Đề tài Một số biện pháp cơ bản nhằm nâng cao hiệu quả kinh doanh của Nhà in đại học quốc gia Hà Nội

Tài liệu Đề tài Một số biện pháp cơ bản nhằm nâng cao hiệu quả kinh doanh của Nhà in đại học quốc gia Hà Nội: Lời mở đầu Ngày nay, xu hướng tự do kinh tế trước hết là tự do hoá thương mại và đầu tư đang có sức hấp dẫn và ngày càng được các quốc gia đón nhận. Điều này khiến cho quá trình hội nhập kinh tế giữa các quốc gia diễn ra với qui mô ngày càng lớn, tốc độ ngày càng tăng làm cho nền kinh tế thế giới dần trở nên một chỉnh thể thống nhất. Nước ta đang trong quá trình tiếp tục đổi mới và chuẩn bị gia nhập tổ chức WTO trong thời gian sắp tới. Đây là cơ hội cũng là thách thức rất lớn đối với nền kinh tế nước ta, đòi hỏi sự nỗ lực vươn lên đổi mới về nhiều mặt của mọi thành phần kinh tế. Trước hết là đổi mới công nghệ sản xuất và quản lý, nắm bắt các nhu cầu thị trường một cách chính xác, nhanh nhạy để có những biện pháp tác động hợp lý tới sản xuất - kinh doanh cho phù hợp với nhu cầu của thị trường. Nói cách khác, chuyển sang nền kinh tế hội nhập, các doanh nghiệp phải luôn luôn tự khẳng định mình nâng cao chất lượng sản phẩm dịch vụ, nâng cao năng lực cạnh tranh, ổn định và phát triển. Chỉ ...

doc57 trang | Chia sẻ: hunglv | Lượt xem: 994 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem trước 20 trang mẫu tài liệu Đề tài Một số biện pháp cơ bản nhằm nâng cao hiệu quả kinh doanh của Nhà in đại học quốc gia Hà Nội, để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Lời mở đầu Ngày nay, xu hướng tự do kinh tế trước hết là tự do hoá thương mại và đầu tư đang có sức hấp dẫn và ngày càng được các quốc gia đón nhận. Điều này khiến cho quá trình hội nhập kinh tế giữa các quốc gia diễn ra với qui mô ngày càng lớn, tốc độ ngày càng tăng làm cho nền kinh tế thế giới dần trở nên một chỉnh thể thống nhất. Nước ta đang trong quá trình tiếp tục đổi mới và chuẩn bị gia nhập tổ chức WTO trong thời gian sắp tới. Đây là cơ hội cũng là thách thức rất lớn đối với nền kinh tế nước ta, đòi hỏi sự nỗ lực vươn lên đổi mới về nhiều mặt của mọi thành phần kinh tế. Trước hết là đổi mới công nghệ sản xuất và quản lý, nắm bắt các nhu cầu thị trường một cách chính xác, nhanh nhạy để có những biện pháp tác động hợp lý tới sản xuất - kinh doanh cho phù hợp với nhu cầu của thị trường. Nói cách khác, chuyển sang nền kinh tế hội nhập, các doanh nghiệp phải luôn luôn tự khẳng định mình nâng cao chất lượng sản phẩm dịch vụ, nâng cao năng lực cạnh tranh, ổn định và phát triển. Chỉ có những doanh nghiệp tổ chức hoạt động sản xuất kinh doanh một cách có hiệu quả mới có thể tồn tại và phát triển được trong môi trường cạnh tranh quốc tế. Nâng cao hiệu quả kinh doanh trong các doanh nghiệp là mục tiêu cơ bản của quản lý. Hiệu quả kinh doanh là thước đo chất lượng phản ánh trình độ tổ chức, quản lý kinh doanh và là nhân tố quan trọng ảnh hưởng đến sự tồn tại của các doanh nghiệp. Vì vậy nghiên cứu thực trạng hiệu quả kinh doanh của các đơn vị sản xuất kinh doanh để tìm ra biện pháp nâng cao hiệu quả đó là vấn đề quan trọng hiện nay. Qua quá trình tìm hiểu thực tế tại Nhà in ĐHQG Hà nội, với sự giúp đỡ tạo điều kiện của Ban Giám đốc, Phòng Tài vụ, Phòng kế hoạch- Tổng hợp cùng với sự hướng dẫn nhiệt tình của Thạc sĩ Trần Đức Hiệp tôi đã nghiên cứu đề tài “Một số biện pháp cơ bản nhằm nâng cao hiệu quả kinh doanh của Nhà in ĐHQG Hà nội”. Với thời gian có hạn cũng như khả năng còn hạn chế, khoá luận này tập trung nghiên cứu những vấn đề có tính cơ bản đối với việc nâng cao hiệu quả hoạt động kinh doanh của Nhà in ĐHQG Hà Nội. Khoá luận gồm 3 phần sau : Chương 1: Một số vấn đề cơ bản về hiệu quả kinh doanh trong các doanh nghiệp Chương 2: Thực trạng hoạt động kinh doanh của Nhà in ĐHQG Hà nội . Chương 3: Một số biện pháp cơ bản nhằm nâng cao hiệu quả kinh doanh của Nhà in ĐHQG Hà nội CHƯƠNG 1: Một số vấ n đề cơ bản về hiệu quả kinh doanh trong các doanh nghiệp. 1.1. Doanh nghiệp và hiệu quả kinh doanh của doanh nghiệp : 1.1.1 - Các khái niệm cơ bản : Doanh nghiệp là một tổ chức kinh tế tham gia các hoạt động sản xuất kinh doanh, nhằm cung cấp sản phẩm hoặc dịch vụ thoả mãn nhu cầu của thị trường và thu về cho mình một khoản lợi nhuận nhất định. Hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp là hoạt động đưa ra những sản phẩm hay dịch vụ để bán, nhằm đáp ứng nhu cầu của thị trường và của xã hội, được thực hiện với chi phí ít nhất, sao cho sản phẩm làm ra có thể tiêu thụ được với giá cả mà thị trường có thể chấp nhận, bảo đảm thu nhập bù đắp được chi phí và có lợi nhuận. Như vậy kinh doanh là một quá trình bao gồm từ khâu nghiên cứu khảo sát nhu cầu thị trường để quyết định sản xuất, tổ chức quá trình sản xuất ra hàng hóa đáp ứng được nhu cầu thị trường đồng thời tiến hành việc tiêu thụ những hàng hóa đó nhằm thu được nhiều lợi nhuận. Khi đề cập đến vấn đề hiệu quả,người ta có thể đứng trên các khía cạnh khác nhau để xem xét. Nếu hiểu theo mục đích cuối cùng, hiệu quả kinh tế là hệ số giữa kết quả thu về và chi phí bỏ ra để đạt kết quả đó. Hiệu quả kinh doanh cao hay thấp tùy thuộc vào trình độ tổ chức sản xuất và tổ chức quản lý trong các doanh nghiệp. Nếu xem xét ở từng yếu tố riêng lẻ, hiệu quả là sự thể hiện trình độ và khả năng sử dụng các yếu tố trong quá trình sản xuất và kinh doanh. Hiệu quả là một chỉ tiêu chất lượng tổng hợp phản ánh trình độ sử dụng các yếu tố trong quá trình sản xuất. Trong điều kiện kinh tế hiện nay hiệu quả kinh doanh là một phạm trù kinh tế có tính chất định lượng về tình hình phát triển của các hoạt động sản xuất kinh doanh. Nó phản ánh sự phát triển kinh tế theo chiều sâu của các chủ thể kinh tế, đồng thời phản ánh trình độ khai thác và sử dụng các nguồn lực của doanh nghiệp và của nền kinh tế quốc dân trong quá trình tái sản xuất nhằm thực hiện mục tiêu kinh tế. Khi nền kinh tế vận hành theo cơ chế thị trường, các doanh nghiệp phải cạnh tranh với nhau rất mạnh mẽ trong việc sử dụng các nguồn lực để thỏa mãn các nhu cầu ngày càng tăng của xã hội. Các doanh nghiệp hoạt động trong cơ chế thị trường muốn dành được lợi thế trong cạnh tranh phải đặt hiệu quả kinh tế lên hàng đầu Doanh nghiệp nào có hiệu quả kinh doanh thấp sẽ có nguy cơ bị loại khỏi thị trường, còn doanh nghiệp nào có hiệu quả kinh doanh cao sẽ tồn tại và phát triển. 1.1.2 - Phân loại hiệu quả kinh doanh : 1.1.2.1 Hiệu quả kinh tế của doanh nghiệp : Khi nói tới doanh nghiệp người ta thường quan tâm nhất đó là hiệu quả kinh tế của doanh nghiệp vì các doanh nghiệp khi tiến hành hoạt động kinh doanh đều với động cơ tìm kiếm lợi nhuận. -Hiệu quả kinh tế tổng hợp : Hiệu quả kinh tế tổng hợp là phạm trù kinh tế biểu hiện tập trung của sự phát triển kinh tế theo chiều sâu, phản ánh trình độ khai thác các nguồn lực đó trong quá trình tái sản xuất nhằm thực hiện mục tiêu kinh doanh của doanh nghiệp. Hiệu quả kinh tế tổng hợp là thước đo hết sức quan trọng của sự tăng trưởng kinh tế và là chỗ dựa cho việc đánh giá việc thực hiện mục tiêu kinh tế của doanh nghiệp trong từng thời kỳ. - Hiệu quả kinh tế của từng yếu tố : Hiệu quả kinh tế của từng yếu tố, là sự thể hiện trình độ và khả năng sử dụng các yếu tố đó trong quá trình sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. Nó là thước đo quan trọng của sự tăng trưởng từng yếu tố và cùng với hiệu quả kinh tế tổng hợp làm cơ sở để đánh giá việc thực hiện mục tiêu kinh tế của doanh nghiệp. 