Đề tài Giải pháp nâng cao hiệu quả sử dụng vốn tại công ty Thương mại và sản xuất Ngọc Diệp

Tài liệu Đề tài Giải pháp nâng cao hiệu quả sử dụng vốn tại công ty Thương mại và sản xuất Ngọc Diệp: Lời nói đầu Trong nền kinh tế hàng hoá, điều kiện để các doanh nghiệp có thể thực hiện được các hoạt động sản xuất kinh doanh là phải có một số vốn nhất định. Nếu không có vốn thì không thể nói tới bất kỳ hoạt động sản xuất kinh doanh nào. Do đó nhiệm vụ đặt ra cho các doanh nghiệp là phải sử dụng vốn sao cho có hiệu quả cao nhất. Quản lý và sử dụng vốn sản xuất kinh doanh có ý nghĩa hết sức quan trọng, là điều kiện tiên quyết để các doanh nghiệp khẳng định được vị trí của mình và tìm chỗ đứng vững chắc trong cơ chế mới. Chính vì thế vấn đề quản lý và sử dụng vốn đang là một vấn đề rất bức xúc đặt ra đối với tất cả các doanh nghiệp. Trong cơ chế bao cấp trước đây, vốn của doanh nghiệp hầu hết được Nhà nước tài trợ qua việc cấp phát, số còn lại được Ngân hàng cho vay với lãi suất ưu đãi. Do được bao cấp về vốn đã gay nên sự ỷ lại trông chờ vào Nhà nước của các doanh nghiệp trong việc tổ chức nguồn vốn đáp ứng cho nhu cầu sản xuất kinh doanh, hiệu quả sử dụng vốn thấp, nhiều doanh ng...

doc86 trang | Chia sẻ: hunglv | Lượt xem: 1144 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem trước 20 trang mẫu tài liệu Đề tài Giải pháp nâng cao hiệu quả sử dụng vốn tại công ty Thương mại và sản xuất Ngọc Diệp, để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Lời nói đầu Trong nền kinh tế hàng hoá, điều kiện để các doanh nghiệp có thể thực hiện được các hoạt động sản xuất kinh doanh là phải có một số vốn nhất định. Nếu không có vốn thì không thể nói tới bất kỳ hoạt động sản xuất kinh doanh nào. Do đó nhiệm vụ đặt ra cho các doanh nghiệp là phải sử dụng vốn sao cho có hiệu quả cao nhất. Quản lý và sử dụng vốn sản xuất kinh doanh có ý nghĩa hết sức quan trọng, là điều kiện tiên quyết để các doanh nghiệp khẳng định được vị trí của mình và tìm chỗ đứng vững chắc trong cơ chế mới. Chính vì thế vấn đề quản lý và sử dụng vốn đang là một vấn đề rất bức xúc đặt ra đối với tất cả các doanh nghiệp. Trong cơ chế bao cấp trước đây, vốn của doanh nghiệp hầu hết được Nhà nước tài trợ qua việc cấp phát, số còn lại được Ngân hàng cho vay với lãi suất ưu đãi. Do được bao cấp về vốn đã gay nên sự ỷ lại trông chờ vào Nhà nước của các doanh nghiệp trong việc tổ chức nguồn vốn đáp ứng cho nhu cầu sản xuất kinh doanh, hiệu quả sử dụng vốn thấp, nhiều doanh nghiệp không bảo toàn và phát triển được vốn. Chuyển sang nền kinh tế thị trường, các doanh nghiệp nhà nước cùng tồn tại với các loại hình doanh nghiệp khác, có quyền tự chủ trong các hoạt động sản xuất kinh doanh, tự tổ chức đảm bảo đủ vốn, đồng thời có trách nhiệm bảo toàn và phát triển vốn. Nhiều doanh nghiệp đã thích nghi với tình hình mới, đã phát huy được tính chủ động sáng tạo trong sản xuất kinh doanh, chất lượng sản phẩm và dịch vụ tăng lên rõ rệt. Tuy nhiên bên cạnh các doanh nghiệp làm ăn có hiệu quả, không ít các doanh nghiệp còn lúng túng trong việc quản lý và sử dụng vốn. Nhiều doanh nghiệp không thể tái sản xuất giản đơn, vốn sản xuât bị mất dần đi sau mỗi chu kỳ kinh doanh. Thực tế này do nhiều nguyên nhân, một trong số đó là do công tác sử dụng vốn của doanh nghiệp còn nhiều hạn chế, hiệu quả sử dụng vốn còn thấp. Do đó việc đẩy mạnh công tác sử dụng vốn trong các doanh nghiệp là vấn đề hết sức cần thiết, nó quyết định sự sống còn của mỗi doanh nghiệp. Trong thời gian thực tập tại Công ty Thương mại và sản xuất Ngọc Diệp, được sự giúp đỡ của các anh chị trong phòng Tài chính-kế toán Công ty, tôi đã bước vào làm quen với thực tế. Đồng thời từ thực tiễn làm sáng tỏ những vấn đề lý luận đã học. Qua đó thấy được tầm quan trọng và tính bức xúc của vấn đề sử dụng vốn hiệu quả của công ty Ngọc Diệp.Tôi đã đi sâu nghiên cứu hiệu quả sử dụng vốn tại Công ty và thực hiện đề tài Giải pháp nâng cao hiệu quả sử dụng vốn tại công ty Thương mại và sản xuất Ngọc Diệp. Bố cục đề tài gồm 3 phần chính : Phần 1: Vốn và hiệu quả sử dụng vốn của doanh nghiệp. Phần 2: Thực trạng về hiệu quả sử dụng vốn tại công ty Thương mại và sản xuất Ngọc Diệp. Phần 3: Một số giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả sử dụng vốn tại Công ty Thương mại và sản xuất Ngọc Diệp. Do trình độ lý luận cũng như khả năng thực tế còn hạn chế, nên vấn đề nghiên của của tôi chắc chắn không thể tránh khỏi khiếm khuyết. Tôi mong muốn nhận được sự chỉ bảo đóng góp ý kiến của các thầy cô, cán bộ công nhân viên và của các bạn để đề tài nghiên cứu của tôi được hoàn thiện. Tôi xin chân thành cảm ơn thầy giáo PGS.TS Nguyễn Đình Phan, Ban lãnh đạo và các anh chị Phòng Tài chính Kế toán và các cán bộ các phòng ban liên quan của Công ty đã tạo điều kiện giúp đỡ tôi hoàn thành đề tài này. phần i: Vốn và hiệu quả sử dụng vốn của doanh nghiệp I. Vốn và vai trò của vốn trong nền kinh tế thị trường ngày nay 1 Khái niệm Đầu tư là việc huy động các nguồn lực nhằm biến các lợi ích dự kiến thành hiện thực trong một khoảng thời gian đủ dài trong tương lai. Một nguồn lực quan trọng mà mọi dự án đầu tư đều phải huy động đó là nguồn vốn. Theo K Marx, vốn là tư bản (Capital), là giá trị đem lại giá trị thặng dư. Theo đó vốn được xem xét dưới giác độ giá trị, là một đầu vào của quá trình sản xuất. Quan điểm này có tính khái quát cao mang ý nghĩa thực tiễn đến tận ngày nay tuy nhiên nó hạn chế ở chỗ cho rằng vốn luôn tạo ra giá trị thặng dư và chỉ ở khu vực sản xuất mới tạo ra giá trị thặng dư cho nền kinh tế. Sau Marx, các nhà kinh tế học đại diện cho các trường phái kinh tế khác nhau đã đưa ra nhiều quan điểm về vốn. Trong các quan điểm đó phải kể đến quan điểm về vốn của P. Samuelson và của D. Begg. Theo P. Samuelson vốn là những hàng hoá được sản xuất ra để phục vụ cho quá trình sản xuất mới, là một trong ba yếu tố đầu vào của hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp (vốn, lao động, đất đai). Như vậy vốn ở đây được xem xét dưới hình thái hiện vật, là tài sản cố định của doanh nghiệp. Khác với Samuelson, trong cuốn "Kinh tế học " của David Begg, tác giả đưa ra hai định nghĩa về vốn là vốn hiện vật và vốn tài chính. Vốn hiện vật là dự trữ các hàng hoá đã sản xuất ra để sản xuất ra hàng hoá khác. Vốn tài chính là tiền và các loại giấy tờ có giá khác của doanh nghiệp. Trong nền kinh tế thị trường ngày nay, vốn được xem xét dưới góc độ là một yếu tố đầu vào của không chỉ một quá trình sản xuất riêng lẻ mà là của một quá trình sản xuất và tái sản xuất diễn ra liên tục trong suốt thời gian tồn tại của doanh nghiệp, thậm chí ngay cả khi doanh nghiệp không còn tồn tại thì vốn của nó lại được chuyển vào các quá trình sản xuất kinh doanh khác. Theo quan điểm này vốn là toàn bộ giá trị ứng ra ban đầu và các quá trình tiếp theo, vốn được biểu hiện bằng cả tiền mặt lẫn các giá trị vật tư, hàng hoá, tài sản của doanh nghiệp. Vốn ở đây khác với tiền tệ thông thường khác. Tiền sẽ được coi là vốn khi chúng được bỏ vào sản xuất kinh doanh, ngược lại nó không được coi là vốn khi chỉ được dùng để mua sản phẩm phục vụ cho nhu cầu sinh hoạt của cá nhân và xã hội. Quan điểm này kế thừa các quan điểm trước về vốn. Quan điểm này chỉ rõ vốn là giá trị được đầu tư vào sản xuất kinh doanh nhằm mục đích đem lại lợi nhuận, tức là mang lại giá trị thặng dư. Vốn có hình thái biểu hiện là các yếu tố đầu vào của sản xuất kinh doanh như nhà xưởng máy móc thiết bị, vật tư cũng như các loại hàng hoá dự trữ, các khoản nợ, tiền mặt (ngân quỹ)...Đồng thời vốn tồn tại dưới dạng hiện vật hoặc hình thái phi hiện vật. Vốn là giá trị ứng ra để bỏ vào sản xuất kinh doanh, hình thành lên các tài sản của doanh nghiệp, hoạt động sản xuất kinh doanh nào cũng phải có vốn, vốn có vai trò rất quan trọng đối với các doanh nghiệp. Điều này đòi hỏi các doanh nghiệp phải có nhận thức đúng đắn về vốn cũng như những đặc trưng cơ bản của vốn. Đó là tiền đề cho việc quản lý sử dụng vốn một cách có hiệu quả. Căn cứ vào khái niệm trên, ta có thể thấy vốn có những đặc trưng cơ bản sau: Vốn được biểu hiện bằng các tài sản của doanh nghiệp dùng vào hoạt động sản xuất kinh doanh hoặc các hoạt động khác, tồn tại dưới dạng hữu hình hoặc vô hình. Đó là các loại máy móc, thiết bị, nhà xưởng, nguyên vật liệu...hay vị trí kinh doanh, nhãn hiệu sản phẩm, bản quyền phát minh... Vốn đưa vào sản xuất kinh doanh là nhằm mục tiêu sinh lời, đem lại lợi nhuận cho doanh nghiệp trong tương lai. Do đó vốn phải được tích luỹ đến một mức độ nhất định. Vốn có giá trị về mặt thời gian. Nói chung một đồng vốn ngày hôm nay có giá trị cao hơn một đồng vốn vào ngày mai. Điều này có ý nghĩa quan trọng trong việc tính toán lựa chọn phương án đầu tư và đánh giá hiệu quả sử dụng vốn Vốn phải gắn liền với chủ sở hữu nhất định, không thể có đồng vốn vô chủ. Nếu không xác định rõ được chủ sở hữu vốn thì việc sử dụng vốn sẽ kém hiệu quả. Đặc trưng này đòi hỏi chủ sở hữu vốn phải thực hiện quản lý vốn. Vốn là một loại hàng hoá đặc biệt. Trước hết nói vốn là một loại hàng hoá bởi nó có giá trị sử dụng và giá trị. Vốn là hàng hoá đặc biệt bởi lẽ quyền sở hữu và quyền sử dụng có thể tách rời nhau, tức là vốn có thể được đem ra trao đổi lấy quyền sử dụng trên thị trường (thị trường vốn). 2. Phân loại vốn Tuỳ theo mục tiêu nghiên cứu mà có nhiều tiêu thức phân loại vốn khác nhau như theo nguồn hình thành, theo phương thức chu chuyển, theo thời gian huy động và sử dụng vốn...Để phân tích hiệu quả sử dụng vốn của doanh nghiệp, người ta thường phân loại vốn theo phương thức chu chuyển, tức là phân chia vốn làm hai loại là vốn cố định và vốn lưu động, đồng thời kết hợp với các tiêu thức khác nhau để xem xét vốn dưới nhiều góc độ hơn. 2.1 Phân loại vốn theo phương thức chu chuyển : Trong quá trình sản xuất và tái sản xuất, vốn vận động một cách liên tục. Nó biểu hiện bằng những hình thái vật chất khác nhau, từ tiền mặt đến tư liệu lao động, hàng hoá dự trữ...Sự khác nhau về mặt vật chất này tạo ra đặc điểm chu chuyển vốn, theo đó người ta phân chia vốn thành hai loại là vốn cố định và vốn lưu động. 2.1.1 Vốn cố định Cơ sở để phân biệt vốn cố định là hình thái biểu hiện của nó, tức là dựa trên cơ sở nghiên cứu về tài sản cố định a)Tài sản cố định: Để tiến hành sản xuất kinh doanh, các doanh nghiệp cần có tư liệu sản xuất. Căn cứ vào tính chất, tác dụng, tư liệu sản xuất được chia thành hai bộ phận là tư liệu lao động và đối tượng lao động. Tư liệu lao động được sử dụng để tác động vào đối tượng lao động, tạo ra sản phẩm hàng hoá dịch vụ cho doanh nghiệp. Đặc điểm cơ bản của tư liệu lao động là chúng có thể tham gia trực tiếp hoặc gián tiếp vào một hay nhiều chu kỳ sản xuất. Trong quá trình đó giá trị của tư liệu lao động bị giảm đi mặc dù giá trị sử dụng vẫn như ban đầu, giá trị của chúng được chuyển dần từng phần vào giá trị của sản phẩm. Tài sản cố định là bộ phận tư liệu lao động chủ yếu quan trọng nhất của doanh nghiệp. Đó là những tư liệu lao động được sử dụng một cách trực tiếp hay gián tiếp vào sản xuất như máy móc thiết bị, nhà xưởng, phương tiện vận tải...Trong quá trình đó, nó không thay đổi hình thái vật chất ban đầu đồng thời có thể tham gia vào nhiều chu kỳ sản xuất và giá trị của nó được chuyển dịch dần dần từng phần vào giá trị của sản phẩm. Sau một thời gian giá trị của tài sản cố định sẽ được chuyển hết vào giá trị của sản phẩm, khi đó tài sản cố định đã hết thời hạn sử dụng. Nhà nước ta quy định tài sản cố định là những tư liệu lao động thoả mãn đủ hai điều kiện sau đây: -Thời gian sử dụng tối thiểu là một năm. -Giá trị phải đạt đến một độ lớn nhất định. Hiện quy định là trên 5 triệu đồng. Tài sản cố định của doanh nghiệp có nhiều loại, để quản lý sử dụng hiệu quả chúng người ta phân tài sản cố định làm hai loại là tài sản cố định hữu hình và tài sản cố định vô hình. -Tài sản cố định hữu hình : Bao gồm 6 loại sau: Loại 1: Nhà cửa, vật kiến trúc. Loại 2: Máy móc thiết bị dùng trong sản xuất kinh doanh Loại 3: Phương tiện vận tải, truyền dẫn Loại 4: Thiết bị và dụng cụ quản lý Loại 5: Cây lâu năm, súc vật làm việc và cho ra sản phẩm. Loại 6: Tài sản cố định khác -Tài sản cố định vô hình: Là những tư liệu lao động không có hình thái vật chất nhưng vẫn thoả mãn đủ hai điều kiện của tài sản cố định. Tài sản cố định vô hình có thể kể đến là: Lợi thế thương mại, uy tín công ty, nhãn hiệu sản phẩm, chi phí thành lập doanh nghiệp... b) Vốn cố định: Vốn cố định là bộ phận vốn ứng ra để hình thành tài sản cố định. Nói cách khác vốn cố định là giá trị ứng ra ban đầu và trong các quá trình tiếp theo để đầu tư vào tài sản cố định nhằm phục vụ cho hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. Khi tham gia vào sản xuất, tài sản cố định không bị thay đổi hình thái vật chất ban đầu nhưng tính năng và công suất bị giảm dần, sự suy giảm giá trị đó được gọi là hao mòn hữu hình. Đồng thời giá trị thuần tuý của chúng giảm dần do có những tài sản cố định cùng loại rẻ hơn hoặc hiện đại hơn. Bộ phận giá trị hao mòn này chuyển dần dần vào giá trị của sản phẩm, điều đó quyết định đến hình thái biểu hiện của vốn cố định trên hai góc độ: Vốn dưới hình thái hiện vật và vốn tiền tệ. Phần giá trị tài sản cố định ứng với mức hao mòn được chuyển dần dần vào giá trị của sản phẩm gọi là khấu hao tài sản cố định. Bộ phận giá trị này là một yếu tố chi phí sản xuất và cấu thành lên giá thành của sản phẩm dịch vụ. Hình thái tiền tệ của phần giá trị này được gọi là tiền khấu hao tài sản cố định. Tiền khấu hao tài sản cố định được tích luỹ lại qua nhiều quá trình sản xuất kinh doanh và được gọi là vốn tiền tệ của doanh nghiệp. Bộ phận này dùng để tái sản xuất tài sản cố định, duy trì năng lực sản xuất của donh nghiệp. Qua các chu kỳ sản xuất phần vốn tiền tệ này tăng dần. Phần giá trị còn lại của tài sản cố định được "cố định" lại trong hình thái hiện vật của tài sản cố định. Phần giá trị này giảm dần qua các chu kỳ cùng với sự tăng lên của phần vốn tiền tệ. Khi tài sản cố định hết thời hạn sử dụng cũng là lúc phần vốn hiện vật bằng không và phần vốn tiền tệ đạt đến giá trị ứng ra ban đầu về tài sản cố định. Vốn cố định đã hoàn thành một vòng luân chuyển. Thông thường vốn cố định là bộ phận quan trọng chiếm một tỷ trọng cao trong tổng số vốn của doanh nghiệp. Đặc điểm luân chuyển của nó lại tuân theo quy luật riêng. Do đó việc quản lý và sử dụng vốn cố định có ảnh hưởng trực tiếp đến hiệu quả sử dụng vốn của doanh nghiệp. 