Đề tài Giải pháp nâng cao chất lượng bảo lãnh tại chi nhánh ngân hàng đầu tư phát triển Hà Nội

Tài liệu Đề tài Giải pháp nâng cao chất lượng bảo lãnh tại chi nhánh ngân hàng đầu tư phát triển Hà Nội: MỤC LỤC BẢNG KÊ CÁC CHỮ VIẾT TẮT NHĐTPTHN Ngân hàng đầu tư phát triển Hà Nội NHNN Ngân hàng Nhà nước NHTM Ngân hàng Thương mại DNQD Doanh nghiệp quốc doanh DNNQD Doanh nghiệp ngoài quốc doanh LỜI MỞ ĐẦU Ngày nay, xu hướng Thương mại quốc tế đã và đang trở thành mói quan tâm hàng đầu của các quốc gia. Thương mại quốc tế ngoài việc đem lại cho bản thân quốc gia đó một lợi thế cạnh tranh thương mại, tạo điều kiện khai thác tiềm lực kinh tế nội bộ quốc gia mà còn thúc đẩy tiến trình toàn cầu hoá một nền kinh tế thế giới. Xu hướng một nền kinh tế toàn cầu hoá đã tạo động lực phát triển cho Việt nam chuyển đổi nền kinh tế theo hướng Công nghiệp hoá và hiện đại hoá. Trong tiến trình này, ngành ngân hàng luôn có vai trò như “huyết mạch” nói các thành phần kinh tế với nhau bằng các nghiệp vụ đặc thù gồm hai lĩnh vực cơ bản: cung cấp tín dụng và thực hiện các dịch vụ ngân hàng mà không một doanh nghiệp nào có thể thay thế được. Từ đó có thể thấy ngân hàng có vai trò không thể phủ ...

doc74 trang | Chia sẻ: hunglv | Lượt xem: 1102 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem trước 20 trang mẫu tài liệu Đề tài Giải pháp nâng cao chất lượng bảo lãnh tại chi nhánh ngân hàng đầu tư phát triển Hà Nội, để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
MỤC LỤC BẢNG KÊ CÁC CHỮ VIẾT TẮT NHĐTPTHN Ngân hàng đầu tư phát triển Hà Nội NHNN Ngân hàng Nhà nước NHTM Ngân hàng Thương mại DNQD Doanh nghiệp quốc doanh DNNQD Doanh nghiệp ngoài quốc doanh LỜI MỞ ĐẦU Ngày nay, xu hướng Thương mại quốc tế đã và đang trở thành mói quan tâm hàng đầu của các quốc gia. Thương mại quốc tế ngoài việc đem lại cho bản thân quốc gia đó một lợi thế cạnh tranh thương mại, tạo điều kiện khai thác tiềm lực kinh tế nội bộ quốc gia mà còn thúc đẩy tiến trình toàn cầu hoá một nền kinh tế thế giới. Xu hướng một nền kinh tế toàn cầu hoá đã tạo động lực phát triển cho Việt nam chuyển đổi nền kinh tế theo hướng Công nghiệp hoá và hiện đại hoá. Trong tiến trình này, ngành ngân hàng luôn có vai trò như “huyết mạch” nói các thành phần kinh tế với nhau bằng các nghiệp vụ đặc thù gồm hai lĩnh vực cơ bản: cung cấp tín dụng và thực hiện các dịch vụ ngân hàng mà không một doanh nghiệp nào có thể thay thế được. Từ đó có thể thấy ngân hàng có vai trò không thể phủ nhận trong nền kinh tế của bất kỳ quốc gia nào. Nhưng trong việc thực hiện cung cấp tín dụng cũng như thực hiện dịch vụ ngân hàng luôn gắn liền vơí hai hệ quả rui ro và chi phí. Từ đó phát sinh nhu cầu thực tế chống đỡ với những rủi ro trong các thương vụ giữa đôi: Chủ nợ và khách nợ mua và bán… Trong thời gian thực tập tại chi nhánh NHĐT-PT HN, em đã tìm hiểu và nhận thấy hoạt động bảo lãnh là một hoạt động mới mẻ và có nhiều vấn đề cần nghiên cưú nên em đã chọn đề tài: “Giải pháp nâng cao chất lượng bảo lãnh tại chi nhánh NHĐT-PT HN” Luận văn chia làm 3 chương: Chương I: Lý luận chung về chất lượng bảo lãnh của Ngân hàng thương mại Chương II: Thực trạng chất lượng bảo lãnh tại chi nhánh NHĐT-PT HN Chương III: Một số giải pháp nhằm nâng cao chất lượng bảo lãnh tại chi nhánh NHĐT-PT HN. Để hoàn thành đề tài này, em đã nhận được sự hướng dẫn rất quý báu của cô giáo hướng dẫn phó giáo sư, tiến sĩ Phan Thị Thu Hà và các thầy cô trong khoa Ngân hàng- Tài chính. Ngoài ra, trong thời gian thực tập, em còn được sự giúp đỡ tận tình của bác Giám đốc ngân hàng, cô cùng các Anh Chị, Cô Chú tại trụ sở Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Hà Nội. Em xin chân thành cảm ơn và mong tiếp tục nhận được sự chỉ bảo của các thầy cô và các cô chú trong ngân hàng. Em xin chân thành cảm ơn.! CHƯƠNG 1 LÝ LUẬN CHUNG VỀ CHẤT LƯỢNG BẢO LÃNH CỦA NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI 1.1. Những vấn đề cơ bản về hoạt động bảo lãnh của NHTM 1.1.1. Khái niệm bảo lãnh của Ngân hàng thương mại Trong pháp luật dân sự ở nước ta, kháI niệm bảo lãnh được nêu trong điều 366 của Bộ luật dân sự: “ Bảo lãnh là việc người thứ ba (người bảo lãnh ) cam kết với bên có quyền (người nhận bảo lãnh) sẽ thực hiện nghĩa vụ thay cho bên có nghiã vụ (người được bảo lãnh), nếu khi đến hạn mà người được bảo lãnh không thực hiện hoặc thực hiện không đúng nghĩa vụ….” Trong pháp lệnh hợp đồng kinh tế: “Bảo lãnh tài sản là sự bảo đảm bằng tài sản thuộc quyền sở hữu của người nhận bảo lãnh để chịu trách nhiệm tài sản thay cho người được bảo lãnh khi người này vi phạm hợp đồng kinh tế đã ký kết….” Từ đó ta đưa ra kháI niệm chung về bảo lãnh như sau: “Bảo lãnh là sự cam kết của người nhận bảo lãnh sẽ thực hiện đầy đủ các nghiã vụ và quyền lợi nếu người xin bảo lãnh không thực hiện hoặc thực hiện không đúng với bên yêu cầu bảo lãnh”. Trong quy chế “Bảo lãnh ngân hàng” được ban hành kèm theo Quyết định số 283/2000/QĐ-NHNN14 ngày 25 tháng 08 năm 2000 của Thống đốc Ngân hàng Nhà nước và theo QĐ số 112/2003/QĐ-NHNN của Thống đốc NHNN ban hành ngày 11/02/2003 về việc sửa đổi bổ sung một số điều của Quy chế bảo lãnh đã chỉ rõ: “Bảo lãnh ngân hàng” là cam kết bằng văn bản của tổ chức tín dụng (bên bảo lãnh) với bên có quyền (bên nhận bảo lãnh) về việc thực hiện nghĩa vụ tài chính thay cho khách hàng (bên được bảo lãnh) khi khách hàng không thực hiện hoặc thực hiện không đúng nghĩa vụ đã cam kết với bên nhận bảo lãnh. Khách hàng phảI nhận nợ và hoàn trả cho tổ chức tín dụng số tiền đã được trả thay. Bên bảo lãnh là các tổ chức tín dụng bao gồm Ngân hàng thương mại quốc doanh, ngân hàng thương mại cổ phần, ngân hàng đầu tư, ngân hàng phát triển, ngân hàng chính sách, ngân hàng liên doanh, chi nhánh ngân hàng nước ngoài tại Việt Nam, ngân hàng hợp tác, các loại hình ngân hàng khác và các tổ chức tín dụng phi ngân hàng thành lập và hoạt động theo Luật Các tổ chức tín dụng. Bên được bảo lãnh là các tổ chức và cá nhân trong nước và nước ngoài bao gồm các doanh nghiệp đang hoạt động kinh doanh hợp pháp tại Việt Nam như doanh nghiệp Nhà nước, công ty cổ phần, công ty trách nhiệm hữu hạn, công ty hợp danh, doanh nghiệp của các tổ chức chính trị, tổ chức chính trị-xã hội, doanh nghiệp liên doanh, doanh nghiệp 100% vốn đầu tư nước ngoài tại Việt Nam, doanh nghiệp tư nhân, hộ kinh doanh cá thể; các tổ chức tín dụng được thành lập và hoạt động theo Luật Các tổ chức tín dụng; Hợp tác xã và các tổ chức khác có đủ điều kiện quy định tại Điều 94 của Bộ Luật Dân sự; Các tổ chức kinh tế nước ngoài tham gia các hợp đồng hợp tác liên doanh và tham gia đấu thầu các dự án đầu tư tại Việt Nam hoặc vay vốn để thực hiện các dự án đầu tư tại Việt Nam. Ngân hàng sẽ không được bảo lãnh đối với những người như sau: Thành viên Hội đồng quản trị, ban kiểm soát, Tổng Giám đốc (Phó Giám đốc) của các tổ chức tín dụng; Cán bộ, nhân viên của chính tổ chức tín dụng đó thực hiện nhiệm vụ thẩm định, quyết định bảo lãnh; Bố, mẹ, vợ, chồng, con của thành viên Hội đồng quản trị, Ban kiểm soát, Tổng Giám đốc (Giám đốc), Phó Tổng Giám đốc (Phó Giám đốc). 1.1.2. Phân loại bảo lãnh 1.1.2.1. Phân theo mục đích của bảo lãnh a. Bảo lãnh thực hiện hợp đồng: Bảo lãnh thực hiện hợp đồng là một bảo lãnh ngân hàng do tổ chức tín dụng phát hành cho bên nhận bảo lãnh bảo đảm việc thực hiện đúng, đầy đủ các nghĩa vụ của khách hàng với bên nhận bảo lãnh theo hợp đồng đã ký kết. Trong trường hợp khách hàng không thực hiện đúng và đầy đủ các nghĩa vụ trong hợp đồng, tổ chức tín dụng thực hiện nghĩa vụ bảo lãnh đã cam kết. Đây là loại bảo lãnh được dùng phổ biến nhất và có thể không phảI yêu cầu một loại bảo lãnh nào khác ngoài nó trong quá trình mua bán hàng hoá hoặc dự thầu xây dựng. b. Bảo lãnh dự thầu: Bảo lãnh dự thầu là cam kết của ngân hàng với bên mời thầu bảo đảm nghĩa vụ tham gia dự thầu của khách hàng. Trong trường hợp khách hàng bị phạt do vi phạm quy định dự thầu mà không nộp hoặc nộp không đủ tiền phạt cho bên mời thầu thì tổ chức tín dụng thực hiện nghĩa vụ đã cam kết. Thực chất mục đích của bảo lãnh dự thầu là bảo đảm việc người dự thầu không rút lui, không ký hợp đồng hoặc thay đổi ý định khi đã trúng thầu. c. Bảo lãnh thanh toán: Bảo lãnh thanh toán được sử dụng trong các hợp đồng mua bán thiết bị hàng hoá trả chậm. Quan hệ giữa người bán và người mua thực chất là quan hệ tín dụng thương mại, theo đó người mua chấp nhận trả tiền hàng hoá theo kỳ hạn nợ cụ thể. Trong trường hợp người mua không thanh toán hoặc thanh toán không đủ số tiền theo hợp đồng thì ngân hàng bảo lãnh chịu trách nhiệm trả thay cho người mua như đã cam kết d. Bảo lãnh bảo đảm chất lượng sản phẩm theo hợp đồng: Loại bảo lãnh được sử dụng như trong lĩnh vực xây lắp để bảo hành cho các công trình hoặc các hợp đồng nhận thiết bị toàn bộ để bảo hành chất lượng máy móc thiết bị. Ngân hàng phát hành cho bên nhận bảo lãnh bảo đảm khách hàng thực hiện đúng các khoản thoả thuận về chất lượng của sản phẩm theo hợp đồng đã ký kết với bên nhận bảo lãnh. Trong trường hợp khách hàng bị phạt do không thực hiện đúng các thoả thuận trong hợp đồng về chất lượng sản phẩm theo hợp đồng đã ký kết với bên nhận bảo lãnh mà không nộp hoặc nộp không đầy đủ tiền phạt cho bên nhận bảo lãnh, tổ chức tín dụng thực hiện nghĩa vụ bảo lãnh đã cam kết. e. Bảo lãnh hoàn lại thanh toán: Bảo lãnh hoàn lại thanh toán là do tổ chức tín dụng phát hành cho bên nhận bảo lãnh vê việc bảo đảm nghĩa vụ hoàn trả tiền ứng trước của khách hàng theo hợp đồng đã ký với bên nhận bảo lãnh. Trong trường hợp khách hàng vi phạm các cam kết với bên nhận bảo lãnh và phảI hoàn trả số tiền cung ứng trước cho bên nhận bảo lãnh thì tổ chức tín dụng sẽ hoàn trả số tiền ứng trước cho bên nhận bảo lãnh. 1.1.2.2. Phân theo phương thức phát hành bảo lãnh a. Bảo lãnh trực tiếp: Đây là loại hình bảo lãnh đơn giản nhất, được thực hiện dựa trên mối quan hệ giữa 3 bên trong quan hệ bảo lãnh, trong đó ngân hàng bảo lãnh cam kết thanh toán trực tiếp với ngừơI hưởng thụ không cần phảI qua một ngân hàng trung gian nào cả. Sau khi ngân hàng đã bồi thường cho người thụ hưởng bảo lãnh, ngân hàng có thể trực tiếp truy đòi bồi hoàn từ người được bảo lãnh Sơ đồ bảo lãnh trực tiếp NGÂN HÀNG PHÁT HÀNH NGƯỜI ĐƯỢC BẢO LÃNH NGƯỜI THỤ HƯỞNG BẢO LÃNH (3) (2) (1) (1) Hợp đồng chính ký kết giữa người được bảo lãnh và người thụ huởng bảo lãnh . (2) Khách hàng yêu cầu phát hành bảo lãnh (3) Ngân hàng phát hành thư bảo lãnh và chuyển trực tiếp cho người thụ hưởng (sau khi xét duyệt và chấp nhận) b. Bảo lãnh gián tiếp: Bảo lãnh gián tiếp là loại bảo lãnh trong đó người được bảo lãnh sẽ yêu cầu ngân hàng thứ nhất (gọi là ngân hàng chỉ thị) đề nghị ngân hàng thứ 2 (ngân hàng phát hành) đưa ra cam kết bảo lãnh chuyển cho người thụ hưởng. Trong loại bảo lãnh này, người được bảo lãnh không trực tiếp bồi hoàn cho ngân hàng phát hành bảo lãnh mà chính ngân hàng chỉ thị sé chịu trách nhiệm bồi hoàn cho ngân hàng phát hành, thông qua một cam kết gọi là đối ứng do chính ngân hàng này đưa ra. Bảo lãnh đối ứng cũng có nội dung và điều khoản quy định như trong bảo lãnh chính. Sau khi đã bồi hoàn cho ngân hàng phát hành bảo lãnh chính, đến lượt mình ngân hàng chỉ thị lại có thể truy đổi từ người được bảo lãnh. Như vậy, trong bảo lãnh gián tiếp có ít nhất 4 thành phần tham gia là: Ngân hàng phát hành bảo lãnh, ngân hàng chỉ thị, người được bảo lãnh và người hưởng thụ bảo lãnh. Bảo lãnh gián tiếp được sử dụng chủ yếu trong trường hợp người thụ hưỏng là người nước ngoài và ngân hàng phát hành ở ngay tại quốc gia của người thụ hưởng. Do vậy, quyền lợi của người thụ hưởng được bảo vệ chắc hơn. Sơ đồ bảo lãnh gián tiếp NGÂN HÀNG PHÁT HÀNH (NGÂN HÀNG THỨ HAI) NGÂN HÀNG CHỈ THỊ (NGÂN HÀNG THỨ NHẤT) NGƯỜI THỤ HƯỞNG BẢO LÃNH NGƯỜI ĐƯỢC BẢO LÃNH (1) (2) (4) (3) (1) Hợp đồng gốc (2) Khách hàng yêu cầu ngân hàng phục vụ mình ra chỉ thị cho ngân hàng chính phát hành bảo lãnh. (3) Ngân hàng thứ nhất chỉ thị cho ngân hàng thứ 2 phát hành bảo lãnh, đồng thời cam kết bồi hoàn bảo lãnh đối ứng. (4) Ngân hàng thứ 2 phát hành bảo lãnh: có thể chuyển trực tiếp cho người thụ hưởng 1.1.2.3. Phân loại theo đối tượng bảo lãnh a. Bảo lãnh trong nước: Là loại bảo lãnh mà người yêu cầu bảo lãnh, người được bảo lãnh và ngân hàng bảo lãnh ở trong phạm vi 1 quốc gia. Các hình thức áp dụng cho loại bảo lãnh này là: bảo lãnh dự thầu, bảo lãnh thực hiện hợp đồng, bảo lãnh tiền ứng trước…..