1.1.2.2. Hiệu quả kinh tế - xã hội: Hiệu quả kinh tế - xã hội là hiệu quả mà doanh nghiệp đem lại cho xã hội và nền kinh tế quốc dân. Nó thể hiện qua việc tăng thu ngân sách cho Nhà nước, tạo thêm công ăn việc làm cho người lao động, nâng cao mức sống của người lao động và tái phân phối lợi tức xã hội. Tóm lại trong quản lý kinh doanh, phạm trù hiệu quả kinh tế được biểu hiện ở các loại khác nhau. Việc phân loại hiệu quả kinh tế là cơ sở để xác định các chỉ tiêu hiệu quả kinh tế, phân tích hiệu quả kinh tế và xác định những biện pháp nâng cao hiệu quả kinh tế. 1.1.3 - Các nhân tố ảnh hưởng tới hiệu quả kinh doanh : Hiệu quả kinh doanh trong các doanh nghiệp là một chỉ tiêu chất lượng tổng hợp liên quan tới tất cả các mặt trong hoạt động kinh doanh, do đó nó chịu tác động của nhiều nhân tố khác nhau: * Môi trường vĩ mô: Mục tiêu chiến lược phát triển kinh tế xã hội của Đảng và Nhà nước có tác động đến mọi hoạt động của nền kinh tế quốc dân, từ đó ảnh hưởng gián tiếp đến hiệu quả kinh doanh của mỗi doanh nghiệp. Các chính sách của Nhà nước nhằm hỗ trợ và khuyến khích các doanh nghiệp trong nước phát triển, tạo ra môi trường cạnh tranh lành mạnh thu hút vốn đầu tư nước ngoài góp phần tăng hiệu quả kinh doanh. * Môi trường vi mô: - Nhân tố nguồn vốn kinh doanh: Doanh nghiệp muốn thực hiện được phương án kinh doanh đã đề ra cần phải có vốn để mua nguyên vật liệu, mua sắm các máy móc thiết bị phục vụ cho sản xuất... - Nhân tố thị trường đầu vào và thị trường đầu ra của doanh nghiệp: Thị trường các yếu tố đầu vào có ý nghĩa quyết định đến quá trình sản xuất đồng thời ảnh hưởng tới tính liên tục và tính hiệu quả của sản xuất. Thị trường đầu ra quyết định hiệu quả trong kinh doanh. - Nhân tố kỹ thuật và công nghệ: Nhân tố này cho phép các doanh nghiệp nâng cao năng suất chất lượng và hạ giá thành sản phẩm, nhờ đó mà tăng khả năng cạnh tranh, tăng vòng quay của vốn lưu động, tăng lợi nhuận, bảo đảm thực hiện yêu cầu quy luật tái sản xuất mở rộng. - Nhân tố về tổ chức sản xuất : Trong quá trình sản xuất của doanh nghiệp, nhân tố này đảm bảo cho dây chuyền sản xuất cân đối, cho phép doanh nghiệp khai thác tới mức tối đa các yếu tố vật chất trong sản xuất. Nhờ đó mà góp phần nâng cao hiệu quả kinh doanh. - Nhân tố về quản lý : Nhân tố này tạo điều kiện cho doanh nghiệp sử dụng hợp lý và tiết kiệm các yếu tố vật chất trong quá trình kinh doanh, giúp lãnh đạo doanh nghiệp đưa ra những quyết định chiến lược kinh doanh của doanh nghiệp chính xác, kịp thời, tạo ra những động lực to lớn để khuyến khích sản xuất phát triển. - Nhân tố về lực lượng lao động : Trong doanh nghiệp, lực lượng lao động tác động trực tiếp đến việc nâng cao hiệu quả kinh doanh. Bằng lao động sáng tạo của con người có thể tạo ra công nghệ mới, thiết bị máy móc mới, nguyên vật liệu mới... có hiệu quả hơn hoặc cải tiến kỹ thuật nâng cao năng suất hiệu quả kinh tế so với trước. Trong thực tế máy móc hiện đại đến đâu nếu không có con người sử dụng thì cũng không thể phát huy được tác dụng. Ngược lại, nếu có máy móc hiện đại mà con người không có trình độ sử dụng, trình độ kỹ thuật và trình độ tổ chức quản lý thì không những không tăng được hiệu quả kinh doanh mà còn tốn kém chi phí bảo dưỡng, sửa chữa vì những sai lầm, hỏng hóc do không biết sử dụng gây ra. - Hệ thống trao đổi và xử lý thông tin : Thông tin được coi là đối tượng lao động của các nhà quản trị và nền kinh tế. Để kinh doanh thành công được trong điều kiện cạnh tranh gay gắt ở cả trong nước và quốc tế, đòi hỏi các doanh nghiệp phải nắm bắt được nhiều thông tin chính xác, kịp thời như : Thông tin về người mua, người bán, đối thủ cạnh tranh, giá cả trên thị trường... Từ đó đưa ra chiến lược kinh doanh sao cho có hiệu quả nhất. 1.2- Các chỉ tiêu đánh giá hiệu quả kinh doanh:. 1.2.1- Các quan điểm cơ bản trong việc đánh giá hiệu quả kinh doanh : Hiệu quả kinh doanh không những là chỉ tiêu chất lượng tổng hợp liên quan tới nhiều yếu tố mà còn phản ánh trình độ sử dụng các yếu tố đó. Do đó, khi đánh giá hiệu quả kinh doanh phải tuân thủ các quan điểm sau : - Đảm bảo sự thống nhất giữa nhiệm vụ chính trị và kinh doanh trong việc nâng cao hiệu quả kinh doanh, nâng cao hiệu quả kinh doanh phải xuất phát từ mục tiêu chiến lược phát triển kinh tế xã hội của Đảng và Nhà nước. Mỗi doanh nghiệp phải quyết định việc sản xuất và bán hàng hóa - dịch vụ mà thị trường cần, nền kinh tế cần chứ không bán những sản phẩm hàng hóa mà bản thân doanh nghiệp có sẵn. Đó là điều kiện để bảo đảm sự phát triển cân đối của nền kinh tế quốc dân. - Đảm bảo sự kết hợp hài hòa giữa 3 lợi ích : Lợi ích xã hội, lợi ích tập thể và lợi ích người lao động. Việc nâng cao hiệu quả kinh doanh phải xuất phát và thỏa mãn những mối quan hệ lợi ích trên. Trong đó lợi ích của người lao động là nhân tố quyết định đến việc nâng cao hiệu quả kinh doanh, kết quả đem lại phải thoả mãn những nhu cầu của người lao động, của tập thể, của nền kinh tế trên cơ sở căn cứ vào chi phí để đạt được mức hiệu quả đó. - Bảo đảm tính toàn diện và hệ thống trong việc nâng cao hiệu quả kinh doanh. Việc nâng cao hiệu quả của nền kinh tế, của ngành, của địa phương từ đó đảm bảo yêu cầu nâng cao hiệu quả kinh doanh. Trong từng đơn vị kinh doanh khi đánh giá, xem xét hiệu quả kinh doanh phải coi trọng tất cả các mặt hoạt động kinh doanh, các lĩnh vực, các khâu của quá trình đó. Xem xét một cách đầy đủ các mối quan hệ tác động qua lại của các tổ chức, các lĩnh vực trong một hệ thống theo những mục tiêu đã xác định. - Bảo đảm tính thực tiễn trong việc nâng cao hiệu quả kinh doanh. Khi đánh giá, xác định mục tiêu, biện pháp nâng cao hiệu quả kinh doanh phải xuất phát từ đặc điểm điều kiện kinh tế xã hội của ngành, địa phương và của chính doanh nghiệp trong từng thời kỳ. Điều này mới có đủ cơ sở thực tế để đảm bảo chắc chắn lòng tin cho người lao động, hạn chế được rủi ro tổn thất trong kinh doanh. - Phải căn cứ vào kết quả cuối cùng cả về hiện vật và giá trị để đánh giá hiệu quả kinh doanh: Khi tính toán và đánh giá hiệu quả kinh doanh, một mặt phải căn cứ vào kết quả sản lượng hàng hóa đã thực hiện, mặt khác phải tính đúng, tính đủ các chi phí đã bỏ ra để sản xuất và tiêu thụ những mặt hàng đó. Căn cứ vào kết quả cuối cùng về cả mặt hiện vật và giá trị là yêu cầu tất yếu buộc các nhà kinh doanh phải tính toán đúng đắn, hợp lý các yếu tố cần thiết cho quá trình sản xuất kinh doanh tiếp theo. Từ đó sẽ cho phép đánh giá đúng khả năng thỏa mãn nhu cầu của thị trường về hàng hóa, dịch vụ của doanh nghiệp theo cả hai mặt hiện vật và giá trị. 1.2.2- Các chỉ tiêu đánh giá hiệu quả kinh doanh : 1.2.2.1. Các chỉ tiêu kinh tế Các chỉ tiêu đánh giá hiệu quả kinh doanh tổng hợp: + Tỷ suất lợi nhuận theo giá thành: Tỷ suất lợi nhuận = Tổng lợi nhuận của doanh nghiệp theo giá thành Tổng giá thành Chỉ tiêu này cho biết hiệu quả của doanh nghiệp từ một đồng giá thành sản phẩm hàng hóa tạo ra bao nhiêu đồng lợi nhuận. Chỉ tiêu này có ý nghĩa khuyến khích các doanh nghiệp tìm ra biện pháp hạ giá thành sản phẩm để tăng lợi nhuận. + Tỷ suất lợi nhuận theo vốn kinh doanh được xác định bằng tổng số lợi nhuận so với vốn sản xuất đã bỏ ra bao gồm vốn cố định và vốn lưu động: Tỷ suất lợi nhuận = Tổng lợi nhuận của doanh nghiệp theo vốn kinh doanh Tổng vốn kinh doanh Chỉ tiêu này cho biết hiệu quả sử dụng vốn kinh doanh của doanh nghiệp: Một đồng vốn kinh doanh sẽ tạo ra bao nhiêu đồng lợi nhuận, do đó nó có tác