sản xuất và quá thấp so vớigiá xuất khẩu. Và khi chênh lệch giữa giá bán than nội địa và giá than xuất khẩu càng lớn thì xuất khẩu càng tăng. Điều này là hoàn toàn phù hợp với quy luật thị trường. - Do việc quản lý tiêu thụ than chưa chặt chẽ, đồng thời lợi dụng sự chênh lệch giữa giá bán than nội địa và giá than xuất khẩu dẫn đến tình trạng xuất khẩu lậu than nhằm thu lợi nhuận bất chính. Vì ba nguyên nhân cơ bản trên, TKV đã tăng sản lượng xuất khẩu than nhằm bù lỗ phần sản lượng than tiêu thụ trong nước, thu lợi nhuận để tái đầu tư duy trì và nâng cao sản lượng đáp ứng nhu cầu than của nền kinh tế quốc dân ngày càng tăng cao, đồng thời xuất khẩu một số chủng loại than mà trong nước tạm thời chưa có nhu cầu. Bảng 2.11: Kim ngạch và sản lượng than XK thời kỳ 2003-2007 (Nguồn: Ban Xuất khẩu than - TKV) Kim ngạch xuất khẩu than qua các năm cũng tăng mạnh mẽ. Năm 2003, kim ngạch xuất khẩu mới đạt 165 triệu USD, sang năm 2004 đã tăng gấp đôi với kim ngạch 340 triệu USD, năm 2005 tiếp tục tăng trưởng với mức 83 % tương ứng với 624 triệu USD. Năm 2006-2007, giá trị xuất khẩu đạt mức 750 và 865 triệu USD, tương ứng với tỷ lệ 20% và 15%. Nguyên nhân chính của sự tăng trưởng kim ngạch như trên là do từ năm 2004, giá dầu thế giới bắt đầu tăng cao góp phần mở rộng thị trường tiêu thụ than ra nước ngoài, đẩy giá than xuất khẩu lên. Nhờ sự gia tăng của giá than, cùng với sự gia tăng sản lượng than xuất khẩu đã đưa kim ngạch xuất khẩu năm 2004 và những năm tiếp theo tăng cao. Tuy nhiên, năm 2006-2007, trong khi sản lượng than xuất khẩu vẫn tăng (49% và 10%) nhưng kim ngạch xuất khẩu lại không có mức tăng tương ứng do sự sụt giảm trong giá than xuất khẩu. Trong khi giá các mặt hàng nguyên liệu trong các ngành công nghiệp khác tăng cao thì giá than xuất khẩu trong 2 năm này lại giảm, do chất lượng than xuất khẩu không đồng đều và có dấu hiệu đi xuống, xuất phát từ việc các đơn vị sản xuất trong Tập đoàn đã tiến hành khai thác và sản xuất than đại trà, thiếu chọn lọc. 2.3.2. Hiệu quả xuất khẩu than tại TKV. 2.3.2.1. Lợi nhuận và tỷ suất lợi nhuận xuất khẩu. Lợi nhuận là một chỉ tiêu rất quan trọng, nó phản ánh hiệu quả hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. Lợi nhuận cao hay thấp là thước đo sức sống của doanh nghiệp, đồng thời nó phản ánh doanh nghiệp đã kết hợp nguồn lực của mình hợp lý hay chưa. Kim ngạch xuất khẩu than trong những năm vừa qua liên tục tăng nên mức lợi nhuận do xuất khẩu than mang lại cũng theo đó tăng lên. Năm 2004, lợi nhuận xuất khẩu chỉ đạt 65 triệu USD. Sang năm 2005, các đơn vị thuộc Tập đoàn đã nâng cấp và lắp đặt dây chuyền công nghệ mới nên sản lượng sản xuất tiếp tục tăng cao, đồng thời sự gia tăng liên tục nhu cầu sử dụng than trên thế giới cũng mở ra cơ hội gia tăng sản lượng xuất khẩu cho than Việt