được thực hiện thông qua ngân hàng phát hành thư bảo lãnh. b. Bảo lãnh ngoài nước: Là loại hình bảo lãnh mà trong đó chỉ có một bên ở trong nước, còn bên kia ở nước ngoài. Loại hình này thường sử dụng 1 trong các hình thức bảo lãnh sau: + Mở thư tín dụng mua hàng trả chậm + Ký bảo lãnh trên hối phiếu nhận nợ với nước ngoài +Phát hành thư bảo lãnh +Lập giấy chứng nhận kỳ hạn nợ 1.1.3. Quy trình bảo lãnh Sau đây là quy trình bảo lãnh cơ bản của một NHTM Bước 1: Tiếp nhận và hoàn chỉnh hồ sơ 1. Hướng dẫn khách hàng nộp hồ sơ bảo lãnh : a. Hồ sơ áp dụng đới với các loại bảo lãnh. - Giấy đề nghị bảo lãnh - Hồ sơ pháp lý về khách hàng - Hồ sơ về tình hình sản xuất kinh doanh, tài chính. - Hồ sơ về đảm bảo bảo lãnh. b. Hồ sơ áp dụng riêng cho tứng loại bảo lãnh *Đối với bảo lãnh vay vốn: - Hồ sơ về tình hình tài chính và sản xuất kinh doanh khách hàng - Hồ sơ về dự án đầu tư *Đối với bảo lãnh thanh toán - Hợp đồng mua bán hoặc cam kết thanh toán của các bên liên quan - Tài liệu liên quan về khả năng nguồn vốn để thanh toán. - Hạn mức vay vốn (trường hợp thanh toán bằng vốn vay) * Đối với bảo lãnh trong xây dựng - Bảo lãnh dự thầu: + Tài liệu mới thầu + Quy chế hoặc quy định đấu thầu của chủ đầu tư - Bảo lãnh thực hiện hợp đồng - Bảo lãnh thanh toán - Bảo lãnh đảm bảo chất lượng sản phẩm *Đối với bảo lãnh bằng 100% vốn tự có của khách hàng: Hồ sơ gồm có - Chứng từ chứng minh tiền đã được gửi vào tài khoán tiền gửi ký quỹ tại ngân hàng bảo lãnh bằng 100% gía trị món bảo lãnh. - Giấy đề nghị bảo lãnh. - Giấy cam kết dùng tiền ký quỹ đảm bảo cho 100% nghĩa vụ bảo lãnh. 2. Tiếp nhận kiểm tra và hoàn chỉnh hồ sơ Bước 2: Quyết định bảo lãnh 1. Thẩm định hồ sơ bảo lãnh + Chuyển hồ sơ bảo lãnh + Thẩm định hồ sơ + Lập tờ trình - Ra quyết định bảo lãnh Bước 3 : Phát hành bảo lãnh - Hoàn chỉnh lại hồ sơ bảo lãnh (nếu có yêu cầu) - Thực hiện các biện pháp đảm bảo - Ký hợp đồng bảo lãnh và phát hành thư bảo lãnh - Về thời hạn xem xét phát hành bảo lãnh Thời hạn tối đa không qua 30 ngày kể từ ngày chi nhánh nhận được hồ sơ đầy đủ, hợp lệ của khách hàng Bước 4: Xử lý sau khi phát hành bảo lãnh. 1. Theo dõi phát sinh nghĩa vụ bảo lãnh và thực hiện nghĩa vụ bảo lãnh. +Theo dõi việc phát sinh và nghĩa vụ bảo lãnh đối với các loại bảo lãnh như bảo lãnh dự thầu, thực hiện hợp đồng và cam kết bảo lãnh khác. +Theo dõi giảI ngân, thực hiện nhận nợ (đối với bảo lãnh thanh toán, bảo lãnh hoàn thanh toán, bảo lãnh vay vốn) - Hạch toán số dư bảo lãnh - Theo dõi thực hiện hợp đồng + Kiểm tra theo dõi khách hàng (trừ trường hợp bảo lãnh bằng ký quỹ 100% vốn tự có) + Thu phí bảo lãnh + Kiểm tra tài sản đảm bảo cho bảo lãnh + Đôn đốc nghĩa vụ thực hiện bảo lãnh + Gia hạn bảo lãnh +Xử lý khi phảI trả nợ thay Trích tiền gửi ký quỹ bảo lãnh thanh toán trả bên thụ hưởng (nếu có) Đàm phán với bên cho vay để gia hạn nợ cho khách hàng Bước 5 : Kết thúc bảo lãnh - Tất toán bảo lãnh - GiảI toả tài sản bảo đảm bảo lãnh - Đánh giá kết quả, rút kinh nghiệm - Lưu trữ hồ sơ * Nội dung thư bảo lãnh: Phát hành thư bảo lãnh chỉ là một trong các hình thức bảo lãnh của ngân hàng mà ta sẽ xem xét ở phần dưới.Tuy nhiên đây là hình thức thông dụng nhất. Thông qua thư bảo lãnh chúng ta có thể hiểu rõ hơn một số kháI niệm cũng như nghiệp vụ bảo lãnh ngân hàng. Theo Điều 3 UCP 458, các bảo lãnh đều phảI quy định: - Bên chỉ thị - Bên thụ hưởng - Bên bảo lãnh - Hợp đồng cơ sở yêu cầu phát hành bảo lãnh - Số tiền lớn nhất được thanh toán và loại tiền thanh toán - Ngày hoặc sự kiện đáo hạn của bảo lãnh - Các điều kiện đòi thanh toán - Các điều khoản khấu trừ bảo lãnh nếu có Một thư bảo lãnh thường bao gồm những nội dung sau: *Tên, địa chỉ người nhận *Phần mở đầu: - Các thành viên tham gia hợp đồng, số hợp đồng, ngày ký hợp đồng. - Tên hàng, giá trị hàng (công trình). - Mục đích bảo lãnh: Khẳng định việc thiết lập thư bảo lãnh ngân hàng như đã thoả thuận trong hợp đồng . Phần mở đầu bao gồm một đoạn giới thiệu qua về nghiệp vụ chính từ đó dẫn tới thiết lập thư bảo lãnh ngân hàng. Phần này không mang tính bắt buộc nhưng cần thiết để làm rõ các phần sau. *Phần nội dung: Tuyên bố trách nhiệm của ngân hàng: - Ngân hàng đứng ra bảo lãnh: tên, địa chỉ. - Bên chỉ thị bảo lãnh:Tên, địa chỉ. - Bên thụ hưởng bảo lãnh: Tên, địa chỉ. - Hợp đồng cơ sở dẫn tới bảo lãnh. - Số tiên tối đa và loại tiền phảI trả : Nếu không quy định điều này người thụ hưởng có thể yêu cầu đòi tiền lớn hơn số tiền trong thư bảo lãnh. Số tiền tối đa này không bao gồm lãI suất phạt trong trường hợp ngân hàng trả chậm. Loại tiền trong thư bảo lãnh không nhất thiết phảI là đồng tiền trong hợp đồng cơ sở. * Điều kiện đòi tiền: Đây là điều khoản quan trọng nhất của một thư bảo lãnh vì nó thể hiện mối quan hệ giữa các bên trong hợp đồng cơ sở và sự thoả thuận về phân chia rủi ro giữa các chủ thể này. Thường có các điều kiện sau: + Trả tiền theo yêu cầu đầu tiên. + Trên cơ sở xuất trình chứng từ hoặc phán quyết của toà án. * Thời hạn hiệu lực: Có ba cách quy định ngày hết hạn : + Quy định ngày cụ thể theo lịch. + Dựa trên một sự kiện xảy ra trong hợp đồng cơ sở. Ví dụ như thư bảolãnh tiền ứng trước trong hợp đồng mua bán thường quy định ngày hết hiệu lực là ngày người xuất khẩu hoàn thành nghĩa vụ giao hàng. Việc quy định này thường dùng với các trường hợp không xác định cụ thể ngày hoàn thành nghĩa vụ của người được bảo lãnh. + Phối hợp hai cách trên: Chẳng hạn thư bảo lãnh tiền ứng trước có thể quy định nó sẽ hết hiệu lực khi kết thúc giao hàng lần cuối nhưng không được muộn hơn một ngày cụ thể nào đó. - Điều khoản khấu trừ (nếu có): Điều khoản này có ý nghĩa làm giảm số tiền tối đa của thư bảo lãnh theo tiến độ thực hiện hợp đồng và do đó làm giảm trách nhiệm của ngân hàng và người được bảo lãnh theo thư bảo lãnh. Điều khoản này thường xuất hiện trong thư bảo lãnh tiền vay vốn, bảo lãnh tền ứng trước.. - Các nội dung khác như: Thời gian trả tiền của ngân hàng, chuyển nhượng, luật áp dụng và cơ quan tài phán... - Chữ ký của người có thẩm quyền: Thư bảo lãnh có thể lập bằng văn bản có chữ ký của người có thẩm quyền hoặc bằng Telex có khoá mã. 1.1.4. Chính sách bảo lãnh 1.1.4.1. Phạm vi bảo lãnh Nghĩa vụ được Ngân hàng bảo lãnh bao gồm một, một số hoặc toàn bộ các nghĩa vụ sau đây: - Nghĩa vụ trả nợ gốc, lãI và các chi phí khác có liên quan đến khoản vay - Nghĩa vụ thanh toán tiền mua vật tư, hàng hoá, máy móc thiết bị và các khoản chi phí để khách hàng thực hiện dự án - Nghĩa vụ thanh toán các khoản thuế, các nghĩa vụ tài chính khác đối với nhà nước - Nghĩa vụ của khách hàng tham gia dự thầu, thực hiện hợp đồng và các quy định của pháp luật - Các nghĩa vụ hợp pháp khác do các bên thoả thuận cam kết trong các hợp đồng liên quan -Ngân hàng chỉ được bảo lãnh theo yêu cầu của khách hàng trong phạm vi, mức phán quyết đã được tổng giám đốc NHTM uỷ quyền xác định tổng mức bảo lãnh phù hợp với khả năng tài chính của mình. 1.1.4.2. Điều kiện bảo lãnh Khách hàng muốn được bảo lãnh phảI có đủ các điều kiện sau: - Có đầy đủ năng lực pháp luật dân sự, năng lực hành vi dân sự theo quy định - Có tín nhiệm trong quan hệ tín dụng thanh toán với ngân hàng bảo lãnh - Có bảo đảm hợp pháp cho nghĩa vụ được bảo lãnh - Có dự án đầu tư hoặc phương án sản xuất kinh doanh khả thi, hiệu quả khi đề nghị bảo lãnh vay vốn - Trong trường hợp vay vốn nước ngoài khách hàng phảI thực hiện đúng các quy định của pháp luật về quản lý vay và trả nợ nước ngoài. 1.1.4.3. Cam kết bảo lãnh Cam kết bảo lãnh được ngân hàng và khách hàng thống nhất, bao gồm những nội dung cơ bản sau + Tên địa chỉ của ngân hàng bảo lãnh, khách hàng được bảo lãnh, bên nhận bảo lãnh + Số tiền bảo lãnh + Phạm vi đối tượng và thời hạn hiệu lực của bảo lãnh + Hình thức và các điều kiện thực hiện nghĩa vụ bảo lãnh 1.1.4.4. Phí bảo lãnh  Phí bảo lãnh là chi phí mà người được bảo lãnh phải trả cho ngân hàng do được hưởng dịch vụ này. Phí bảo lãnh phải đảm bảo bù đắp các chi phí bỏ ra của ngân hàng có tính đến các rủi ro mà ngân hàng có thể phải gánh chịu. Nếu xét bảo lãnh dưới góc độ một sản phẩm dịch vụ thì phí bảo lãnh chính là giá cả của dịch vụ đó. Phí bảo lãnh có thể được tính bằng số tuyệt đối hoặc tính trên cơ sở tỷ lệ phí. Phí bảo lãnh theo tỷ lệ phí được tính theo công thức: Phí bảo lãnh = Số tiền bảo lãnh * Tỷ lệ phí * Thời gian bảo lãnh. Số tiền bảo lãnh: Là số tiền ngân hàng cam kết trả thay khi bên được bảo lãnh không thực hiện đúng hợp đồng được ghi trong hợp đồng bảo lãnh. Tỷ lệ phí (%): Được quy định cụ thể với từng loại bảo lãnh, từng ngân hàng và từng quốc gia khác nhau. Phí bảo lãnh được tính vào phí dịch vụ nói chung của ngân hàng và đóng góp trực tiếp vào lợi nhuận của ngân hàng. 1.1.4.5. Thẩm quyền bảo lãnh - Tổng giám đốc NHTM ký và uỷ quyền cho phó tổng giám đốc NHĐT-PT VN, giám đốc chi nhánh NH được phép ký bảo lãnh - Giám đốc hoặc người được uỷ quyền hợp pháp bảo lãnh chỉ thực hiện ký bảo lãnh trong phạm vi được tổng giám đốc NHTM uỷ quyền. Phạm vi uỷ quyền và mức uỷ quyền ký từng loại bảo lãnh quy định cho ngân hàng có văn bản riêng. 1.2. Chất lượng bảo lãnh 1.2.1. Khái niệm Một nghiệp vụ bảo lãnh được coi là có chất lượng khi nó đem lại lợi ích cho tất cả các chủ thể tham gia gồm Ngân hàng bảo lãnh, bên được bảo lãnh và bên nhận bảo lãnh. Bản thân ngân hàng khi tiến hành một nghiệp vụ bảo lãnh cũng luông mong muốn nó có chất lượng cao nhất. Vậy chất lượng bảo lãnh là gì, ta sẽ xem xét chất lượng bảo lãnh từ các góc độ khác nhau: 1.2.2. Các chỉ tiêu phản ánh - Góc độ khách hàng: Khách hàng ở đây bao gồm cả bên được bảo lãnh và bên nhận bảo lãnh. Người nhận bảo lãnh có thể là pháp nhân hay cá nhân. Vậy đứng trên góc độ khách hàng thì bảo lãnh có chất lượng là bảo lãnh của những Ngân hàng có uy tín, có khả năng tài chính cao. Chất lượng ở đây được đánh giá trên cơ sở dich vụ bảo lãnh mà Ngân hàng cung cấp như phí bảo lãnh thấp, thủ tục nhanh gọn, Ngân hàng có uy tín cao nên được các bên tin tưởng đứng ra bảo lãnh, v.v...Qua đó bảo lãnh đã giúp cho khách hàng : + Đối với người được bảo lãnh, một nghiệp vụ bảo lãnh có chất lượng đã tạo điều kiện cho Doanh nghiệp hoàn thành tốt hoạt động cần bảo lãnh của mình như thu hút được vốn, công nghệ, có được hợp đồng, tạo công ăn việc làm. Có trường hợp, do có bên thứ ba bảo lãnh mà ngân hàng còn mạnh dạn cho vay khách hàng với lãi suất thấp. + Đối với bên nhận bảo lãnh để đảm bảo an toàn, họ yêu cầu bên được bảo lãnh phải có một hợp đồng bảo lãnh trong đó người bảo lãnh cam kết thực hiện nghĩa vụ thay cho bên được bảo lãnh trong trường hợp đến kỳ hạn mà bên được bảo lãnh không thực hiện được nghĩa vụ đi kèm khi ký kết hợp đồng kinh tế. Bởi vì nếu có một ngân hàng đứng ra bảo lãnh, bên được bảo lãnh sẽ thực hiện hợp đồng một cách tốt hơn hoặc nếu có sai sót xẩy ra thì họ vẫn được bồi thường thiệt hại. Vậy bảo lãnh có chất lượng nếu nó tạo niềm tin và sự an toàn cho người thụ hưởng khi thực hiện hợp đồng gốc với bên được bảo lãnh, nhất là trong trường hợp xấu nhất là Ngân hàng phải thanh toán số tiền bảo lãnh do bên được bảo lãnh vi phạm hợp đồng thì thủ tục, trình tự cũng nhanh gọn và kịp thời. - Nhìn từ góc độ ngân hàng: Trước khi tiến hành một nghiệp vụ bảo lãnh, ngân hàng đã phân loại chủ thể bảo lãnh theo mức độ an toàn từ cao đến thấp: Chính phủ, công ty bảo hiểm, các ngân hàng, các định chế tài chính khác, các doanh nghiệp, các cá nhân. Tuy vậy, một nghiệp vụ bảo lãnh được coi là tốt phải được tiến hành tốt ngay từ khi thẩm định cho đến khi kết thúc một nghiệp vụ bảo lãnh với kết quả là ngân hàng thu được doanh thu từ nghiệp vụ này. Có nghĩa rằng ngân hàng thu được đầy đủ phí và ngân hàng không phải tiến hành trả thay cho khách hàng. Nhờ đó mà hỗ trợ cho khách hàng phát triển, đẩy mạnh hoạt động sản xuất kinh doanh. Qua đó, ngân hàng tăng cường mối quan hệ với khách hàng, đẩy mạnh uy tín của ngân hàng trên trường quốc tế, thu hút thêm khách hàng. - Nhìn từ góc độ của nền kinh tế: Nghiệp vụ bảo lãnh có chất lượng tạo điều kiện thuận lợi cho tất cả các bên từ người được bảo lãnh, ngân hàng, người nhận bảo lãnh. Nó giúp các doanh nghiệp giải quyết nhu cầu về vốn, công nghệ, phát triển và mở rộng sản xuất, góp phần vào sự tăng trưởng và phát triển kinh tế đất nước. 1.2.3. Tiêu chuẩn phản ánh chất lượng hoạt động bảo lãnh ngân hàng 1.2.3.1. Tiêu chuẩn phản ánh chất lượng một nghiệp vụ bảo lãnh Khi đứng về phía ngân hàng để đánh giá một nghiệp vụ bảo lãnh có chất lượng không, ta phải đánh giá cả quá trình thực hiện nghiệp vụ bảo lãnh đó. - Ngân hàng phải đảm bảo mọi bước thực hiện đều đúng pháp luật. - Ngân hàng phải đáp ứng dịch vụ bảo lãnh hoàn hảo theo yêu cầu của khách hàng trong thời gian nhanh nhất. Về thời gian để thực hiện một món bảo lãnh, mỗi một ngân hàng có quy định thời gian làm việc đáp ứng nhu cầu của khách hàng. - Cán bộ, nhân viên ngân hàng phải có thái độ phục vụ văn minh, lịch sự, hạn chế tối đa sự phàn nàn của khách hàng. Điều này ảnh hưởng tới nhận xét của khách hàng về toàn bộ các dịch vụ mà ngân hàng cung ứng, tới hình ảnh của ngân hàng trong mắt khách hàng. Do đó, cán bộ thực