dụng khuyến khích việc quản lý chặt chẽ vốn, sử dụng tiết kiệm và có hiệu quả vốn trong các khâu của quá trình kinh doanh của doanh nghiệp. + Tỷ suất vốn kinh doanh được xác định bằng giá trị lãi suất so với vốn kinh doanh : Tỷ suất vốn = Tổng giá trị sản xuất kinh doanh Tổng vốn kinh doanh Chỉ tiêu này cho biết một đồng vốn sản xuất tạo ra được bao nhiêu đồng giá trị sản xuất. + Tỷ suất doanh thu theo vốn kinh doanh được tính bằng mức doanh thu trên vốn kinh doanh : Tỷ suất doanh thu = Tổng doanh thu theo vốn kinh doanh Tổng vốn kinh doanh Nhóm chỉ tiêu hiệu quả sử dụng các yếu tố cơ bản của quá trình kinh doanh của doanh nghiệp : - Chỉ tiêu hiệu quả sử dụng lao động trong quá trình kinh doanh : +Mức năng suất lao động bình quân được xác định bởi tổng giá trị kinh doanh trên tổng số lao động bình quân. Mức năng suất = Tổng giá trị kinh doanh lao động bình quân Tổng số lượng lao động bình quân Chỉ tiêu này cho biết một lao động sẽ tạo ra bao nhiêu giá trị kinh doanh cho doanh nghiệp. +Mức doanh thu bình quân của mỗi lao động được tính bằng tổng doanh thu trên tổng số lao động bình quân : Mức doanh thu bình = Tổng doanh thu quân mỗi lao động Tổng số lao động bình quân Điều này cho biết mỗi lao động sẽ tạo ra bao nhiêu đồng doanh thu của doanh nghiệp. +Mức lợi nhuận bình quân mỗi lao động : Được tính bằng tổng lợi nhuận trên tổng số lao động bình quân. Mức lợi nhuận của = Tổng lợi nhuận mỗi lao động Tổng số lao động bình quân Hệ số sử dụng = Tổng lao động sử dụng lao động Tổng lao động hiện có Thông qua chỉ tiêu này mà ta biết được tình hình sử dụng lao động, số lao động hiện có của doanh nghiệp đã được sử dụng hết chưa, từ đó mà xác định các giải pháp phù hợp để sử dụng có hiệu quả lao động. Hệ số sử dụng = Tổng lao động thực tế thời gian lao động Tổng thời gian định mức Chỉ tiêu này phản ánh thời gian lao động thực tế so với thời gian định mức, nó cho biết tình hình sử dụng thời gian lao động trong doanh nghiệp. - Chỉ tiêu hiệu quả sử dụng tài sản cố định và vốn cố định : Hệ số sử dụng = Tổng TSCĐ được huy động tài sản cố định Tổng TSCĐ hiện có Chỉ tiêu này cho biết tình hình sử dụng tài sản cố định của doanh nghiệp : Hệ số sử dụng thời gian = Tổng thời gian làm việc thực tế của TSCĐ hoạt động của TSCĐ Tổng thời gian định mức Hệ số sử dụng = Tổng công suất thực tế công suất thiết bị Tổng công suất thiết kế Hệ số đổi mới = Tổng giá trị TSCĐ được đổi mới tài sản cố định Tổng giá trị TSCĐ hiện có Sức sản xuất của = Giá trị tổng sản lượng (doanh thu) tài sản cố định Tổng nguyên giá bình quân TSCĐ Sức sinh lợi của = Tổng lợi nhuận tài sản cố định Tổng nguyên giá bình quân TSCĐ Hiệu quả sử dụng = Giá trị tổng sản lượng (doanh thu) vốn cố định Tổng số vốn cố định - Nhóm chỉ tiêu hiệu quả sử dụng tài sản lưu động và vốn lưu động. Sức sinh lợi của = Tổng lợi nhuận vốn lưu động Tổng vốn lưu động Hệ số đảm nhận = Tổng số vốn lưu động định mức của vốn lưu động Tổng doanh thu bán hàng – thuế Vốn lưu động luôn luôn vận động, bảo đảm cho quá trình tái sản xuất. Do đó đẩy nhanh tốc độ chu chuyển vốn lưu động sẽ góp phần giải quyết nhu cầu về vốn, đồng thời nâng cao được hiệu quả sử dụng vốn của doanh nghiệp. Số vòng quay của = Tổng (Doanh thu – Thuế doanh thu) vốn lưu động Tổng vốn lưu động Chỉ tiêu này cho biết vốn lưu động quay được mấy vòng trong kỳ kinh doanh. Tốc độ của vòng quay càng tăng nhanh thì hiệu quả sử dụng vốn càng tăng và ngược lại. Thời gian của một = Thời gian kỳ kinh doanh vòng luân chuyển Số vòng quay của vốn lưu động trong kỳ Chỉ tiêu cho biết số ngày cần thiết để cho vốn lưu động quay được một vòng. Thời gian một vòng luân chuyển càng nhỏ thì tốc độ luân chuyển càng lớn, hiệu quả sử dụng vốn càng tăng. Nhóm chỉ tiêu hiệu quả kinh tế của từng biện pháp thúc đẩy quá trình kinh doanh : + Chuẩn bị sản xuất và tổ chức quá trình sản xuất sản phẩm hàng hoá đảm bảo quá trình kinh doanh được tiến hành một cách cân đối, nhịp nhàng, liên tục. +ứng dụng tiến bộ khoa học kỹ thuật và công nghệ vào sản xuất nâng cao năng suất lao động, chất lượng sản phẩm và hạ giá thành. +Tiêu thụ hàng hóa đảm bảo cho quá trình tái sản xuất. + Kích thích người lao động phát huy tính chủ động sáng tạo trong quá trình sản xuất kinh doanh. + Không ngừng đổi mới quản lý và nâng cao năng lực cán bộ công nhân viên. Nhóm chỉ tiêu đánh giá hiệu quả của từng thương vụ: Lợi nhuận và tỷ suất lợi nhuận. Thời gian thu hồi vốn của hợp đồng. 1.2.2.2. Các chỉ tiêu kinh tế - xã hội. Để đánh giá hiệu quả kinh doanh của doanh nghiệp, ngoài việc đánh giá hiệu quả kinh tế của doanh nghiệp còn phải đánh giá hiệu quả kinh tế – xã hội của doanh nghiệp thông qua các chỉ tiêu sau : - Tăng thu ngân sách Nhà nước: Mọi doanh nghiệp công nghiệp khi tiến hành hoạt động sản xuất kinh doanh thì phải có nhiệm vụ nộp cho ngân sách Nhà nước dưới hình thức là các loại thuế như thuế doanh thu, thuế đất, thuế lợi tức, thuế xuất khẩu (với các đơn vị xuất khẩu), thuế tiêu thụ đặc biệt... Nhà nước sẽ sử dụng những khoản thu này cho sự phát triển của nền kinh tế quốc dân và ở các lĩnh vực phi sản xuất, góp phần phân phối lại thu nhập quốc dân. - Tạo thêm công ăn, việc làm cho người lao động: Nước ta cũng giống như các nước đang phát triển, hầu hết là các nước nghèo, tình trạng yếu kém về kỹ thuật sản xuất và nạn thất nghiệp còn phổ biến. Để tạo ra nhiều công ăn việc làm cho người lao động và nhanh chóng thoát khỏi đói nghèo lạc hậu, đòi hỏi các doanh nghiệp phải tự tìm tòi đưa ra những biện pháp nâng cao hoạt động kinh doanh, mở rộng quy mô sản xuất, tạo công ăn việc làm cho người lao động… - Nâng cao mức sống của người lao động: Ngoài việc tạo công ăn việc làm cho người lao động đòi hỏi các doanh nghiệp phải làm ăn có hiệu quả để góp phần nâng cao mức sống của người lao động. Xét trên phương diện kinh tế, việc nâng cao mức sống của người dân được thể hiện qua các chỉ tiêu như gia tăng thu nhập quốc doanh bình quân trên đầu người, gia tăng đầu tư xã hội, mức tăng trưởng phúc lợi xã hội ... Theo quan điểm hiện nay của các nhà kinh tế, hiệu quả kinh tế xã hội còn thể hiện qua các chỉ tiêu như: Bảo vệ nguồn lợi môi trường, hạn chế gây ô nhiễm môi trường, chuyển dịch cơ cấu kinh tế. 1.3 . Sự cần thiết phải nâng cao hiệu quả kinh doanh : Trong cơ chế thị trường có sự điều tiết của Nhà nước: Nền kinh tế càng phát triển thì môi trường cạnh tranh càng trở nên gay gắt và khốc liệt. Để tồn tại được đòi hỏi các doanh nghiệp phải chấp nhận cạnh tranh và dành được lợi thế trong cạnh tranh để tồn tại và phát triển. Muốn như thế doanh nghiệp phải nâng cao được hiệu quả trong kinh doanh. Do đó nâng cao hiệu quả kinh doanh là một tất yếu. Đối với bản thân doanh nghiệp muốn tham gia cạnh tranh và thắng thế trong cạnh tranh phải trả lời được các câu hỏi: Sản xuất cái gì? Sản xuất như thế nào? Sản xuất cho ai? Muốn trả lời được những câu hỏi này doanh nghiệp phải tiến hành các bước hết sức thận trọng, có sự tính toán kỹ lưỡng và chắc chắn vì hầu hết các nguồn lực của doanh nghiệp, xã hội là có hạn, mà nhu cầu tiêu dùng hàng hóa, dịch vụ ngày càng tăng, chất lượng sản phẩm hàng hóa dịch vụ ngày càng cao. Như vậy, đạt hiệu quả kinh doanh và không ngừng nâng cao hiệu quả kinh doanh luôn là vấn đề được mọi doanh nghiệp quan tâm, đấy là điều kiện sống còn để doanh nghiệp có thể tồn tại và phát triển trong nền kinh tế thị trường. Đối với người lao động thì việc nâng cao hiệu quả kinh doanh sẽ có sự tác