2.1.2 Vốn lưu động: a)Tài sản lưu động Trong quá trình sản xuất kinh doanh, ngoài tài sản cố định, doanh nghiệp luôn có một lượng tài sản nhất định nằm trong các khâu của quá trình kinh doanh như: dự trữ vật tư hàng hoá phục vụ sản xuất, bán thành phẩm, sản phẩm dở dang, sản phẩm chưa tiêu thụ...Đây chính là tài sản lưu động của doanh nghiệp. Tài sản lưu động chủ yếu là đối tượng lao động và các công cụ lao động nhỏ (là tư liệu lao động không có đủ điều kiện để trở thành tài sản cố định). Trong quá trình sản xuất kinh doanh, các tài sản lưu động này không giữ nguyên hình thái hiện vật ban đầu mà chúng tạo thành thực thể của sản phẩm hoặc mất đi. Tài sản lưu động chỉ tham gia vào một chu kỳ sản xuất kinh doanh, giá trị của chúng được chuyển toàn bộ vào sản phẩm và được thực hiện khi sản phẩm trở thành hàng hoá. Tài sản lưu động vận động không ngừng. ở các khâu khác nhau của quá trình sản xuất kinh doanh, tài sản lưu động biểu hiện dưới những hình thức khác nhau. Đó là cơ sở để phân chia tài sản lưu động thành ba loại sau: - Tài sản lưu động trong khâu dự trữ: là bộ phận tài sản lưu động dùng để chuẩn bị , dự trữ cho quá trình sản xuất kinh doanh như: nguyên nhiên vật liệu, phụ tùng... - Tài sản lưu động nằm trong khâu sản xuất: là tài sản lưu động tham gia vào quá trình sản xuất. Dưới tác động của tư liệu lao động và sức lao động, tài sản lưu động này bị biến dạng và chuyển vào thực thể của sản phẩm hay bị mất đi. Ví dụ như sản phẩm dở dang, bán thành phẩm, các khoản chi phí chờ kết chuyển... - Tài sản lưu động lưu thông: là các tài sản lưu động đang được hoàn thiện ở khâu cuối cùng. Kết thúc quá trình này giá trị của tài sản lưu động được thực hiện, ví dụ như các khoản phải thu, tạm ứng, các khoản thế chấp, ký cược ký quỹ ngắn hạn... b)Vốn lưu động: Vốn lưu động là số tiền ứng ra về tài sản lưu động nhằm đảm bảo cho quá trình sản xuất kinh đoanh của doanh nghiệp được diễn ra một cách liên tục. Vốn lưu động luôn được chuyển hoá qua nhiều hình thức khác nhau, bắt đầu từ hình thái tiền tệ sang hình thái dự trữ vật tư, hàng hoá và quay trở về hình thái tiền tệ ban đầu của nó. Quá trình sản xuất kinh doanh diễn ra liên tục do đó vốn lưu động cũng tuần hoàn không ngừng theo chu kỳ. Đó là sự chu chuyển của vốn lưu động. Căn cứ vào công dụng của vốn lưu động, người ta phân chia vốn lưu động thành ba loại là: - Vốn lưu động nằm trong quá trình dự trữ: đó là giá trị nguyên vật liệu, nhiên liệu, phụ tùng...phục vụ cho quá trình sản xuất của doanh nghiệp. - Vốn lưu động nằm trong quá trình sản xuất: đó là giá trị sản phẩm dở dang, bán thành phẩm, các phí tổn tính vào giá thành sản phẩm dịch vụ... - Vốn lưu động nằm trong quá trình lưu thông: là giá trị thành phẩm, hàng hoá mua ngoài... Các hình thái vốn này cùng song song tồn tại và thay đổi chỗ cho nhau, vận động không ngừng nhằm làm cho quá trình sản xuất kinh doanh được diễn ra một cách thường xuyên liên tục. Doanh nghiệp phải nắm rõ các bộ phận cấu thành của vốn lưu động để từ đó có biện pháp huy động và sử dụng vốn lưu động một cách phù hợp, dảm bảo nhu cầu vốn lưu động, đẩy nhanh tốc độ luân chuyển vốn cũng như tránh ứ đọng vốn 2.2 Phân loại vốn theo nguồn hình thành: 2.2.1 Vốn chủ sở hữu: Là phần giá trị do những người sở hữu doanh nghiệp, những nhà đầu tư ứng ra để thành lập và duy trì hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp mà doanh nghiệp không phải cam kết thanh toán. Những người chủ sở hữu của doanh nghiệp có thể là nhà nước hay chủ doanh nghiệp, các cổ đông hoặc các thành viên của doanh nghiệp. Có thể chia vốn chủ sở hữu làm ba loại là: Vốn góp: là phần giá trị do các chủ sở hữu hoặc chủ sở hữu chung của doanh nghiệp đóng góp và được ghi vào điều lệ của doanh nghiệp. Đối với doanh nghiệp nhà nước thì phần lớn vốn góp là do nhà nước đầu tư. Đối với công ty trách nhiệm hữu hạn hoặc công ty cổ phần, vốn góp là do các thành viên hoặc cổ đông đóng góp được ghi trong điều lệ của công ty. Lợi nhuận không chia: là phần lợi nhuận không phân chia cho các chủ sở hữu như là lợi tức mà được tái đầu tư vào doanh nghiệp, do đó làm tăng vốn chủ sở hữu của doanh nghiệp. Đây là một nguồn vốn có vai trò quan trọng trong nền kinh tế thị trường hiện nay, đặc biệt là ở các công ty cổ phần hoặc công ty trách nhiệm hữu hạn. Vốn chủ sở hữu khác: là vốn nội bộ của doanh nghiệp lấy từ hoạt động sản xuất kinh doanh bằng cách lấy một phần từ quỹ đầu tư phát triển, quỹ dự phòng tài chính,... để đầu tư vào doanh nghiệp. Ngoài ra đối với các Doanh nghiệp nhà nước còn có phần khấu hao tài sản cố định được để lại doanh nghiệp để đầu tư, thay thế , đổi mới tài sản cố định... 2.2.2 Vốn huy động của doanh nghiệp: Đối với một doanh nghiệp trong nền kinh tế thị trường vốn chủ sở hữu đóng vai trò quan trọng nhưng không phải là tất cả nguồn vốn đầu tư vào doanh nghiệp đều là vốn chủ sở hữu. Để đáp ứng nhu cầu vốn, doanh nghiệp có thể huy động dưới các hình thức khác nhau như: vay nợ, liên doanh liên kết, đi thuê...., hình thành lên các nguồn vốn huy động khác nhau. Đó là: Vốn vay: là phần vốn huy động được bằng cách đi vay của các cá nhân, đơn vị kinh tế hoặc đi vay trên thị trường tài chính dưới các hình thức khác nhau như vay ngắn, trung, dài hạn của ngân hàng và các tổ chức tín dụng khác, vay qua phát hành trái phiếu. Ưu điểm của hình thức này là không làm thay đổi vốn chủ sở hữu của doanh nghiệp nhưng doanh nghiệp phải trả chi phí cho việc sử dụng vốn (lãi suất) và các chi phí khác để đi vay... Vốn liên doanh liên kết: là phần vốn do các bên tham gia liên doanh, hợp tác sản xuất với doanh nghiệp đóng góp. Thông qua hình thức này, tổng số vốn của doanh nghiệp được tăng lên mà chất lượng, chủng loại của sản phẩm được cải thiện, tăng tính cạnh tranh của doanh nghiệp. Vốn tín dụng thương mại: là các khoản vốn có nguồn gốc từ các khoản mua chịu từ người cung cấp cho doanh nghiệp hay các khoản ứng trước của khách hàng mà doanh nghiệp tạm thời chiếm dụng. Vốn tín dụng thuê mua: là phần giá trị tài sản có được do đi thuê trên thị trường. Có hai hình thức đi thuê là thuê vận hành và thuê tài chính. Với sự phát triển của thị trường, tài chính tín dụng thuê mua ngày càng đóng vai trò quan trọng nâng cao năng lực, hiệu quả hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp 2.3 Phân loại vốn theo thời gian huy động và sử dụng: Theo phương pháp này vốn được chia thành hai loại là: Vốn tạm thời Vốn thường xuyên bao gồm vốn chủ sở hữu và các khoản nợ dài hạn của doanh nghiệp. Đặc điểm của nguồn vốn này là ổn định và dài hạn. Doanh nghiệp có thể dùng nó để đầu tư mua sắm tài sản cố định và một phần tài sản lưu động tối thiểu thường xuyên cần thiết cho hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp. Phần tài sản lưu động được đầu tư bởi vốn thường xuyên được gọi là tài sản lưu động ròng. Nợ dài hạn Nợ ngắn hạn Tài sản lưu động Tài sản cố định Vốn thường xuyên Vốn chủ sở hữu Vốn tạm thời là nguồn vốn có tính chất ngắn hạn (dưới một năm) mà doanh nghiệp có thể sử dụng để đáp ứng các nhu cầu có tính chất tạm thời, bất thường phát sinh trong hoạt động sản xuất kinh doanh của mình. Nguồn vốn này bao gồm các khoản vay ngắn hạn ngân hàng và các tổ chức tín dụng, các khoản nợ ngắn hạn khác. Việc phân loại này giúp cho người quản lý xem xét huy động các nguồn vốn một cách phù hợp với thời gian và mục đích sử dụng, đáp ứng đầy đủ kịp thời vốn cho sản xuất kinh doanh và nâng cao hiệu quả sử dụng vốn của doanh nghiệp. Trên đây là một số cách phân loại vốn cơ bản thường được sử dụng. Ngoài ra còn có các cách phân loại vốn khác tuỳ thuộc vào mục đích nghiên cứu và mục tiêu quản lý vốn. Điều đó chứng tỏ tầm quan trọng của vốn đối với hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp nói riêng và đối với nền kinh tế nói chung. 3. Vai trò của vốn đối với doanh nghiệp: Kết quả cuối cùng của hoạt động sản xuất kinh doanh là sản phẩm. Sản phẩm của doanh nghiệp có thể là hàng hoá dịch vụ, có thể tồn tại ở hình thái vật chất hay phi vật chất nhưng đều là kết quả của quá trình dùng sức lao động và tư liệu lao động tác động vào đối tượng lao động để làm biến đổi nó. Tư liệu lao động và đối tượng lao động là điều kiện vật chất không thể thiếu được của quá trình sản xuất và tái sản xuất. Vì vậy có thể nói vốn (tư liệu lao động và đối tượng lao động) là tiền đề cho sự ra đời, tồn tại và phát triển của doanh nghiệp. Vốn là yếu tố quan trọng quyết định đến năng lực sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp và xác lập vị thế của doanh nghiệp trên thương trường. Điều này càng thể hiện rõ trong nền kinh tế thị trường hiện nay với sự cạnh tranh ngày càng gay gắt, các doanh nghiệp phải không ngừng cải tiến máy móc thiết bị, đầu tư hiện đại hoá công nghệ ... tất cả những yếu tố này muốn đạt được thì đòi hỏi doanh nghiệp phải có một lượng vốn đủ lớn. Việc đảm bảo đủ nguồn vốn sẽ giúp cho doanh nghiệp tiến hành hoạt động sản xuất kinh doanh một cách thường xuyên liên tục, doanh nghiệp có thể chớp dược thời cơ và có lợi thế trong cạnh tranh. Vốn cũng là yếu tố quyết định đến việc mở rộng phạm vi hoạt động của doanh nghiệp. Để có thể tiến hành tái sản xuất mở rộng thì sau một chu kỳ kinh doanh, vốn của doanh nghiệp phải sinh lời tức là hoạt động kinh doanh phải có lãi đảm bảo vốn của doanh nghiệp được bảo toàn và phát triển. Đó là cơ sở để doanh nghiệp tiếp tục đầu tư mở rộng phạm vi sản xuất, thâm nhập vào thị trường tiềm năng từ đó tăng khối lượng tiêu thụ, nâng cao uy tín của mình trên thương trường.Trong cơ chế bao cấp trước đây, mọi nhu cầu về vốn của doanh nghiệp đều được bao cấp qua nguồn cấp phát của ngân sách nhà nước và qua nguồn tín dụng với lãi suất ưu đãi của ngân hàng. Hơn nữa các doanh nghiệp đều sản xuất theo chỉ tiêu pháp lệnh bởi vậy vốn không được coi là vấn đề cấp bách, điều này đã làm thủ tiêu tính chủ động và sáng tạo của doanh nghiệp trong việc sử dụng vốn. Chuyển sang nền kinh tế thị trường có sự quản lý của nhà nước với nhiều thành phần kinh tế, các doanh nghiệp nhà nước chỉ còn là một bộ phận song song tồn tại với các thành phần kinh tế khác. Để duy trì hoạt động của mình, tất yếu các doanh nghiệp phải năng động nắm bắt nhu cầu thị trường, đầu tư đổi mới máy móc thiết bị cải tiến quy trình công nghệ, đa dạng hoá sản phẩm của mình. Điều đó đòi hỏi các doanh nghiệp phải có vốn. Nhu cầu về vốn đã trở thành động lực và là yêu cầu cấp bách đối với tất cả các doanh nghiệp. Nó quyết định cơ cấu đầu tư, đảm bảo sự sống còn cho doanh nghiệp. Tuy nhiên, có đủ lượng vốn kinh doanh nhưng vấn đề sử dụng sao cho có hiệu quả vẫn đang còn là vấn đề mà tất cả các nhà quản trị tài chính doanh nghiệp hết sức quan tâm. Sau đây ta sẽ đi sâu nghiên cứu những vấn đề cơ bản về hiệu quả hoạt động sử dụng vốn trong các doanh nghiệp. II Hiệu quả sử dụng vốn: 1 Quan điểm và các chỉ tiêu đánh giá hiệu quả sử dụng vốn: 1.1 Quan điểm về hiệu quả sử dụng vốn: Để đánh giá trình độ quản lý, điều hành hoạt động sản xuất kinh doanh của một doanh nghiệp, người ta sử dụng thước đo là hiệu quả sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp đó. Hiệu quả sản xuất kinh doanh được đánh giá trên hai giác độ: hiệu quả kinh tế và hiệu quả xã hội. Trong phạm vi quản lý doanh nghiệp, người ta chủ yếu quan tâm đến hiệu quả kinh tế. Đây là một phạm trù phản ánh trình độ sử dụng các nguồn lực của doanh nghiệp để đạt được kết quả cao nhất với chi phí hợp lý nhất. Do vậy, các nguồn lực kinh tế đặc biệt là nguồn vốn của doanh nghiệp có tác động rất lớn tới hiệu quả sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. Từ đó, việc nâng cao hiệu quả sử dụng vốn là yêu cầu mang tính thường xuyên và bắt buộc đối với doanh nghiệp. Đánh giá hiệu quả sử dụng vốn sẽ giúp ta thấy được hiệu quả của hoạt động kinh doanh nói chung và trình độ quản lý sử dụng vốn nói riêng. Hiệu quả sử dụng vốn của doanh nghiệp là một phạm trù kinh tế phản ánh trình độ khai thác, sử dụng và quản lý nguồn vốn làm cho đồng vốn sinh lời tối đa nhằm mục tiêu cuối cùng của doanh nghiệp là tối đa hoá giá trị tài sản của chủ sở hữu. Hiệu quả sử dụng vốn được lượng hóa thông qua hệ thống các chỉ tiêu về hiệu suất sử dụng vốn cố định, vốn lưu động, sức sinh lời của vốn, tốc độ luân chuyển vốn ... Nó phản ánh quan hệ giữa đầu ra và đầu vào của quá trình sản xuất kinh doanh thông qua thước đo tiền tệ hay cụ thể là mối tương quan giữa kết quả thu được với chi phí bỏ ra để thực hiện nhiệm vụ sản xuất kinh doanh. Kết quả thu được càng cao so với chi phí vốn bỏ ra thì hiệu quả sử dụng vốn càng cao. Do đó, nâng cao hiệu quả sử dụng vốn là điều kiện quan trọng để doanh nghiệp phát triển vững mạnh. Ngoài ra, doanh nghiệp phải thường xuyên phân tích đánh giá hiệu quả sử dụng vốn để nhanh chóng có biện pháp khắc phục những mặt hạn chế và phát huy những ưu điểm của doanh nghiệp trong quản lý và sử dụng vốn. Thông qua phân tích hiệu quả sử dụng vốn sẽ cung cấp hình ảnh về việc sử dụng vốn tại doanh nghiệp, những ưu điểm và hạn chế trong công tác tài chính tại doanh nghiệp.Có hai phương pháp để phân tích tài chính cũng như phân tích hiệu quả sử dụng vốn của doanh nghiệp, đó là phương pháp so sánh và phương pháp phân tích tỷ lệ. Phương pháp so sánh: Để áp dụng phương pháp này cần phải đảm bảo các điều kiện so sánh được của các chỉ tiêu tài chính (thống nhất về không gian, thời gian, nội dung, tính chất và đơn vị tính toán...) và theo mục đích phân tích mà xác định gốc so sánh. Gốc so sánh được chọn là gốc về thời gian hoặc không gian, kỳ phân tích được chọn là kỳ báo cáo hoặc kỳ kế hoạch, giá trị so sánh có thể được lựa chọn bằng số tuyệt đối, số tương đối hoặc số bình quân. Nội dung so sánh có thể là so sánh giữa số thực hiện năm nay và năm trước, so sánh giữa số thực hiện và số kế hoạch, so sánh số thực hiện của doanh nghiệp với số liệu trung bình của ngành... Phương pháp tỷ lệ: trong phân tích tài chính doanh nghiệp, các tỷ lệ tài chính được phân thành các nhóm tỷ lệ đặc trưng, phản ánh những nội dung cơ bản theo mục tiêu hoạt động của doanh nghiệp. Đó là các nhóm tỷ lệ về khả năng thanh toán, nhóm tỷ lệ về cơ cấu vốn và nguồn vốn, nhóm tỷ lệ về năng lực hoạt động kinh doanh, nhóm tỷ lệ về khả năng sinh lời. Mỗi nhóm tỷ lệ lại bao gồm nhiều tỷ lệ phản ánh riêng lẻ, từng bộ phận của hoạt động tài chính, trong mỗi trường hợp khác nhau, tuỳ theo giác độ phân tích, người phân tích lựa chọn những nhóm chỉ tiêu khác nhau. Để phục vụ cho việc phân tích hiệu quả sử dụng vốn của doanh nghiệp người ta thường dùng một số các chỉ tiêu mà ta sẽ trình bày cụ thể trong phần sau. 1.2 Các chỉ tiêu đánh giá hiệu quả sử dụng vốn: 1.2.1 Chỉ tiêu về vốn cố định: Như trong phần trước ta đã trình bày, tài sản cố định là hình thái biểu hiện vật chất của vốn cố định. Vì vậy, để đánh giá được hiệu quả sử dụng vốn cố định thì cần phải đánh giá hiệu quả sử dụng tài sản cố định qua các chỉ tiêu sau: Hiệu suất sử dụng Tài sản cố định = Doanh thu thuần Nguyên giá bình quân TSCĐ Chỉ tiêu này cho biết một đồng tài sản cố định tạo ra bao nhiêu đồng doanh thu thuần trong một năm. Suất hao phí tài sản cố định = Nguyên giá bình quân TSCĐ Doanh thu thuần Chỉ tiêu này phản ánh để tạo ra một đồng doanh thu thuần thì phải bỏ ra bao nhiêu đồng nguyên giá tài sản cố định. Hệ số này càng nhỏ càng tốt. Sức sinh lời của tài sản cố định = Lợi nhuận Nguyên giá bình quân TSCĐ Chỉ tiêu này cho biết trung bình một đồng tài sản cố định tạo ra bao nhiêu đồng lợi nhuận. Chỉ tiêu này càng lớn càng chứng tỏ việc sử dụng tài sản cố định là có hiệu quả. Bên cạnh đó, người ta còn sử dụng hai chỉ tiêu: hệ số đổi mới tài sản cố định và hệ số loại bỏ tài sản cố định để xem xét tình hình đổi mới nâng cao năng lực sản xuất của tài sản cố định. Hệ số đổi mới tài sản cố định = Giá trị TSCĐ mới tăng trong kỳ Giá trị TSCĐ có ở cuối kỳ Hệ số loại bỏ Tài sản cố định = Giá trị TSCĐ lạc hậu, cũ giảm trong kỳ Giá trị TSCĐ có ở đầu kỳ Hai chỉ tiêu này không chỉ phản ánh sự tăng giảm thuần tuý về tài sản cố định mà còn phản ánh trình độ tiến bộ khoa học kỹ thuât, tình hình đổi mới trang thiết bị của doanh nghiệp. Để trực tiếp phản ánh hiệu quả sử dụng vốn cố định, người ta sử dụng hai chỉ tiêu sau: -Hiệu suất sử dụng vốn cố định: được đo bằng tỷ lệ giữa doanh thu tiêu thụ sản phẩm trong kỳ và số vốn cố định bình quân trong kỳ. Hiệu suất sử dụng vốn cố định = Doanh thu thuần Vốn cố định bình quân trong kỳ Trong công thức trên vốn cố định bình quân trong kỳ là bình quân giá trị còn lại của tài sản cố định đầu kỳ và cuối kỳ. Hiệu suất sử dụng vốn lưu động phản ánh một đồng vốn cố định trong kỳ tạo ra bao nhiêu đồng doanh thu tiêu thụ sản phẩm hàng hoá trong kỳ.Đối với doanh nghiệp chỉ tiêu này càng lớn càng tốt. -Hiệu quả sử dụng vốn cố định: được đo bằng tỷ lệ giữa lợi nhuận ròng trong kỳ và lượng vốn cố định bình quân trong kỳ. Hiệu quả sử dụng vốn cố định = Lợi nhuận Vốn cố định bình quân trong kỳ Chỉ tiêu này phản ánh bình quân một đồng vốn cố định tham gia vào hoạt động sản xuất kinh doanh trong kỳ thì tạo ra bao nhiêu đồng lợi nhuận, chỉ tiêu này càng cao càng tốt. 1.2.2 Chỉ tiêu về vốn lưu động -Hệ số đảm nhiệm vốn lưu động: cho biết để tạo ra một đồng doanh thu thuần cần bao nhiêu đồng vốn lưu động. Nó được đo bằng tỷ lệ giưa vốn lưu động bình quân trong kỳ và tổng doanh thu thuần. Hệ số đảm nhiệm vốn lưu động = VLĐ bình quân trong kỳ Doanh thu thuần -Sức sinh lợi của vốn lưu động: cho biết một đồng vốn lưu động bình quân trong kỳ tạo ra được bao nhiêu đồng lợi nhuận. Sức sinh lợi của vốn lưu động = Lợi nhuận VLĐ bình quân trong kỳ Trong quá trình sản xuất kinh doanh vốn lưu động vận động không ngừng qua các hình thái khác nhau. Vì vậy ngoài các chỉ tiêu trên người ta còn sử dụng các chỉ tiêu phản ánh tốc độ luân chuyển vốn lưu động. Các chỉ tiêu này có ý nghĩa quan trọng trong phản ánh hiệu quả sử dụng vốn lưu động tại doanh nghiệp. Đó là: - Số vòng quay của vốn lưu động: còn gọi là hệ số luân chuyển vốn lưu động, cho biết vốn lưu động quay được mấy vòng trong kỳ. Số vòng quay của vốn lưu động = Doanh thu thuần VLĐ bình quân trong kỳ - Thời gian của một vòng luân chuyển: cho biết số ngày cần thiết để vốn lưu động quay được một vòng. Số vòng luân chuyển càng nhỏ thì tốc độ luân chuyển của vốn lưu động càng lớn và làm rút ngắn chu kỳ kinh doanh, vốn quay được nhiều vòng hơn. Thời gian của một kỳ phân tích thường là 1 năm hay 360 ngày Thời gian của một vòng luân chuyển = Thời gian của một kỳ phân tích Số vòng quay VLĐ trong kỳ 2 Các nhân tố ảnh hưởng đến hiệu quả sử dụng vốn: Doanh nghiệp là một tế bào của nền kinh tế, sự tồn tại và phát triển của nó không thể tách rời ảnh hưởng của các yếu tố ngoại cảnh cũng như đặc điểm của riêng nó. Vì vậy, hiệu quả sử dụng vốn của doanh nghiệp cũng chịu tác động của các yếu tố đó một cách gián tiếp hoặc trực tiếp. 2.1 Các nhân tố khách quan: Môi trường tự nhiên: bao gồm toàn bộ các yếu tố tự nhiên có tác động đến doanh nghiệp, như thời tiết, môi trường...Ngày nay khoa học càng phát triển thì sự lệ thuộc của con người vào tự nhiên ngày càng giảm đi, ảnh hưởng của môi trường tự nhiên đến hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp nói chung và hiệu quả sử dụng vốn nói riêng cũng ít hơn, trừ các doanh nghiệp hoạt động mang tính thời vụ hoặc các doanh nghiệp khai thác... Môi trường kinh tế: là tổng thể các biến số kinh tế có ảnh hưởng đến hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp, như tình trạng lạm phát, thất nghiệp, tăng trưởng kinh tế, lãi suất, tỷ giá, tình trạng cạnh tranh...Các yếu tố này có thể tác động tích cực hoặc tiêu cực đến hiệu quả sử dụng vốn của doanh nghiệp. Môi trường pháp lý: là hệ thống các chế tài pháp luật, các chủ trương chính sách...liên quan đến hoạt động của doanh nghiệp. Vai trò của Nhà nước trong nền kinh tế thị trường là tất yếu và cần thiết nhưng tác động của nhà nước chỉ được thực hiên thông qua các chính sách kinh tế vĩ mô, không can thiệp trực tiếp mà giao quyền chủ động sản xuất kinh doanh cho các doanh nghiệp. ảnh hưởng của môi trường pháp lý thể hiện ở chỗ nó đưa ra các quy tắc buộc doanh nghiệp phải tuân theo, nó bảo vệ những lợi ích hợp pháp của doanh nghiệp. Nếu môi trường pháp lý thuận lợi sẽ mang lại lợi ích kinh tế cho các doanh nghiệp. Môi trường chính trị văn hoá xã hội: khách hàng của doanh nghiệp luôn tồn tại trong một môi trường văn hoá xã hội nhất định, thoả mãn nhu cầu của khách hàng, bán được sản phẩm hay không phụ thuộc rất lớn vào đặc điểm văn hoá xã hội. Nó ảnh hưởng đến việc ra quyết định sản xuất sản phẩm nào, lựa chọn công nghệ sản xuất nào cũng như phân phối sản phẩm như thế nào để đến được tay người tiêu dùng một cách hiệu quả nhất. Do đó, hiệu quả sử dụng vốn của doanh nghiệp cũng chịu tác động của yếu tố này. Môi trường kỹ thuật công nghệ: sự phát triển của khoa học công nghệ cùng với xu thế chuyển giao công nghệ đặt ra cho các doanh nghiệp nhiều cơ hội và thách thức mới. Việc sử dụng vốn của doanh nghiệp cũng phải thích ứng với sự tác động của các yếu tố này. 2.2 Các nhân tố chủ quan: a) Lực lượng lao động: Lực lượng lao động ảnh hưởng đến hiệu quả sử dụng vốn được xem xét trên hai yếu tố là số lượng và chất lượng lao động, của hai bộ phận lao động là lao động trực tiếp sản xuất kinh doanh và cán bộ lãnh đạo. Trình độ của người lao động cao sẽ làm tăng hiệu suất sử dụng tài sản, kết quả kinh doanh cao hơn, do đó vốn được sử dụng hiệu quả hơn. Trình độ của cán bộ điều hành cao thể hiện ở sự kết hợp một cách tối ưu các yếu tố sản xuất, giảm chi phí không cần thiết đồng thời nắm bắt các cơ hội kinh doanh, đem lại cho doanh nghiệp sự tăng trưởng và phát triển...do đó hiệu quả sử dụng vốn được nâng cao. b) Đặc điểm của sản xuất kinh doanh: Các doanh nghiệp hoạt động ở các lĩnh vực khác nhau sẽ có đặc điểm về chu kỳ sản xuất, kỹ thuật sản xuất, đặc điểm của sản phẩm, nhu cầu của thị trường... khác nhau do đó cũng có hiệu quả sử dụng vốn khác nhau. Chẳng hạn nếu chu kỳ ngắn, doanh nghiệp sẽ thu hồi vốn nhanh nhằm tái tạo, mở rộng sản xuất kinh doanh. Ngược lại, nếu chu kỳ sản xuất dài doanh nghiệp sẽ chịu một gánh nặng ứ đọng vốn và lãi phải trả cho các khoản vay. Nếu sản phẩm là tư liệu tiêu dùng nhất là sản phẩm công nghiệp nhẹ như rượu, bia, thuốc lá... thì sẽ có vòng đời ngắn, tiêu thụ nhanh và qua đó giúp doanh nghiệp thu hồi vốn nhanh. Hơn nữa những máy móc dùng để sản xuất ra những sản phẩm này có giá trị không quá lớn do vậy doanh nghiệp dễ có điều kiện đổi mới. Ngược lại, nếu sản phẩm có vòng đời dài có giá trị lớn, được sản xuất trên dây truyền công nghệ có giá trị lớn như ôtô, xe máy... việc thu hồi vốn sẽ lâu hơn. 3 Sự cần thiết phải nâng cao hiệu quả sử dụng vốn: 3.1. Vai trò của việc đảm bảo huy động đủ vốn cho hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp: Hiệu quả sản xuất kinh doanh của một doanh nghiệp là kết quả tổng thể của hàng loạt các yếu tố bên trong cũng như bên ngoài doanh nghiệp. Việc đảm bảo đầy đủ kịp thời vốn cho nhu cầu sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp có tác động mạnh mẽ đến hiệu quả kinh doanh của doanh nghiệp. Điều đó xuất phát từ các lý do chủ yếu sau: Tất cả các hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp ở bất cứ quy mô, lĩnh vực nào đều cần thiết có một lượng vốn nhất định. Việc mở rộng hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp trong điều kiện khoa học công nghệ phát triển nhanh đòi hỏi phải có vốn đầu tư lớn, đầy đủ và kịp thời. Do đó việc tổ chức huy động vốn ngày càng trở nên quan trọng đối với mỗi doan nghiệp. Việc huy động vốn đầy đủ và kịp thời giúp cho các doanh nghiệp có thể chớp được thời cơ kinh doanh, tạo lợi thế trong cạnh tranh. Lựa chọn các hình thức và phương pháp huy động vốn thích hợp giúp giảm bớt được chi phí sử dụng vốn, điều đó tác động rất lớn đến việc tăng lợi nhuận của doanh