hiện bảo lãnh cũng là cán bộ thực hiện Marketing. - Nghiệp vụ bảo lãnh ngân hàng giúp khách hàng thực hiện tốt mục đích của mình theo đúng pháp luật. Giúp khách hàng mở rộng hoạt động sản xuất kinh doanh, tăng thu nhập, nâng cao sức cạnh tranh. - Khi phát sinh nghĩa vụ bảo lãnh, ngân hàng phải bảo đảm thực hiện nghĩa vụ của bên bảo lãnh theo yêu cầu đòi tiền đầu tiên của bên nhận bảo lãnh và phải luôn luôn đảm bảo đủ nguồn vốn để thực hiện trả nợ thay khi xác định được trách nhiệm và nghĩa vụ của người được bảo lãnh. - Ngân hàng phải luôn luôn đảm bảo rằng khi phát sinh nghĩa vụ bảo lãnh thì ngân hàng sẽ thu lại được tiền từ người được bảo lãnh một cách nhanh nhất. 1.2.3.2. Tiêu chuẩn đánh giá chất lượng hoạt động bảo lãnh tại ngân hàng Các tiêu chuẩn trên là để đánh giá chất lượng của một nghiệp vụ bảo lãnh. Tuy nhiên, để đánh giá chất lượng hoạt động bảo lãnh tại một ngân hàng, ta cần phải đánh giá tất cả các nghiệp vụ bảo lãnh mà ngân hàng đã thực hiện. - Tổng phí thu được từ dịch vụ bảo lãnh trên tổng doanh thu dịch vụ ngân hàng. Nếu hệ số này lớn chứng tỏ hoạt động dịch vụ bảo lãnh tại ngân hàng rất phát triển, số lượng khách hàng sử dụng dịch vụ bảo lãnh không phải là nhỏ. - Chỉ tiêu: + Tổng số tiền ngân hàng trả thay trên tổng doanh số bảo lãnh. Nếu chỉ số này lớn chứng tỏ hoạt động bảo lãnh tại ngân hàng có vấn đề. Ngân hàng cần xem xét lại quá trình thẩm định, nghiên cứu khách hàng trước khi ra quyết định bảo lãnh. + Số tiền mà ngân hàng trả thay nhưng người được bảo lãnh không hoàn trả được trên tổng doanh số bảo lãnh. Đây được coi như là khoản nợ khó đòi. Nếu ngân hàng có quá nhiều món bảo lãnh không thu hồi được tiền trả thay có khả năng dẫn đến sự sụp đổ của ngân hàng. 1.2.4. Các nhân tố ảnh hưởng đến chất lượng bảo lãnh Bảo lãnh ngân hàng là nghiệp vụ do các ngân hàng tiến hành cho khách hàng và nó chịu ảnh hưởng của các yếu tố trong môi tường kinh tế xã hội cũng như trong môi trường luật pháp. Ba nhân tố ngân hàng , khách hàng, môi trường thực hiện tác động lẫn nhau ảnh hưởng tới hoạt động bảo lãnh. 1.2.4.1. Môi trường kinh tế và pháp luật Môi truờng là nhân tố khách quan tác động tới hoạt động bảo lãnh của một ngân hàng. Nhân tố môi trường ở đây bao gồm cả môi trường luật pháp và môi trường kinh tế. Luật pháp là một bộ phận không thể thiếu của một nền kinh tế có sự quản lý của Nhà nước. Không có luật pháp hoặc luật pháp không phù hợp thì hoạt động của nền kinh tế sẽ gặp nhiều khó khăn. Pháp luật tạo môi trường pháp lý cho mọi hoạt động sản xuất kinh doanh tiến hành thuận lợi và có hiệu quả, là cơ sở để giải quyết các tranh chấp, khiếu nại. Do vậy nhân tố pháp luật có vai trò rất lớn với các hoạt động ngân hàng nói chung và hoạt động bảo lãnh nói riêng. Khi hệ thống pháp luật không đồng bộ, không phù hợp với yêu cầu của nền kinh tế, của nghiệp vụ bảo lãnh, các văn bản dưới luật bị mâu thuẫn nhau, khách hàng và ngân hàng nhiều khi không thể thực hiện đúng được. Điều này ảnh hưởng tới chất lượng nghiệp vụ bảo lãnh. Môi trường kinh tế cũng tác động tới bảo lãnh theo hai chiều. Một nền kinh tế ổn định sẽ tạo điều kiện cho các khách hàng của ngân hàng trong quá trình kinh doanh. Khi đó các doanh nghiệp không phải đối phó với các biến động bất ngờ, làm ăn có hiệu quả, có khả năng chiếm lĩnh thị trường và đặc biệt có khả năng thực hiện đúng các nghĩa vụ hợp đồng đã thoả thuận với bên yêu cầu bảo lãnh... Nó sẽ tránh được các rủi ro trong kinh doanh cho cả ngân hàng và khách hàng. Còn khi tình hình kinh tế tài chính bất ổn, các doanh nghiệp phải hứng chịu tình hình ngược lại và như vậy các thoả thuận với bên yêu cầu bảo lãnh khó được thực hiện. Tình hình này làm tăng khả năng ngân hàng phải trả thay cho khách hàng. 1.2.4.2. Nhân tố khách hàng Khách hàng là nhân tố tác động tương đối nhiều tới hoạt động bảo lãnh của ngân hàng bởi chính ngân hàng tiến hành hoạt động này là để thoả mãn nhu cầu của khách hàng. Khách hàng tác động tới cả quy mô và chất lượng nghiệp vụ bảo lãnh của ngân hàng. Quy mô bảo lãnh của ngân hàng phụ thuộc vào nhu cầu của khách hàng, không có nhu cầu của khách hàng thì không có nghiệp vụ bảo lãnh. Còn nếu khách hàng xin bảo lãnh làm tốt các yêu cầu của ngân hàng như cung cấp thông tin đầy đủ, trung thực, có trách nhiệm trong việc thực hiện những cam kết đã thoả thuận với bên yêu cầu bảo lãnh ... sẽ giúp ngân hàng rất nhiều trong tiến hành bảo lãnh. 1.2.4.3. Ngân hàng bảo lãnh Đây là nhân tố chủ quan mang tính chất quyết định tác động tới bảo lãnh và bao gồm các yếu tố của ngân hàng liên quan tới hoạt động bảo lãnh. Nghiệp vụ bảo lãnh của ngân hàng có phát triển tốt hay không phụ thuộc vào điều kiện cũng như cách thức tổ chức và tiến hành bảo lãnh, tức là các chính sách của ngân hàng trong việc thực hiện bảo lãnh. Luật pháp chỉ là khung xương cho ngân hàng tiến hành bảo lãnh còn vận dụng có sát thực hợp lý hay không là tuỳ thuộc các ngân hàng. Các yếu tố ảnh hưởng tới bảo lãnh ngân hàng như trình độ cán bộ, công tác điều hành quản trị, quy trình bảo lãnh, công nghệ ngân hàng và sự thu thập xử lý thông tin... CHƯƠNG 2 THỰC TRẠNG CHẤT LƯỢNG BẢO LÃNH Ở CHI NHÁNH NGÂN HÀNG BIDV HÀ NỘI 2.1. Vài nét về chi nhánh Ngân hàng BIDV Hà Nội 2.1.1. Lịch sử ra đời và phát triển của Ngân hàng Ngân hàng Đầu từ và phát triển được thành lập vào Ngân hàng đầu tư vào ngày27/5/1957 theo Nghị định số 233/ND-TC-TCCB cuả Bộ Tài chính, với tên gọi ban đầu là chi hàng kiến thiết thành phố Hà Nội, nằm trong Ngân hàng kiến thiết Việt nam, trực thuộc Bộ Tài chính. Nhiệm vụ của ngân hàng là nhận vốn từ ngân sách nhà nước để tiến hành cấp phát và cho vay vốn trong lĩnh vực xây dựng cơ bản. Từ đầu những năm 70, ngân hàng kiến thiết được sát nhập vào hệ thống ngân hàng. Năm 1982 được đổi tên thành chi nhánh ngân hàng Đầu tư và xây dựng thành phố Hà nội, nằm trong hệ thống ngân hàng Đầu tư và xây dựng Việt Nam. Ngày 26/11/1990, chủ tịch hội đồng Bộ trưởng đã ban hành quy định số 401 về việc thành lập “Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Việt nam”, với các chi nhánh trực thuộc tại tỉnh, thành phố, đặc khu trực thuộc trung ương. Theo đó, chi nhánh Ngân hàng Đầu tư và xây dựng Hà nội cũng được đổi tên thành chi nhánh Ngân hàng Đầu tư và Phát triển thành phố Hà Nội. Trước ngày 1/1/1995, Chi nhánh Ngân hàng đầu tư và phát triển Hà nội đã làm nhiệm vụ như một ngân hàng Thương mại quốc doanh, có nhiệm vụ chủ yếu là nhận vốn từ ngân sách nhà nước để đầu tư vào dự án lớn theo chỉ định của Chính phủ. Từ ngày 1/1/1995, sau khi tách bộ phận cấp phát vốn ngân sách sang tổng cục Đầu tư và phát triển, Ngân hàng đầu tư và phát triển Hà nội mới thực sự là một ngân hàng thương mại và tiến hành hoạt động kinh doanh trong lĩnh vực tiền tệ tín dụng và dịch vụ ngân hàng. Ngân hàng đầu tư và phát triển là một trong những chi nhánh lớn của Ngân hàng đầu tư và phát triển Việt nam. Trong quá trình hoạt động, ngân hàng thực hiện chiến lược kinh doanh tổng hợp cung cấp các dịch vụ có tính chất cạnh tranh đối với khách hàng thuộc mọi thành phần kinh tế trong cũng như ngoài nước. 2.1.2. Cơ cấu tổ chức Về cơ cấu tổ chức của Ngân hàng gồm có 7 phòng chức năng, 5 phòng trực tiếp kinh doanh và các phòng dịch vụ, các bàn tiết kiệm. Ngân hàng đầu tư và phát triển Hà nội có hơn 300 cán bộ và công nhân viên. Đa sô cán bộ của Ngân hàng có trình độ đại học và trên đại học, đây là một thế mạnh của ngân hàng trong việc thúc đẩy nhanh hiệu quả hoạt động ngân hàng, nhất là trong tình hình hiện nay. Sau đây là sơ đồ bộ máy tổ chức của chi nhánh NHĐT &PTHN Ban giám đốc Các đơn vị chức năng Các đơn vị nghiệp vụ Phòng nguồn vốn Phòng tài chính kế toán Phòng thanh toán quốc tế Phòng ngân quỹ Phòng thông tin điện toán Phòng tổ chức cán bộ Văn phòng Phòng tín dụng 1 Phòng tín dụng 2 Phòng tín dụng 3 Phòng tín dụng 4 Các phòng giao dịch trực thuộc 1, 2, 6, 10, 11, 12, 17, 18 Các bàn tiết kiệm trực thuộc 1, 2 và 3 Phòng huy động vốn dân cư 2.1.3. Tình hình hoạt động kinh doanh Bảng 1: Tình hình hoạt động kinh doanh của BIDV HN (Triệu đồng) Năm 2006 Năm 2007 Năm 2008 Chỉ tiêu Giá trị 2006/2005 Giá trị 2007/2006 Giá trị 2008/2007 Thu lãi cho vay 119,765 66,8% 172,758 44,2% 190,560 10,3% Thu lãi tiền gửi nội bộ 153,540 59,3% 202,513 31,9% 212,542 4,9% Thu đầu tư CK 26,807 23,550 -12% 24,554 4,2% Thu dịch vụ 21,170 57,9% 30,074 42,1% 45,544 51,4% Thu khác 965 2313% 26,430 2634% 13,120 -50% Tổng thu 322,247 77,4% 455,325 41,3% 486,320 6,8% Chi trả lãi tiền gửi 171,080 93,9% 215,773 26,1% 250,412 16% Chi lãi tiền vay nội bộ 59,790 16,4% 43,462 -2.73% 30,452 -30% Chi quản lý 20,560 38% 26,112 27% 28,242 8,2% Chi dịch vụ 638 -16% 604 -5% 700 15,9% Chi khác 414 77,7% 319 -23% 324 1,6% Tổng chi 252,482 62,4% 286,270 13,4% 310,130 8,3% Chênh lệch 69,828 166,8% 169,056 142,1% 176,190 4,2% (Nguồn: Phòng tổ chức BIDV HN) Về các khoản thu, tốc độ tăng trưởng nhanh nhất thuộc về nhóm các nguồn thu khác với tốc độ năm sau cao gần gấp đôi năm trước. Nguồn thu từ lãi cho vay và từ tiền gửi nội bộ tăng trưởng ổn định trong 3 năm 2006, 2007 và 2008. Tổng nguồn thu năm 2006 tăng 77,4% so với năm 2006, năm 2007 tăng 41,3% và năm 2008 tăng 6,8%. Về các khoản chi, khoản mục chi trả tiền lãi gửi chiếm tỉ trọng lớn nhất và đạt tốc độ tăng trưởng cao nhất vào năm 2006 tăng 93,9%, năm 2007 tăng 26,1% và năm 2008 tăng 16%. Sự tăng trưởng đột biến vào năm 2006 chứng tỏ Ngân Hàng đã đạt được kết quả khả quan trong huy động vốn, tuy các năm 2007 và 2008 có giảm nhưng vẫn cao hơn các năm trước do ảnh hưởng của khủng hoảng kinh tế thế giới. Về mức chênh lệch thu chi của Ngân Hàng: Năm 2006 tăng 166,8%, năm 2007 là 142% và năm 2008 là 4,2%. Tốc độ tăng trưởng chi phí các năm đều tăng theo tốc độ giảm dần từ năm 2006 đến 2008, chứng tỏ Ngân Hàng đã cắt giảm chi phí một cách có hiệu quả, đóng góp một phần quan trọng trong việc hoàn thiện công tác quản lý, nâng cao chất lượng dịch vụ để tối thiểu hóa chi phí ở mức thấp nhất mà không ảnh hưởng đến tình hình kinh doanh của Ngân Hàng. 2.2. Những quy định trong hoạt động bảo lãnh tại NH BIDV 2.2.1. Các văn bản quy định Từ khi ra đời việc thực thi hoạt động tại chi nhánh ngân hàng dựa trên cơ sở khung pháp lý các quy định quy chế sau: - Quyết định số 23/QĐ-NH14 ngày 29/2/1997 của Thống đốc ngân hàng nhà nước Việt Nam ban hành kèm theo quy chế bảo lãnh và tái bảo lãnh vay vốn nước ngoài . - Quyết định số 196/QD-NH14 ngày 16/9/1998 của Thống đốc Ngân hàng Nhà nước ban hành kèm theo quy chế nghiệp vụ bảo lãnh của các ngân hàng. - Công văn 39 của Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Việt Nam ngày 4/2/1998 hướng dẫn về việc thực hiện quy chế nghiệp vụ bảo lãnh theo quyết định số 196/QĐ-NH14. - Quyết định số 162/QĐ-NH14 của Thống đốc Ngân hàng Nhà nước về sửa đổi một số điều trong quy chế nghiệp vụ bảo lãnh của các ngân hàng kèm theo quyết định 196/QĐ-NH14. - Công văn 143 của chi nhánh ngày 20/4/1998 của chi nhánh Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Hà Nội hướng dẫn thực hiện nghiệp vụ bảo lãnh. - Nghị định số 42/CP ngày 16/7/1999 của Thủ tướng Chính phủ ban hành kèm theo điều lệ quản lý đầu tư và xây dựng. - Nghị định số 43/CP ngày 16/7/1999 của Thủ tướng Chính phủ ban hành kèm theo quy chế đấu thầu. - Quy chế bảo hành công trình xây dựng số 499/BXD/GĐ ngày 18/9/1999 của Bộ xây dựng. - Quyết định số 632/QĐ-VP1 ngày 18/6/2000 về việc uỷ nhiệm xét duyệt cho vay bảo lãnh của Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Việt Nam. - Quyết định số 263/QĐ-NH14 ngày 19/9/1998 của Thống đốc Ngân hàng Nhà nước ban hành về việc sửa đổi một số điều của quy chế ban hành và tái bảo lãnh trong quyết định số 23/QĐ-NH14. - Công văn số 562/CV-BL ngày 09/04/2001 của Tổng Giám đốc Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Việt Nam về việc áp dụng bảo lãnh với hình thức bảo đảm bằng hợp đồng chỉ định chuyển tiền về tài khoản tiền gửi của doanh nghiệp tại ngân hàng hoặc bảo lãnh của tổng công ty... kết hợp với việc có ký quỹ một phần. - Văn bản số 2538 CV-BL ngày 27/11/2001 của Tổng Giám đốc Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Việt Nam chỉ đạo một số vấn đề về nghiệp vụ bảo lãnh. - Các văn bản khác có liên quan 2.2.2. Một số quy định Trong các văn bản trên thì quyết định 196 QĐ/NH14 về quy chế nghiệp vụ bảo lãnh của các ngân hàng và công văn số 39 của Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Việt Nam hướng dẫn thực hiện quy chế là hai văn bản quan trọng nhất tạo khung pháp lý cho hoạt động bảo lãnh chi nhánh. Sau đây là nội dung chính của các văn bản này: 2.2.2.1. Phạm vi bảo lãnh Ngân hàng Đầu tư và Phát triển tổ chức các loại bảo lãnh sau: - Bảo lãnh dự thầu. - Bảo lãnh htực hiện hợp đồng. - Bảo lãnh đảm bảo chất lượng theo hợp đồng. - Bảo lãnh hoàn