động trực tiếp tới đời sống của họ, nếu như doanh nghiệp làm ăn có hiệu quả cao, tạo ra công ăn việc làm, cuộc sống được nâng lên nhờ tăng lương, các khoản thưởng, chế độ xã hội, ngược lại nếu như các doanh nghiệp làm ăn không có hiệu quả sẽ có nhiều người lao động bị thất nghiệp, lương thấp ảnh hưởng tới đời sống của họ. Đối với xã hội, doanh nghiệp làm ăn có hiệu quả tạo ra nguồn thu cho ngân sách thông qua thuế, làm giảm gánh nặng cho xã hội do tạo ra công ăn việc làm cho người lao động. 1.4 - Các biện pháp nâng cao hiệu quả kinh doanh của doanh nghiệp: 1.4.1 Nghiên cứu, khảo sát và nắm bắt nhu cầu thị trường để xây dựng chiến lược kinh doanh, từ đó lựa chọn phương án kinh doanh tối ưu. Thị trường là nơi diễn ra các hoạt động mua bán, trao đổi giữa người mua và người bán. Sản xuất hàng hóa phát triển đến một mức độ nào đó sẽ hình thành cơ chế thị trường, cơ chế thị trường là một mô hình kinh tế xã hội lấy giá trị, giá cả và lợi nhuận làm nền tảng cho việc điều chỉnh những ứng xử của các tổ chức và cá nhân trong mối quan hệ kinh tế giữa con người với con người, hoạt động của nó tuân theo quy luật cạnh tranh, dưới sự quản lý điều tiết của Nhà nước bằng luật pháp và các đòn bẩy kinh tế… Thị trường là một phạm trù riêng vốn có của sản xuất hàng hóa. Hoạt động cơ bản của nó được thể hiện thông qua hai nhân tố có mối liên quan mật thiết với nhau : - Nhu cầu về hàng hóa - dịch vụ. - Khả năng cung cấp các hàng hóa - dịch vụ đó. Từ thị trường ta xác định được mối tương quan giữa cung và cầu: Nếu cung lớn hơn cầu thì khả năng cung cấp dịch vụ – hàng hóa của thị trường cao hơn nhu cầu về hàng hóa - dịch vụ đó và ngược lại. Thị trường còn là nơi kiểm nghiệm giá trị của hàng hóa - dịch vụ và biết được hàng hóa - dịch vụ đó có đáp ứng được nhu cầu của thị trường, có được thị trường chấp nhận hay không. Trong cơ chế kinh tế hiện nay cạnh tranh là điều kiện, tiền đề cho sự phát triển nền kinh tế. Trên thị trường, các doanh nghiệp đều hoạt động và cạnh tranh với nhau, điều đó đòi hỏi các doanh nghiệp phải nắm bắt nhanh chóng, kịp thời, đầy đủ và chính xác các thông tin về thị trường để đưa ra các biện pháp tác động thích hợp tới quá trình kinh doanh của mình nhằm giành ưu thế trong cạnh tranh. Đó sẽ là điều kiện để cho doanh nghiệp chiến thắng trong cạnh tranh. Nhu cầu của thị trường rất đa dạng, đòi hỏi phải luôn luôn đáp ứng ngày một cao hơn về mọi mặt như chất lượng, mẫu mã, vệ sinh. Chỉ trên cơ sở nắm bắt chính xác, đầy đủ và kịp thời nhu cầu thị trường thì doanh nghiệp mới có căn cứ để lập chiến lược kinh doanh, lựa chọn phương án kinh doanh thích hợp trên cơ sở căn cứ vào tiềm lực của mình để tổ chức kinh doanh mang lại hiệu quả cao nhất với chi phí thấp nhất. Để nắm bắt được các thông tin thị trường doanh nghiệp cần: - Tổ chức hợp lý việc thu thập các nguồn thông tin từ các loại thị trường. - Phân tích và xử lý chính xác, kịp thời các thông tin đã thu được. - Từ hai bước trên xác định nhu cầu của thị trường mà doanh nghiệp có khả năng đáp ứng. Việc nghiên cứu khảo sát và nắm bắt nhu cầu thị trường phải trả lời được các câu hỏi sau : - Những loại thị trường nào là có triển vọng nhất đối với hàng hóa - dịch vụ của doanh nghiệp. - Giá cả, chi phí và khả năng đáp ứng của doanh nghiệp với nhu cầu về hàng hoá - dịch vụ của những loại thị trường đó. - Yêu cầu của thị trường với sản phẩm hàng hóa đó của doanh nghiệp. Trên cơ sở đó doanh nghiệp sẽ xác định cho mình một phương án tối ưu nhất. Xây dựng phương án kinh doanh giúp cho doanh nghiệp luôn chủ động trong kinh doanh, xử lý kịp thời các tình huống có thể xảy ra trong quá trình kinh doanh, giúp cho doanh nghiệp có thể hạn chế tới mức tối đa các rủi ro. 1.4.2. Chuẩn bị tốt các điều kiện, yếu tố cần thiết cho quá trình kinh doanh. Chuẩn bị tốt các điều kiện, yếu tố cần thiết cho quá trình kinh doanh có ý nghĩa quan trọng, nó là điều kiện để nâng cao hiệu quả kinh doanh, góp phần làm tăng khả năng hoàn thành và hoàn thành vượt mức kế hoạch và phương án kinh doanh cả vế số lượng, chất lượng và tiến độ thực hiện. Việc chuẩn bị đầy đủ các điều kiện và yếu tố cho quá trình kinh doanh bao gồm : - Nhân tố nguồn vốn: Tuỳ thuộc vào đặc điểm và quy mô của phương án kinh doanh của mình, doanh nghiệp phải có kế hoạch huy động vốn đảm bảo cho hoạt động kinh doanh đạt kết quả cao. Nguồn vốn kinh doanh của doanh nghiệp có thể được hình thành từ nguồn vốn chủ sở hữu, nguồn vay ngắn hạn hoặc dài hạn, nguồn phải thu của khách hàng,… - Nhân tố đầu vào nguyên vật liệu : Nội dung cơ bản nhất của quá trình sản xuất đó là quá trình lao động. Quá trình lao động làm thay đổi hình dáng, kích thước, tính chất hóa lý của đối tượng lao động để tạo ra sản phẩm công nghiệp với chất lượng càng cao, thoả mãn ngày càng đầy đủ nhu cầu đa dạng của thị trường. Như vậy, nguyên vật liệu là một trong ba yếu tố của quá trình sản xuất, trực tiếp cấu tạo nên thực thể của sản phẩm. Mặt khác nhân tố đầu vào của các doanh nghiệp sản xuất vật chất là nguyên vật liệu. Do đó để cho quá trình kinh doanh của doanh nghiệp được tiến hành một cách liên tục, không bị gián đoạn, tạo cơ sở cho việc nâng cao hiệu quả kinh doanh, thì điều kiện về nguyên vật liệu cần đáp ứng đó là : + Nguyên vật liệu phải đầy đủ vì thiếu nguyên vật liệu dẫn tới các quá trình sản xuất sẽ bị gián đoạn hoặc không thể tiến hành được. + Việc cung cấp nguyên vật liệu phải kịp thời, điều này sẽ đảm bảo cho quá trình sản xuất của doanh nghiệp được diễn ra liên tục, không bị gián đoạn. + Chất lượng của nguyên vật liệu phải đảm bảo vì chất lượng của nguyên vật liệu ảnh hưởng trực tiếp đến chất lượng sản phẩm, đến việc sử dụng hợp lý và tiết kiệm nguyên vật liệu, đến hiệu quả của việc sử dụng vốn. + Chi phí cho nguyên vật liệu chiếm một tỷ trọng cao trong cơ cấu giá thành (thường chiếm tỷ trọng từ 60% đến 80%). Do đó giảm chi phí nguyên vật liệu tới mức thấp nhất đồng nghĩa với hạ giá thành, tăng khả năng cạnh tranh và nâng cao hiệu quả kinh doanh. +Nguyên vật liệu hay nói cách khác nhân tố đầu vào không những giữ vai trò quan trọng trong quá trình sản xuất, nó còn giữ vai trò quan trọng trong lĩnh vực quản lý giá thành và tài chính trong các doanh nghiệp. Vậy vấn đề đặt ra đối với yếu tố này trong công tác quản lý là phải cung ứng đúng tiến độ, số lượng, chủng loại, quy cách và với chi phí thấp nhất. Chỉ trên cơ sở đó mới đảm bảo nâng cao hiệu quả kinh doanh. - Nhân tố máy móc thiết bị và công nghệ : Trong cơ chế thị trường, môi trường kinh doanh diễn ra rất phức tạp, sự cạnh tranh gay gắt và khốc liệt thì nhân tố máy móc thiết bị và công nghệ có vai trò ngày càng quan trọng và có tính quyết định. Nó có ảnh hưởng trực tiếp đến hiệu quả kinh doanh của doanh nghiệp. Máy móc thiết bị và công nghệ tiến bộ sẽ làm cho năng suất lao động tăng, chất lượng sản phẩm tăng, điều đó ảnh hưởng đến giá thành và khả năng cạnh tranh, từ đó tăng hiệu quả kinh doanh của doanh nghiệp. Nhân tố này cũng tác động đến thị trường, đến nhà cung cấp, ảnh hưởng tới khách hàng, vị thế cạnh tranh và quá trình sản xuất của doanh nghiệp trên thị trường. Công nghệ thông tin, tin học tiến bộ giúp cho doanh nghiệp thu thập, xử lý, truyền đạt thông tin kinh tế xã hội phục vụ cho hoạt động kinh doanh và lưu trữ thông tin. Từ đó tạo ra các điều kiện phát triển cho doanh nghiệp. - Nhân tố lao động : Lao động là một trong ba yếu tố của quá trình sản xuất, trong đó lao động là yếu tố quan trọng. Muốn cho mọi hoạt động sản xuất đạt hiệu quả cao cần phải hình thành một cơ cấu lao động tối ưu trong doanh nghiệp. Cơ cấu lao động tối ưu khi lực lượng lao động đảm bảo đủ số lượng ngành nghề, chất lượng, giới tính và lứa tuổi, đồng thời được phân định rõ chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn, mối quan hệ công tác giữa các bộ phận và các cá nhân với nhau, bảo đảm mọi người đều có việc làm, mọi khâu, mọi bộ phận đều có người phụ trách và sự ăn khớp, đồng bộ trong từng đơn vị và trên phạm vi toàn doanh nghiệp. Cơ cấu lao động tối ưu là cơ sở để đảm bảo cho quá trình sản xuất được tiến hành cân đối, nhịp nhàng và liên tục, là cơ sở để đảm bảo nâng cao hiệu quả kinh doanh của doanh nghiệp. Mặt khác doanh nghiệp phải xây dựng cho mình các định mức lao động để làm căn cứ xác định chất lượng sản phẩm, lượng lao động hao phí. Không những thế doanh nghiệp phải sử dụng hợp lý và tiết kiệm sức lao động đều là biện pháp quan trọng để nâng cao hiệu quả kinh doanh. 