Nam. Vì thế, lợi nhuận xuất khẩu tăng lên 47% so với năm 2004, đạt 96 triệu USD. Trong năm 2006 và 2007, việc đầu tư nâng cấp và mua mới các thiết bị, máy móc phục vụ việc mở rộng khai thác các mỏ mới, nâng cao hệ số khai thác hầm lò và nâng cao chất lượng sàng tuyển, chế biến than làm cho chi phí xuất khẩu tăng lên 18% và 16%. Trước tình hình đó, để tiếp tục duy trì lợi thế cạnh tranh trên thị trường quốc tế, Tập đoàn phải thắt chặt công tác quản lý các yếu tố đầu vào khác, đồng thời chú trọng nâng cao năng suất lao động, vận dụng sáng tạo những kinh nghiệm xuất khẩu thu được trong thời gian qua. Nhờ vậy, mức lợi nhuận trong năm 2006 và 2007 lần lượt đạt 132 triệu USD và 167 triệu USD. So với năm 2004, mức lợi nhuận năm 2007 tăng 2.57 lần. Bảng 2.12 : Kết quả xuất khẩu than của Tập đoàn Than - Khoáng sản Việt Nam qua các năm (Đơn vị: Triệu USD, %) (Nguồn: Ban Kế toán- Thống kê - Tài chính, TKV) Nếu xét toàn bộ hoạt động của Tập đoàn thì tỷ trọng đóng góp của hoạt động xuất khẩu than vào tổng lợi nhuận ngày càng lớn. (Xem bảng 2.1..) Bảng 2.13: Tỷ trọng lợi nhuận xuất khẩu trong tổng lợi nhuận của TKV (Nguồn: Ban Kế toán- Thống kê - Tài chính, TKV) Năm 2004, khi giá dầu thế giới bắt đầu tăng cao, góp phần mở rộng thị trường tiêu thụ than ra nước ngoài, đẩy giá than xuất khẩu lên, trong khi thị trường tiêu thụ than trong nước vẫn được bảo hộ cao thì xuất khẩu than vẫn tiếp tục giữ vai trò là nguồn thu chủ yếu của công nghiệp than nói riêng, của Tập đoàn Than nói chung. Lợi nhuận năm này đóng góp 55% trong tổng lợi nhuận cả năm của Tập đoàn Than. Sang đến năm 2005, xuất khẩu than đóng góp 58% vào tổng lợi nhuận. Năm 2006, tỷ trọng này còn tăng cao đạt 78% và năm 2007 là 79% do tổng lợi nhuận toàn Tập đoàn giảm nhưng lợi nhuận xuất khẩu vẫn tiếp tục tăng. Con số này càng khẳng định vai trò của hoạt động xuất khẩu than trong hoạt động kinh doanh của toàn Tập đoàn Than - Khoáng sản Việt Nam. Về tỷ suất lợi nhuận: Khác với lợi nhuận, tỷ suất lợi nhuận biến động không ổn định. Điều này được thể hiện rõ qua biểu đồ dưới đây: Năm 2004, cứ 1 USD doanh thu xuất khẩu đem lại cho Tập đoàn 0.191 USD lợi nhuận thì sang năm 2005, mức này đã giảm xuống: 1 USD doanh thu xuất khẩu chỉ mang về cho Tập đoàn 0.154 USD lợi nhuận. Năm 2006, tỷ suất lợi nhuận đạt 0.176, tăng lên so với năm 2005 nhưng vẫn thấp hơn so với năm 2004. Đến năm 2007, tỷ suất lợi nhuận có biến động tăng nhẹ (11%), đạt 0.193. Nguyên nhân của tình trạng này là do sự biến động không đều của chi phí xuất khẩu. Tuy nhiên, nhìn chung, tỷ suất lợi nhuận của Tập đoàn vẫn được duy trì ở mức tương đối cao, cho thấy hiệu quả xuất khẩu là khá tốt. Biểu đồ 2.5 : Tỷ suất lợi nhuận của Tập đoàn Than - Khoáng sản Việt Nam. 2.3.2.2. Hiệu quả sử dụng vốn trong xuất khẩu. Vốn là nguồn lực rất quan trọng