trả tiền ứng trước. - Bảo lãnh bảo dảm thanh toán. - Bảo lãnh hoàn trả vốn vay. Tổng giám đốc Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Việt Nam uỷ quyền cho giám đốc chi nhánh bảo lãnh trong phạm vi quỹ bảo lãnh của chi nhánh cho 4 trong 6 loại bảo lãnh trên trừ bảo lãnh đảm bảo thanh toán và bảo lãnh hoàn trả vốn vay. 2.2.2.2. Điều kiện được bảo lãnh Doanh nghiệp được bảo lãnh phải có đủ các điều kiện sau: - Có tư cách pháp nhân, hoạt động theo luật pháp hiện hành của Việt Nam. - Có hợp đồng liên quan đến bảo lãnh. - Có tín nhiệm trong quan hệ tín dụng thanh toán. Có giấy phép xuất nhập khẩu nếu hoạt động xuất nhập khẩu liên quan đến bảo lãnh. - Không có nợ quá hạn bằng đồng Việt Nam và ngoại tệ. - Có đủ tài sản thế chấp hợp pháp cho bảo lãnh. Điều kiện cụ thể được hướng dẫn như sau: a. Bảo lãnh để tham gia dự thầu xây lắp, thực hiện hợp đồng thi công, bảo lãnh chất lượng công trình: Là doanh nghiệp có đăng ký kinh doanh, giấy phép hành nghề xây dựng theo đúng nghề nghiệp và phạm vi hoạt động được cấp có thẩm quyền cấp theo quy định hiện hành của nhà nước. Nếu là đơn vị trực thuộc tổ chức có giấy phép hành nghề thì phải có giấy uỷ quyền của tổ chức đó. - Trường hợp các đơn vị liên doanh dự thầu thì một đơn vị phải làm đại diện để xin bảo lãnh cho liên doanh. Người đại diện phải kê khai rõ, đầy đủ các doanh nghiệp xây lắp tham gia liên doanhvà các doanh nghiệp này phải có đủ điều kiện về đăng ký kinh doanh và giấy phép hành nghề đã nêu ở trên. b. Bảo lãnh để tham gia dự thầu, thực hiện các hợp đồng kinh tế (ngoài hợp đồng xây lắp), bảo lãnh chất lượng sản phẩm theo hợp đồng kinh tế liên quan đến các lĩnh vực sản xuất thì doanh nghiệp phải có giấy phép hành nghề và giấy phép kinh doanh theo quy định của nhà nước như: Đóng tàu, sản xuất rượu bia, thuốc lá, khai thác khoáng sản... phù hợp với nội dung xin bảo lãnh. c. Bảo lãnh tiền ứng trước: Doanh nghiệp phải mở tài khoản tiền gửi sản xuất kinh doanh chính và tài khoản nhận tiền ứng trước tại ngân hàng đâù tư và phát triển, doanh nghiệp phải chịu sự quản lý giám sát của Ngân hàng Đầu tư và Phát triển về việc sử dụng đúng mục đích của khoản ứng trước này. d. Bảo lãnh thanh toán, Ngân hàng Đầu tư và Phát triển chỉ bảo lãnh việc bảo đảm thanh toánkhi ngân hàng nắm chắc về khả năng, nguồn vốn thanh toán của doanh nghiệp xin bảo lãnh. e. Bảo lãnh hoàn trả vốn vay: Trước mắt các chi nhánh Ngân hàng Đầu tư và Phát triển chỉ bảo lãnh cho các doanh nghiệp vay vốn có tài khoản hoạt động sản xuất kinh doanh tại chính ngân hàng đầu tư và phát triển. Trường hợp bảo lãnh cho các doanh nghiệp vay vốn có tài khoản hoạt động sản xuất kinh doanh chính tại ngân hàng thương mại và các tổ chức tín dụng khác thì chi nhánh phải báo cáo và gửi hồ sơ lên Ngân hàng Đầu tư và Phát triển trung ương xem xét cho ý kiến trước khi thực hiện. 2.2.3. Phí bảo lãnh Trường hợp doanh nghiệp xin bảo lãnh ký quỹ 100% hoặc số dư trên tài khoản tiền gửi của doanh nghiệp tại Ngân hàng Đầu tư và Phát triển luôn lớn hơn số tiền xin bảo lãnh, doanh nghiệp cam kết không rút số dư đó thì phí bảo lãnh ưu đãi được áp dụng là 0.7% năm tính trên số dư bảo lãnh và tính từ ngày phát sinh thư bảo lãnh. Trường hợp số tièn xin bảo lãnh quá thấp (nhỏ hơn 80 triệu) các chi nhánh được áp dụng mức phí bảo lãnh tối thiểu là 300000 đồng cho một món bảo lãnh để đảm bảo bù dư chi phí của ngân hàng và phí này thu ngay một lần trước khi phát hành thư bảo lãnh. Những trường hợp khác áp dụng phí bảo lãnh do chi nhánh quyết định nhưng tối đa không quá 1% năm. Đối với những trường hợp thu phí theo tỷ lệ, phí bảo lãnh thu ba tháng một lần, lần đầu thu ngay khi phát hành thủ tục bảo lãnh. 2.2.4.Quỹ bảo lãnh và mức bảo lãnh Các ngân hàng căn cứ vào số vốn được phép sử dụng vào kinh doanh để dự kiến số tiền có thể đưa vaò lập quỹ bảo lãnh của mình. Tổng mức bảo lãnh được xác định trên cơ sở quỹ bảo lãnh dự kiến và khả năng an toàn vốn trong bảo lãnh của từng ngân hàng, nhưng tối đa không quá 20 lần số tiền của quỹ bảo lãnh. Số tiền để lập quỹ bảo lãnh được hạch toán vào một tiểu khoản riêng tại ngân hàng bảo lãnh theo từng lần bảo lãnh với tỷ lệ tối thiểu 5% so với doanh số bảo lãnh và được sử dụng để trả cho bên yêu cầu bảo lãnh khi doanh nghiệp được bảo lãnh không thực hiện nghĩa vụ. Tổng số tiền bảo lãnh cho một doanh nghiệp không quá 30% tổng mức bảo lãnh của ngân hàng bảo lãnh. 2.2.5. Tài sản thế chấp Tài sản thế chấp bảo lãnh là bất động sản: nhà đất; động sản: vàng, bạc, đá quý...; hoặc các chứng từ có giá: trái phiếu, tín phiếu... Trong trường hợp đặc biệt doanh nghiệp có tín nhiệm bảo đảm có nguồn vốn thanh toán đúng hạn số tiền bảo lãnh có sử dụng kết hợp cả hình thức ký quỹ, thế chấp, tín nhiệm và khả năng tài chính để lập hồ sơ bảo lãnh báo cáo ngân hàng đầu tư phát triển trung ương xem xét uỷ nhiệm. Trường hợp số tiền bảo lãnh không lớn, doanh nghiệp có thể ký quỹ số tiền tương ứng với số tiền xin bảo lãnh hoặc kết hợp cả hai hình thức ký quỹ và thế chấp tài sản. Tiền ký quỹ phải được gửi tại chi nhánh thực hiện việc bảo lãnh. Tiền ký quỹ được hưởng lãi suất phù hợp với tính chất thời hạn của việc bảo lãnh. Trong suốt thời gian bảo lãnh, chi nhánh có trách nhiệm quản lý theo dõi số tiền dư tài khoản ký quỹ và tài sản thế chấp của doanh nghiệp đảm bảo số dư tài khoản này và giá trị tài sản thế chấp luôn tương ứng với số tiền còn đang được bảo lãnh. 2.2.6. Thẩm quyền của chi nhánh Tổng giám đốc Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Việt Nam uỷ nhiệm cho giám đốc chi nhánh ngân hàng đầu tư và phát triển bảo lãnh trong phạm vi quỹ bảo lãnh của chi nhánh cho các loại sau: - Bảo lãnh dự thầu. - Bảo lãnh thực hiện hợp đồng. - Bảo lãnh tiền ứng trước. - Bảo lãnh bảo hành chất lượng sản phẩm. Trong trường hợp vượt quỹ bảo lãnh của doanh nghiệp, chi nhánh lập hồ sơ, báo cáo Ngân hàng Đầu tư và Phát triển trung ương để xem xét bảo lãnh hoặc uỷ quyền cho chi nhánh bảo lãnh. Trên đây là một số nội dung trong quy định đã nêu. Vì bảo lãnh là một loại hình mới được áp dụng ở Ngân hàng Đầu tư và Phát triển và ở Việt Nam nói chung nên cần nắm được các nội dung này trong thực thi bảo lãnh. Những nội dung này tuy một số đã được sửa đổi nhưng nó là cơ sở áp dụng và cơ sở cho việc đánh giá hoạt động của bảo lãnh tại chi nhánh Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Hà Nội. 2.3. Thực trạng chất lượng bảo lónh tại Ngõn hàng BIDV Hà Nội Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Hà Nội bắt đầu tiến hành nghiệp vụ bảo lãnh từ năm 1998, khi hệ thống ngân hàng đầu tư bước sang một giai đoạn mới, giai đoạn hoạt động như một ngân hàng thương mại. Với mục tiêu đáp ứng nhu cầu của nền kinh tế và yêu cầu đa dạng hoá các sản phẩm dịch vụ ngân hàng, chi nhánh đã cho ra đời và phát triển một ”chất xúc tác” cho nền kinh tế, một loại hình dịch vụ của ngân hàng hiện đại. Với tuổi đời hơn bốn mươi năm nhưng tuổi kinh doanh còn rất trẻ chi nhánh thực thi nghiệp vụ bảo lãnh trước hết phục vụ các khách hàng truyền thống làm đa dạng hoá các loại sản phẩm ngân hàng . Hoạt động trên lĩnh vực đầu tư xây dựng, ngân hàng có thế mạnh là nhu cầu bảo lãnh của khách hàng tương đối lớn, phát sinh liên tục. Hoạt động bảo lãnh ở Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Hà Nội đã đạt được một số kết quả nhất định. Song theo tôi nó chưa trở thành một công cụ linh hoạt, chưa khai thác được hết tiềm năng thế mạnh của Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Hà Nội cũng như trong việc đáp ứng nhu cầu các khách hàng. Sau đây là thực trạng hoạt động bảo lãnh tại ngân hàng. 2.3.1. Doanh số bảo lãnh của BIDV HN Bảng 2: Doanh số bảo lãnh của BIDV HN Đơn vị: triệu đồng Chỉ tiêu Năm 2006 Năm 2007 Năm 2008 Doanh số 1,135,665 1,554,762 1,799,362 (Nguồn: Phòng nguồn vốn kinh doanh) Biểu đồ tăng trưởng doanh số bảo lãnh tại BIDV HN: Qua bảng số liệu và biểu đồ trên ta thấy rằng tình hình thực hiện nghiệp vụ bảo lãnh của NHĐT-PT HN tăng mạnh qua các năm Năm 2006, doanh số bảo lãnh là 1.135.665 triệu đồng. So với từ khi bắt đầu hoạt động vào năm 1995 doanh số bảo lãnh chỉ là 34.387 triệu đồng thì đến năm 2006 doanh số bảo lãnh đã tăng gấp hơn 30 lần. Điều này chứng tỏ nhu cầu của khách hàng rất nhiều và hoạt động nghiệp vụ bảo lãnh tại NHĐT-PT HN ra đời đã đóng góp cho NH rất nhiều lợi ích: Vừa đáp ứng nhu cầu của khách hàng, vừa tăng thu nhập đáng kể cho NH Năm 2007, doanh số bảo lãnh tăng 47,57% so với năm 2006. Điều đó chứng tỏ nghiệp vụ bảo lãnh tại NH ngày càng được chú trọng và phát triển trong toàn bộ hệ thống ngân hàng. Năm 2008, doanh số hoạt động bảo lãnh tăng 44% so với năm 2007 Xét một cách toàn diện ta thấy doanh số bảo lãnh tăng lên cũng là một điều tất yếu vì NHĐT-PT HN là một NH có thế mạnh trong lĩnh vực đầu tư xây dựng mà hiện nay quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá ở nước ta đang diễn ra rất mạnh mẽ, nhiều công trình lớn được xây dựng. Như vậy, doanh số bảo lãnh tăng, ngoài yếu tố chủ quan còn do yếu tố khách quan là sự phát triển nhu cầu của nền kinh tế… 2.3.2. Kết quả thu phí bảo lãnh Bảng 3: Phí bảo lãnh của BIDV HN Đơn vị: triệu đồng Năm 2006 2007 2008 Phí Bảo lãnh 202,210 277,475 324,425 Biểu 2: Biểu đồ tăng trưởng phí thu từ hoạt động bảo lãnh Khi nhìn vào biểu đồ ta thấy phí thu từ hoạt động bảo lãnh cũng tăng theo từng năm, phí thu từ hoạt động bảo lãnh đã đóng góp không nhỏ vào tổng phí dịch vụ và góp phần làm tăng lợi nhuận ngân hàng. - Năm 2006, tổng chi phí thu được từ hoạt động bảo lãnh là 202.210 triệu đồng, tăng nhiều lần so với năm 1995 là năm mới được thực hiện hợp đồng bảo lãnh . - Năm 2007, tổng phí thu được từ hoạt động bảo lãnh 277.475 triệu đồng, tăng 1,37 lần so với năm 2006 do doanh số tăng lên. - Năm 2008, tổng phí thu được từ hoạt động bảo lãnh là 324.425 triệu đồng, tăng 1,17 lần so với năm 2007 do doanh số tăng mạnh. Hiện nay, NHĐT-PT HN áp dụng mức phí trung bình năm là 1,8% năm. Hoạt động bảo lãnh đóng góp vào tổng phí dịch vụ cho NH là đáng kể, song tỷ trọng trong tổng phí dịch vụ còn thấp so với các NH khác trên địa bàn, vì mức phí này so với mặt bằng các NH khác là khá cao, nên NH cần có các chính sách thu hút khách hàng để trong các năm tới NH sẽ tăng tỷ trọng phí bảo lãnh trong tổng chi phí dịch vụ. 2.3.3. Cơ cấu các loại hình bảo lãnh Bảng 4: Cơ cấu theo loại hình bảo lãnh: Đơn vị: triệu đồng Các chỉ tiêu Năm 2006 Năm 2007 Năm 2008 Số tiền Tỷ trọng Số tiền Tỷ trọng Số tiền Tỷ trọng Tổng doanh số 1,135,665 100% 1,554,762 100% 1,799,362 100% 1.Bảo lãnh dự thầu 375.235 33,22% 558.235 30,02% 655.231 36,50% 2. Bảo lãnh thực hiện hợp đồng 565.652 49,86% 681.326 43,92% 776.239 43,29% 3. Bảo lãnh thanh toán 14.272 3,80% 72.235 4,81% 115.986 6,30% 4. Bảo lãnh chất lượng sản phẩm 42.210 7,29% 127.200 8,15% 135.297 7,75%% 5. Bảo lãnh khác 138.296 5,83% 115.766 7,10% 116.609 6,16% Nguồn: Phòng nguồn vốn kinh doanh Biểu 3: Biểu đồ tăng trưởng của các loại bảo lãnh của NHĐT-PT HN Qua bảng số liệu và biểu đồ ta thấy rằng, bảo lãnh dự thầu, bảo lãnh thực hiện hợp đồng là những loại bảo lãnh luôn chiếm tỷ trọng cao trong tổng doanh số hoạt động bảo lãnh, đặc biệt là bảo lãnh thực hiện hợp đồng. Do khách hàng chủ yếu của NHĐT-PT HN là các công ty, tổng công ty xây lắp nên loại bảo lãnh này thường xuyên được sử dụng - Bảo lãnh dự thầu: Năm 2006 bảo lãnh dự thầu đạt doanh số là: 375.235 triệu đồng thì năm 2007 doanh số là 558.235 triệu đồng tăng 183.000 triệu đồng (Tăng 49%) so với năm 2006. Doanh số năm 2008 là 655.231 triệu đồng tăng 96.996 triệu đồng (tăng 17.3%) so với năm 2007. Điều này cho thấy khách hàng sử dụng loại hình bảo lãnh này ngày càng nhiều, ngày càng tin tưởng vào chất lượng dịch vụ mà ngân hàng cung cấp - Bảo lãnh thực hiện hợp đồng: Thời gian để thực hiện hợp đồng thường dài nên độ rủi ro của loại hình bảo lãnh này thường lớn hơn. Đối với NHĐT-PT HN loại hình này khá thông dụng và chiếm doanh số lớn nhất trong tổng doanh số bảo lãnh tại ngân hàng. Cụ thể năm 2006 doanh số là 565.652 triệu đồng (chiếm tỷ trọng 49,86%). Năm 2007 doanh số là 681.326 triệu đồng tăng 115.674 triệu đồng (tương ứng 43,68%) so với năm 2006. Năm 2008, doanh số này tăng so với năm 2007 là 94.913 triệu đồng (tương ứng tăng 14%). Có thể nói đây là loại bảo lãnh phát sinh thường xuyên và có rất nhiều tiềm năng phát triển. Do vây, ngân hàng cần chú trọng khai thác và phát triển loại hình này hơn nữa - Bảo lãnh thanh toán: Đây là loại hình được áp dụng trong cả xuất nhập khẩu và xây dựng. Trong xây dựng nếu bảo lãnh dự thầu, bảo lãnh thực hiện hợp đồng, tiền đặt cọc đảm bảo quyền lợi của chủ thầu thì bảo lãnh thanh toán lại đảm bảo quyền lợi cho nhà thầu. Đây là loại hình bảo lãnh mới được ngân hàng triển khai trong một vài năm trở lại đây và vẫn còn chiếm trọng nhỏ trong doanh số bảo lãnh của ngân hàng. Tuy vậy với chính sách thu hút khách hàng tỷ trọng của loại hình này đã dần tăng lên qua các năm qua. Cụ thể năm 2006 tỷ trọng chỉ là 3.8% năm 2007 chiếm 4,81% và đến năm 2008 là 6,3%. - Bảo lãnh bảo đảm chất lượng sản phẩm: tại ngân hàng bảo lãnh này bao gồm 2 loại là bảo lãnh là bảo đảm chất lượng công trình và bảo đảm chất lượng máy móc thiết bị trong đó chủ yếu là bảo lãnh chất lượng công trình. Doanh số phát sinh loại này không lớn nhưng có xu hớng phát sinh tăng dần trong các năm qua. - Các loại bảo lãnh khác: như bảo lãnh vay vốn nước ngoài, bảo lãnh tiền ứng trước, bảo lãnh nộp thuế………Doanh số phát sinh còn nhỏ.Với đội ngũ cán bộ có kinh nghiêm và năng động Ngân hàng hoàn toàn có đủ khả năng phát triển, hạn chế tối đa rủi ro và thu thêm phí. Vì vậy , ngân hàng phải có các biện pháp nhằm phổ biến các loại hình bảo lãnh này cho khách hàng. 2.3.4. Bảo lãnh theo cơ cấu thành phầnh kinh tế Bảng 6: Cơ cấu thành phầnh kinh tế Đơn vị: triệu đồng Các chỉ tiêu Năm 2006 Năm 2007 Năm 2008 Số tiền Tỷ trọng Số tiền Tỷ trọng Số tiền Tỷ trọng Tổng doanh số 1,135,665 100% 1,554,762 100% 1,799,362 100% DNQD 985,123 86.74% 1,278,366 82.22% 1,455,442 80.89% DN NQD 150,542 13.26% 276,396 17.78% 343,920 19.11% (Nguồn: Phòng nguồn vốn kinh doanh) Nhìn vào bảng só liệu ta thấy DN quốc doanh chiếm phần lớn doanh số hoạt động bảo lãnh của ngân hàng. Điều này chứng tỏ nghiệp vụ bảo lãnh ngân hàng chủ yếu được các khách hàng truyền thống sử dụng, còn các doanh nghiệp ngoài quốc doanh (khách hàng mới) chiếm tỷ lệ rất ít Năm 2006 ngân hàng bảo lãnh cho các doanh nghiệp ngoài quốc doanh với tỷ trọng là 13,26% trong tổng doanh số bảo lãnh của ngân hàng, năm 2007 là 17,78%. Năm 2008 là 19,11%. Các con số này thể hiện ngân hàng đã cố gắng nâng cao doanh số bảo lãnh của các thành phần kinh tế ngoài quốc doanh. 