1.4.3 Tổ chức quá trình kinh doanh theo phương án kinh doanh đã đề ra. - Tăng sản lượng sản xuất và tiêu thụ : Trong cơ chế thị trường để tồn tại đứng vững trong điều kiện cạnh tranh, bản thân các doanh nghiệp ngoài việc tăng sản lượng hàng hóa sản xuất ra còn phải tăng sản lượng tiêu thụ để từ đó tăng lợi nhuận. Sản phẩm sản xuất ra phải tiêu thụ được sao cho phù hợp với quy luật tái sản xuất mở rộng, tăng được sản lượng hàng hóa sản xuất ra tức là doanh nghiệp đã tận dụng được các yếu tố như lao động, yếu tố lao động, máy móc thiết bị, thời gian và sử dụng một cách hợp lý, tiết kiệm nguyên vật liệu, để từ đó hạ giá thành sản phẩm, tăng khả năng cạnh tranh của sản phẩm trên thị trường. Như vậy sẽ tăng được sản lượng hàng hóa tiêu thụ. - Giảm chi phí : Trong nền kinh tế có sự tham gia của nhiều thành phần kinh tế và vận động theo cơ chế thị trường, có sự quản lý của Nhà nước, các doanh nghiệp luôn phải đối mặt với cạnh tranh, muốn thắng lợi trong cạnh tranh thì vấn đề giảm chi phí là rất quan trọng vì giảm một đồng chi phí là tăng một đồng lợi nhuận, hơn nữa các doanh nghiệp sẽ quyết định mức sản xuất và tiêu thụ hàng hóa tuỳ theo chi phí và giá bán hàng. Chi phí sản xuất trong doanh nghiệp là biểu hiện bằng tiền của toàn bộ hao phí lao động vật hóa và hao phí lao động sống cần thiết mà doanh nghiệp đó bỏ ra để tiến hành hoạt động kinh doanh trong một thời kỳ nhất định. Sự tham gia của các yếu tố sản xuất vào quá trình sản xuất của doanh nghiệp có sự khác nhau. Nó hình thành chi phí tương ứng. Vậy khi các doanh nghiệp giảm được chi phí sản xuất kinh doanh xuống là đã hạ được giá thành và tăng khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp trên thị trường. Chính vì thế mục tiêu hàng đầu của các doanh nghiệp là phấn đấu giảm chi phí hạ giá thành, tăng lợi nhuận. - Tăng năng suất lao động : Việc tăng năng suất lao động phụ thuộc vào các yếu tố như chuẩn bị các điều kiện cần thiết cho quá trình kinh doanh, phát triển trình độ đội ngũ lao động, tạo động lực cho tập thể và cá nhân người lao động vì lao động sáng tạo của con người là nhân tố quyết định đến hiệu quả kinh doanh, khi lực lượng lao động có trình độ cao thì có thể khai thác tối đa nguyên vật liệu, công suất máy móc, thiết bị công nghệ tiên tiến, việc phân công bố trí công việc cho người lao động phù hợp với trình độ năng lực. Không những tăng năng suất mà còn tạo ra sự phấn khởi hăng say và tâm lý tốt cho người lao động. Công tác quản trị và tổ chức sản xuất cũng là vấn đề lớn góp phần nâng cao năng suất lao động. Vì cơ cấu tổ chức của doanh nghiệp mà thích ứng với môi trường kinh doanh, nhanh nhạy với sự thay đổi của môi trường, bộ máy của doanh nghiệp phải gọn nhẹ, năng động, linh hoạt, giữa các bộ phận của doanh nghiệp phải xác định rõ chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn chế độ trách nhiệm, tránh sự chồng chéo và nâng cao tinh thần trách nhiệm của mỗi người, nâng cao tính chủ động sáng tạo trong kinh doanh thì sẽ góp phần nâng cao năng suất lao động. Một yếu tố cũng hết sức quan trọng đó là công nghệ kỹ thuật, các nhân tố về kỹ thuật, công nghệ có vai trò ngày càng quan trọng, ngày càng có tính chất quyết định. Nó ảnh hưởng trực tiếp đến hiệu quả kinh doanh, vì chính nó làm tăng năng suất lao động, tăng chất lượng sản phẩm do đó ảnh hưởng tới giá thành và khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp. - Nâng cao chất lượng sản phẩm, hạ giá thành sản phẩm. Doanh nghiệp phải không ngừng đổi mới máy móc thiết bị công nghệ để nâng cao chất lượng sản phẩm đưa ra nhiều mẫu mã của sản phẩm. Việc hạ giá thành sản phẩm giúp cho doanh nghiệp tăng khả năng cạnh tranh, hàng hóa được tiêu thụ nhanh nhờ giá hạ hơn đối thủ, chất lượng sản phẩm lại tốt hơn vì giá đóng vai trò lớn trong quyết định mua hàng của khách hàng, nó ảnh hưởng tới kết quả tiêu thụ. + Thực hiện chính sách giá cả có chiết khấu, giảm giá cho các đại lý, chi nhánh của Công ty nhằm khuyến khích họ mua lượng hàng lớn và bán được nhiều hàng, tích cực hơn trong việc tiêu thụ sản phẩm + Chính sách giá cả theo từng thị trường. Tại mỗi khu vực, vùng địa lý khác nhau, nên có những mức giá khác nhau sao cho phù hợp với cùng loại sản phẩm. + Chính sách giá cạnh tranh : doanh nghiệp áp dụng mức giá thấp khi muốn xâm nhập thị trường mới hay muốn cạnh tranh với đối thủ trên thị trường, điều này giúp sản phẩm tiêu thụ nhanh hơn, khách hàng dễ chấp nhận sản phẩm của doanh nghiệp hơn. Như vậy hiệu quả kinh doanh của doanh nghiệp là một trong những vấn đề hết sức phức tạp, nó có quan hệ với tất cả các yếu tố trong quá trình kinh doanh (lao động, đối tượng lao động, tư liệu lao động...) cho nên doanh nghiệp chỉ có thể đạt được hiệu quả cao khi sử dụng các yếu tố đó có hiệu quả. Chương 2: Thực trạng hoạt động kinh doanh của Nhà in ĐHQG Hà nội 2..1-.Một số đặc điểm chủ yếu ảnh hưởng đến hoạt động kinh .doan h của Nhà in ĐHQG Hà nội.. 2.1.1 Khái quát về Nhà in ĐHQG Hà nội. Được sự quan tâm của Đảng và Nhà nước, ngay sau khi miền Bắc hoàn toàn toàn giải phóng, nhiều trường Đaị học được thành lập. Cùng với sự phát triển về số lượng sinh viên, để nâng cao chất lượng đào tạo và phục vụ công tác nghiên cứu khoa học đòi hỏi các trường Đại học phải có xưởng in. Trong số đó có xưởng in của trường Đại học tổng hợp Hà Nội thành lập năm 1965 và Xưởng in trường Đại học ngoại ngữ Hà Nội thành lập năm 1973. Năm 1993 Đại học Quốc gia được thành lập. Căn cứ vào nhu cầu thực tế, ngày 13/3/1996 Giám đốc Đại học Quốc gia đã ký Quyết định số 160/TCCB thành lập Nhà in thuộc Nhà xuất bản Đại học Quốc gia Hà Nội. Trên cơ sở hoạt động có hiệu quả ngày10/3/1999 Giám đốc Đại học Quốc gia Hà Nội đã ký Quyết định số 830/TCCB nâng cấp Nhà in thành đơn vị trực thuộc Đại học Quốc gia Hà Nội. Hiện nay Nhà in có hai xưởng: Xưởng in Hàng Chuối và xưởng in Cầu Giấy với 67 cán bộ công nhân viên. Tên gọi chính thức của Nhà in: Nhà in ĐHQG Hà Nội Trụ sở chính: 16 Hàng Chuối- Quận Hai Bà Trưng - Hà Nội. Nhiệm vụ chính của Nhà in là: In ấn tài tài liệu phục vụ công tác đào tạo và nghiên cứu khoa học của Đại học Quốc gia Hà Nội và các đơn vị trực thuộc theo kế hoạch được giao… Tận dụng nhân lực, trang thiết bị nhàn rỗi phục vụ nhu cầu in ấn của Xã hội, đảm bảo việc làm ổn định tăng thu nhập cho người lao động, từng bước hoàn thành và hoàn thiện cơ chế hoạt động của một doanh nghiệp để sớm trở thành doanh nghiệp trong Đại học Quốc gia Hà Nội theo tinh thần Quyết định số 68/98/QĐ-TTG ngày 27/3/1998 của Thủ tướng Chính phủ. Nhà in ĐHQG Hà Nội là một đơn vị độc lập hoạt động theo luật xuất bản, được mở tài khoản riêng ở Ngân hàng và có con dấu riêng.