nghiệp, đặc biệt ở các doanh nghiệp có tỷ lệ vốn vay lớn. Trong cơ chế bao cấp trước đây, mọi nhu cầu về vốn của doanh nghiệp nhà nước đều được bao cấp qua nguồn vốn cấp của ngân sách nhà nước và qua nguồn tín dụng ưu đãi của ngân hàng. Nếu doanh nghiệp phát sinh nhu cầu vốn thì có thể xin cấp phát thêm hoặc vay ngân hàng với lãi suất ưu đãi. Có thể nói vốn của doanh nghiệp được tài trợ toàn bộ, vì thế vai trò khai thác, thu hút vốn không được đặt ra như một yêu cầu cấp bách có tính sống còn đối với doanh nghiệp. Hoạt động huy động các nguồn vốn của doanh nghiệp trở nên rất thụ động Chuyển sang nền kinh tế thị trường, các doanh nghiệp nhà nước cùng song song tồn tại với các thành phần kinh tế khác, việc cấp phát vốn từ ngân sách nhà nước hạn chế hơn, doanh nghiệp phải bảo toàn vốn kể cả trong điều kiện trượt giá và phải đầu tư để mở rộng và phát triển quy mô sản xuất kinh doanh. Nhu cầu vốn ngày càng lớn trong môi trường cạnh tranh gay gắt. Điều này đòi hỏi doanh nghiệp phải chủ động tìm kiếm nguồn vốn mới để đáp ứng yêu cầu vốn, đổi mới máy móc thiết bị, cải tiến quy trình công nghệ...nhằm đa dạng hoá sản phẩm đáp ứng nhu cầu thị trường, tăng khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp. Chỉ có như vậy doanh nghiệp mới có thể tồn tại và phát triển được. Vì vậy vốn trở thành dộng lực cho sự phát triển của doanh nghiệp và việc huy động, quản lý sử dụng hiệu quả vốn đã trở thành một yêu cầu bức bách. 3.2. Sự cần thiết phải nâng cao hiẹu quả sử dụng vốn: Việc nâng cao hiệu quả sử dụng vốn có ý nghĩa quan trọng đối với mỗi doanh nghiệp nói riêng và đối với nền kinh tế nói chung, đặc biệt là trong cơ chế hiện nay. Nâng cao hiệu quả sử dụng vốn sẽ đảm bảo được tính an toàn về tài chính cho doanh nghiệp, ảnh hưởng trực tiếp đến sự tồn tại và phát triển của doanh nghiệp. Qua đó các doanh nghiệp sẽ đảm bảo việc huy động các nguồn tài trợ và khả năng thanh toán, khắc phục cũmg như giảm bớt được những rủi ro trong kinh doanh. Nâng cao hiệu quả sử dụng vốn sẽ làm tăng khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp. Để đáp ứng các yêu cầu cải tiến công nghệ, nâng cao chất lượng sản phẩm, đa dạng hoá mẫu mã sản phẩm...doanh nghiệp phải có vốn, trong khi đó vốn của doanh nghiệp chỉ có hạn vì vậy nâng cao hiệu quả sử dụng vốn là rất cần thiết. Nâng cao hiệu quả sử dụng vốn sẽ giúp doanh nghiệp đạt được mục tiêu tăng giá trị tài sản của chủ sở hữu và các mục tiêu khác của doanh nghiệp như nâng cao uy tín sản phẩm trên thị trường, nâng cao mức sống của người lao động ... Vì khi hoạt động kinh doanh mang lại lợi nhuận thì doanh nghiệp có thể mở rộng quy mô sản xuất, tạo thêm công ăn việc làm cho người lao động và mức sống của người lao động cũng ngày càng được cải thiện. Điều đó giúp cho năng suất lao động của doanh nghiệp ngày càng nâng cao, tạo sự phát triển cho doanh nghiệp và các ngành liên quan. Đồng thời nó cũng làm tăng các khoản đóng góp cho ngân sách Nhà nước. 4. Một số phương hướng, biện pháp cơ bản nhằm đẩy mạnh việc tổ chức và sử dụng vốn trong doanh nghiệp: 4.1 Nguyên tắc sử dụng vốn hiệu quả: Như trên đã phân tích việc nâng cao hiệu quả sử dụng vốn là điều kiện quan trọng cho sự phát triển của doanh nghiệp cũng như của nền kinh tế. Do đó các doanh nghiệp phải luôn tìm biện pháp để tăng cường khả năng sử dụng vốn của mình. Trong thực tế các doanh nghiệp đều thực hiện nhiều biện pháp khác nhau để nâng cao hiệu quả sử dụng vốn, tuỳ thuộc vào từng ngành nghề, quy mô vốn cũng như uy tín của doanh nghiệp. Nhưng các biện pháp dù khác nhau nhưng đều tuân theo nguyên tắc nhất định. Đó là sử dụng vốn "hiệu quả, bảo toàn và phát triển vốn". Một doanh nghiệp khó có thể tồn tại và phát triển khi mà nguồn vốn của nó lại giảm dần đi. Để duy trì sản xuất kinh doanh, nguồn vốn của doanh nghiệp phải vận động không ngừng, kết thúc mỗi vòng chu chyển, vốn phải được giữ nguyên giá trị. Bảo toàn vốn là điều kiện trước tiên để doanh nghiệp tồn tại và phát triển trong nền kinh tế thị trường hiện nay. Yêu cầu bảo toàn vốn thực chất là việc duy trì giá trị, sức mua, năng lực của nguồn vốn chủ sở hữu và mặc dù cơ cấu tài trợ của doanh nghiệp bao gồm vốn chủ sở hữu và vốn vay nợ khác song mọi kết quả sản xuất kinh doanh cuối cùng đều phản ánh vào sự tăng giảm nguồn vốn chủ sở hữu. Một dự án mà doanh nghiệp tài trợ bằng nguồn vốn vay bị thua lỗ thì những thua lỗ đó doanh nghiệp phải chịu trách nhiệm bằng chính nguồn vốn của mình. Như vậy, thua lỗ của mọi khoản đầu tư dù được tài trợ bằng nguồn nào cuối cùng cũng làm giảm nguồn vốn chủ sở hữu. Một đặc trưng cơ bản của vốn là tính giá trị về mặt thời gian. Điều này đòi hỏi vốn ứng ra đầu tư chẳng những phải thu hồi được đủ giá trị ban đầu mà giá trị nhận được phải lớn hơn giá trị ban đầu. Có như vậy mới thoả mãn được mục đích của nhà đầu tư. Đặc biệt trong điều kiện hiện nay, chỉ có sản xuất và tái sản xuất liên tục thì doanh nghiệp mới có thể đứng vững và chiến thắng trong cạnh tranh. Yêu cầu phát triển vốn là điều kiện tiên quyết để khẳng định sự tồn tại của doanh nghiệp trên thương trường. Thực chất của việc phát triển vốn là không ngừng làm tăng tiềm lực tài chính cho chủ sở hữu của doanh nghiệp. Vốn chủ sở hữu phải được gia tăng cả về mặt tuyệt đối lẫn tương đối. Như vậy bảo toàn và phát triến vốn là nguyên tắc cơ bản của việc nâng cao hiệu quả sử dụng vốn tại doanh nghiệp. Do những đặc điểm riêng về sự chu chuyển, tham gia của từng loại vốn vào quá trình sản xuất, đặc điểm tái sản xuất ... nên yêu cầu bảo toàn và phát triển đối với vốn cố định và vốn lưu động có sự khác nhau. 4.1.1. Nguyên tắc bảo toàn và phát triển vốn cố định. Việc bảo toàn và phát triển vốn cố định được đặt ra như một nhu cầu tất yếu của mỗi doanh nghiệp. Điều này bắt nguồn từ những đặc trưng cơ bản của vốn cố định. Thể hiện ở những điểm sau: - Vốn cố định thường chiếm một tỷ trọng lớn trong tổng số vốn của doanh nghiệp, nó quyết định tới hiệu quả sản xuất kinh doanh, khả năng cạnh tranh và uy tín của doanh nghiệp trên thương trường. Vốn cố định mà biểu hiện của nó là tài sản cố định ảnh hưởng đến khả năng vay vốn của doanh nghiệp tại ngân hàng ( dùng làm tài sản thế chấp...) - Chu kỳ vận động của vốn cố định thường kéo dài nhiều năm mới có thể hoàn đủ số vốn ứng ra ban đầu cho chi phí về tài sản cố định. Vì vậynó có nguy cơ rủi ro cao. Đồng vốn luôn chịu ảnh hưởng của những rủi ro do những nguyên nhân chủ quan hoặc khách quan làm thất thoát vốn như lạm phát, hao mòn hữu hình và hao mòn vô hình ... -Vốn cố định chuyển dịch giá trị từng phần và do đó được hoàn vốn từng phần. Vốn cố định được chuyển hoá dưới hình thức phần vốn tiền tệ tăng dần (tiền khấu hao luỹ kế tài sản cố định tăng dần do đó quỹ khấu hao tăng dần) và phần vốn hiện vật giảm dần (giá trị còn lại của tài sản cố định giảm dần theo thời gian sử dụng nó). Để bảo toàn và phát triển vốn cố định thì phần hiện vật của vốn cố định phải nhanh chóng biến thành phần tiền tệ, có như vậy phần vốn ứng ra ban đầu mới thu hồi được nhanh để tái đầu tư và vốn cố định luân chuyển nhanh. Đây là một điều không dễ dàng bởi lẽ muốn nhanh thu hồi vốn thì tỷ lệ trích khấu hao phải cao, nhưng điều này lại làm cho chi phí kinh doanh, giá thành tăng. Như vậy dẫn đến giảm lợi nhuận và nhiều khả năng khác nữa. Từ những lý do chủ yếu nêu trên ta thấy việc bảo toàn và phát triển vốn cố định phải được coi là một trong những công việc quan trọng trong công tác quản lý, sử dụng và bảo toàn vốn của doanh nghiệp. Về mặt lý thuyết, bảo toàn vốn cố định là phải thu hồi toàn bộ phần giá trị đã ứng ra ban đầu để mua sắm tài sản cố định. Nhưng thực tế để có thể tiếp tục tái sản xuất thì phần giá trị thu về phải có khả năng đầu tư để hình thành tài sản cố định mới đáp ứng được yêu cầu mới cao hơn, do ảnh hưởng của hao mòn. Vì vậy bảo toàn và phát triển vốn cố định là phải thu hồi lượng giá trị thực của tài sản cố định. ở đây, việc đảm bảo thu hồi được giá trị thực của tài sản cố định có nghĩa là giá trị thu về phải có sức mua để tạo ra một giá trị sử dụng tương đương. Có như vậy vốn cố định mới được bảo toàn và thực hiện tái sản xuất tài sản cố định. 4.1.2 Nguyên tắc bảo toàn và phát triển vốn lưu động. Việc quản lý và sử dụng vốn lưu động phải dựa trên những đặc điểm của vốn lưu động là chuyển dịch giá trị một lần vào giá trị sản phẩm trong một chu kỳ sản xuất, hình thái của nó thay đổi liên tục qua các giai đoạn của quá trình sản xuất. Vì vậy, quản lý và sử dụng vốn lưu động liên quan đến hoạt động tài chính hàng ngày của doanh nghiệp. Chẳng hạn, việc thu tiền từ khách hàng và trả tiền cho nhà cung cấp như thế nào? Đây là các quyết định tài chính quan trọng và chúng liên quan chặt chẽ đến việc quản lý vốn lưu động của doanh nghiệp. Vốn lưu động tồn tại dưới dạng tiền tệ, vật tư, hàng hoá ... do đó có thể gặp phải rủi ro do những tác động chủ quan từ phía doanh nghiệp và khách quan từ thị trường. Những rủi ro này khác nhau ở các doanh nghiệp hoạt động trên các lĩnh vực khác nhau. Đồng thời các doanh nghiệp có ngành nghệ kinh doanh khác nhau thì có cơ cấu tài sản lưu động khác nhau và sự luân chuyển vốn lưu động chịu ảnh hưởng của nhiều nhân tố khác nhau. Do đó mỗi doanh nghiệp phải có phương pháp quản lý vốn phù hợp với đặc điểm sản xuất kinh doanh của mình. Những khó khăn đối với các doanh nghiệp ảnh hưởng đến việc sử dụng vốn lưu động tại doanh nghiệp có thể kể đến là các khó khăn như: Sự ứ đọng vật tư, hàng hoá do việc sản xuất không đáp ứng được nhu cầu thị trường về thị hiếu, chất lượng, giá cả,...dẫn đến vốn lưu động bị tắc nghẽn trong khâu dự trữ và lưu thông, sản phẩm không tiêu thụ được do đó giá trị vốn lưu động chưa được thu hồi. Doanh thu không đủ đáp ứng nhu cầu vốn lưu động do kinh doanh bị thua lỗ kéo dài hoặc bị chiếm dụng vốn một cách thường xuyên dẫn đến sự thiếu hụt vốn lưu động, ảnh hưởng đến sự vận động liên tục của vốn lưu động. Do tác động của lạm phát, giá cả tăng nhanh nên sau mỗi vòng luân chuyển, giá trị vốn lưu động của doanh nghiệp bị giảm đi theo tốc độ trượt giá ...không đáp ứng đủ cho sản xuất kinh doanh nữa. Tuy nhiên, dù những ảnh hưởng như trên có mức độ khác nhau như thế nào nhưng việc quản lý sử dụng vốn lưu động đều phải dựa trên những nguyên tắc chung nhất là : - Thời điểm kết thúc vòng quay của vốn nên tiến hành vào cuối mỗi kỳ kế toán ( quý, năm ) vì vòng quay vốn lưu động trùng với chu kỳ kinh doanh. - Căn cứ để xác định giá trị bảo toàn vốn là chỉ số vật giá chung hoặc chỉ số giá của vật tư hàng hoá chủ yếu phù hợp với nhu cầu và chiếm tỷ trọng lớn trong vốn lưu động của doanh nghiệp. - Đảm bảo tái sản xuất giản đơn về tài sản lưu động. 4.2 Một số giải pháp nâng cao hiệu quả sử dụng vốn tại doanh nghiệp: Trên đây là những nguyên tắc và yêu cầu cơ bản của việc bảo toàn và phát triển vốn của doanh nghiệp trong nền kinh tế thị trường, dựa trên những nguyên tắc đó mà doanh nghiệp có biện pháp quản lý và sử dụng vốn cũng như tìm ra những giải pháp phù hợp để nâng cao hiệu quả sử dụng vốn của mình. Thực tế các giải pháp được áp dụng rất đa dạng. Có thể kể đến là: 4.2.1 Giải pháp nâng cao hiệu quả sử dụng vốn cố định: a) Đánh giá và đánh giá lại tài sản cố định: Một trong những đặc điểm nổi bật của tài sản cố định là chúng luôn bị hao mòn. Sự hao mòn này dẫn đến giá trị thực và giá trị sổ sách của tài sản cố định khác nhau. Vì vậy, doanh nghiệp phải có kế hoạch và biện pháp đánh giá và đánh giá lại tài sản một cách thường xuyên. Nhờ vậy mà doanh nghiệp xác định được giá trị thực của tài sản cố định, đó cũng là cơ sở cho việc xác định mức khấu hao hợp lý để thu hồi vốn hoặc kịp thời xử lý những tài sản cố định bị mất giá để chống lại sự thất thoát vốn. Thực chất của việc đánh giá và đánh giá lại tài sản cố định là làm cho giá trị trên sổ sách kế toán của tài sản gần với giá trị thực của nó. Tính hiệu quả cần phải đạt được của các quyết định xử lý là phải bảo toàn được vốn cố định trong mọi trường hợp biến động giá cả nói chung và hao mòn vô hình nói riêng. b) Lựa chọn phương pháp tính khấu hao và xác định mức khấu hao hợp lý: Đặc điểm tài sản cố định, mức độ tham gia của nó vào quá trình sản xuất kinh doanh, thời hạn sử dụng tài sản cố định, thời hạn sử dụng vốn đầu tư, loại tài sản là những yếu tố quan trọng quyết định đến việc tính và trích khấu hao. Qua đó vốn cố định được thu hồi, chuẩn bị cho quá trình kinh doanh tiếp theo. Việc tính và trích lập quỹ khấu hao do đó ảnh hưởng rất lớn đến quy mô và đặc điểm vốn cố định trong kỳ sản xuất kinh doanh hiện tại và tiếp theo. Vì vậy doanh nghiệp phải lựa chọn phương pháp tính khấu hao thích hợp. Hiện nay có nhiều phương pháp tính khấu hao tài sản cố định như phương pháp tuyến tính cố định, phương pháp luỹ thoái ... Tuỳ từng đặc điểm kinh