2.3.5. Tình hình các hình thức bảo đảm cho bảo lãnh tại NHĐT-PT HN Bảng 6: Các hình thức bảo đảm cho bảo lãnh tại NHĐT-PT HN: Đơn vị triệu đồng Chỉ tiêu Năm 2006 Năm 2007 Năm 2008 Số tiền Tỷ trọng Số tiền Tỷ trọng Số tiền Tỷ trọng Tổng doanh số 1,135,665 100% 1,554,762 100% 1,799,362 100% Tín chấp 120,267 10.59% 128,423 8.26% 169,140,028 9.40% Ký quỹ 680,263 59.90% 1,007,486 64.80% 1,232,563 68.50% Thế chấp 335,135 29.51% 418,853 26.94% 39,767 22.10% Nguồn: Phòng nguồn vốn kinh doanh Qua bảng số liệu cho thấy hình thức bảo lãnh bằng biện pháp tín chấp chiếm một tỷ lệ khá khiêm tốn, năm 2006 là 10,59%, năm 2007 là 8,26% và năm 2008 là 9,40%. Điều này thể hiện rất thận trọng trong việc thực hiện tín chấp với khách hàng, chỉ những khách hàng nào làm ăn lâu năm, có uy tín và tạo đợc sự tin tưởng của ngân hàng thì ngân hàng mới cho phép dùng hình thức tín chấp. Trong khi đó hình thức đảm bảo bằng biện pháp ký quỹ lại chiếm tỷ lệ cao nhất (trên dới 60%) và tỷ lệ này có xu hướng tăng. Cụ thể là năm 2006 chiếm 59,9%, năm 2007 là 64,8%, và năm 2008 chiếm 68,5 %. Tỷ lệ này thể hiện đây là biện pháp bảo đảm được ngân hàng sử dụng nhất. Và chắc chán khi thực hiện bảo lãnh cho khách hàng, biện pháp đảm bảo bằng ký quý sẽ làm cho ngân hàng cảm thấy yên tâm hơn Hình thức đảm bảo bằng biện pháp thế chấp, năm 2006 chiếm 29,51%, tỷ lệ này giảm dần, cụ thể năm 2007 là 26,94% và năm 2008 là 22,1%. Điều này chứng tỏ khách hàng không ưa thích và Ngân hàng không muốn hình thức này, bởi vì khi khách hàng thế chấp bằng tài sản thì phải trong thời gian dài của dự án, giá trị của tài sản đã có thể có những thay đổi làm thiệt hại đến ngân hàng và khách hàng. 2.3.6. Nhận xét chung Nghiệp vụ bảo lãnh là một loại dịch vụ mới được chi nhánh NHĐT-PT HN đa vào áp dụng trong thực tế nhằm đa dạng hoá loại hình hoạt động của ngân hàng, phục vụ tốt nhất nhu cầu của khách hàng và của toàn bộ nền kinht tế nhờ sự ra đời đúng lúc nên nghiệp vụ này nhanh chóng được xã hội chấp nhận. Tuy còn nhiều điểm tồn tại nhưng nhìn một cách tổng quan qua hơn 8 năm hoạt động, ngân hàng đã rất cố gắng và đã đạt được kết quả tốt đẹp. Để đạt đợc kết quả đó không thể phủ nhận công lao của tập thể cán bộ ngân hàng đã xây dựng được một quy trình nghiệp vụ hợp lý chặt chẽ và sự phối hợp đúng cách giữa các bộ phận trong việc thực hiện quy trình đó.Trên cơ sở đó ngân hàng tiếp tục phát huy thế mạnh của mình để tiếp tục mở rộng phát triển nghiệp vụ bảo lãnh. * Đánh giá từ phía khách hàng: Trong nền kinh tế đang phát triển mạnh mẽ như hiện nay thì nghiệp vụ bảo lãnh ngày càng trở nên quan trọng đối với doanh nghiệp giúp giảm bớt thời gian, chi phí, nguồn lực đáng kể. Do đó, việc tìm đến một NH có uy tín như BIDV HN để sử dụng dịch vụ bảo lãnh là một lựa chọn ngày càng trở nên phổ biến. Hầu hết khách hàng đều cảm thấy thoả mãn với dịch vụ bảo lãnh ở BIDV HN và giúp cho công việc kinh doanh của họ trở nên thuận tiện hơn. Tuy nhiên một số doanh nghiệp mới phản ánh chưa tiếp cận được dễ dàng với dịch vụ này do còn nhiều bất cập trong khâu thủ tục, thế chấp, đánh giá tín dụng,...Do đó vẫn còn một bộ phận doanh nghiệp, nhất là các doanh nghiệp ngoài quốc doanh muốn sử dụng dịch vụ bảo lãnh một cách tiện ích nhất nhưng vẫn chưa được đáp ứng một cách đầy đủ. * Đánh giá từ phía NH: Do đây vẫn là một nghiệp vụ tương đối mới mẻ và không phảI NH nào cũng làm được nên nghiệp vụ bảo lãnh vẫn cần có sự đầu tư lớn về nhân lực, công nghệ cũng như thông tin về khách hàng một cách nhanh chóng và chính xác nhất. Vì vậy BIDV HN mới chỉ đáp ứng được một phần nhu cầu của khách hàng và sắp tới sẽ còn rất nhiều cơ hội để nâng cao chất lượng dịch vụ và phục vụ được nhiều khách hàng hơn, mang lại nguồn thu lớn cho NH. 2.3.7. Những thiếu sót và hạn chế trong hoạt động bảo lãnh tại NHĐT- PT HN So với hoạt động tín dụng thì Bảo lãnh NH là nghiệp vụ còn quá non trẻ, giá trị bảo lãnh thực hiện được tuy có tăng nhưng chưa nhiều. Hiện nay, nghiệp vụ bảo lãnh NH chưa phát huy hết tiềm năng tác dụng vì còn một số thiếu sót và tồn tại cản trở sự phát triển của Bảo lãnh NH 2.3.7.1. Về cơ chế chính sách còn nhiều bất cập - Hiện nay cơ chế chính sách và môi trường pháp lý của nước ta chưa hoàn thiện, chưa đồng bộ, chúng ta chưa có luật về bảo lãnh. Hoạt động bảo lãnh được thực thi theo các văn bản dưới luật như: quy chế bảo lãnh NH, hướng dẫn quy chế bảo lãnh NH…mà các văn bản này thường xuyên được sửa đổi, bổ sung gây khó khăn cho việc thực thi bảo lãnh. Vì thế đã cản trở khá lớn việc mở rộng và phát triển công tác bảo lãnh. - Ngoài ra, nền kinh tế thế giới cũng có phần nào ảnh hưởng đến hoạt động bảo lãnh khi các chính sách vĩ mô của thế giới thay đổii hoặc các cuộc khủng hoảng tài chính diễn ra cùng tác động đến hoạt động bảo lãnh. 2.3.7.2. Về đối tượng khách hàng cần được mở rộng cả DNQD &DNNQD Doanh nghiệp nhà nước trong lĩnh vực xây dựng cơ bản, có quan hệ giao dịch với NH trong thời gian dài, có mở tài khoản chính tại NH. Điều này chứng tỏ chính sách giứ khách hàng cũ được NH thực hiện tốt nhưng chính sách thu hút khách hàng mới chưa được chú trọng. Doanh nghiệp nhà nước trong lĩnh vực xây dựng cơ bản, có quan hệ giao dịch với ngân hàng trong thời gian dài, có mở tài khoản chính tại ngân hàng. Điều này chứng tỏ chính sách giữ khách hàng cũ được ngân hàng thực hiện tốt nhưng chính sách thu hút khách hàng mới chưa được chú trọng. Mặc dù cho đên hiện này NHĐT-PT chưa xảy ra rủi ro. Nhưng các món bảo lãnh của NH thường là rất dài, do đó, rui ro tiềm ẩn là rất lớn. Vì vậy NH phải nâng cao chất lượng thực hiện các quy trình bảo lãnh để hạn chế tối đa việc xảy ra rủi ro. 2.3.7.3. Quy tr ình bảo lãnh chưa hợp lí  Chi nhánh chưa có quy trình bảo lãnh phù hợp thực tế. Việc thực hiện bảo lãnh chưa nhất quán đặc biệt giữa vụ sở chính với các chi nhánh huyện. Tuy rằng quy chế được ban hành theo toàn ngành, các chi nhánh phải tuân theo những áp dụng nhu thế nào cho linh hoạt hiệu quả lại là vấn đề khó khăn. Thực tế hiện nay do những vướng mắc trong quy định khiến bảo lãnh phải qua nhiều khâu trình ký, quá trình xét duyệt kéo dài làm lỡ hợp đồng làm ăn của khách hàng. Trong quy trình thực hiện nghiệp vụ bảo lãnh tại chi nhánh còn nhiều điểm cần xem xét sửa đổi như: - Chưa chú ý tới khâu tìm kiếm khách hàng mới, hầu hết vẫn là các khách hàng truyền thống của ngân hàng . Do chưa có quy trình cụ thể nên nhiều khi khách hàng không nắm được các công việc cần làm nên có khách hàng tới bảo lãnh đã lên thẳng phòng Giám đốc mà không qua phòng tín dụng. - Mặc dù thẩm định dự án đầu tư và thẩm định tín dụng là một thế mạnh của ngân hàng đầu tư, nhưng khấu thẩm định trong quy trình bảo lãnh chưa được chú ý đúng mức. Quan niệm này xuất phát từ việc cho rằng tiền ký quỹ và các tài sản bảo đảm có thể bảo đảm các rủi ro cho ngân hàng. Nhưng nếu ngân hàng bảo lãnh cho khách hàng không đủ năng lực thực hiện hợp đồng thì dù khách hàng có ký quỹ 100%, ngân hàng không chịu rủi ro nhưng uy tín của ngân hàng bị giảm sút. - Thời gian từ khi khách hàng xin bảo lãnh đến khi ngân hàng phát hành thư bảo lãnh còn lâu do khâu xét duyệt và trình ký giữa tín dụng-kế toán và Giám đốc. Chẳng hạn những món bảo lãnh phải ký quỹ hay bảo đảm bằng tài khoản tiền gửi tại ngân hàng, từ phòng tín dụng xét duyệt được giám đốc đòng ý phải qua phòng kế toán kiểm tra và lại trình lên giám đốc quyết định ký phát thư bảo lãnh . Quy trình như vậy đảm bảo sự an toàn nhưng gây cho khách hàng phải đợi lâu. - Trong khâu theo dõi khi món bảo lãnh còn hiệu lực, ngân hàng cần phải theo dõi đôn đốc người được bảo lãnh thực hiện đúngcác cam kết với người yêu cầu bảo lãnh. Nhưng hầu hết các công trình , dự án khách hàng của Ngân hàng Đầu tư và Phát triển thi công đều ở rất xa, rải rác trên khắp mọi miền đất nước nên ngân hàng gặp khó khăn trong việc theo dõi tiến độ thực hiện công trình. Hơn nữa với các món bảo lãnh bảo bằng hợp đồng thi công chỉ định chuyển tiền về tài khoản tại Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Hà Nội, do công trình thi công ở xa nên ngân hàng khó theo dõi chính xác khách hàng có tuân thủ đúng quy định này không. Hiện nay, việc này thực hiện dựa vào sự trung thực, giữ uy tín của khách hàng. Với các tài sản thế chấp ngân hàng đánh giá một lần trước khi bảo lãnh: Nếu bảo lãnh thời hạn dài giá trị tài sản này giảm đi, rủi ro xảy ngân hàng sẽ chịu thiệt hại khi phát mại tài sản. Tóm lại trong quy trình bảo lãnh của chi nhánh còn nhiều bất cập. Hiện nay chưa có rủi ro nào xảy ra, nhưng rủi ro tiềm ẩn không phải là không có. Nhất là với các món bảo lãnh trong thời gian dài, các doanh nghiệp xây dựng thường bị động theo yêu cầu của chủ thầu mà có thể không dự tính chính xác tiến độ thi công của mình. Việc không bảo đảm các điều kiện hợp đồng và dẫn tới trách nhiệm thanh toán của ngân hàng rất dễ xảy ra. Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Hà Nội thực hiện nghiệp vụ bảo lãnh mới được hơn 10 năm , trong đó các món bảo lãnh dài hạn chẳng hạn 4-5 năm lại mới phát sinh đến nay chưa hết hiệu lực. Như vậy không nên căn cứ vào tỷ lệ rủi ro hiện nay mà lơi là việc thực hiện đúng quy trình bảo lãnh. 2.3.7.4. Về trình độ cán bộ làm nghiệp vụ bảo lãnh còn yếu và thiếu  Bảo lãnh là một nghiệp vụ còn mới mẻ đối với NHĐT-PT HN, do đó thiếu kinh nghiệm trong việc phân công cán bộ đảm nhiệm công tác bảo lãnh là khó khăn không chỉ của riêng NHĐT-PT HN. NH cũng đã tổ chức nhiều đợt tập huấn về bảo lãnh cho các nhân viên và thực hiện tách riêng phòng thẩm định. Song để đạt được kết quả tốt thì đó là một qúa trình lâu dài, bởi nghiệp vụ này cũng luôn có những biến đổi theo thời gian. Ngoài ra, trình độ thẩm định của các cán bộ hiện có thì không cao, không được cập nhật, bổ sung nên mỗi khi NH phải thẩm định một dự án lớn hoặc đòi hỏi trình độ chuyên môn cao thì phải đi thuê chuyên gia, gây ảnh hưởng đến phí thu từ hoạt động bảo lãnh. 2.3.8. Nguyên nhân 2.3.8.1. Nguyên nhân khách quan * Môi trường pháp lý chưa hoàn chỉnh và đồng bộ Hiện nay, NH ĐT&PT Hà Nội đang hoạt động dưới sự điều chỉnh của Luật các TCTD và hệ thông các Luật, văn bản dưới Luật của chính phủ và NHNN ban hành. So với trước đây thì hệ thống các văn bản này đã có những thay đổi hợp lý hơn, tạo điều kiện hơn cho ngân hàng cũng như doanh nghiệp hoạt động song nó vẫn chưa thực sự mở ra những hành lang pháp lý thực sự thông thoáng và hợp lý. Do vậy, hệ thống các văn bản này vẫn cần phải có sự bổ sung, điều chỉnh, tạo điều kiện cho các doanh nghiệp và ngân hàng khi thực hiện bảo lãnh. Hoạt động bảo lãnh ngân hàng ra đời chưa lâu, do đó các văn bản Luật, dưới Luật quy định về nghiệp vụ bảo lãnh vẫn chưa thống nhất. Cho đến hiện giờ vẫn chưa có Luật hay nghị định về bảo lãnh ngân hàng. Do đó khi đưa các văn bản Luật này vào thực tiễn gặp rất nhiều khó khăn. Tuỳ thuộc vào đặc điểm hoạt động, kinh nghiệm và thói