Đồng thời có trách nhiệm thực hiện kế hoạch in do Đại học Quốc gia giao cho và chủ động trong sản xuất kinh doanh phần ngoài kế hoạch theo cơ chế tự hạch toán và tự chịu trách nhiệm về hiệu quả của hoạt động đó. Trải qua nhiều lần tách lập, năm 2006 là năm thứ 8 Nhà in hoạt động với tư cách độc lập đã thực hịên các ấn phẩm như: Tạp chí khoa học, bản tin, Sách Giáo trình và chuyên đề, tài liệu tham khảo của các đơn vị trong và ngoài ngành đảm bảo thu nhập thường xuyên cho người lao động. Mặc dù còn nhiều khó khăn song Nhà in đang ngày càng ổn định dần và từng bước hoạt động có hiệu quả hơn. Nhà in là một đơn vị hành chính sự nghiệp có thu tự trang trải 100% chi phí thường xuyên và được cấp kinh phí để thực hiện nhiệm vụ được giao. Nguồn vốn của Nhà in từ kết quả hoạt động sản xuất kinh doanh và từ chênh lệch thu chi lãi Ngân hàng. 2.1.2. Một số đặc điểm chủ yếu ảnh hưởng đến hoạt động kinh doanh của Nhà in. - Tổ chức sản xuất: Quá trình sản xuất ra sản phẩm in bao gồm từ khâu chuẩn bị nguyên liệu giấy, cắt giấy, bản thảo, mẫu (maket) chế bản, bình bản in, làm sách sau đó mới thành một sản phẩm in hoàn chỉnh. Sơ đồ 1: Quy trình công nghệ của Nhà in Bản thảo, mẫu maket Nguyên liệu giấy Chế bản Cắt giấy Bình bản, phơi bản In Làm sách Kho sản phẩm Đặc điểm về tổ chức quản lý Bộ máy quản lý của Nhà in được tổ chức dựa trên sự quản lý của Giám đốc tới các Phòng ban. + Giám đốc: Là người trực tiếp quản lý, điều hành các hoạt động của Nhà in làm việc theo chế độ một thủ trưởng, theo nguyên tắc tập trung dân chủ và tự chịu trách nhiệm trước Giám đốc ĐHQG Hà Nội về các mặt công tác của đơn vị mình. + Phó Giám đốc: Là người giúp việc Giám đốc phụ trách phần công việc của Nhà in theo sự phân công của Giám đốc và được quyền quyết định các vấn đề thuộc phạm vi và quyền hạn được giao. Phó Giám đốc Nhà in ĐHQG Hà nội do Giám đốc ĐHQG Hà nội bổ nhiệm và miễn nhiệm theo đề nghị của Giám đốc Nhà in. + Phòng kế hoạch –Tổng hợp: Là Phòng thực hiện công việc liên quan đến cơ cấu bộ máy tổ chức, bộ máy quản lý của Nhà in. Phòng đảm nhận trách nhiệm thường trực tiếp khách, tiếp nhận các hồ sơ nhân sự đến và đi của Nhà in, chuyển giao văn bản, giấy tờ đến các phòng ban được kịp thời và đầy đủ, nhận tài liệu và lập kế hoạch in. + Phòng tài vụ: Phòng có trách nhiệm và chức năng lập kế hoạch sản xuất kinh doanh, sau đó trình Giám đốc duyệt, xem xét các hợp đồng và đưa ra định mức các chi phí trong hợp đồng in. Bộ phận kế toán có nhiệm vụ thu thập các thông tin về nguồn kinh phí đã được cấp, được tài trợ, được hình thành và theo dõi tình hình sử dụng các khoản chi phí, sử dụng các khoản thu phát sinh tại đơn vị. Đồng thời thực hiện kiểm tra kiểm soát tình hình chấp hành dự toán chi tiêu và tình hình chấp hành các chỉ tiêu, các tiêu chuẩn định mức của nhà nước, tình hình sử dụng các loại vật tư, tài sản công ở đơn vị, kiểm tra chấp hành kỷ luật thu nộp ngân sách, thanh toán các chế độ tài chính của nhà nước, ngăn ngừa các hành vi vi phạm pháp luật về tài chính kế toán, tham mưu đề xuất các giải pháp phục vụ yêu cầu quản lý, quyết định kinh tế tài chính của đơn vị kế toán, tham gia công tác kiểm kê tài sản, kiểm tra kế toán, tổ chức bảo quản lưu trữ hồ sơ, tài liệu kế toán theo qui định, lập và nộp đúng thời hạn các báo cáo tài chính cho cơ quan cấp trên và cơ quan tài chính quy định . + Xưởng in Cầu Giấy và xưởng in Hàng Chuối: Đây là hai cơ sở in của Nhà in ĐHQG Hà Nội, đều có quy trình sản xuất giống nhau, tuy nhiên các chứng từ sổ sách ở hai cơ sở đều được chuyển về trụ sở 16- Hàng Chuối để hạch toán. Sơ đồ 2: Sơ đồ cơ cấu tổ chức bộ máy quản lý của Nhà in Tổ bình bản Ban Giám đốc Phòng kế hoạch -tổng hợp Xưởng in Hàng Chuối Phòng tài vụ Xưởng in Cầu Giấy Tổ phơi bản Tổ máy Tổ sách Tổ phơi bản Tổ bình bản Tổ máy Tổ sách ưu điểm: Quyền hành và trách nhiệm được phân định rõ ràng, dễ kiểm tra, đưa ra quyết định nhanh chóng. Nhược điểm: Không chuyên môn hoá, công việc quá tải đối với Giám đốc, một khi cơ sở phát triển rộng lớn thì cơ cấu này không còn phù hợp nữa. - Đặc điểm về cơ sở vật chất kỹ thuật: Nhà in ĐHQG Hà nội có hai cơ sở ( 16 Hàng Chuối và 144 Xuân Thuỷ- Cầu Giấy hay gọi là cơ sở in Cầu Giấy). Xưởng in tổng hợp và văn phòng được đặt tại tầng 1và tầng 2 nhà số 16 Hàng Chuối. Cơ sở 2 là Xưởng in Cầu Giấy với tổng diện tích khoảng 200 m2, tình hình máy móc thiết bị nay đã cũ, một số máy móc cần phải thay thế. + Nhà xưởng có nguyên giá là 165.450.000đ đã hao mòn rất lớn. + Nhà kho có nguyên giá là 96.750.000đ đã hao mòn là 65.420.000đ, giá trị còn lại là 31.330.000đ + Nhà làm việc có nguyên giá 102.650.000đ đã hao mòn là 60.750.000đ, giá trị còn lại là 41.900.000đ. + Máy móc thiết bị in: Nhà in có tất cả 7 máy in tổng nguyên giá là 450.670.900đ đã hao mòn 170.450.000đ. + Máy cắt: Nhà in có hai máy cắt, một máy hiện đang còn sử dụng tốt, một máy đã hết thời hạn khấu hao. + Một xe TOYOTA nguyên giá 450.620.000đ đã hao mòn là 102.030.000đ giá trị còn lại là 348.590.000đ + Ngoài ra có các máy phơi, máy điều hoà, máy ép sách,… Hiện nay cơ sở vật chất của Nhà in về cơ bản máy móc thiết bị đã đáp ứng được nhu cầu của khách hàng, đã đảm bảo được sức khoẻ cho người lao động. Tuy nhiên Nhà in cần đầu tư thêm về máy móc thiết bị hơn nữa để đáp ứng nhu cầu ngày một tăng của xã hội, đồng thời không ngừng nâng cao hiệu quả kinh doanh tăng thu nhập cho người lao động. - Đặc điểm về lao động của Nhà in Nhà in là một đơn vị hành chính sự nghiệp có thu tự trang trải 100% chi phí sản xuất thường xuyên và được cấp kinh phí để thực hiện nhiệm vụ được giao. Để đáp ứng được yêu cầu công việc đòi hỏi Nhà in phải có một lực lượng lao động phù hợp chủ yếu là lao động trực tiếp. Trong những năm gần đây Nhà in đã từng bước tinh giảm biên chế để nâng cao hiệu quả kinh doanh theo hướng tăng lao động trực tiếp, giảm lao động gián tiếp. Mặt khác không ngừng nâng cao trình độ năng lực của đội ngũ lao động về các mặt. Bảng1: Cơ cấu lao động của Nhà in: Chỉ tiêu 2003 2004 2005 Số lượng Tỷ lệ % Số lượng Tỷ lệ % Số lượng Tỷ lệ % Tổng số lao động 70 100 70 100 67 100 Nam 24 34.3 24 34.3 23 34.32 Nữ 46 65.7 46 65.7 44 65.68 Trên ĐH 1 1.43 1 1.43 1 1.5 Đại học 10 14.3 13 18.6 17 25.4 Trung cấp 12 17.14 12 17.14 14 20.9 PTTH 47 67.13 44 62.83 35 52.2 Số LĐ gián tiếp 16 22.85 14 20 12 18 Số LĐ trực tiếp 54 77.15 56 80 55 82 Qua đây ta thấy rằng phần lớn lao động của Nhà in là lao động trực tiếp có trình độ phổ thông trung học trở lên, trong đó có khoảng 45 người có trình độ thợ từ bậc 4 trở lên. Có thể nói rằng đội ngũ công nhân của Nhà in ĐHQG Hà nội có tay nghề tương đối cao. Đối với người lao động gián tiếp phần lớn có trình độ Đại học. Nhìn vào bảng ta thấy tỷ lệ lao động trực tiếp ngày càng tăng: từ 77.15% năm 2003 lên 80% năm 2004 và 82% năm 2005. Tỷ lệ lao động gián tiếp giảm từ 22.85% năm 2003 xuống còn 20% năm 2004 và 18% năm 2005. Lao động có chuyên môn ngày càng cao góp phần năng cao hiệu qủa kinh doanh của Nhà in ngày càng tăng. - Về nguyên vật liệu. Nhà in ĐHQG Hà nội thuộc ĐHQGHN nhưng nó là đơn vị sản xuát phục vụ các giáo trình và các tài liệu in ấn cho ĐHQGHN và của xã hội nên nguyên vật liệu của nhà in có những đặc điểm riêng, đó là những hoá chất, các loại giấy, xăng