doanh và điều kiện cụ thể của mỗi doanh nghiệp mà lựa chọn phương pháp tính khấu hao thích hợp để vừa đảm bảo thu hồi vốn nhanh vừa bảo toàn được vốn và ổn định chi phí sản xuất kinh doanh. Vì thế, khi xác định mức khấu hao phải trích trong năm doanh nghiệp cũng nên xem xét yếu tố sau như :Tình hình tiêu thụ sản phẩm của doanh nghiệp trên thị trường; mức độ hao mòn vô hình của tài sản cố định; nguồn tài trợ cho tài sản cố định; ảnh hưởng của thuế đối với việc trích khấu hao; quy định của Nhà nước trong việc trích khấu hao tài sản cố định. Phổ biến nhất hiện nay mà hầu hết các doanh nghiệp đang sử dụng là phương pháp khấu hao tuyến tính cố định (phương pháp khấu hao bình quân theo thời gian). Theo phương pháp này mức khấu hao hằng năm được tính bằng công thức: Mk = NG T Trong đó: + Mk: Mức trích khấu hao hằng năm. + NG: Nguyên giá của tài sản cố định. + T: Thời gian sử dụng định mức của tài sản cố định. c) Kiểm tra tài chính đối với hiệu quả sử dụng vốn cố định: Sau mỗi kỳ kế hoạch, nhà quản lý phải tiến hành phân tích, đánh giá tình hình sử dụng tài sản cố định và vốn cố định thông qua những chỉ tiêu phân tích hiệu quả sử dụng vốn. Từ đó, doanh nghiệp có thể đưa ra những quyết định đầu tư, điều chỉnh lại quy mô cơ cấu sản xuất cho phù hợp, khai thác được những tiềm năng sẵn có và khắc phục được những tồn tại trong quản lý. d) Những biện pháp kinh tế khác: - Sử dụng quỹ khấu hao hợp lý: Việc trích khấu hao được tiến hành trong thời gian khá dài vì vậy, quỹ khấu hao được tích luỹ dần. Nhưng mục đích chính của việc trích lập quỹ khấu hao là nhằm tái phục hồi hoặc mua sắm tài sản cố định. Nhiều doanh nghiệp đã sử dụng quỹ khấu hao này với mục đích như dùng để trả nợ vay, dùng để mua sắm ôtô con ... Việc sử dụng sai mục đích này nhiều khi đem lại những tác hại rất lớn như không đủ vốn để phục hồi lại khả năng sản xuất của máy móc thiết bị. - Các biện pháp khác để nâng cao hiệu quả sử dụng vốn cố định như: kịp thời thanh xử lý những máy móc thiết bị lạc hậu, mất giá, giải phóng những máy móc thiết bị không cần dùng, mua bảo hiểm tài sản để đề phòng những rủi ro ... 4.2.2 Giải pháp nâng cao hiệu quả sử dụng vốn lưu động: Vốn lưu động luôn chuyển dịch từ trạng thái này sang trạng thái khác có tính chất chu kỳ. Sự vận động này diễn ra liên tục, đan xen lẫn nhau, bắt đầu từ hình thái tiền tệ sang hình thái dự trữ vật tư, hàng hoá và quay trở về hình thái tiền tệ ban đầu của nó. Cứ như vậy, vốn lưu động được tiếp tục tuần hoàn và chu chuyển theo chu kỳ sản xuất. Do đó, để nâng cao hiệu quả sử dụng vốn lưu động các doanh nghiệp cần có thể áp dụng các biện pháp sau: a) Khai thác triệt để mọi nguồn vốn lưu động phục vụ cho sản xuất: Trước hết, doanh nghiệp cần khai thác triệt để các nguồn vốn nội bộ và các khoản vốn có thể chiếm dụng một cách thường xuyên (nợ định mức), như tận dụng tiền tạm ứng của khách hàng, tiền nợ phải trả nhà cung cấp, các khoản phải nộp ngân sách... Sử dụng tiết kiệm có hiệu quả nhất nguồn vốn này. Nếu còn thiếu, doanh nghiệp phải tìm đến các nguồn vốn bên ngoài như: vốn vay ngân hàng và các tổ chức tín dụng, vốn liên doanh, vốn phát hành trái phiếu ... Tuy nhiên, các doanh nghiệp cần phải cân nhắc, tính toán, lựa chọn phương thức huy động sao cho chi phí vốn là thấp nhất và đạt được mức độ an toàn trong thanh toán hợp lý. b) Thường xuyên phân tích tình hình sử dụng vốn lưu động: Thực hiện việc kiểm tra tài chính đối với việc sử dụng vốn lưu động, thông qua việc tính toán và phân tích một số chỉ tiêu như: vòng quay vốn lưu động, sức sinh lợi của vốn lưu động ... Trên cơ sở đó, biết được rõ tình hình sử dụng vốn lưu động trong doanh nghiệp, phát hiện những vướng mắc nhằm sửa đổi kịp thời, nâng cao hiệu quả sử dụng vốn lưu động. Ngoài ra doanh nghiệp cần đẩy mạnh khâu tiêu thụ hàng hoá, xử lý kịp thời các vật tư hàng hoá chậm luân chuyển để tránh ứ đọng vốn. Thường xuyên xác định phần chênh lệch giá giữa giá mua ban đầu với giá thị trường tại thời điểm kiểm tra tài sản lưu động tồn kho để có biện pháp xử lý kịp thời, hiệu quả.Thực hiện nghiêm túc, triệt để công tác thanh toán công nợ, chủ động phòng ngừa rủi ro, hạn chế tình trạng bị chiếm dụng vốn mà từ đó làm phát sinh nhu cầu vốn lưu động dẫn đến doanh nghiệp phải đi vay ngoài kế hoạch, tăng chi phí vốn mà đáng lẽ không có. Vốn bị chiếm dụng ngày càng trở thành gánh nặng cho doanh nghiệp khi trở thành nợ khó đòi, gây thất thoát vốn của doanh nghiệp. Bởi vậy, để chủ động hơn trong hoạt động kinh doanh, doanh nghiệp nên lập các quỹ dự phòng tài chính để có thể bù đắp khi vốn bị thiếu hụt. Trên đây là cơ sở lý thuyết cơ bản về vốn và hiệu quả sử dụng vốn cảu doanh nghiệp trong nền kinh tế thị trường. Việc tiến hành phân tích cụ thể về hiệu quả sử dụng vốn sẽ được cụ thể hoá tại chương II: Phân tích thực trạng hiệu quả sử dụng vốn tại công ty Thương mại và sản xuất Ngọc Diệp. Phần II: Thực trạng hiệu quả sử dụng vốn tại công ty Thương mại và sản xuất ngọc diệp. I Một số nét về công ty: 1 Quá trình hình thành và chức năng nhiệm vụ: * Vài nét về Công ty và quá trình phát triển Công ty thương mại và sản xuất Ngọc Diệp tiền thân là trung tâm sản xuất thiết bị nội thất văn phòng. Ngọc Diệp hoạt động từ năm 1996 trong lĩnh vực sản xuất và cung cấp sản phẩm thiết bị nội thất văn phòng, trường học, sân vận động, rạp hát, khách sạn, trung tâm nghiên cứu thí nghiệm, thư viện…vv Trung tâm đã liên doanh liên kết với nhiều hãng lớn trong nước cũng như quốc tế về sản xuất và cung cấp các sản phẩm nội thất ra thị trường và trở thành một địa chỉ tin cậy đối với khách hàng. Trước nhu cầu mở rộng phạm vi kinh doanh cũng như để tạo điều kiện hoạt động của trung tâm, tháng 5/1998 trung tâm đã chính thức trở thành Công ty thương mại và sản xuất Ngọc Diệp theo giấy phép kinh doanh số 3521 của UBND TP Hà Nội. Công ty được thành lập và đi vào hoạt động theo luật doanh nghiệp do quốc hội nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam ban hàng 6/ với nguồn vốn pháp định là 25.000.000.000 đồng, vốn lưu động là 40 - 45 tỷ đồng. Trụ sở chính của Công ty đặt tại: 118 Nguyến Du - Hai Bà Trưng - Hà Nội. Khi mới thành lập Công ty thương mại và sản xuất Ngọc Diệp chỉ có số lượng cán bộ công nhân viên rất hạn chế. Song do sự phấn đầu và lòng nhiệt tình trong công việc của toàn thể cán bộ công nhân viên của Công ty đặc biệt là các mục tiêu chiến lược kinh doanh của Ban giám đốc, Công ty Công ty thương mại và sản xuất Ngọc Diệp đã liên tục phát triển. Công ty thương mại và sản xuất Ngọc Diệp hoạt động theo luật doanh nghiệp và điều lệ hoạt động của Công ty, Điều lệ hoạt động của Công ty được xem như một nguồn luật riêng của Công ty, là hành lang cho toàn bộ cán bộ công nhân viên Công ty phải tuân theo. Chức năng nhiệm vụ và cơ cấu tổ chức của công ty: Giám đốc công ty là người quyết định chiến lược kinh doanh của Công ty đồng thời đề ra mục tiêu hoạt động kinh doanh trong từng thời kỳ. Tất cả những quyết sách phát triển đều được giám đốc công ty xem xét cụ thể, sau đó lập thành văn bản, nghị quyết, quyết định... ban hành cho các bộ phận chức năng. Giám đốc công ty là thành viên sáng lập, trực tiếp theo dõi toàn bộ hoạt động của Công ty, đồng thời chịu trách nhiệm về tất cả các lĩnh vực hoạt động kinh doanh mà Công ty đã đề ra. - Phòng dự án: Phòng dự án của Công ty có 10 thành viên trong đó có 1 người đại diện gọi là trưởng phòng dự án. Phòng dự án là phòng kinh doanh về các sản phẩm nội thất và điện lanh thông qua việc tham gia vào các dự án đấu thầu trong nước và quốc tế trong lĩnh vực cung cấp thiết bị nội thất, thiết bị âm thanh, truyền hình nghe nhìn, điện máy, điện lạnh. Tất cả những thành viên của phòng dự án đều là những người do Giám đốc tuyển chọn, họ là những người chịu trách nhiệm trước Giám đốc Công ty về tất cả nhiệm vụ được giám đốc Công ty giao cho. Phòng kế toán: Phòng kế toán của Công ty gồm có 10 thành viên được chia thành hai bộ phận nhỏ là phòng kế toán nội thất và phòng kế toán điện lạnh - bao bì. Các phòng kế toán của công ty có trách nhiệm: Hạch toán đầu ta và đầu vào, lên doanh số bán, đối chiếu công nợ đối với các nhân viên kinh doanh, dự án, đối chiếu công nợ với bên đặt hàng. Quyết toán thu chi và làm tất cả các nghiệp vụ kế toán thông thường khác. Các phòng kinh doanh: + Các phòng kinh doanh nội thất và điện lạnh: Phòng kinh doanh nội thất và điện lạnh của công ty được hoạt động dưới dạng các showroom đặt tại Nguyễn Du, Tôn Đức Thắng, Thái Hà… Các phòng kinh doanh này có chức năng giao dịch với khách hàng, phân phối các sản phẩm của công ty như: Các thiết bị nội thất văn phòng, Điện tử, điện lạnh… Tổng hợp doanh thu hàng tháng, thu hồi công nợ… Quản lý và chăm sóc các đại ký cũng như khách hàng bán lẻ. + Phòng kinh doanh bao bì: Phòng kinh doanh bao bì cũng có chức năng nhiệm vụ tương tự như các phòng kinh doanh nội thất và điện lạnh, tuy nhiên mặt hàng kinh doanh ở đây là các sản phẩm về bìa carton. Phòng thiết kế: Phòng thiết kế của công ty có nhiệm vụ thiết kế sản phẩm, trang trí nội thất, tư vấn cho khách hàng…Đây là bộ phận quan trọng giúp cho các sản phẩm mang nhãn hiệu “ Ngọc Diệp” ngày càng có chỗ đứng vững chắc trên thị trường trong nước cũng như quốc tế. Phòng tổ chức - hành chính: Phòng tổ chức – hành chính có trách nhiệm sắp xếp, tổ chức các vấn đề về nhân sự, các hoạt động xã hội Tham mưu cho giám đốc về việc tổ chức bộ máy quản lý của công ty. Bộ phận kho: Đây là bộ phận rất quan trọng, có nhiệm vụ quản lý hàng hoá nhập và xuất. Kho Ngọc Diệp bao gồm khối văn phòng chịu trách nhiệm điều hàng, quản lý và làm các nghiệp vụ về xuất nhập cũng như các nghiệp vụ về kế toán khác. Ngoài ra còn có một số lượng thợ kỹ thuật rất lớn có nhiệm vụ lắp và bảo hành hàng hoá. Nhà máy: Được đặt tại khu công nghiệp Như Quỳnh A - Hưng Yên - Hà Nội. Nhà máy là nơi sản xuất hàng hoá của công ty và cũng có bộ máy quản lý như một cơ quan độc lập dưới sự lãnh đạo của trưởng nhà máy. Nhà máy gồm có: Giám đốc nhà máy, các phòng chức năng của Nhà máy ( phòng kỹ thuật, phòng KCS, phòng kế hoạch sản xuất) và công nhân sản xuất. Giám đốc nhà máy: Chịu trách nhiệm chỉ đạo chung quá trình thực hiện sản xuất theo đơn hàng của tổng công ty bao gồm: Từ khâu thiết kế, vật tư, lên kế hoạch về ca kíp, nhân lực, tiến độ thực hiện cho từng bộ phận sản xuất, kiểm tra chất lượng sản xuất, kiểm tra chất lượng sản phẩm, đóng gói, giao hàng. Các phòng chức năng của Nhà máy: + Phòng kỹ thuật: Chịu trách nhiệm phụ trách, theo dõi mọi khâu trng quá trình sản xuất từ khâu thiết kế đ đưa vào sản xuất đ KCS đ đóng gói. Đồng thời nghiên cứu cải tiến, áp dụng những kỹ thuật để nâng cao chất lượng sản phẩm, tìm ra những giải pháp cho việc sản xuất sản phẩm đạt chất lượng tối ưu nhất. + Phòng kế hoạch sản xuất: Đảm bảo vật tư, nguyên liệu phục vụ sản xuất, đồng thời trực tiếp lên kế hoạch sản xuất cho từng bộ phận trong nhà máy bao gồm: số lượng sản phẩm, số lượng người thực hiện, thời gian hoàn thành. Công nhân sản xuất: Làm việc dưới sự chỉ đạo trực tiếp của quản đốc từng phân xưởng và giám sát kỹ thuật, có trách nhiệm đối với các sản phẩm của mình, đảm bảo sản phẩm đạt được chất lượng tốt, theo đúng các yêu cầu đề ra. Mặc dù mỗi bộ phận, phòng ban đều có chức năng và nhiệm vụ riêng, tuy nhiên, các bộ phận, phòng ban trên hàng ngày phối hợp chặt chẽ với nhau để thực hiện các hoạt động kinh doanh của Công ty, tạo nên một hệ thống quản lý chặt chẽ, một cơ cấu tổ chức có trình tự, bên cạnh các bộ phận quản lý được đặt tại trụ sở chính của Công ty là các đơn vị trực thuộc Công ty được thành lập và nằm trên các địa bàn khác nhau. Mỗi một đơn vị có cơ sở trực thuộc của Công ty đều có một người được ban giám đốc Công ty bầu ra làm đại diện cho đơn vị cơ sở đó như: Các trưởng phòng kinh doanh, trưởng kho, quản lý nhà máy... Họ có trách nhiệm quản lý các hoạt động diễn ra hàng ngày tại các cơ sở đó. chịu sự chỉ đạo của Giám đốc Công ty theo cơ chế hạch toán phụ thuộc. II Thực trạng hiệu quả sử dụng vốn tại công ty: 1 Tình hình sản xuất kinh doanh của công ty: Trong thời gian qua nhờ sự năng động sáng tạo, chủ động tìm kiếm thị trường, tình hình sản xuất kinh doanh của công ty đã đạt được những kết quả đáng khích lệ. Tổng tài sản của công ty tăng liên tục qua các năm: Các năm 2004, 2005 tổng tài sản tăng tương ứng là 6.619 và 21.793 triệu đồng, với tỷ lệ là 5,1 % và 20,9%. Trong đó tài sản cố định tăng mạnh năm 2005 với mức tăng là 2.417 triệu đồng hay 21,7 %, năm 2004 tài sản cố định của công ty tăng 883 triệu đồng, tương đương với 6,5 %. Ngược lại, tài sản lưu động tăng ít vào năm 2004 nhưng năm 2005 tăng 20.910 triệu đồng, tức tăng 34,4 %. Bảng 2- Kết quả sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp qua các năm. Đơn vị : triệu đồng