quen, các ngân hàng sẽ cụ thể hoá các văn bản. Vì thế khi thực hiện một số loại hình bảo lãnh như bảo lãnh vay vốn nước ngoài, phía ngân hàng sẽ phải tham khảo thêm các thông lệ chung để đưa ra các điều khoản trong hợp đồng và khi mối quan hệ bảo lãnh vượt ra khỏi phạm vi một quốc gia thì việc giải quyết các tranh chấp sẽ khó khăn. Bên cạnh đó, các văn bản Luật vẫn chưa bổ sung thêm các loại hình bảo lãnh mới mà nhu cầu về chúng đang ngày càng tăng như bảo lãnh nộp thuế. NHNN Việt Nam vẫn chưa chính thức thừa nhận, cho phép sử dụng các nghiệp vụ bảo lãnh này. Điều này khiến ngân hàng dè dặt khi đưa ra một sản phẩm mới. Mức phí mà NHNN quy định vẫn còn là một vấn đề đáng quan tâm đòi hỏi phải có sự thay đổi thích đáng. Mức phí tối đa do NHNN quy đinh chưa đảm bảo cho ngân hàng cân đối được giữa doanh thu thu được với chi phí mà họ bỏ ra nhất là với bảo lãnh vay vốn nước ngoài. Ngân hàng ĐT&PT Việt Nam ban hành thẩm quyền quyết định bảo lãnh cho Giám đốc chi nhánh là cần thiết nhằm đảm bảo an toàn cho ngân hàng. Đặc biệt đối với khoản bảo lãnh vay vốn nước ngoài phải trình NHĐT&PT Việt Nam duyệt. Tuy nhiên trong một số trường hợp, món bảo lãnh có giá trị nhỏ, thời hạn ngắn thì việc NHĐT&PT Việt Nam xem xét giải quyết sẽ kéo dài thời gian, ảnh hưởng tới tính kịp thời của hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. Mặt khác, quy trình bảo lãnh do NHĐT&PT Việt Nam ban hành đã tạo ra những chuyển biến rất lớn trong hoạt động bảo lãnh trong toàn hệ thống. Song nó vẫn còn nhiều vấn đề bất cập còn tồn tại như là quy trình còn phức tạp, các mẫu biểu được quy định sẵn đôi khi còn sai sót. * Môi trường canh tranh gay gắt Trong điều kiện hiện nay, trên địa bàn thành phố Hà Nội đã có hơn 4 Ngân hàng quốc doanh và rất nhiều ngân hàng cổ phần, ngân hàng liên doanh như VID, ACB.... Trong số những ngân hàng trên có những ngân hàng có chiến lược Marketing rất tốt, số vốn lớn, khả năng cung ứng sản phẩm đạt ở mức cao. Đây là những ngân hàng có sức cạnh tranh cao. Do đó ngân hàng cần có định hướng phát triển cụ thể nhằm tăng sức cạnh tranh của ngân hàng mình. * Nguyên nhân từ phía doanh nghiệp - Một vấn đề khá bức xúc hiện nay của các doanh nghiệp Việt Nam đó là trình độ và năng lực quản lý còn thấp. Điều này không những ảnh hưởng tới công tác tổ chức điều hành hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp mà còn ảnh hưởng tới quá trình doanh nghiệp đến xin bảo lãnh. Trước hết, do trình độ quản lý yếu kém nên các doanh nghiệp thường không nắm chắc các quy định về bảo lãnh như yêu cầu về hồ sơ xin bảo lãnh, tài sản đảm bảo khiến cho ngân hàng mất nhiều thời gian để xem xét liệu đã đủ điều kiện thực hiện một món bảo lãnh chưa. Chính điều này đã làm ảnh hưởng tới hoạt động của bản thân doanh nghiệp do mất quá nhiều thời gian. Nếu ngân hàng xem xét qua loa thì có thể sẽ dẫn đến rủi ro cho ngân hàng. Thứ hai, do công tác tổ chức điều hành không tốt, ảnh hưởng tới quá trình thực hiện hợp đồng với đối tác. Tuy đã có tài sản đảm bảo nhưng khi có vi phạm xẩy ra thì ngân hàng vẫn bị ảnh hưởng, đặc biệt trong những trường hợp tài sản thế chấp sau khi phát mại không đủ bù đắp chi phí ngân hàng đã bỏ ra. - Các doanh nghiệp Việt Nam nhất là các doanh nghiệp mới thường không có đủ điều kiện về tài sản đảm bảo. Với những DNNN, phần lớn tài sản nằm trong tình trạng lạc hậu, khó thanh khoản. Nhiều tài sản như công xưởng, đất đai lại thuộc quyền sở hữu của nhà nước nên gây khó khăn trong việc thanh lý, phát mại do chưa có văn bản Luật nào quy định rõ điều này. Trong khi nhóm khách hàng mới (thường là DNNQD) phải ký quỹ hoặc thế chấp 100%. Các tài sản này thuộc quyền sở hữu của doanh nghiệp nên vấn đề thanh lý, phát mại là không có khó khăn nhiều. Nhưng với món bảo lãnh có giá trị bảo lãnh lớn, các doanh nghiệp vừa và nhỏ lại không đáp ứng đủ điều kiện về tài sản thế chấp có giá trị tương đương. Vì thế làm mất cơ hội kinh doanh của cả ngân hàng và khách hàng. - Bản thân các doanh nghiệp khi tiến hành một dự án đầu tư cũng không thẩm định kỹ càng. Có thể đầu tư vượt quá khả năng của mình dẫn đến việc không thực hiện được hợp đồng, Hoặc tính toán các yếu tố đầu vào hay xác định thời hạn bảo lãnh không chính xác khiến bị thua lỗ hoặc vi phạm về thời gian. - Nguyên nhân gây ra tình trạng các ngân hàng khó kiểm soát, quản lý được khách hàng là do các doanh nghiệp vay vốn, mở tài khoản giao dịch tại nhiều ngân hàng khác nhau. Việc này khiến cho ngân hàng khó nắm bắt được tình hình hoạt động và công nợ thực tế của doanh nghiệp để có thể ra những quyết định đúng đắn. 2.3.8.2. Nguyên nhân chủ quan * Công tác Marketing, tìm kiếm khách hàng còn chưa được phát triển Trong nền kinh tế thị trường, các doanh nghiệp muốn cạnh tranh, thu hút được khách hàng thì ngoài việc cung ứng sản phẩm tốt phải có chiến lược Marketing hiệu quả. Công tác Marketing ở đây bao gồm từ khâu tìm kiếm khách hàng cho đến khâu cung ứng sản phẩm, tập hợp ý kiến khách hàng về sản phẩm, từ đó có những chiến lược Marketing hiệu quả. Tại ngân hàng, công tác Marketing đã được chú ý hơn so với trước song vẫn không được đầu tư một cách thích đáng. Đặc biệt là khâu nghiên cứu về thị trường tiềm năng chưa được quan tâm đúng mức. Do đó, ngân hàng cần đẩy mạnh hơn nữa công tác Marketing để góp phần thu hút thê khách hàng mới. Đây là một trong những hoạt động góp phần nâng cao sức cạnh tranh của ngân hàng. * Việc thu thập và xử lý thông tin về khách hàng và thị trường vẫn còn gặp khó khăn Ngày nay việc thu thập thông tin đã được hỗ trợ rất nhiều từ các phương tiện máy móc hay từ các trung tâm lưu giữ thông tin nhưng để có được những thông tin quan trọng, cán bộ tín dụng vẫn còn gặp phải những khó khăn nhất định. Trong nhiều trường hợp, khi doanh nghiệp đã nộp đầy đủ các giấy tờ liên quan (thường nằm trong hồ sơ bảo lãnh) theo yêu cầu của ngân hàng thì cũng không chắc chắn được rằng những giấy tờ đó có đảm bảo được tính chân thực không. Trong trường hợp liên quan đến tài sản thế chấp, cán bộ tín dụng khó biết được rằng tài sản thế chấp đó doanh nghiệp có dùng để đảm bảo cho những giao dịch trước đó (như đảm bảo cho bảo lãnh, đảm bảo cho khoản vay) tại những ngân hàng khác không. Nhất là trong điều kiện hiện nay, việc đăng ký giao dịch đảm bảo chưa phổ biến đối với các ngân hàng, TCTD. Hơn nữa việc trao đổi thông tin giữa các ngân hàng vẫn còn hạn chế nên ngân hàng không kiểm soát chặt chẽ được khách hàng. * Đầu tư cho công nghệ thông tin, các trang thiết bị máy móc hiện đại, cơ sở hạ tầng còn chưa hợp lý NHĐT&PT Hà Nội đã thực hiện từng bước việc ứng dụng công nghệ thông tin vào các hoạt động như nối mạng nội bộ giữa các phòng ban,…Điều này giúp cho việc kiểm tra tình hình công nợ của khách hàng một cách nhanh chóng nhất là đối với bảo lãnh theo hạn mức. Tuy nhiên, việc đầu tư đổi mới trang thiết bị vẫn còn bị hạn chế do đó các máy móc tại ngân hàng đôi lúc gặp trục trặc do cũ, lạc hậu gây mất thời gian cho khách hàng đến giao dịch. Để có thể thu thập thông tin về khách hàng ngoài việc trực tiếp đến thẩm định, cán bộ tín dụng có thể tìm kiếm thông tin thông qua mạng Internet,…. Nhưng do chưa đầu tư thích đáng nên để thu thập thông tin một cách nhanh chóng vẫn còn gặp khó khăn. Muốn thu hút được khách hàng thì chất lượng sản phẩm cung ứng phải thật tốt song đôi khi cơ sở hạ tầng trang thiết bị cũng ảnh hưởng rất nhiều tới tâm lý khách hàng. Một cơ sở hạ tầng hiện đại tạo tâm lý tin tưởng đối với khách hàng, hỗ trợ cho chiến lược Marketing. Hiện nay, cơ sở hạ tầng, trang thiết bị tại ngân hàng đã được sửa sang nhiều song vẫn còn lạc hậu so với một số ngân hàng khác trên cùng địa bàn. * Công tác thẩm định bảo lãnh còn gặp khó khăn Để có được chất lượng cao trong hoạt động bảo lãnh thì việc phân tích, đánh giá khách hàng phải đóng một vai trò quan trọng. Sự thành bại và hiệu quả của hoạt động bảo lãnh phụ thuộc không nhỏ vào khâu này. Tuy nhiên thực tế cho thấy rằng, không chỉ NH ĐT&PT Hà Nội mà còn tại nhiều ngân hàng khác (nhất là tại các Ngân hàng quốc doanh) khâu này còn được thực hiện chưa đầy đủ. Đây một phần là do phương pháp thẩm định dự án nhiều khi không phù hợp do môi trường kinh doanh đã có rất nhiều thay đổi. Bên cạnh đó, một thực tế còn tồn tại, đó là tại rất nhiều ngân hàng, khách hàng truyền thống chủ yếu là Doanh nghiệp Nhà nước. Đây là đối tượng khách hàng có mối quan hệ lâu năm với ngân hàng nên để duy trì quan hệ mà nhiều khi ngân hàng chưa thẩm định một cách kỹ càng. * Trình độ cán bộ nghiệp vụ và công tác tổ chức cán bộ còn chưa hoàn thiện Cán bộ tín dụng vừa phải thực hiện nghiệp vụ cho vay thông thường vừa phải kiêm luôn cả nghiệp vụ bảo lãnh. Bên cạnh ưu điểm là họ hiểu được khách hàng, nắm rõ tình hình tài chính của doanh nghiệp, nhược điểm là họ không có đủ thời gian để chuyên tâm nghiên cứu sâu về cách thức giải quyết những nhân tố phát sinh trong bảo lãnh. Ngoài ra, trình độ ngoại ngữ của các cán bộ tín dụng còn kém, gây khó khăn khi tìm hiểu thêm các thông lệ, quy định quốc tế cũng như khi thảo hợp đồng có liên quan tới bên nước ngoài. Điều này gây bất lợi cho người được bảo lãnh và ngân hàng bảo lãnh, gây tranh cãi khi phải thực hiện nghĩa vụ bảo lãnh. Trước đây, công tác Marketing do phòng nguồn vốn đảm nhiệm thì nay chuyển sang cho phòng thẩm định. Các cán bộ phòng thẩm định chuyên về công tác thẩm định, xem xét khả năng tài chính, các thông số kỹ thuật nên việc phải kiêm nhiệm luôn cả công tác Marketing sẽ gặp khó khăn. Họ không phải là những người chuyên sâu về nghiệp vụ này trong khi công tác Marketing là rất quan trọng. Vì thế hiện nay tại ngân hàng vẫn chưa có cán bộ chuyên sâu về lĩnh vực Marketing, tiếp thị khách hàng. * Việc đưa ra các mẫu biểu liên quan đến bảo lãnh còn gặp khó khăn Ngân hàng vẫn chưa quy định các mẫu biểu bảo lãnh bằng tiếng Anh, gây khó khăn cho các các bộ tín dụng. Do trình độ ngoại ngữ của các cán bộ còn hạn chế nên khi phải thảo một mẫu thư bảo lãnh bằng tiếng Anh mất rất nhiều thời gian. Mà mẫu biểu đưa ra đó cũng chưa chắc là chính xác tuyệt đối. Do vậy gây mất thời gian cho khách hàng cũng như ảnh hưởng nếu có tranh chấp sau này. Khi tất toán một món bảo lãnh, ngân hàng thường gặp khó khăn do chưa có mẫu tốt nhất về tất toán bảo lãnh đối với những món bảo lãnh không chốt ngày. Trong nhiều trường hợp để đỡ mất thời gian chờ đợi và do không chấp nhận mẫu thư bảo lãnh mà ngân hàng đã quy định sẵn, các khách hàng tự soạn thảo mẫu thư riêng. Điều này có ưu điểm là phù hợp với tình hình thực tế của từng trường hợp bảo lãnh nhưng đứng trên góc độ ngân hàng thì lại không thuận lợi vì khách hàng không soạn thảo quen nên trong thư thường có sai sót. Khi đó nếu thời gian của khách hàng quá ngắn, cán bộ tín dụng chấp thuận mẫu thư đó thì ngân hàng có thể sẽ gặp rủi ro. Nếu xem xét lại các điều khoản và sửa cho phù hợp thì lại mất thời gian, ảnh hưởng tới thời gian ký kết hợp đồng kinh tế. * Còn có nhiều vấn đề liên quan đến thời hạn bảo lãnh Xác định thời hạn bảo lãnh là một vấn đề quan trọng. Thời hạn bảo lãnh thường là căn cứ vào thời hạn thực hiện hợp đồng đã được thoả thuận giữa bênđược bảo lãnh và bên nhận bảo lãnh. Sau đó căn cứ vào sự tính toán của bên được bảo lãnh mà đưa ra thời hạn bảo lãnh. Song trong một số trường hợp, do không đánh giá đầy đủ các yếu tố ảnh hưởng tới việc thực hiện hợp đồng của mình nên thời hạn bảo lãnh đưa ra là không chính xác. Ngoài ra trong nhiều trường hợp thời gian bảo lãnh trong thư bảo lãnh và giấy đề nghị bảo lãnh là không giống nhau, nhất là với thư bảo lãnh không chốt ngày. Kết luận: Trong chương này chúng ta đã xem xét toàn bộ thực trạng tình hình thực hiện nghĩa vụ bảo lãnh tại Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Hà Nội.