dầu, nên nguyên vật liệu của Nhà in mang tính đa dạng phức tạp. Do đó để tạo ra một sản phẩm cần có nhiều loại nguyên liệu chính sau - Các nguyên liệu chính: + Các loại giấy: Giấy CutXê, giấy Bãi Bằng, giấy Tân Mai.. + Các loại mực: Mực xanh, mực đỏ, mực vàng,mực đỏ cờ… + Các loại kẽm: Kẽm to, kẽm nhỏ, kẽm dày, kẽm mỏng, keo PPC - Các loại nguyên liệu phụ: + Các loại hoá chất: Axêtilen, Axêtôn, cồn, dầu xăng ,Cu2SO4. + Các loại sữa rửa bản, xút, axít, phốt pho, các chất phụ gia, các loại dây buộc… Các loại nguyên liệu phụ trên còn có các loại như: Các loại hoá chất tẩy rửa khác… Bảng 2: Tình hình vật tư qua các năm của Nhà in: Tên vật tư Đơn vị tính 2003 SL thực hiện 2004 SL thực hiện 2005 SL thực hiện 1.Bãi bằng 79 x 109 84 x 120 Ram 2520 2750 2928 Ram 760 780 820 2.Tân Mai 84x120 Ram 1.860 1.900 2.059 3.Can C4 Ram 8 9 10 4. Mực Đỏ Hộp 25 27 30 Đen Hộp 452 460 480 5.BìaViệt Trì Tờ 9.900 10.000 10.800 6.Giấy gói Ram 26 28 30 7. Axít Kg 24 26 32 - Đặc điểm về tài chính. Nhà in là đơn vị hành chính sự nghiệp có thu tự trang trải chi phí thường xuyên có nghĩa là Nhà in vừa thực hiện nhiệm vụ in ấn của cấp trên vừa thực hiện sản xuất kinh doanh ngoài kế hoạch nên nguồn vốn của Nhà in được hình thành từ nguồn ngân sách nhà nước cấp theo nguyên tắc. Nguồn vốn còn do ĐHQGHN cấp và vốn từ bổ sung của Nhà in từ kết quả hoạt động sản xuất, kinh doanh dịch vụ, từ chênh lệch thu chi, lãi Ngân hàng. Bảng 3: Tình hình vốn kinh doanh của Nhà in: (Đơn vị 1000đ) Chỉ tiêu 2003 2004 2005 Vốn SXKD 1.180.000 1.190.000 1.192.000 Vốn cố định 3.685.000 4.100.100 4.120.000 Vốn lưu động 510.000 520.000 540.000 Qua bảng trên ta nhận thấy rằng vốn cố định của Nhà in thường chiếm tỷ lệ cao so với tổng vốn, đây là điểm khác so với Công ty thương mại và dịch vụ vì Nhà in là đơn vị sản xuất kinh doanh. Nhà in luôn luôn đầu tư vào thiết bị máy móc để đưa công nghệ mới vào sản xuất kinh doanh. 2.2. Tình hình hoạt động kinh doanh của Nhà in ĐHQG Hà Nội trong thời gian gần đây. 2.2.1 Tình hình sản xuất kinh doanh của Nhà in. - Tình hình sản xuất qua các năm. Với những đặc thù về cơ cấu sản xuất, cơ cấu tổ chức, cơ cấu lao động, được trình bày ở trên, những năm gần đây Nhà in đã có được kết quả cũng đáng khích lệ trong quá trình kinh doanh. Do có những đổi mới trong việc kiện toàn bộ máy tổ chức, thay thế thiết bị và phương thức sản xuất, mở rộng quy mô sản xuất kinh doanh trong 3 năm qua trở lại đây tốc độ tăng trưởng của Nhà in không ngừng tăng lên. Bảng 4: Tình hình sản xuất sản phẩm chủ yếu Nội dung ĐVT 2003 2004 2005 Chênh lệch 04/03 Chênh lệch 05/04 TH KH TH KH TH Tuyệt đối % Tuyệt đối % Máy GT0 Tờ 62.214..221 69.000.000 69.120.000 78.000.000 78.727.680 6.905.779 11,1 9.607.680 13,9 Máy 314 Tờ 83.327.305 90.000.000 92.160.000 102.000.000 102.942.720 8.832.695 10,6 10.782.720 11,7 Máy S26 Tờ 64.746.044 77.000.000 77.760.000 92.000.000 92.145.600 13.013.956 20,1 14.385.600 18,5 Qua bảng số liệu trên ta thấy Nhà in đều hoàn thành và hoàn thành vuợt mức kế hoạch (năm 2003 -2005). Điều này chứng tỏ sản lượng sản phẩm của Nhà in không ngừng tăng ,giá trị tổng sản lượng tăng cao đều đặn trong 3 năm (2003 –2005). Năm 2004: Tổng số sản lượng của máy GTO là 69.120.000 tờ tăng 6.905.779 tờ tương đương 11,1%. Tổng số sản lượng máy 314 làm ra là 92.160.000 tờ, tăng 10,6% với mức tăng tuyệt đối là 8.832.695tờ so với năm 2003. Năm 2005:Tổng sản lượng của máy GTO tăng 13,9% với mức tăng tuyệt đối là 9.607.680 tờ, tổng sản lượng của máy314 tăng 11,1% với mức tăng tuyệt đối là10.782.720 tờ so với năm 2004. Tổng sản lượng sản phẩm máy S26 làm ra là 77.760.000tờ năm 2004 tăng 20,1% với mức tăng tuyệt đối là 13.013.956 tờ so với năm 2003. So sánh năm 2005 so với năm 2004 thì sản lượng tăng tuyệt đối là 14.385.600 tờ tương đương 18,5%. Nói chung ta thấy được sản lượng của Nhà in và giá trị tổng sản lượng không ngừng tăng lên qua các năm. Đăy là biểu hiện tốt phản ánh khă năng đáp ứng nhu cầu của thị trường. Tình hình doanh thu, lợi nhuận, chi phí của Nhà in. Doanh thu và lợi nhuận là yếu tố mà mọi doanh nghiệp đều đưa lên hàng đầu. Nếu doanh thu càng cao chi phí càng giảm thì lợi nhuận sẽ càng cao. Do đặc điểm của Nhà in là đơn vị sản xuất kinh doanh nên hoạt động sản xuất sản phẩm của Nhà in chiếm tỷ trọng lớn trên tổng doanh thu và lợi nhuận. Bảng 5: Tình hình thực hiện doanh thu, lợi nhuận, chi phí Chỉ tiêu Năm Chênh lệch 04/03 Chênh lệch 05/04 2003 2004 2005 Tuyệt đối % Tuyệt đối % Doanh thu 4.718.000 4.321.000 4.966.000 -397.000 -10 645.000 15 Lợi nhuận 72.000 61.200 96.100 -10.800 -15 34.900 57 Chi phí 4.515.000 4.132.800 4.729.000 -382.200 -10 596..200 14 Như vậy qua bảng trên ta thấy. +Tổng doanh thu của Nhà in năm 2004 giảm 397.000 nghìn đồng, giảm 10% so với năm 2003. Nhưng năm 2005 tổng doanh thu lại tăng lên 645.000 ngàn đồng tương đương với mức tăng 15% so với năm 2004. + Doanh thu năm 2004 giảm là do Nhà in đầu tư máy móc thiết bị, đưa công nghệ mới vào sản xuất, còn năm 2005 tăng là do lúc này máy móc thiết bị đưa vào sản xuất đã có hiệu quả làm việc hết công suất. + Lợi nhuận của Nhà in năm 2004 giảm 15% với mức giảm tuyệt đối là 108.000 ngàn đồng so với năm 2005, việc này là do doanh thu giảm. Nhưng lợi nhuận năm 2005 lại tăng so với năm 2004 với mức tăng là 57% với mức tuyệt đối là 349.000 ngàn đồng. Việc tăng này là do doanh thu của Nhà in tăng, do đầu tư vào máy móc thiết bị và công nghệ sản xuất đã làm hết công suất. + Chi phí năm 2004 giảm 10% mức giảm tuyệt đối là 382.220 ngàn đồng so với năm 2003 việc giảm chi phí của năm 2004 cũng là do doanh thu giảm nhưng cũng làm giảm lợi nhuận. + Chi phí năm 2005 tăng 14% mức tăng tuyệt đối là 592.000 nghìn đồng, so với năm 2004 việc tăng chi phí của năm 2005 giúp cho doanh thu và lợi nhuận của Nhà in tăng. 2.2.2 Hiệu quả kinh doanh của Nhà in 2.2.2.1 Hiệu quả kinh tế Hiệu quả của từng yếu tố Để thấy rõ được hịệu quả kinh doanh của Nhà in ta xem xét từng yếu tố tác động đến kết quả hoạt động kinh doanh. + Hiệu quả sử dụng lao động: Bảng 6 : Hiệu quả sử dụng lao động Chỉ tiêu Đơn vị Năm 2003 Năm 2004 Năm 2005 Chênh lệch 04/03 Chênh lệch 05/04 Tuyệt đối % Tuyệt đối % Doanh thu 1000đ 4.718.000 4.321.000 4.966.000 Lợi nhuận 1000đ 72.000 61.200 96.100 Lđộng bình quân người 70 70 67 Mức NSLĐ bình quân 1000đ/n 57.601 63257 74.756 5656 9,8 11.489 18 Mức d thu bình quân một LĐ 1000đ/n 67.400 61.730 74.120 5670 9 12.390 20 Mức lợi nhuận bình quân một LĐ 1000đ/n 1028,5 874,3 1434 154,2 15 559,7 64 - Từ kết quả bảng trên ta thấy được năng suất lao động bình quân của năm 2004 và năm 2005 đều tăng hơn năm 2003, cụ thể là năm 2004 tăng 9,8% tương đương với mức tăng tuyệt đối là 5.656 ngàn đồng. Năm 2005 tăng với mức tuyệt đối là 11.489 ngàn đồng, tương đuơng tăng 18%. - Doanh thu bình quân một lao động năm 2004 giảm 9% với mức giảm tuyệt đối 5.670 ngàn đồng so với năm 2003. Nhưng năm 2005 lại tăng so với năm 2004, mức tăng tuyệt đối là 12390 ngàn đồng tương đương với mức tăng 20%. Nguyên nhân là do năm 2003 Nhà in đã đưa vào sản xuất với công nghệ và thiết bị mới đã phát huy được công suất. + Lợi nhuận bình quân một lao động: Năm 2004 giảm 15% với mức giảm tuyệt đối là 154,2 ngàn đồng so với năm 2003, năm 2005 tăng với mức tuyệt đối là 64% cụ thể với mức tuyệt đối là 559,7 ngàn đồng. Nguyên nhân là do doanh thu bình quân mỗi lao động tăng. - Trong quá trình hoạt động sản xuất kinh doanh Nhà in vẫn tận dụng được những hoạt