S tt Chỉ tiêu Năm Tỷ lệ (%) 2003 2004 2005 04/003 05/04 1 Doanh thu 88.462 98.327 105.364 111,15 107,16 2 Doanh thu thuần 85.519 96.774 102.879 113,16 106,30 3 Lợi nhuận trước thuế 1.602 1.950 1.153 121,72 59,10 4 Tỷ suất LN/ DTTx100 (đ) 1,873 2,015 1,121 - - 5 Tổng quỹ lương 9.673 11.472 9.916 118,60 86,43 6 TNBQ 1người/ 1 tháng(1000đ) 760 785 846 103,29 103,86 Nguồn: Báo cáo tài chính công ty thương mại và sản xuất Ngọc Diệp các năm 2003,2004,2005. Kết cấu tài sản thay đổi không đáng kể, tài sản lưu động luôn chiếm trên 80 % tổng tài sản của đơn vị. Tổng doanh thu tăng kéo theo sự gia tăng của doanh thu thuần, năm 2005 doanh thu thuần đạt 102.879 triệu đồng, tăng 6.105 triệu đồng, tốc độ tăng nhỏ hơn so với năm 2004 (tăng 6,3 % so với tốc độ tăng 13,16 % năm 2004). Đời sống công nhân viên được cải thiện dần, tổng quỹ lương năm 2005 bằng 86,43% so với năm 2004, nhưng thu nhập bình quân đầu người tăng lên 3,86% so với năm 2004 tức là đạt 846 nghìn đồng. Nói chung, hoạt động sản xuất kinh doanh của công ty vẫn luôn có lãi. So với năm 2003, năm 2004 lợi nhuận trước thuế tăng 348 triệu đồng, đạt 1.950 triệu đồng, năm 2005 lợi nhuận trước thuế giảm xuống còn 1.153 triệu đồng, mức giảm là 797 triệu đồng hay hơn 40%. Tỷ suất lợi nhuận trên doanh thu ở mức 2,015 (năm 2004) và 1,121 (năm 2005). Tức là cứ 100 đồng doanh thu được 2,015 đồng lợi nhuận (năm 2004) và 1,121 đồng là số lợi nhuận thu được từ 100 đồng doanh thu của năm 2005. Vì vậy, năm 2005 tỷ suất lợi nhuận giảm. Nguyên nhân là do chi phí sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp tăng nhanh hơn tốc độ tăng của doanh thu : năm 2005 mặc dù doanh thu thuần tăng hơn năm 2004, lợi nhuận gộp đạt 5.558 triệu đồng song chi phí bán hàng, chi phí quản lý doanh nghiệp tăng (4.405 triệu đồng so với 3.004 triệu đồng của năm 2004) làm lợi nhuận trước thuế của doanh nghiệp giảm. Hơn nữa năm 2005 tốc độ tăng của hoạt động xây dựng lắp đặt (có doanh thu lớn nhưng tỷ suất lợi nhuận nhỏ) lớn hơn nhiều so với tốc độ của hoạt động kinh doanh thương mại cả về doanh thu lẫn lợi nhuận. Hoạt động sản xuất kinh doanh đạt được kết quả tốt khiến tình hình tài chính của công ty được cải thiện hơn. Tình hình tài chính của doanh nghiệp được thể hiện ở trong bảng 3. Tổng tài sản và tổng nguồn vốn của doanh nghiệp liên tục tăng qua các năm, năm 2004 tổng tài sản tăng 5,1% so với năm 2003 và năm 2005 tăng 29,3% so với năm 2004. Giá trị tổng tài sản tăng từ 70.743 triệu đồng lên 96.155 triệu đồng gấp hơn 1,3 lần, điều đó cho thấy doanh nghiệp đã có nhiều cố gắng trong việc huy động vốn, tài trợ cho các tài sản của doanh nghiệp để có thể sản xuất kinh doanh. Tuy nhiên, những phân tích cụ thể sự hợp lý của việc tăng tài sản cũng như nguồn vốn của công ty sẽ được đề cập trong những phần sau. ở đây ta xem xét một số chỉ tiêu tài chính để có một cái nhìn tổng quát về tình hình tài chính của doanh nghiệp. Về tỷ suất tài trợ, năm 2003 chỉ tiêu này là 17,4% đến năm 2004 giảm xuống còn 16,8% và năm 2005 chỉ còn 13,0%. Sở dĩ như vậy là vì tổng nguồn vốn tăng trong khi vốn chủ sở hữu tăng chậm (2,0 % năm 2004 và 3,6 % năm 2005), sự biến động như vậy là không hợp lý, nó cho thấy mức độ độc lập về tài chính của doanh nghiệp là không cao. Về tỷ suất đầu tư, công ty duy trì ở mức dưới 20%: năm 2004 tỷ suất này là 15,7% tứclà tài sản cố định chiếm tới 15,7% và tỷ trọng này tăng trong năm 2004 (đạt 18,2 %) sau đó năm 2005 giảm xuống còn 15%. Sự chuyển biến về cơ cấu tài sản như vậy giúp doanh nghiệp giảm bớt áp lực giá đấu thầu cao do phải trích khấu hao tài sản cố định lớn. Bảng 3 Tình hình tài chính của doanh nghiệp Stt Chỉ tiêu Đơn vị Năm Chênh lệch 00//99 Chênh lệch 01/00 2004 2005 Số tiền % Số tiền % 1 Tổng tài sản Tr đ 70.743 74.362 96.155 3.619 5,1 21.793 29,3 2 Tài sản lưu động - 59.610 60.812 81.722 1.202 2,0 20.910 34,4 3 Vốn bằng tiền - 55.215 58.650 76.939 3.435 6,2 18.289 31,2 4 Tài sản cố định - 11.133 13.550 14.433 2.417 21,7 883 6,5 5 Tổng nguồn vốn - 70.743 74.362 96.155 3.619 5,1 21.793 29,3 6 Nợ phải trả - 60.942 63.643 85.052 2.701 4,5 21.409 33,6 7 Nợ ngắn hạn - 58.515 62.119 83.054 3.604 6,2 20.935 33,7 8 Vốn chủ sở hữu - 10.510 10.719 11.103 209 2,0 384 3,6 9 Tỷ suất tài trợ: (8)/(5)% % 17,4 16,8 13,0 - - - - 10 Tỷ suất đầu tư: (4)/(1)% - 15,7 18,2 15,0 - - - - 11 Tỷ lệ (6)/(1) - 86,1 85,6 88,5 - - - - 12 Tỷ suất TT NH: (2)/(7) - 101,9 97,9 98,4 - - - - 13 Tỷ suất TT tức thời (3)/(7) - 94,4 94,4 92,6 - - - - 14 Tỷ suất tự tài trợ TSCĐ (8)/(4) - 94,4 79,1 77,0 - - - - Nguồn: Báo cáo tài chính công ty thương mại và sản xuát Ngọc Diệp năm 2004,2005 Về tỷ suất tài trợ tài sản cố định, tỷ lệ giảm dần trong các năm qua. Năm , vốn chủ sở hữu đủ để tài trợ gần đủ tài sản cố định (94,4%). Các năm sau tỷ lệ này giảm xuống ở mức dưới 80%. Điều này chứng tỏ hai năm qua nhu cầu đầu tư vào tài sản cố định lớn, vốn chủ sở hữu không đủ để đáp ứng. Do đó doanh nghiệp phải tài trợ một phần tài sản cố định của mình bằng các khoản nợ. Ngoài ra, tỷ trọng nợ phải trả trên tổng tài sản đều cao qua các năm, năm tỷ trọng này là 86,1%, năm 2005 công nợ phải trả còn chiếm 88,5 % tổng tài sản của đơn vị. Điều này dễ thấy vì nợ phải trả của công ty tăng nhanh hơn so với sự gia tăng của tổng tài sản. Tỷ trọng nợ phải trả cao và chủ yếu là khoản vay có tính lãi gây ảnh hưởng bất lợi đến kết quả sản xuất kinh doanh. Tỷ suất thanh toán ngắn hạn của công ty năm 2004 và 2005 giảm hơn so với năm nhưng đều đạt khoảng 98%. Do đó việc thanh toán các khoản nợ ngắn hạn của doanh nghiệp tương đối thuận lợi. Đó là vì tài sản lưu động của công ty đã có tăng mạnh trong những năm này. Đồng thời khả năng thanh toán nhanh của đơn vị cũng khá cao vì các khoản tồn kho chiếm tỷ trọng không lớn trong tổng tài sản của đơn vị và tồn quỹ tiền mặt được duy trì một mức thường xuyên từ 3 đến 6 tỷ đồng. Ngoài ra ta xét chỉ tiêu: Vốn lưu động thuần = Tài sản lưu động - Nợ ngắn hạn Hoặc: Vốn lưu động thuần = Vốn dài hạn - Tài sản cố định Vốn lưu động thuần (vốn lưu động ròng) tại công ty trong ba năm qua được phản ánh qua bảng sau: Bảng 4 - Vốn lưu động ròng của công ty Đơn vị : triệu đồng Chỉ tiêu Năm 2003 Năm 2004 Năm 2005 Tài sản lưu động 59.610 60.812 81.722 Nợ ngắn hạn 58.515 62.119 83.054 Vốn lưu động ròng 1.095 -1.307 -1.332 Vốn lưu động thuần của doanh nghiệp chưa đáp ứng đủ trong quá trình sản xuất kinh doanh. Năm , vốn lưu động thuần là 1.095 triệu đồng, hai năm 2004 và 2005 đều âm. Điều này chứng tỏ nợ ngắn hạn quá cao so với tài sản lưu động, hay vốn trung dài hạn không đủ để tài trợ cho tài sản cố định của đơn vị. Một phần nợ ngắn hạn được dùng để tài trợ cho tài sản cố định. Điều này không đảm bảo sự tương thích giữa tính chất về thời gian và lãi suất. Do đó, cần có sự điều chỉnh để duy trì mức vốn luân chuyển thuần hợp lý. Bên cạnh đó, hiệu quả sử dụng vốn năm cũng giảm mạnh so với các năm trước. Bảng 5- Hiệu quả sử dụng vốn của doanh nghiệp Stt Chỉ tiêu Đơn vị Năm 2003 Năm 2004 Năm 2005 1 Doanh thu Tr đ 85.519 96.774 102.879 2 Lợi nhuận trước thuế “ 1.602 1.950 1.153 3 Lợi nhuận sau thuế “ 1.210 1.492 886 4 Tổng tài sản “ 70.743 74.362 96.155 5 Vốn chủ sở hữu “ 10.510 10.719 11.103 6 Hiệu suất sử dụng TTS % 120,89 130,14 106,99 7 Doanh lợi vốn % 2,26 2,62 1,20 8 Doanh lợi vốn CSH % 11,51 13,92 7,98 Nguồn: Báo cáo tài chính công tyTM&SX Ngọc Diệp Năm 2004, hiệu suất sử dụng tổng tài sản là 130,14% tăng cao hơn so với mức 120,89% của năm . Nhưng năm 2005 hiệu suất này lại giảm xuống còn 106,99. Nó cho biết một đồng tài sản đem lại cho doanh nghiệp 1,2 đồng doanh thu (năm ) và 1,3 đồng doanh thu nhưng đến năm 2005 chỉ là 1,1 đồng. Doanh lợi vốn và doanh lợi vốn chủ sở hữu đều tăng trong năm 2004 nhưng giảm hơn vào năm 2005. Một trăm đồng vốn kinh doanh thu được 2,26 (năm ) đồng và 2,62 (năm 2004) đồng là lợi nhuận song năm 2005 chỉ còn 1,2 đồng. Số lợi nhuận tương ứng kiếm được từ vốn chủ sở hữu là 11,51 đồng (); 13,92 đồng (2004) và chỉ còn 7,98 đồng vào năm 2005. Qua những chỉ tiêu phân tích sơ bộ trên đây có thể thấy rằng hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp không phải hoàn toàn thuận lợi, một só chỉ tiêu đã phản ánh tình trạng không ổn định trong hoạt động của doanh nghiệp. Ngoài những bất lợi do điều kiện khách quan mang lại thì hoạt động quản lý và sử dụng vốn của doanh nghiệp cũng tác động không nhỏ. Do vậy, cần đi sâu phân tích chi tiết để thấy được những mặt được và những mặt hạn chế để có giải pháp kịp thời và hiệu quả. 2. Thực trạng hiệu quả sử dụng vốn và các giải pháp nâng cao hiệu quả sử dụng vốn tại doanh nghiệp: 2.1. Tình hình đảm bảo nguồn vốn cho hoạt động sản xuất kinh doanh. Để tiến hành hoạt động sản xuất kinh doanh các doanh nghiệp cần có tài sản bao gồm tài sản lưu động và đầu tư ngắn hạn và tài sản cố định và đầu tư dài hạn. Để hình thành hai loại tài sản này phải có các nguồn tài trợ tương ứng bao gồm nguồn vốn ngắn hạn và nguồn vốn dài hạn. Đối với doanh nghiệp sản xuất kinh doanh xây dựng nhu cầu vốn đầu tư cho máy móc thiết bị là tương đối lớn vì vậy cần xem xét mức độ an toàn của nguồn vốn khi đầu tư vào tài sản này để có chính sách huy động các nguồn vốn vay trung và dài hạn một cách hợp lý vì nguồn vốn chủ sở hữu không thể đảm bảo cho toàn bộ tài sản cố định. Như phần trước ta đã phân tích, nguồn vốn chủ sở hữu của doanh nghiệp tăng chậm trong những năm qua. Điều này là do doanh nghiệp phải nộp khấu hao về Tổng cục công nghiệp quốc phòng hơn nữa hàng năm công ty nhận được rất ít nguồn vốn từ cơ quan chủ quản. Trong khi đó nhu cầu về máy móc thiết bị để thi công các công trình mà thuộc hạng mục quốc phòng và kinh tế đang tăng nhanh. Công ty đã cố gắng huy động vay nợ dài hạn song mức vốn dài hạn vẫn không đủ tài trợ cho tài sản cố định. Vì vậy công ty đã phải huy động nguồn vốn ngắn hạn để tài trợ một phần cho tài sản cố định. Các năm 2004 và 2005 số tài sản cố định được tài trợ bởi nợ ngắn hạn lần lượt là 1.307 triệu đồng và 1.332 triệu đồng. Tình hình này không đảm bảo an toàn cho tài sản cố định của công ty vì vòng quay của nguồn vốn ngắn hạn nhỏ hơn rất nhiều so với thời gian thu hồi vốn cố định do vậy sẽ gây khó khăn cho khả năng thanh toán và trả nợ ngắn hạn của công ty. Bảng 6: Tình hình đảm bảo nguồn vốn cho hoạt động kinh doanh (triệu đồng) Stt Chỉ tiêu Năm 2003 Năm 2004 Năm 2005 1 Vốn dài hạn 12.228 12.243 13.101 - Vốn chủ sở hữu 10.510 10.719 11.103 - Nợ dài hạn 1.718 1.524 1.998 2 TSCĐ & đầu tư dài hạn 11.133 13.550 14.433 3 Vốn lưu động thường xuyên (1) - (2) 1.095 -1.307 -1.332 Để tiến hành thi công được các công trình xây dựng chỉ chuẩn bị các máy móc thiết bị thôi thì chưa đủ, doanh nghiệp còn cần phải đảm bảo đủ vốn lưu động đáp ứng cho nhu cầu vốn trong quá trình thi công. Nhu cầu vốn lưu động thường xuyên là số lượng vốn ngắn hạn doanh nghiệp cần để tài trợ cho một phần tài sản lưu động bao gồm hàng tồn kho và các khoản phải thu. Nhu cầu vốn lưu động thường xuyên của công ty thương mại và sản xuất Ngọc Diệp trong 3 năm qua như sau: Bảng 7: Nhu cầu vốn lưư động thường xuyên Đơn vị: Triệu đồng Stt Chỉ tiêu Năm Năm 2004 Năm 2005 1 Nợ ngắn hạn 58.515 62.119 83.054 2 Các khoản phải thu 44.374 48.067 61.822 3 Hàng tồn kho 3.506 2.162 4.783 4 Nhu cầu VLĐ thường xuyên 10.635 11.890 16.449 Bảng trên cho thấy các nguồn vốn ngắn hạn đã thừa để tài trợ cho khoản phải thu và hàng tồn kho: ba năm qua nhu cầu vốn lưu động thường xuyên đều dương tức là các khoản tài sản lưu động ngoài ngân quỹ đều do nợ ngắn hạn tài trợ, công ty không phải vay nợ dài hạn để tài trợ cho các tài sản ngắn hạn. Nói chung điều này đảm bảo sự tương thích về mặt thời gian. Tuy nhiên, với mức nợ ngắn hạn cao và tỷ lệ vay ngắn hạn ngân hàng lớn như ở công ty khiến công ty phải mất thêm chi phí trả lãi ngân hàng. Năm 2004 và 2005 tỷ lệ vay ngắn hạn/ nợ ngắn hạn là 30% (năm 2004, tương ứng18.635/32.119) và 35% (năm 2005, tương ứng 29.069/83.054). Qua phân tích tình hình đảm bảo vốn cho hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp ta thấy vốn lưu động ròng thì âm và nhu cầu vốn lưu động thường xuyên là dương. Điều đó chứng tỏ tỷ trọng nợ ngắn hạn cao đến mức không hợp lý, tỷ trọng nợ dài hạn thấp ảnh hưởng đến sự an toàn trong thanh toán của công ty. Như vậy, công ty cần xem xét lại cơ cấu vốn phải cân đối lại nguồn vốn nâng cao tính an toàn và tiết kiệm chi phí trả lãi vay tránh tình trạng thừa vốn ngắn hạn mà lại thiếu vốn dài hạn. 2.2 Hiệu quả sử dụng vốn cố định: 2.2.1 Tình hình và cơ cấu tài sản cố định của công ty: Tài sản cố định là hình thái biểu hiện vật chất của vốn cố định vì vậy để đánh giá tình hình vốn cố định của doanh nghiệp cần phân tích cơ cấu tài sản cố định. Cơ cấu tài sản cố định cho ta biết những nét sơ bộ về