Đây là nét riêng biệt của ngân hàng mà người phân tích cần nắm được nếu có tham vọng đưa ra những giải pháp và kiến nghị hoàn thiện và phát triển nghiệp vụ này. Trong phân tích thực trạng nếu các bạn để ý sẽ thấy tôi đã chẻ nhỏ các vấn đề theo trình tự phân tích: Kết quả thực tế của ngân hàng là gì? Tại sao ngân hàng đạt được hay lại chọn cách đó? Những ưu điểm và nhược điểm trong cách làm này? Như vậy đây sẽ là cơ sở cho tôi đưa ra những giải pháp kiến nghị nhằm phát huy ưu điểm sửa chữa tháo gỡ những ưu điểm tồn tại này. CHƯƠNG 3 MỘT SỐ GIẢI PHÁP NHẰM NÂNG CAO HOẠT ĐỘNG BẢO LÃNH Ở BIDV HN 3.1. Định hướng của chi nhánh nhằm nâng cao chất lượng hoạt động bảo lãnh Xuất phát từ thực tế hoạt động bảo lãnh của NH và nhu cầu bảo lãnh của nền kinh tế. Phương hướng phát triển nghiệp vụ bảo lãnh của NH trong thời gian tới như sau: - Mở rộng khối lượng khách hàng tham gia nghiệp vụ bảo lãnh NH, cụ thể là đáp ứng khối lượng khách hàng truyền thống, mở rộng khách hàng mới có chọn lọc. - Đa dạng hoá và mở rộng các hình thức bảo lãnh, các loại bảo lãnh đang thực hiện đáp ứng yêu cầu của khách hàng. - Hiện đại hoá cơ sở vật chất phục vụ cho hoạt động bảo lãnh để nâng cao chất lượng giao dịch - Duy trì mức độ an toàn trong hoạt động bảo lãnh như hiện nay. Trên cơ sở những ưu điểm và nhược điểm rút ra từ qúa trình phân tích,em xin mạnh dạn đề xuất một số giải pháp nhằm phát huy những ưu điểm hiện có và hạn chế, khắc phục những nhược điểm đang tồn tại. Các định hướng trên nhằm hoàn thiện nâng cao chất lượng bảo lãnh trên cơ sở đó mở rộng phát triển nghiệp vụ này. Trong khi nền kinh tế và luật pháp điều chỉnh còn có nhiều vướng mắc, các vụ rủi ro trong bảo lãnh khiến cho một số ngân hàng có chủ chương thu hẹp nghiệp vụ này. Nhưng với Ngân hàng Đầu tư và Phát triển nói chung và với Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Hà Nội đây là thời điểm là cơ hội phát triển mở rộng dựa vào kinh nghiệm vào sự ổn định bền vững sẵn có. Đây là quan điểm về sự phát triển bền vững của ngành trong bảo lãnh. Với quan điểm về hoàn thiện và phát triển nghiệp vụ bảo lãnh nói trên, tôi mạnh dạn đưa ra một số các giải pháp và kiến nghị như sau: 3.2. Giải pháp hoàn thiện và phát triển hoạt động bảo lãnh tại chi nhánh 3.2.1.Chính sách khách hàng 3.2.1.1.Đối với nhóm khách hàng truyền thống NH phải xác định đây là một thị trường quan trọng và chủ chốt của NH nên phải có các chính sách ưu đãi thích hợp để giữ gìn. NH cần có một số chính sách ưu đãi như: Phí bảo lãnh có thể linh động hơn, xây dựng hạn mức bảo lãnh cao hơn mức cho phép hiện nay và trình lên NHcấp trên xem xét. Giải quyết nhanh gọn và ưu tiên khi khách hàng truyền thống yêu cầu bảo lãnh, loại bỏ một số thủ tục rườm rà không cần thiết. Nhằm đẩy mạnh chính sách khách hàng và để giữ vững mối quan hệ với khách hàng truyền thống NHĐT-PT NH phải luôn cố gắng đáp ứng đầy đủ và thực hiện tốt các giao dịch của khách hàng. 3.2.1.2. Đối với nhóm khách hàng mới - Thực hiện cộng tấc thu hút khách hàng tốt hơn. Có thể là tìm mọi biện pháp để NH đem lại lợi ích cho khách hàng nhiều nhất, hoặc NH có chính sách ưu đãi hấp dẫn hơn. Ngoài ra, con một biện pháp cso tác dụng toàn diện hơn trong chính sách khách hàng đó là mở hộinghị khách hàng Hội nghị khách hàng là cơ hội để NH giới thiệu dịch vụ bảo lãnh. Đây là loại hình dịch vụ mới nên việc giới thiệu cần được thực hiện chu đáo, có sức hấp dẫn, thu hút khách hàng. - Lắng nghe ý kiến và tôn trọng khách hàng, coi khách hàng là bạn vì không có khách hàng thì không có NH - Tận tình giúp đỡ khi khách hàng gặp khó khăn, cùng khách hàng tìm các giải pháp để tháo gỡ khó khăn, như thế sẽ có lợi cho cả khách hàng và NH 3.2.2. Đa dạng hoá phát triển sản phẩm Bảo lãnh hiện nay còn chưa phong phú, mới chỉ thực hiện 5 loại hình bảo lãnh nhưng chưa đạt hiệu quả cao. Để đa dạng hoá và phát triển loại hình bảo lãnh trước hết phải làm cho bảo lãnh thực sự thuận tiện. Nhu cầu về bảo lãnh của khách hàng là yếu tố khách quan tác động tới sự phát triển của nghiệp vụ. Nhưng theo tôi một số loại hình bảo lãnh không phải khách hàng không có nhu cầu mà do ngân hàng chưa thu hút được khách hàng. Khách hàng chỉ xin bảo lãnh khi đó là nhu cầu bắt buộc với bảo lãnh dự thầu và thực hiện hợp đồng. Nhà thầu có thể chấp nhận cho chủ thầu giữ lại một khoản chưa thanh toán mà không xin bảo lãnh tại ngân hàng. Điều này là một thực tế ở các chi nhánh huyện. Điều này chứng tỏ bảo lãnh của ngân hàng chưa thực sự thu hút được khách hàng và đôi khi thủ tục và sự chậm chễ làm mờ nhạt vai trò của bảo lãnh ngân hàng. Như vậy để đa dạng hoá các loại hình bảo lãnh trước hết phải làm cho bảo lãnh thực sự thuận tiện cho khách hàng. Từ đó ngân hàng nên có biện pháp kích thích, thu hút khách hàng. Trong thời gian tới ngân hàng nên đa dạng hoá loại hình bảo lãnh theo hai hướng sau: - Thực hiện bốn loại hình bảo lãnh được uỷ nhiệm thường xuyên ở các chi nhánh huyện. - Phát triển loại hình bảo lãnh vay vốn nước ngoài. - Nghiên cứu thực hiện một số loại hình bảo lãnh mới Bảo lãnh vay vốn nước ngoài rất cần thiết cho các doanh nghiệp Việt Nam hiện nay nói chung và khách hàng của ngân hàng nói riêng. Trong thời gian tới ngân hàng cần tiếp cận với các dự án vay vốn nước ngoài chủ động tìm khách hàng và đề xuất yêu cầu uỷ nhiệm lên ngân hàng trung ương. Để đảm bảo thuận tiện cho khách hàng, ngân hàng cần rút ngắn bớt các thủ tục không cần thiết giảm bớt thờigian xét duyệt trình ký tạo điều kiện cho khách hàng đáp ứng đúng thời gian hợp đồng. Với các loại hình bảo lãnh mới, tôi xin đưa ra một số có thể nghiên cứu áp dụng ở chi nhánh như sau: - Bảo lãnh thanh toán: Đã được uỷ quyền của trung ương nhưng chưa thực hiện ở chi nhánh. Lý do áp dụng: Trong các loại hình bảo lãnh trong xây dựng: bảo lãnh dự thầu, bảo lãnh thực hiện hợp đồng, bảo lãnh tiền ứng trước và bảo lãnh bảo hành chất lượng công trình, bốn loại bảo lãnh này đều do chủ thầu yêu cầu và bảo vệ lợi ích cho chủ thầu. Bảo lãnh thanh toán công tình là loại bảo lãnh duy nhất mà nhười thụ hưởng là nhà thầu. Trong thực tế rất nhiều trường hợp nhà thầu bàn giao công trình song chủ thầu không thực hiện đúng nghĩa vụ thanh toán. Điều này gây khó khăn tài chính cho nhà thầu trong việc trả lương cho công nhân và trang trải các khoản chi phí khác.Đã có khách hàng yêu cầu thực hiện loại bảo lãnh này ở chi nhánh nhưng chưa được đáp ứng. Vì vậy ngân hàng nên nghiên cứu cách thức, các điều kiện để thực hiện loại hình này. - Bảo lãnh chứng khoán: Lý do áp dụng: Việt Nam đang xúc tiến hình thành phát triển thị trường chứng khoán và các ngân hàng thương mại đều có kế hoạch tham gia thị trường này. Trong giai đoạn đầu hầu hết các doanh nghiệp chưa có đủ uy tín bên thị trường đặc biệt là với công chúng.Họ rất cần một tổ chức có uy tín như ngân hàng đầu tư phát triển đứng ra tạo lòng tin cho việc phát hành bán các cổ phiếu, trái phiếu. Ngân hàng hưởng phí bảo lãnh hay còn gọi là hoa hồng phát hành và cỏtách nhiệm bảo đảm khả năng thanh toán trái phiếu và chi trả cổ tức cho người mua ... Ngân hàng đầu tư phát triển Hà Nội với lĩnh vực hoạt động đầu tư phát triển và những kinh nghiệm thẩm định dự án hoàn toàn có thế mạnh đi tiên phong trên lĩnh vực này. Bảo lãnh chứng khoán là một nghiệp vụ mới trên một lĩnh vực mới lên quy trình ví dụ như bước thẩm định chứng khoán sẽ không hoàn toàn giống với các loại bảo lãnh truyền thống khác. Hơn nữa theo quy định để được thực hiện nghiệp vụ này phải được giấy phép của uỷ ban chứng khoán nhà nước và phải thành lập công ty chứng khoán trực thuộc ngân hàng. Trong giai đoạn chuẩn bị này chi nhánh nên nghiên cứu và đề ra các dự thảo về việc tham gia tài chính chứng khoán nói chung và bảo lãnh chứng khoán nói riêng. Ngoài ra các loại bảo lãnh khác như bảo lãnh hoàn thuế, bảo lãnh đại lý kinh doanh, bảo lãnh đầu tư dự án, bảo lãnh bảo hành chất lượng hàng hoá, chi nhánh cũng nên nghiên cứu tính khả thi để áp dụng. Với các loại bảo lãnh mới có tính khả thi chi nhánh cần nghiên cứu cách tổ chức thực hiện, quy trình... và trình ngân hàng trung ương cho quyết định và mức uỷ quyền thực hiện. Để tăng tính khả thi của các loại bảo lãnh mới chi nhánh cần: - Nghiên cứu về cung cầu. - Tư vấn, quảng các về các loại hình mới. - Thu hút khách hàng cho các hoạt động khác của ngân hàng từ đó nâng cao uy tín ngân hàng và tăng khả năng tìm kiếm khách hàng. 3.2.3. Hoàn thiện và bổ sung quy trình bảo lãnh Quy trình bảo lãnh của chi nhánh cần được hoàn thiện theo hướng bảo đảm quá trình thực hiện nghiệp vụ bảo lãnh được nhanh gọn đúng đắn an toàn cho ngân hàng và thuận tiện cho khách hàng. Để đạt tới điều này cần lưu ý một số điểm sau: * Công việc đầu tiên không thể bỏ qua trong quy tình là tìm kiếm và tư vấn hướng dẫn khách hàng thực hiện đúng các yêu cầu bảo lãnh. Điều này thể hiện tính chủ động của ngân hàng khác với trước đây nghiệp vụ bảo lãnh bắt đầu khi khách hàng đến xin bảo lãnh. Hơn nữa việc tư vấn giúp khách hàng đáp ứng yêu cầu giảm bớt thời gian và công sức đi lại.Khâu này còn nằm trong chính sách Maketing về tìm kiếm và chon lựa khách hàng mới cho bảo lãnh. * Chi nhánh cần chú ý đúng mức tới khâu thẩm định nhất là thẩm định năng lực tài chính. Việc này là cần thiết do: - Thực hiện tốt khâu thẩm định là biện pháp phòng ngừa rủi ro nâng cao uy tín ngân hàng và cho chính sách khách hàng vì nếu tình hình tài chính và năng lực thực hiện hợp đồng tốt, doanh nghiệp có thể không phải ký quỹ 100%. - Thông qua thẩm định dự án, các cán bộ tín dụng có thể tư vấn thêm cho khách hàng về các vấn đề tài chính để nâng cao chất lượng công trình nhằm hạn chế rủi ro. - Thẩm định dự án giúp cho ngân hàng nắm được tính khả thi của dự án để dự tính được tình hình thực hiện do vậy biết được độ rủi ro của dự án. - Công tác thẩm định cho thấy trách nhiệm của ngân hàng với cả bên được bảo lãnh và bên yêu cầu bảo lãnh do vậy nâng cao uy tín ngân hàng. Nhưng thời gian và chi phí cho thẩm định là không nhỏ. Do vậy ngân hàng có thể kết hợp thông tin về doanh nghiệp qua các hoạt động khác như tín dụng, thanh toán...Hơn nữa, thẩm định là một thế mạnh của Ngân hàng Đầu tư và Phát triển cần phải phát huy. * Trong khâu xét duyệt bảo lãnh cần thực hiện quy trình gọn nhẹ hơn để đảm bảo thuận tiện cho khách hàng. Vấn đề ở chỗ trước khi phát hành thư bảo lãnh ngân hàng phải đảm bảo khách hàng có đủ tiền trong tài khoản để ký quỹ mà qua khâu kế toán kiểm tra thì khách hàng phải đợi lâu. Nên chăng các cán bộ tín dụng đảm nhiệm cả nhiệm vụ kiểm tra này. Trong khi kiểm tra, thẩm định các cán bộ tín dụng nắm thông tin về khách hàng qua phòng kế toán để trình Giám đốc ký thư, sau đó mới qua khâu kế toán đối chiếu hạch toán. Để thực hiện được điều này cần có sự trợ giúp của hệ thống mạng thông tin nội bộ giữa các phòng trong ngân hàng. Áp dụng mạng này vào bảo lãnh giúp cán bộ tín dụng có thể cập nhật thường xuyên tình hình của khách hàng trước khi phát hành thư bảo lãnh . * Khi phát hành thư bảo lãnh, ngân hàng chỉ phát hành một bản chính duy nhất. Trong thư phải ghi rõ thời gian có hiệu lực vì nếu không nghĩa vụ bảo lãnh của ngân hàng sẽ kéo dài vô tận. Giá trị thời hạn bảo lãnh phải ghi thống nhất trong thư bảo lãnh, hợp đồng bảo lãnh và đơn xin bảo lãnh của đơn vị. Vì thư bảo lãnh ghi không đúng mẫu sẽ có thể thiếu những điều khoản nghĩa vụ của ngân hàng hoặc những điều khoản ngân hàng không thể kiểm soát được. * Chi nhánh cần làm tốt việc theo dõi, đôn đốc việc thực hiện của hợp đồng liên quan đến bảo lãnh của doanh nghiệp được bảo lãnh. Các hợp đồng, nhất là hợp đồng thi công hoặc vay vốn dài hạn, việc đôn đốc này sẽ làm giảm rủi ro tiềm ẩn. Các cán bộ ngân hàng phải tới các nơi công trình thi công để giám sát đôn đốc thực hiện tiến độ hợp đồng. Nhưng giải pháp này khó thực hiện với các công trình ở rất xa địa bàn của Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Hà Nội. Ví dụ như các dự án thi công tại Phả Lại hay Quảng Ninh. Khi đó, trong hợp đồng ký kết ngân hàng có thể uỷ quyền giám sát thi công cho chi nhánh Ngân hàng Đầu tư trên địa bàn công trình đang thi công nhờ nắm và thông báo thông tin cho ngân hàng. Với các món bảo lãnh bảo đảm bằng hợp đồng thi công chỉ định chuyển tiền về tài khoản của doanh nghiệp tại chi nhánh , chi nhánh cần theo dõi sát sao tránh trường hợp doanh nghiệp chuyển tiền sang tài khoản ở ngân hàng khác gây thiệt hại và rủi ro cho ngân hàng. Với các món bảo đảm bằng tài sản thế chấp, ngân hàng thường xuyên theo dõi bảo quản tài sản này.