đối với mọi doanh nghiệp. Các doanh nghiệp Việt Nam, do tiềm lực tài chính có hạn nên việc sử dụng vốn đúng mục đích và đạt hiệu quả cao nhất là rất cần thiết. Hiệu quả sử dụng vốn của Tập đoàn trong xuất khẩu than được thể hiện trong bảng dưới đây. Do việc phân chia vốn nào dành cho xuất khẩu, vốn nào dành cho sản xuất trong nước là rất khó khăn nên nguồn vốn được xét ở đây là vốn kinh doanh nói chung. Bảng 2.14: Hiệu quả sử dụng vốn tại Tập đoàn Than - Khoáng sản Việt Nam. (Nguồn: Ban Kế toán- Thống kê - Tài chính, TKV) + Về hiệu quả sử dụng vốn cố định: Năm 2004, 1 đồng vốn cố định đem lại 0.372 đồng lợi nhuận. Năm 2005, sức sinh lời của vốn cố định tăng thêm so với năm 2004 là 0.149 đồng, tương ứng với 40%. Điều này cho thấy, vốn cố định của năm 2005 đã hoạt động tốt hơn so với năm 2004. Năm 2006, sức sinh lời của vốn cố định gần như không có biến động so với năm 2005: 1 đồng vốn cố định năm 2005 mang lại 0.521 đồng lợi nhuận, sang năm 2006 cũng chỉ mang lại 0.523 đồng lợi nhuận. Con số này phản ánh một điều, sự tăng trưởng của lợi nhuận xuất khẩu năm 2006 so với năm 2005 và sự tăng trưởng của vốn cố định năm 2006 so với năm 2005 là tương đương nhau. Tuy nhiên, sang năm 2007, mức sinh lời của vốn cố định giảm nhẹ 12.4%, chỉ đạt 0.458 đồng lợi nhuận xuất khẩu/1 đồng vốn định. Đó là do trong năm này, Tập đoàn đã đầu tư thêm một số dây chuyền, máy móc thiết bị hiện đại của Cộng hoà Liên bang Đức cho một vài dự án đang thực hiện làm tăng thêm chi phí cố định. + Về hiệu quả sử dụng vốn lưu động: Vốn lưu động là nguồn vốn giúp doanh nghiệp duy trì sự hoạt động ổn định. Vì thế, hiệu quả sử dụng vốn lưu động được các nhà quản trị rất quan tâm. Từ năm 2004 đến năm 2007, hiệu quả sử dụng vốn lưu động của Tập đoàn Than - Khoáng sản Việt Nam có những biến động thất thường. Năm 2005 là năm việc sử dụng vốn lưu động đạt hiệu quả cao nhất khi 1 đồng vốn lưu động được sử dụng đã đem lại cho Tập đoàn 1.609 đồng lợi nhuận. Đây là mức sinh lời rất cao. So với năm 2004, sức sinh lời của năm 2005 tăng tới 45%. Sang năm 2006, trong khi vốn lưu động tăng 30% thì lợi nhuận xuất khẩu chỉ tăng 20% làm cho sức sinh lợi của vốn lưu động giảm xuống ở mức 1.389. Nếu mức sinh lời của năm 2005 được duy trì ở năm 2006 thì để tạo ra 2125 tỷ đồng lợi nhuận, Tập đoàn cần bỏ ra 3419 tỷ đồng vốn lưu động. Như vậy, Tập đoàn đã tiết kiệm được gần 2000 tỷ đồng vốn lưu động. Sang năm 2007, sức sinh lời của vốn lưu động tiếp tục giảm xuống mức 1.113. Tuy nhiên, điều này không nói lên rằng, Tập đoàn đã sử dụng vốn lưu động không hiệu quả trong hoạt động xuất khẩu than. 2.3.2.3. Hiệu quả sử dụng lao động Việt Nam với lợi thế về chi phí lao động thấp so với các nước trong khu vực đã đem lại mộ

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docM1137.DOC
Tài liệu liên quan