công tác đầu tư dài hạn của doanh nghiệp, về việc bảo toàn và phát triển năng lực sản xuất của các máy móc trang thiết bị của công ty. Tình hình nguyên giá và giá trị còn lại của tài sản cố định của công ty thương mại và sản xuất Ngọc Diệp biểu hiện trong hai bảng sau: Bảng 8- Nguyên giá và giá trị còn lại tài sản cố định Đơn vị : triệu đồng Chỉ tiêu Năm 2003 Năm 2004 Năm 2005 NG GTCL NG GTCL NG GTCL Nhà cửa, vật kiến trúc 1.743 1.610 1.810 1.685 2.842 2.608 Máy móc thiết bị 6.724 6.126 6.827 6.564 8.906 7.412 Phương tiện vận tải 3.051 2.897 3.102 2.598 2.778 2.613 Tổng cộng 11.518 10.633 11.739 10.847 14.526 12.633 Bảng 9 -Tỷ trọng nguyên giá và giá trị còn lại tài sản cố định Đơn vị :% Chỉ tiêu Năm 2003 Năm 2004 Năm 2005 NG GTCL NG GTCL NG GTCL Nhà cửa, vật kiến trúc 15,1 15,1 15,4 15,5 19,6 20,6 Máy móc thiết bị 58,4 57,6 58,2 60,5 61,3 58,7 Phương tiện vận tải 26,5 27,3 26,4 24,0 19,1 20,7 Tổng cộng 100,0 100,0 100,0 100,0 100,0 100,0 Với hoạt động chủ yếu là xây dựng các nhà cửa, các công trình dân dụng sản xuất kinh doanh vật liệu xây dựng nên công ty thương mại và sản xuất Ngọc Diệp có cơ cấu tài sản cố định rất đặc trưng đó là giá trị máy móc thiết bị chiếm tỷ trọng lớn: khoảng ở mức 58- 61 % nguyên giá tức là chiếm quá nửa tài sản cố định của công ty. Giá trị còn lại của máy móc thiết bị cũng chiếm khoảng 58 % giá trị còn lại tài sản cố định của đơn vị. Kế đến là phương tiện vận tải, tỷ trọng phương tiện vận tải là khá cao, hai năm 2003 và 2004 luôn chiếm khoảng một phần tư nguyên giá và giá trị còn lại, năm 2005 giảm xuống còn 20%. Các tài sản cố định là nhà cửa, vật kiến trúc bao gồm trụ sở, nhà sản xuất và các thiết bị văn phòng...nói chung giữ mức độ ổn định khoảng dưới 20%. Những tài sản cố định này không tham gia trực tiếp vào quá trình sản xuất nên chỉ cần duy trì ở mức độ vừa đủ để duy trì hoạt động, tỷ trọng như ở công ty đã là khá cao. 2.1.2 Hiệu quả sử dụng vốn cố định: Bảng 10- Hiệu quả sử dụng tài sản cố định và vốn cố định Đơn vị : Triệu đồng Stt Chỉ tiêu Năm % tăng, giảm 04/03 % tăng, giảm 05/04 2003 2004 2005 1 Doanh thu thuần 85.519 96.774 102.879 13,2 6,3 2 LN trước thuế 1.602 1.950 1.153 21,7 -40,9 3 NG bình quân TSCĐ 10.961 11.629 13.133 6,1 12,9 4 VCĐ bình quân 11.133 13.550 14.433 21,7 6,5 5 Hiệu suất sử dụng TSCĐ (1)/(3) đơn vị Đồng 7,80 8,32 7,83 6,67 -5,88 6 Sức sinh lợi của TSCĐ (2)/(3) đơn vị Đồng 0,146 0,167 0,088 14,38 -47,3 7 Suất hao phí TSCĐ (3)/(1) đơn vị Đồng 0,128 0,120 0,128 -6,25 6,67 8 Hiệu suất sử dụng VCĐ (1)/(4) đơn vị Đồng 7,68 7,14 7,13 -7,03 -0,14 9 Hiệu quả sử dụng VCĐ (2)/(4) đơn vị Đồng 0,144 0,144 0,080 0,00 -44,44 Để đánh giá hiệu quả sử dụng vốn cố định của doanh nghiệp ta không chỉ căn cứ vào tính hiệu quả trong sử dụng vốn cố định mà còn phải đánh giá năng lực hoạt động của tài sản cố định thông qua các chỉ tiêu phản ánh hiệu quả sử dụng tài sản cố định như hiệu suất sử dụng tài sản cố định, sức sinh lời của tài sản cố định ... So với năm , năm 2004 chỉ tiêu hiệu suất sử dụng tài sản cố định và sức sinh lợi của tài sản cố định đều tăng và do đó suất hao phí tài sản cố định (bằng nghịch đảo của sức sinh lợi của tài sản cố định) giảm đi. Năm một đồng nguyên giá bình quân TSCĐ tạo ra được 7,8 đồng doanh thu, tương ứng tạo ra được 0,146 đồng lợi nhuận. Đến năm 2004 các con số tương ứng là 8,32 đồng và 0,167 đồng. Suất hao phí TSCĐ giảm đi 6,25% trong năm 2004 (để có một đồng doanh thu thuần cần 0,12 đồng nguyên giá bình quân tài sản cố định). Đến năm 2005 thì có sự sụt giảm trong hiệu suất sử dụng cũng như sức sinh lợi của TSCĐ, đồng thời kéo theo sự gia tăng suất hao phí TSCĐ. Đặc biệt sức sinh lợi của TSCĐ giảm 47,3%, từ 0,167 giảm xuống còn 0,088, chứng tỏ trong năm 2005 nguyên giá bình quân tăng mạnh trong khi lợi nhuận lại giảm đi. Điều này là dễ hiểu vì trong năm 2005 doanh nghiệp đã đầu tư thêm máy móc thiết bị mới làm nguyên giá bình quân tăng lên 12,9% nên năng lực sản xuất của tài sản cố định tăng lên khiến doanh thu tăng lên 6,3% so với năm 2004 nhưng sức sinh lợi của tài sản cố định lại giảm xuống. Nguyên nhân là do ảnh hưởng của đặc điểm sản xuất ngành sản xuất và cung cấp nội thất với cơ chế đấu thầu hiện nay, bên A sau khi nghiệm thu công trình bàn giao sẽ thanh toán cho công ty theo mức giá trong hồ sơ thắng thầu như vậy, thường thì doanh thu cho mỗi công ty đã được xác định trước cho mỗi hợp đồng. Năm 2005, do công ty hoàn thành bàn giao nhiều công trình nên doanh thu tăng lên 6,4% so với năm 2004 nhưng do trong quá trình thi công đã phát sinh nhiều chi phí ngoài giá dự toán làm cho tỷ lệ lãi định mức giảm xuống nên lợi nhuận không tăng lên tương ứng với tốc độ tăng doanh thu, thậm chí lợi nhuận còn giảm đi so với năm 2004, do số lợi nhuận tạo ra từ một đồng TSCĐ bình quân giảm xuống. Về hiệu quả sử dụng vốn cố định của doanh nghiệp: các chỉ tiêu hiệu suất và hiệu quả sử dụng vốn cố định đều giảm trong năm 2004 và 2005. Do gia tăng nguyên giá tài sản cố định và các khoản đầu tư tài chính dài hạn khác làm vốn cố định bình quân tăng nhanh trong khi doanh thu thuần và lợi nhuận tăng chậm hơn nhiều. Năm 2004 vốn cố định bình quân tăng lên 21,7 % trong khi doanh thu thuần chỉ tăng 13,2 % làm hiệu suất sử dụng vốn cố định giảm xuống còn 7,14 so với 7,68 của năm ( tương ứng giảm 7,03 % ). Tức là một đồng vốn cố định bình quân thu về được 7,14 đồng doanh thu thuần. Hiệu quả sử dụng vốn cố định không tăng do lợi nhuận trước thuế tăng nhanh bằng tốc độ tăng của vốn cố định bình quân. Năm 2005, hiệu suất sử dụng vốn cố định giảm nhẹ song hiệu quả sử dụng vốn cố định giảm rất lớn. Cứ một đồng vốn cố định bình quân tạo ra được 0,8 đồng lợi nhuận, so với mức 0,144 đồng của năm 2004 và tỷ suất này đã giảm tới 44 %. Do đó hiệu suất sử dụng tài sản cố định giảm đi. Tương tự như vậy các năm 2004 và 2005 doanh nghiệp tăng các khoản đầu tư tài chính dài hạn làm tăng vốn cố định bình quân trong khi doanh thu và lợi nhuận tăng chậm. Do đó khiến cho hiệu suất sử dụng và hiệu quả sử dụng của vốn cố định giảm đi. Thực tế cho thấy, trong thời gian gần đây thị trường công việc có phần chững lại các doanh nghiệp cạnh tranh nhau gay gắt để thắng thầu các công trình, các doanh nghiệp tìm mọi cách để hạ giá thầu có khi chấp nhận lỗ từ khi bỏ thầu. Ngoài ra, công ty phải vay ngân hàng để đầu tư máy móc mà chưa đưa được vào sử dụng trong khi đó công ty vẫn phải trả lãi ngân hàng. Máy móc thiết bị chưa phát huy được năng lực sản xuất mà phải trích khấu hao lớn. Tất cả các yếu tố đó đã làm giảm hiệu quả sử dụng vốn cố định của doanh nghiệp. Tuy vậy, trong thời gian tới những máy móc thiết bị mới đầu tư sẽ phát huy năng lực sản xuất, doanh nghiệp sẽ khai thác sử dụng ở mức cao hơn tạo điều kiện nâng cao hiệu suất sử dụng tài sản cố định cũng như hiệu quả sử dụng vốn cố định. Trên đây là những đánh giá về hiệu quả sử dụng vốn cố định của công ty thương mại và sản xuất Ngọc Diệp. Để góp phần nâng cao hiệu quả sử dụng vốn của doanh nghiệp một trong những hoạt động mà doanh nghiệp cần phải quan tâm đó là công tác quản lý, bảo toàn vốn cố định và đầu tư đổi mới tài sản cố định của doanh nghiệp. 2.2 Hiệu quả sử dụng vốn lưu động: 2.2.1 Cơ cấu tài sản lưu động của doanh nghiệp: Vốn lưu động luôn chiếm tỷ lệ khá cao trong tổng tài sản của công ty. Năm 2003 tài sản lưu động có giá trị là 59.610 triệu đồng, chiếm 84,3 % tổng tài sản. Năm 2004 tài sản lưu động tăng nhẹ so với mức tăng nhanh của tài sản cố định nên tỷ trọng tài sản lưu động giảm xuống còn 81,8 % tổng tài sản. Năm 2005 công ty giá trị tài sản lưu động tăng mạnh cả về số tuyệt đối và số tương đối khiến tài sản lưu động chiếm tỷ trọng lên tới 85 % tổng tài sản của đơn vị. Xu hướng này cho thấy nhu cầu về vốn lưu động của doanh nghiệp để đảm bảo cho quá trình sản xuất kinh doanh đang gia tăng mạnh. Tuy nhiên tỷ trọng tài sản lưu động cao như vậy có thể gây mất cân đối trong cơ cấu tài sản, ảnh hưởng xấu đến hoạt động của công ty. Trong năm 2004, tiền và các khoản phải thu (trong đó các khoản phải thu chiếm tỷ trọng lớn) tăng nhẹ trong khi tồn kho và tài sản lưu động khác lại giảm mạnh khiến cho vốn lưu động của doanh nghiệp chỉ tăng 2,02 %. Các khoản phải thu tăng lên chủ yếu là do tăng tiền khoản phải thu khách hàng với mức tăng 24,99% tương ứng với 7.207 triệu đồng. Các khoản tồn kho giảm trên dưới 30 % đặc biệt nguyên vật liệu tồn kho giảm tới 64,81 %. Các khoản tài sản lưu động khác đều giảm mạnh (trừ chi phí chờ kết chuyển tăng 22,43 %). Như vậy năm 2004 có sự gia tăng tỷ trọng các khoản phải thu do đó doanh nghiệp bị chiếm dụng vốn nhiều hơn so với năm . Điều này có thể có tác động tích cực trong chính sách bán hàng của doanh nghiệp song có thể ảnh hưởng đến công tác thu hồi nợ . Sang năm 2005, tài sản lưu động tăng rất mạnh với mức tăng là 34,38% tương ứng với 20.910 triệu đồng. Tiền mặt, các khoản phải thu, tồn kho cũng như tài sản lưu động khác đều tăng. Với tỷ trọng lớn nhất, các khoản phải thu tăng lên 28,62 % chủ yếu là tăng từ các khoản phải thu của khách hàng. Số công nợ phải thu từ khách hàng là 48.221 triệu đồng, chiếm tới 47 % tổng doanh thu thuần. Các khoản phải thu của doanh nghiệp vẫn chiếm tỉ trọng chủ yếu trong tài sản lưu động là 59%. Tuy tỉ trọng ít thay đổi so với năm 2004 nhưng tăng mạnh về số tuyệt đối chứng tỏ công tác thu hồi nợ rất chậm trễ. Nợ năm trước chưa được thu hồi đã phát sinh các khoản phải thu mới khiến doanh nghiệp bị chiếm dụng vốn nhiều hơn, trong khi doanh thu tăng chậm gây ảnh hưởng không có lợi cho hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp. Tồn kho cũng tăng mạnh và đột ngột. So với năm 2004, tồn kho tăng lên 121,23 % tức là tồn kho năm nay cao hơn gấp đôi so với năm 2004. Đặc biệt nguyên vật liệu tồn kho năm 2005 tăng gấp hơn 9 lần và chiếm tỷ trọng lớn nhất trong số tồn kho tại đơn vị. Nguyên vật liệu tồn kho làm ứ đọng vốn và tăng chi phí bảo quản. Chi phí sản xuất kinh doanh dở dang năm 2005 lại giảm 24 % trong khi nguyên vật liệu tồn kho tăng do đó chi phí sản xuất kinh doanh dở dang chỉ chiếm tỷ trọng thứ hai trong các khoản tồn kho. Năm 2005 chi phí trả trước cũng tăng khá lớn từ 2.875 triệu đồng lên 4.711 triệu đồng tức tăng 63,86 %. Nguyên nhân là do doanh nghiệp nhận nhiều công trình lên phải đặt trước cho nhà cung cấp nguyên vật liệu để việc cung cấp đạt đúng tiến độ. Trên đây là các khoản mục chủ yếu có tác động lớn đến cơ cấu vốn lưu động của công ty thương mại và sản xuất Ngọc Diệp. Tuy nhiên, đó mới chỉ là sự phản ánh về mặt lượng, chưa nói lên được mức độ hiệu quả trong quản lý và sử dụng vốn lưu động tại công ty. Để phân tích kỹ hơn điều đó ta sẽ xem xét các chỉ tiêu cụ thể trong phần tiếp theo. 2.2.2 Hiệu quả sử dụng vốn lưu động: Để đánh giá hiệu quả sử dụng vốn lưu động của doanh nghiệp ta dùng các chỉ tiêu như sức sinh lời, hệ số đảm nhiệm vốn lưu động và các chỉ tiêu phản ánh tốc độ luân chuyển vốn lưu động như số vòng quay vốn lưu động, thời gian của một vòng luân chuyển. Bảng 12 cho thấy mặc dù vốn lưu động tăng liên tục trong hai năm 2004 và 2005 song sức sinh lợi của vốn lưu động chỉ tăng trong năm 2004, năm 2005 sức sinh lợi của vốn cố định giảm mạnh. So với năm , năm 2004 sức sinh lợi của vốn lưu động tăng 18,5 %, nguyên nhân là do vốn lưu động bình quân tăng nhẹ trong khi lợi nhuận tăng khá. Sang năm 2005 mặc dù vốn lưu động bình quân tăng khá cao ( 34,4 % ) song do lợi nhuận của công ty giảm xuống còn 1.153 triệu đồng, mức giảm tương ứng 40,9 % làm cho sức sinh lợi của vốn cố định giảm hơn một nửa so với năm 2004 và thấp hơn rất nhiều so với năm 2003 . Năm 2005 một đồng vốn lưu động bình quân chỉ đem lại 0,014 đồng lợi nhuận cho doanh nghiệp so với mức 0,032 đồng của năm 2004 thì số lợi nhuận đem lại từ đầu tư bằng vốn lưu động giảm mạnh. Bảng 12- Hiệu quả sử dụng vốn lưu động Stt Chỉ tiêu Đơn vị Năm Tỷ lệ % tăng giảm 04/03 Tỷ lệ % tăng giảm 05/04 2003 2004 2005 1 Doanh thu thuần Tr đ 85.519 96.774 102.879 13,2 6,3 2 LN trước thuế “ 1.602 1.950 1.153 21,7 -40,9 3 VLĐ bình quân “ 59.610 60.812 81.722 2,0 34,4 4 Sức sinh lợi của VLĐ (2)/(3) đ 0,027 0,032 0,014 18,5 -56,25 5 Hệ số đảm nhiệm VLĐ (3)/(1) đ 0,697 0,628 0,794 -9,9 26,4 6 Số vòng quay VLĐ (1)/(3) Vòng 1,434 1,591 1,259 10,9 -20,9 7 Thời gian 1 vòng luân chuyển 360/(6) Ngày 251 226 285 -9,9 26,1 Nguồn: Báo cáo tài chính công ty thương mại và sản xuất Ngọc Diệp các năm 2004,2005 Vốn lưu động bình quân vẫn liên tục tăng nhưng sức sản xuất của vốn lưu động lại có chiều hướng giảm xuống. Dựa vào hệ số đảm nhiệm vốn lưu động ta có thể thấy để có 1 đồng doanh thu thuần thì phải bỏ ra bao nhiêu đồng vốn lưu động. Qua số liệu trên ta thấy hệ số đảm nhiệm vốn lưu động giảm 9,9% trong năm 2004 tức là để tạo ra một đồng doanh thu thuần