Đặc biệt ngân hàng phải tính tới khấu hao của tài sản thế chấp với các món bảo lãnh dài hạn. Nếu không sau một thời gian nếu rủi ro xáy ra ngân hàng phát mại tài sản này sẽ không thu được giá trị như ban đầu ước tính. * Để đạt được phương châm “nhanh chóng, an toàn, hiệu quả” thì chi nhánh phải có một quy trình bảo lãnh gọn nhẹ, thuận tiện, nhanh chóng giảm tối thiểu các thủ tục hành chính. * Chi nhánh cần cải tiến đẩy nhanh quá trình thẩm định, hiện nay khoảng 30 ngày, cần nghiên cưú rút xuống dưới 15 ngày nhưng vẫn bảo đảm an toàn và không để mất đi cơ hội kinh doanh. * Chi nhánh cần xây dựng quy trình bảo lãnh đạt tiêu chuẩn ISO 3.2.4. Tăng cường thực hiện công tác Marketing nhằm tạo điều kiện mở rộng thị trường bảo lãnh của ngân hàng Trong nền kinh tế thị trường, muốn tồn tại và phát triển, mỗi đơn vị kinh doanh đều phải có chiến lược Marketing hoàn hảo. Vì thế, ngân hàng cần phải xây dựng một chiến lược Marketing thật tốt. Muốn vậy, chi nhánh cần làm tốt những biện pháp sau: 3.2.4.1. Chiến lược nghiên cứu thị trường - Trước hết, chi nhánh cần phải nghiên cứu tập tính, thái độ và đặc biệt là động cơ của khách hàng khi lựa chọn ngân hàng. Thường thì khi khách hàng lựa chọn một ngân hàng nào đó tức là ngân hàng đó có khả năng thoả mãn được một số nhu cầu của họ như mức phí bảo lãnh, mức độ uy tín của ngân hàng bảo lãnh, các dịch vụ kèm theo, thái độ phục vụ khách hàng… Để có được những thông tin đầy đủ, chính xác, ngân hàng cần phải thu thập thông tin thường xuyên qua tham khảo thái độ, ý kiến của khách hàng khi đến giao dịch hay qua Hội nghị khách hàng. - Nghiên cứu tổng nhu cầu bảo lãnh trên thị trường, khả năng cung ứng của bản thân ngân hàng, khả năng của các ngân hàng khác cùng hoạt động trên địa bàn. Điều này khá quan trọng giúp ngân hàng biết được mặt mạnh yếu của mình và các đối thủ cạnh tranh để từ đó đưa ra chiến lược phát triển lâu dài. Tuy nhiên để nghiên cứu được tổng nhu cầu bảo lãnh trên thị trường và khả năng của các ngân hàng khác trên địa bàn không phải là chuyện dễ dàng. Vì vậy ngân hàng cần phải có những cán bộ chuyên sâu có khả năng thu thập, tổng hợp các thông tin. Có thể nghiên cứu theo nhóm khách hàng từ đó phân tích theo phương pháp xác suất để đưa ra các chỉ tiêu giúp cho các chiến lược khác có hiệu quả. 3.2.4.2.Thực hiện tốt các chính sách Marketing Chính sách Marketing bao gồm chính sách sản phẩm, chính sách giá cả, chính sách giao tiếp khếch trương. - chính sách sản phẩm: Ngân hàng cần thực hiện đa dạng hoá các loại hình bảo lãnh bằng các biện pháp đã nêu ở trên. Đồng thời phải thường xuyên tăng cường việc thực hiện các tiêu chuẩn bảo lãnh đã đề ra. Tức là cán bộ thực hiện bảo lãnh phải có thái độ niềm nở với khách hàng, tận tình phục vụ, luôn luôn coi việc làm thoả mãn nhu cầu cảu khách hàng là trách nhiệm của mình. Yếu tố này sẽ ảnh hưởng tới hình ảnh của ngân hàng trong mắt khách hàng. -Chính sách giá cả: Mức phí bảo lãnh đã được NHĐT&PT Việt Nam quy định rất cụ thể và không có chênh lệch nhiều so với các ngân hàng như NHCT, NHNT là mấy. Chưa nói đến việc là mức phí bảo lãnh tại ngân hàng là tương đối thấp so với các ngân hàng khác trên cùng địa bàn. Do đó để thu hút thêm khách hàng là DNNQD, ngân hàng nên có sự điều chỉnh hợp lý hơn để thu hút thêm khách hàng. -Chính sách khuyếch trương thanh thế: Một trong những phương pháp để có thể nâng cao thanh thế của ngân hàng đó là phải tạo niềm tin trong khách hàng đối với các sản phẩm mà ngân hàng cung cấp bằng chính thái độ, phong cách phục vụ của mỗi một cán bộ ngân hàng, trong đó cán bộ tín dụng. Không nói sai rằng mỗi một cán bộ ngân hàng là một nhân viên làm Marketing. Khi khách hàng đến giao dịch, họ sẽ tiếp xúc với không chỉ cán bộ tín dụng mà còn với các cán bộ ở các phòng ban khác như phòng kế toán, phòng thanh toán quốc tế... Do đó để tạo được sự thoải mái, tin tưởng với khách hàng về ccác nghiệp vụ, trong đó cố nghiệp vụ bảo lãnh thì tất cả các cán bộ phải có thái độ và tinh thần phục vụ khách hàng nhiệt tình, niềm nở. Bên cạnh đó, để mở rộng hoạt động bảo lãnh thì hoạt động tuyên truyền, quảng cáo của ngân hàng trên các phương tiện thông tin đại chúng là cần thiết. 3.2.4.3. Xây dựng chiến lược khách hàng Ngân hàng cần phải xây dựng một chiến lược khách hàng toàn diện, tổng thể trên cơ sở nghiên cứu thị trường với mục tiêu nâng cao chất lượng sản phẩm trên cơ sở không ngừng thoả mãn tối đa nhu cầu của khách hàng. Chiến lược khách hàng phải tập trung vào việc củng cố mối quan hệ với khách hàng truyền thống, đồng thời thu hút thêm các khách hàng mới các biện pháp sau: + Cần phải có chính sách ưu tiên phục vụ các khách hàng truyền thống, các khách hàng có quan hệ thường xuyên, có chữ tín đối với ngân hàng về quan hệ tín dụng. Tạo mọi điều kiện thuận lợi sẵn sàng đáp ứng nhu cầu bảo lãnh của đối tượng này. Đồng thời tập trung khai thác khách hàng mới có tiềm năng. Cho dù là khách hàng mới cũng luôn coi hiệu quả trong kinh doanh của họ là mục đích hoạt động của ngân hàng. Do đó không nên áp dụng các quy định chung một cách quá cứng nhắc mà cần linh hoạt áp dụng các quy định thủ tục nhằm giảm bớt khó khăn cho từng đối tượng. + Để có được các thông tin về khách hàng cũng như biết được thái độ, ý kiến của khách hàng về những vướng mắc hay sự hài lòng của họ đối với hoạt động bảo lãnh, ngân hàng có thể tổ chức Hội nghị khách hàng theo định kỳ. Đây cũng là dịp để ngân hàng giới thiệu sản phẩm mới ra thị trường. Có vậy các cán bộ ngân hàng, đặc biệt là ban lãnh đạo, mới trực tiếp lắng nghe tiếp thu ý kiến của khách hàng về hình thái và chất lượng phục vụ và các khó khăn, thuận lợi khách hàng gặp phải, để từ đó có các biện pháp tháo gỡ kịp thời. - Thường xuyên tạo ra mối quan hệ tín nhiệm trên cơ sở hợp tác đôi bên cùng có lợi. Đồng thời phải chủ động thu hút khách hàng, không để bị rơi vào thế bị động. - Trong quan hệ với khách hàng, cần thường xuyên hỗ trợ tư vấn cho khách hàng để thực hiện đúng quy định, các cán bộ cùng khách hàng giải quyết các khó khăn, vướng mắc để thoả mãn nhu cầu của khách hàng. - Mở rộng và phát triển quan hệ hợp tác với ngân hàng bạn trong và ngoài nước, các tổ chức tín dụng để thông qua đó tìm kiếm thêm khách hàng mới. 3.2.4.4. Mở rộng và duy trì mối quan hệ với các ngân hàng khác trên nguyên tắc bình đẳng cùng có lợi để đẩy mạnh nghiệp vụ đồng bảo lãnh, tái bảo lãnh Để hạn chế rủi ro có thể pháp sinh từ hoạt động bảo lãnh, NHĐT&PT Việt Nam đã quy định mức bảo lãnh tối đa đối với chi nhánh cho một khách hàng. Do đó việc thực hiện các món bảo lãnh có giá trị lớn cho một khách hàng vượt quá thẩm quyền cho phép của ngân hàng. Đồng thời đôi khi khả năng tài chính của ngân hàng cũng không cho phép thực hiện được món bảo lãnh quá lớn. Để khắc phục điều này, các ngân hàng sẽ cùng liên kết với nhau để thực hiện một món bảo lãnh cho khách hàng. Do đó, chi nhánh cần phải mở rộng hơn nữa quan hệ hợp tác với các ngân hàng lớn trong và ngoài nước để khi có các dự án lớn vượt quá khả năng thì sẽ chủ động hợp tác đồng bảo lãnh hoặc tái bảo lãnh. Muốn vậy, trước hết, ngân hàng sẽ phải có sự hợp tác chặt chẽ, phối hợp với các chi nhánh trong cùng một hệ thống, tạo nên một sức cạnh tranh thống nhất của hệ thống trên địa bàn. Thứ hai, với các ngân hàng bạn, mở rộng và duy trì quan hệ trên cơ sở cạnh tranh lành mạnh, hợp tác kinh doanh cùng có lợi, phát huy thế mạnh phục vụ đầu tư phát triển. 3.2.4.5. Có sự đầu tư thích đáng cho cơ sở hạ tầng, trang thiết bị, tăng cường việc ứng dụng công nghệ thông tin vào hoạt động bảo lãnh Cơ sở hạ tầng, trang thiết bị máy móc hiện đại ảnh hưởng một phần tới tâm lý, sự tin tưởng của khách hàng đối với ngân hàng. Nhất là những khách hàng mới, điều đầu tiên đập vào mắt họ đó chính là cơ sở hạ tầng, họ sẽ nhận xét về ngân hàng một phần thông qua nó. Nó sẽ phản ánh một phần uy tín, số vốn của ngân hàng. Vì vậy mà ngân hàng cũng cần phải có sự đầu tư thích đáng để nâng cấp, cải tạo lại nơi làm việc, trang thiết bị. Bên cạnh đó ngân hàng cũng phải chú trọng hơn nữa tới việc ứng dụng công nghệ thông tin vào hoạt động bảo lãnh. Việc đầu tư vào CNTT không những tạo ra chất lượng đối với hoạt động bảo lãnh mà nó còn giúp ngân hàng nắm bắt thông tin với khách hàng, với thị trường một cách nhanh chóng, kịp thời, chính xác. Để từng bước tiến tới hiện đại hoá thông tin thì trước hết NHĐT&PT Hà Nội cần phải: - Xây dựng trang thiết bị máy móc như đầu tư cho máy vi tính, hệ thống thông tin liên lạc cho các phòng một cách dầy đủ. - Xây dựng trang webside giới thiệu về ngân hàng, có cung cấp thông tin quảng cáo và phục vụ khách hàng trên mạng Internet. - Xây dựng mối quan hệ thường xuyên với một số công ty, tổ chức tin học chuyên nghiệp có uy tín để tận dụng sự tư vấn, hỗ trợ trong quá trình ứng dụng công nghệ vào lĩnh vực bảo lãnh. Cùng với phòng thông tin điện toán và các phòng ban khác của ngân hàng hoàn thiện hơn nữa chương trình phần mềm quản lý, theo dõi khách hàng. Mở rộng hoạt động bảo lãnh phải đi đôi với việc nâng cao chất lượng công tác bảo lãnh, có vậy mới nâng cao hiệu quả hoạt động bảo lãnh tại ngân hàng. Nâng cao chất lượng công tác bảo lãnh bao gồm nâng cao chất lượng thẩm định, hoàn thiện quy trình bảo lãnh và đề ra chính sách phí và ký quỹ hợp lý. 3.2.5. Nâng cao trình độ cán bộ và phân công hợp lý cán bộ làm nghiệp bảo lãnh Con người là một trong những yếu tố quyết định tới kết quả của công tác bảo lãnh nói riêng và hoạt động kinh doanh nói chung. Do đó cần phải quan tâm tới công tác đào tạo, tổ chức cán bộ nhằm nâng cao hiệu quả của hoạt động bảo lãnh, thúc đẩy hoạt động bảo lãnh ngày càng phát triển. Ngân hàng cần phải chú ý thực hiện các hoạt động sau nhằm nâng cao trình độ nghiệp vụ cả về lý luận và thực tế cho các cán bộ tín dụng: - Đào tạo về chuyên môn nghiệp vụ thông qua các lớp đào tạo dài hạn trong và ngoài nước, kết hợp với đào tạo tại chỗ. - Ngân hàng cần chú trọng tới việc nâng cao trình độ ngoại ngữ, tin học cho các cán bộ tín dụng. Bởi vì với những món bảo lãnh mà có liên quan tới phía nước ngoài như bảo lãnh vay vốn nước ngoaì, bảo lãnh thanh toán… thì việc am hiểu và nắm rõ các điều khoản ghi bằng ngoại ngữ trên hợp đồng là rất quan trọng. Để từ đó đưa ra các điều khoản khi ký hợp đồng bảo lãnh và phát hành thư bảo lãnh phải chính xác. Nếu không việc tranh chấp là khó tránh khỏi khi có vi phạm xẩy ra. Bên cạnh đó, một vấn đề nữa đặt ra với các cán bộ tín dụng là phải nắm rõ và thường xuyên cập nhật các thông tin về luật, quy tắc và thông lệ trong giao dịch bảo lãnh. - Bồi dưỡng, nâng cao ý thức tinh thần trách nhiệm của toàn thể các cán bộ ngân hàng. Luôn phải coi hiệu quả hoạt động kinh doanh của khách hàng là mục tiêu hoạt động của ngân hàng. Cần phải có thái độ niềm nở, phục vụ tận tình, chu đáo để tạo ra hình ảnh tốt về ngân hàng. - Khuyến khích các cán bộ tự nghiên cứu khoa học, nâng cao trình độ. Khuyến khích các cán bộ học cao hơn, đặc biệt là nâng cao số cán bộ có trình độ đại học và sau đại học. Thường xuyên tổ chức các hội thi, phong trào tìm hiểu về các nghiệp vụ tại đơn vị giúp các cán bộ bổ sung kiến thức, trao đổi kinh nghiệm, tạo không khí đoàn kết trong ngân hàng. - Tổ chức sắp xếp lao động phải hợp lý, đảm bảo phù hợp về trình độ, năng lực, tính cách, nguyện vọng. sở thích của mỗi người. - Ngân hàng nên có một phòng Marketing riêng với các cán bộ chuyên sâu về lĩnh vực này để có các chiến lược toàn diện và tổng thể. Điều này sẽ giúp cho ngân hàng có được những chiến lược Marketing một cách toàn diện trên cơ sở những nghiên cứu có tính khoa học hơn. Đồng thời cũng giúp cho Phòng thẩm định kinh tế-kỹ thuật chuyên sâu hơn về chuyên môn của họ. Trong phòng Marketing sẽ có không chỉ các cán bộ chuyên về Marketing mà còn có những cán bộ học chuyên về ngân hàng-tài chính để trao đổi thông tin, hỗ trợ nhau khi lập chiến lược. - Để có được đội ngũ cán bộ năng động, sáng tạo, bên cạnh những cán bộ ngân hàng có kinh nghiệm cần có các cán bộ trẻ có tính sáng tạo, năng động. Do đó cần có các chính sách thu hút, tuyển dụng các cán bộ có trình độ và năng lực cao từ các nơi khác. Đồng thời thu hút các cán bộ trẻ có tài năng, có khả năng tìm tòi, sáng tạo, năng động. 3.3. Kiến nghị 3.3.1.Cấp trên cần hoàn thiện hành lang pháp lý Bảo lãnh cũng nhưc các hoạt động khác của NH, cần phải có một hành lang pháp lý chặt chẽ, thuận lợi để phát triển. Hiện nay, các văn bản, quy định của luật NHNN và luật các tổ chức tín dụng thường xuyên sửa đổi song vẫn bộc lộ những điểm bất hợp lý, đôi khi lại quá chặt chẽ. Khi thực thi theo các văn bản này, các ngân hàng buộc phải vượt rào để giải quyết cho phù hợp với tình hình thực tế hoặc phải thu hẹp hoạt động nếu theo đúng quy định dẫn đến bất lợi cho NH Vì vậy, Nhà nước cần sớm tạo hành lang pháp lý đầy đủ thuận tiện cho hoạt động bảo lãnh phát triển. Cụ thể, nên ban hành luật bảo lãnh, thế chấp, cầm cố tài sản phù hợp với điều kiện Việt nam và quốc tế. Các chế độ, thể lệ trong ngành NH cần đồng bộ với các ngành khác. Bảo lãnh còn liên quan tới việc thực hiện luật pháp trong một số bộ ngành, sự tháo gỡ khó khăn phải được sự giúp đõ của các ngành này. 3.3.2. Kiến nghị với NHNNVN 3.3.2.1. Về điều kiện được bảo lãnh NHNN quy định tổng số tiền bảo lãnh tối đa cho một khách hàng không vượt quá 10% vốn tự có của Ngân hàng ĐT&PT Việt Nam. Trong trường hợp vượt mức trên thì phải được chấp thuận của NHNN. Điều này nên để cho các ngân hàng tự giải quyết không nên trình từng trường hợp, nên để ngân hàng thực hiện báo cáo theo định kỳ. 3.3.2.2. Về mức phí bảo lãnh Mức phí bảo lãnh tối đa hiện nay là 2% tăng hơn so với quy chế trước đây là 1%. Tuy nhiên tại ngân hàng có những loại bảo lãnh mà mức phí này vẫn chưa chắc đã đủ bù dắp chi phí và rủi ro có thể xẩy ra cho ngân hàng. Vì vậy, thiết nghĩ NHNN không nên quy định mức phí trần mà nên để ngân hàng tự thoả thuận với khách hàng dựa trên loại bảo lãnh, đối tượng khách hàng, mức độ rủi ro... Đề nghị NHNN sớm ban hành một quy định mới về mức phí bảo lãnh đó là chỉ

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docA9317.DOC