cần 0,628 đồng vốn lưu động bình quân. Số tương ứng của năm 2003 là 0,697 đồng. Như vậy năm 2004 cần ít vốn cố định bình quân hơn để tạo ra được một đồng doanh thu thuần. Điều này ứng với sự gia tăng của sức sinh lợi của vốn lưu động. Đến năm 2005 hệ số đảm nhiệm vốn lưu động tăng lên, một đồng doanh thu thuần cần có 0,794 đồng vốn lưu động bình quân. So với năm 2004 hệ số đảm nhiệm vốn lưu động tăng tới 26,4%. Nguyên nhân là do sự suy giảm trong sức sinh lợi của vốn lưu động. Hệ số đảm nhiệm vốn lưu động tăng cao chứng tỏ hiệu quả sử dụng vốn lưu động càng thấp, không tiết kiệm được vốn lưu động. Ngoài các chỉ tiêu trên để đánh giá hiệu quả sử dụng vốn lưu động người ta phải xét đến số vòng quay của vốn lưu động và thời gian của một vòng luân chuyển của vốn lưu động vì nó giúp ta thấy được khả năng quay vòng vốn của doanh nghiệp. Trong năm 2004 số vòng quay của vốn lưu động tăng lên 10,9%, tức là vốn lưu động luân chuyển nhanh hơn. Trong một chu kỳ sản xuất kinh doanh vốn lưu động quay được gần 1,6 vòng. Do đó thời gian luân chuyển của vốn lưu động được rút ngắn còn 226 ngày so với 251 ngày một vòng của năm . Nhưng đến năm 2005, số vòng quay vốn lưu động lại giảm xuống do đó thời gian luân chuyển chậm hơn. Một chu kỳ sản xuất kinh doanh năm 2005 vốn lưu động quay được 1,259 vòng, chậm hơn 20,9% so với năm 2004. Thời gian luân chuyển cũng lâu hơn. Để vốn lưu động quay được một vòng cần 285 ngày, tăng 26,1% so với năm 2004. Điều đó chứng tỏ tốc độ doanh thu thuần đã không tăng lên tương ứng với tốc độ tăng vốn lưu động làm giảm số vòng quay của vốn. Đồng thời việc thu hồi các khoản phải thu của khách hàng (chiếm tỷ trọng cao nhất trong tổng vốn lưu động) cũng như các loại vốn lưu động khác rất chậm làm tăng thời gian luân chuyển của vốn lưu động. Điều này ảnh hưởng đến hiệu quả sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. Sở dĩ hiệu quả sử dụng vốn lưu động của doanh nghiệp năm 2005 lại giảm thấp như vậy là do rất nhiều nguyên nhân nhưng trong đó nguyên nhân quan trọng nhất là sự bất định, không thường xuyên trong việc công ty được thanh toán các khoản nợ và phải thường xuyên duy trì một khối lượng các khoản phải thu của khách hàng cũng như các khoản phải thu khác lớn. Vì vậy, hoạt động quản lý thu hồi công nợ và quản lý vốn lưu động trong khâu tiêu thụ sản phẩm là rất cần thiết. 3 Đánh giá tình hình sử dụng vốn tại công ty Là một doanh nghiệp đang hoạt động trên một thị trường có tính cạnh tranh ngày càng quyết liệt, ban lãnh đạo công ty thương mại và sản xuất Ngọc Diệp đã tỏ rõ bản lĩnh kinh doanh của mình trong việc dẫn dắt công ty tồn tại và phát triển. Lãnh đạo và tập thể cán bộ công nhân viên công ty thương mại và sản xuất Ngọc Diệp đã thực hiện hoạt động sản xuất kinh doanh với tinh thần cao, tận dụng tối đa mọi nguồn lực sẵn có, liên tục huy động về trang thiết bị, máy móc, vốn và đặc biệt là con người để không ngừng phát triển năng lực sản xuất, mở rộng quy mô, đầu tư thiết bị hiện đại nhằm khẳng định vị trí của công ty trên thị trường xây dựng cũng như trong các đơn vị quốc phòng làm kinh tế. Mặc dù trong thời gian qua doanh nghiệp có nhiều cố gắng nhưng trong hoạt động quản lý và sử dụng vốn của công ty vẫn bộc lộ một số hạn chế. Nguyên nhân của các hạn chế này bao gồm cả những lý do chủ quan và khách quan như do những khó khăn từ phía thị trường buộc công ty phải đưa ra những giải pháp tình thế chưa phù hợp và một phần cũng do những khiếm khuyết mà công ty khó tránh khỏi trong công tác quản lý tài chính. 3.1 Những kết quả đạt được: Như đã phân tích ở trên, việc sử dụng vốn của công ty đã đạt được những kết quả đáng khích lệ. Doanh thu thuần không ngừng tăng trong các năm qua khiến đem lại cho công ty nhiều lợi nhuận. Công ty đã thành công trong việc đảm bảo đủ vốn cho sản xuất kinh doanh. Việc sử dụng điều hoà khá linh hoạt càng làm tăng thêm hiệu quả sử dụng vốn. Điều này thể hiện ở chỗ thời gian qua mặc dù được tài trợ chủ yếu bởi nợ ngắn hạn, song công ty vẫn không bị mất khả năng thanh toán. Số nợ ngắn hạn được sử dụng để tài trợ cho nhu cầu vốn lưu động ngày càng tăng và một phần nhu cầu tài sản cố định của đơn vị. Với cơ cấu vốn chưa thật sự hợp lý song công ty đã cố gắng duy trì được mức lợi nhuận dương. Mặc dù hiệu quả sử dụng vốn cố định và vốn lưu động tăng trong năm 2004 rồi lại giảm trong năm 2005 nhưng về mặt giá trị thì hiệu quả sử dụng vốn của công ty đã là một thành tích mà không phải doanh nghiệp xây dựng, nhất là doanh nghiệp xây dựng quốc phòng nào cũng đạt được trong tình hình cạnh tranh gay gắt như hiện nay. Hiện nay, hiệu suất sử dụng vốn cố định của công ty được duy trì ở mức 7,83 đồng, hiệu quả sử dụng vốn cố định là gần 8%. Các chỉ số trung bình của ngành xây dựng là 4,5 đồng đối với hiệu suất sử dụng tài sản cố định và 7% đối với hiệu quả sử dụng vốn cố định. Như vậy kết quả không thể phủ nhận được là công ty đã duy trì được sản xuất kinh doanh theo mức chung của các doanh nghiệp xây dựng hiện nay. Công ty đã duy trì được lượng vốn lưu động chiếm tỷ trọng lớn trong tổng số vốn của công ty do đó tạo thuận lợi cho công ty trong sản xuất kinh doanh, chi phí khấu hao thấp giảm giá thành tăng lợi nhuận. Công ty đã tận dụng tốt những khoản nợ ngắn hạn mà chủ yếu là vay ngắn hạn và các khoản phải trả phải nộp khác để tài trợ cho tài sản lưu động và một phần khá quan trọng tài sản cố định. Điều này không phải là dễ dàng bởi muốn dùng nợ ngắn hạn để tài trợ cho tài sản dài hạn công ty phải có đủ uy tín cũng như khả năng phát triển. Việc duy trì các khoản phải thu lơn cũng chưa hẳn là xấu nếu công ty biết rõ khả năng có thể thu hồi lại được số công nợ này. Đồng thời công ty có thể ký kết được các hợp đồng mới hoặc có quan hệ kinh doanh với số khách hàng chưa trả nợ này. Nếu biết tiếp thị tốt cũng như duy trì mối quan hệ làm ăn lâu dài này, trong thời gian sắp tới chắc chắn công ty sẽ thu được nhiều lợi nhuận hơn do chính sách tín dụng thương mại thu hút khách hàng. Vì vậy vốn lưu động cũng như vốn cố định sẽ được sử dụng hiệu quả hơn. 3.2 Những hạn chế và nguyên nhân: Qua phân tích hiệu quả sử dụng vốn ở trên ta có thể dễ dàng nhận thấy hiệu quả sử dụng vốn của công ty đã giảm trong năm 2005. Điều đó cho thấy công tác quản lý và sử dụng vốn năm 2005 đã có nhiều vướng mắc cần phải tháo gỡ để tiếp tục sản xuất kinh doanh trong những năm tiếp theo. Những hạn chế trong công tác quản lý và sử dụng vốn cố định: Trong năm 2004 và 2005 hiệu suất và hiệu quả sử dụng vốn cố định của công ty đều giảm. Sở dĩ như vậy là do doanh thu và lợi nhuận của công ty tăng chậm so với sự gia tăng của vốn cố định bình quân. Đặc biệt năm 2005 lợi nhuận của công ty giảm so với năm 2004 khiến cho hiệu quả sử dụng vốn cố định giảm gần một nửa. Như vậy một hạn chế cơ bản là tài sản cố định đầu tư mới đã không phát huy được tác dụng. Tài sản cố định tăng liên tục trong các năm 2004 và 2005 song doanh thu và lợi nhuận lại không tăng tương ứng. Nguyên nhân là do các tài sản cố định mới đầu tư ít được sử dụng do khối lượng công việc tăng không đáng kể, công suất của máy móc cũ có thể đáp ứng được yêu cầu của các công trình. Vì vậy, máy móc thiết bị mới hầu như ít được dùng trong khi đó vẫn phải tính và trích khấu hao đối với số máy móc thiết bị mới này. Điều đó làm tăng chi phí sản xuất kinh doanh của đơn vị. Như vậy vốn cố định bình quân tăng nhanh trong khi doanh thu và lợi nhuận tăng lên chậm hoặc giảm đi là một hạn chế trong công tác quản lý sử dụng vốn cố định của doanh nghiệp. Những hạn chế trong công tác quản lý và sử dụng vốn lưu động: Trong năm 2005 hiệu quả sử dụng vốn lưu động của doanh nghiệp giảm chứng tỏ công tác thu hồi nợ của công ty kém, tồn kho cũng như các khoản tạm ứng, chi phí trả trước, chi phí chờ kết chuyển...lớn khiến doanh nghiệp bị ứ đọng vốn, giảm tốc độ luân chuyển cũng như sức sinh lợi của vốn lưu động. Trong cơ cấu vốn lưu động của doanh nghiệp có một bộ phận quan trọng nằm trong khâu sản xuất và khâu dự trữ nhằm đảm bảo cho quá trình sản xuất, kinh doanh của doanh nghiệp được liên tục. Bộ phận chủ yếu của vốn lưu động nằm trong khâu sản xuất là giá trị của sản phẩm dở dang hay chi phí sản xuất kinh doanh dở dang. Trong các doanh nghiệp xây dựng, đây có thể là các công trình, các hạng mục công trình dở dang chưa hoàn thành hay khối lượng công tác dở dang trong kỳ chưa được bên chủ đầu tư nghiệm thu, chấp nhận thanh toán hoặc chi phí phát sinh từ khi khởi công công trình đến thời điểm kiểm kê đánh giá đối với các công trình quy định thanh toán sau khi hoàn thành toàn bộ. Tỷ trọng hai khoản mục chi phí sản xuất kinh doanh dở dang và nguyên vật liệu tồn kho trong tổng vốn lưu động của đơn vị đang tăng trong hai năm qua. Nguyên nhân là do chu kỳ sản xuất kéo dài nên nhiều công trình chưa được hoàn thành và công ty phải duy trì sẵn sàng nguyên vật liệu cho thi công các hạng mục này. Một số công trình thi công bị gián đoạn vì bên A sửa thiết kế hay do thiếu vốn khiến công ty không có tiền thanh toán nguyên vật liệu và trả lương cho công nhân. Ngoài ra hai năm qua còn có một số các công trình chậm được quyết toán do nguyên nhân khách quan cũng như chủ quan ... gây ra tình trạng công trình chậm được nghiệm thu hoặc thanh toán, nguyên vật liệu phải sẵn sàng ở trong kho để sử dụng tăng tức là nguyên vật liệu tồn kho tăng. Do đó hiện tượng ứ đọng vốn lưu động tác động xấu đến công tác quản lý và sử dụng vốn lưu động tại doanh nghiệp. Đây cũng là một vấn đề cần xem xét tìm ra giải pháp khắc phục nhằm nâng cao hiệu quả sử dụng vốn lưu động của doanh nghiệp. phần III: một số giải pháp nâng cao hiệu quả sử dụng vốn tại công ty tm & sx ngọc diệp I- Định hướng phát triển của công ty trong thời gian tới Cùng với đà phát triển của nền kinh tế đất nước nói chung và của ngành xây dựng Việt Nam nói riêng, Công ty Thương mại và sản xuất Ngọc Diệp. đã đưa ra phương hướng và các chỉ tiêu kế hoạch cụ thể để phấn đấu nâng cao năng lực sản xuất mở rộng thị trường nhằm đạt hiệu quả kinh tế cao nhất. Từ nay đến năm 2020, Đảng và Nhà nước ta đang phấn đấu để đưa nước ta cơ bản trở thành một nước công nghiệp. Việc xây dựng, cải thiện và nâng cấp cơ sở hạ tầng đóng vai trò rất quan trọng trong sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước. Do đó nhu cầu về lắp đặt nội thất, điện lạnh sẽ không ngừng tăng lên trong những năm sắp tới. Theo dự báo về phát triển kinh tế của Việt Nam, giai đoạn 2005 -2005 tốc độ tăng GDP/ đầu người bình quân đạt 6 - 7%, có khả năng lên tới 7,5% một năm và vốn đầu tư của toàn xã hội trong 5 năm sẽ là 57-60 tỷ USD. Cùng với quá trình đó nhu cầu về nội thất nhà ở, văn phòng làm việc... của cả nước trong giai đoạn này tăng từ 15 -20% và có thể lên tới 25% và giai đoạn 2005- 2010 sẽ là khoảng 15% một năm. Do đó đây là cơ hội tốt để các công ty, trong đó có Công ty Thương mại và sản xuất Ngọc Diệp mở rộng hoạt động sản xuất kinh doanh của mình. Trên cơ sở nghiên cứu nhu cầu thị trường và khả năng cung ứng các sản phẩm xây dựng hiện có cũng như xem xét việc mở rộng để đáp ứng những nhu cầu này, Công ty thương mại và sản xuất Ngọc Diệp đã đề ra phương hướng phát triển và đưa ra mức doanh thu tiêu thụ sản phẩm cũng như mức lợi nhuận và thu nhập của người lao động để công ty phấn đấu đạt được. Cụ thể như sau: Doanh thu: 113.400 triệu đồng, tỷ lệ tăng trưởng 10%. Nộp ngân sách đạt 8.556 triệu đồng Lợi nhuận thực hiện : 1.265 triệu đồng. Tiền lương bình quân người lao động: 1.200.000/tháng. Để thực hiện được các chỉ tiêu trên, công ty đã đề ra kế hoạch sản xuất và tiêu thụ sản phẩm được thể hiện thông qua bảng sau: Chỉ tiêu Năm trước Năm nay Sản phẩm quốc phòng 31.610 34.000 -Xây dựng nhà cửa 15.210 16.000 -Xây dựng công trình giao thông 13.851 14.000 -Hệ thống điện nước-Hạ tầng 1.902 4.000 -Sản phẩm khác 647 0 Sản phẩm kinh tế 73.754 79.400 -Xây dựng dân dụng 50.216 55.000 -Xây dựng công trình giao thông 10.209 10.500 -Hệ thống điện nước-Hạ tầng 11.005 13.900 -Sản phẩm khác 2.324 0 Trên đây là một số chỉ tiêu mà công ty thương mại và sản xuất Ngọc Diệp phấn đấu đạt được trong năm 2006. Hoạt động sản xuất kinh doanh của công ty về cơ bản là có nhiều thuận lợi, tuy nhiên còn có một số khó khăn khách quan cũng như chủ quan gây ảnh hưởng bất lợi đến việc thực hiện thành công các chỉ tiêu trên. Qua phân tích thực trạng hiệu quả sử dụng vốn cho thấy trong năm vừa qua vốn được sử dụng chưa thực sự đem lại lợi nhuận cao nhất, việc đầu tư vào tài sản cố định và tài sản lưu động chưa hiệu quả. Một số chỉ tiêu tài chính biến động theo chiều hướng bất lợi làm giảm sự lành mạnh tài chính của công ty. Tình hình công nợ đang là một mối lo của công ty. Với mức

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc12680.DOC
Tài liệu liên quan