động gián tiếp để đáp ứng sản xuất trực tiếp và có khi nhu cầu thị trường tăng Nhà in phải thuê thêm lao động ở ngoài có lúc lên tới 72-74 người lao động + Hiệu quả sử dụng vốn cố định. Bảng7 : Hiệu quả sử dụng vốn cố định: Chỉ tiêu Đơn vị tính Năm 2003 Năm 2004 Năm 2005 Chênh lệch 04/03 Chênh lệch 05/04 Tuyệt đối % Tuyệt đối % D thu 1000đ 4.718.000 4..321.000 4..966.000 Lợi nhuận 1000đ 72.000 61..200 96.100 Vốn cố định 1000đ 3.685.000 4.100.100 4.120.000 Sức sinh lời của vốn cố định 0,02 0,015 0,023 -0,005 -2,5 0,008 53 Sức sản xuất của vốn cố định 1,3 1,054 1,2 0,25 -29 0,15 14 Sức hao phí của vốn cố định 0,78 0,95 0,83 -0,17 22 -0,12 -23 Như vậy qua các chỉ tiêu được tính ở trên ta thấy rằng việc sử dụng vốn cố định của Nhà in có hiệu quả. Cụ thể là năm 2005 là năm mà Nhà in sử dụng có hiệu quả cao nhất vốn cố định, cụ thể: - Cứ 1000đ vốn cố định đạt được 0,02 ngàn đồng lợi nhuận năm 2003. Năm 2004 là 0,015 ngàn đồng, giảm 25% so với năm 2003, với mức giảm tuyệt đối là 0,005 ngàn đồng so với năm 2003. Năm 2005 là 0,023 ngàn đồng tăng 53% với mức tăng tuyệt đối là 0,008 ngàn đồng so với năm 2004. - Cứ 1000đ vốn cố định sản sinh ra được 1,3 ngàn đồng doanh thu năm 2003 và năm 2004 là 1,054 ngàn đồng doanh thu giảm 29% với mức giảm tuyệt đối là 0,25 ngàn đồng so với năm 2003 và năm 2005 mức sản xuất của vốn cố định là 1,2 ngàn đồng tăng 14% so với mức tăng tuyệt đối là 0,15 ngàn đồng so với năm 2004. + Hiệu quả sử dụng vốn lưu động: Bảng 8: Hiệu quả sử dụng vốn lưu động của nhà in Chỉ tiêu Đvt Năm 2003 Năm 2004 Năm 2005 Chênh lệch 04/03 Chênh lệch 05/04 Tuyệt đối % Tuyệt đối % Doanh thu 1000đ 4.718.000 4.321.000 4.966.000 D thu thuần 1000đ 4.622.785 4.215.290 4.854.012 -407495 -10 638.722 15 Lợi nhuận 1000đ 72.000 61.200 96.100 Vốn lưu động 1000đ 510.000 520.000 540.000 Sức sản xuất của vốn lưu động 9,25 8,31 9,2 -0,94 -20 0,89 10 Sức sinh lợi của vốn lưu động 0,14 0,12 0,18 -0,02 24 0,06 50 Số vòng quay của vốn lưu động vòng 9,25 8,31 9,2 -0,94 -20 0,89 10 Số ngày luân chuyển 1 vòng quay ngày 40 44 40 4 40 -4 -10 Hệ số đảm nhiệm của vốn lưu động 0,11 0,12 0,11 0,01 10 -0,01 10 Qua bảng này ta thấy hiệu quả sử dụng vốn lưu động của Nhà in tương đối cao đặc biệt năm 2004, cụ thể: - Sức sản xuất của vốn lưu động: Năm 2004 giảm hơn năm 2003 tức là cứ 1000đ vốn lưu động sản sinh ra 9,25 ngàn đồng doanh thu năm 2003, năm 2004 là 8,31 ngàn đồng, giảm 20% với mức giảm tuyệt đối là 0,94 ngàn đồng so với năm 2003 và năm 2005 là 9,2 ngàn đồng tăng so với năm 2004 với mức tăng là 10% tuyệt đối là 0,89 ngàn đồng. - Sức sinh lời của vốn lưu động: + Cứ 1000đ vốn lưu động đạt được 0,14 ngàn đồng lợi nhuận năm 2003, năm 2004 là 0,12 ngàn đồng, giảm 24% với mức giảm tuyệt đối là 0,02 ngàn đồng so với năm 2003 và năm 2005 là 0,18 ngàn đồng tăng 0,06 ngàn đồng tức là 50% so với năm 2004. - Số ngày luân chuyển 1 vòng quay của vốn lưu động Năm 2003 là 40 ngày, năm 2004 là 44 ngày, tăng so với năm 2003 là 4 ngày và năm 2005 là 40 ngày, giảm so với năm 2004 là 4 ngày. - Hệ số đảm nhiệm của vốn lưu động. Cứ 1000đ doanh thu thuần thì trong đó 0,11 ngàn đồng vốn lưu động năm 2003, năm 2004 là 0,12 ngàn đồng, tăng 10% so với mức tăng tuyệt đối là 0,01 ngàn đồng. So với năm 2003 và năm 2005 là 0,11 ngàn đồng, giảm 10% với mức giảm tuyệt đối 0,01 ngàn đồng so với năm 2004. Như vậy, qua bảng phân tích các yếu tố như: Hiệu quả sử dụng lao động, hiệu quả sử dụng vốn cố định, vốn lưu động của Nhà in ta thấy tình hình kinh doanh của Nhà in trong 3 năm (2003-2005) có nhiều biến động. Năm 2004 so với năm 2003, tất cả các chỉ tiêu, yếu tố trên đều giảm là một phần do tình hình kinh tế của đất nước cũng như các vật liệu giá cả đều tăng lên và do chính sách tiền lương tăng lên. Nhưng năm 2004 hiệu quả kinh doanh của Nhà in không cao. Sang năm 2005 so với năm 2004 tất cả chỉ tiêu, yếu tố đều tăng, hiệu quả kinh doanh cũng tăng nhưng lãi cũng không nhiều. Hiệu quả kinh tế tổng hợp Bảng 9: Tình hình doanh thu , lợi nhuận và chi phí Chỉ tiêu Đvt Năm 2003 Năm 2004 Năm 2005 Chênh lệch 04/03 Chênh lệch 05/04 Tuyệt đối % Tuyệt đối % Dthu 1000đ 4.718.000 4.321.000 4.966.000 -397.000 10 645..000 15 D thu thuần 1000đ 4.622.785 4.215.290 4.854.012 -407495 -10 638.722 15 Lợi nhuận 1000đ 72.000 61.200 96.100 -10.800 -15 34.900 57 Lợi nhuận ròng 1000đ 67.012 56890 88.942 -10.122 -16 32.052 56 Chi phí 1000đ 4.515.000 4.132.800 4.729.000 -382.200 -10 596..200 14 Mức doanh thu trên vốn sản = 4.622.785 = 3,9 xuất kinh doanh năm 2003 1.180.000 Mức doanh thu trên vốn sản = 4.215.290 = 3,5 xuất kinh doanh năm 2004 1.190.000 Mức doanh thu trên vốn sản = 4.854.012 = 4 xuất kinh doanh năm 2005 1.192.000 Mức doanh lợi của vốn sản = 72.000 x 100 = 6,1 (%) xuất kinh doanh năm 2003 1.180.000 Mức doanh lợi của vốn sản = 61.200 x 100 = 5,1(%) xuất kinh doanh năm 2004 1.190.000 Mức doanh lợi của vốn sản = 96.100 x 100 = 8(%) xuất kinh doanh năm 2005 1.192.000 Tỷ lệ lợi nhuận trên = 72.000 = 0,015 doanh thu năm 2003 4.622.785 Tỷ lệ lợi nhuận trên = 61.200 = 0,014 doanh thu năm 2004 4.215.290 Tỷ lệ lợi nhuận trên = 96.100 = 0,019 doanh thu năm 2005 4.854.012 Mức doanh thu trên = 4.622.785 = 1,024 chi phí năm 2003 4.515.000 Mức doanh thu trên = 4.215.290 = 1,02 chi phí năm 2004 4.132.800 Mức doanh thu trên = 4.854.012 = 1,03 chi phí năm 2005 4.729.000 Mức lợi nhuận trên = 72.000 = 0,016 chi phí năm 2003 4.515.000 Mức lợi nhuận trên = 61.200 = 0,015 chi phí năm 2004 4.132.800 Mức lợi nhuận trên = 96.100 = 0,02 chi phí năm 2005 4.729.000 Bảng10 : Hiệu quả kinh tế tổng hợp Chỉ tiêu Đơn vị tính Năm 2003 Năm 2004 Năm 2005 Chênh lệch 04/03 Chênh lệch 05/04 Tuyệt đối % Tuyệt đối % D thu thuần 1000đ 4.622.785 4.215.290 4.854.012 -407.495 -10 638722 15 Lợi nhuận 1000đ 72.000 61.200 96.100 -10.800 -15 34.900 57 Vốn SXKD bình quân 1000đ 1.180.000 1.190.000 1.192.000 10.000 0,8 2.000 0,2 Chi phí 1000đ 4.515.000 4.132.800 4.279.000 -382..200 -10 596.200 14 Mức dthu trên vốn SXKD 3,9 3,5 4 -0,4 -10 0,5 14 Mức doanh lợi của vốn SXKD 6,1 5,1 8 -1 -16 2,9 56 Tỷ lệ lợi nhuận/DThu 0,015 0,014 0,019 -0,001 -10 0,005 36 Mức dthu/ chi phí 1,024 1,02 1,03 -0,004 -1 0,01 0,9 Mức lợi nhuận/chi phí 0,016 0,015 0,02 -0,001 -7 0,005 33 Biểu đồ tình hình kinh doanh . Như vậy qua các chỉ tiêu tính được ở trên ta thấy rằng hiệu quả sử dụng vốn nói chung của Nhà in trong 3 năm qua tương đối thấp, cụ thể là cứ 1000đ doanh thu chỉ đạt được lợi nhuận 0,015 đồng năm 2003, năm 2004 là 0,014 nghìn đồng và năm 2005 lại tăng lên 0,019 nghìn đồng. Cứ 1000đ chi phí mới tạo ra 0,016 nghìn đồng lợi nhuận năm 2003 và năm 2004 là 0,015 nghìn đồng lợi nhuận, năm 2005 là 0,02 nghìn đồng. 2.2.2.2. Hiệu quả kinh tế xã hội của Nhà in. Khi phân tích hiệu quả kinh doanh của Nhà in chúng ta không chỉ phân tích hiệu qủa kinh tế mà còn phải xem xét hiệu quả kinh tế xã hội của Nhà in, từ đó mới đánh giá một cách toàn diện về quá trình kinh doanh của Nhà in trong những năm vừa qua (2003-2005) Nhà in ĐHQG Hà Nội là một đơn vị hành chính sự nghiệp có thu, tự trang trải 100% chi phí thường xuyên và được cấp kinh phí để thực hiện nhiệm vụ được giao. Hiện nay Nhà in Đại học Quốc gia Hà Nội là một cơ sở sản xuất kinh doanh có hiệu quả trong Đại học Quốc gia Hà Nội nói riêng và của Ngành in nói chung. Với sản phẩm in ấn cao cấp như in tờ rơi, tờ quảng cáo, in tạp chí,…Nhà in làm ăn có hiệu quả góp phần nâng cao mức sồng của người lao động, từ đó gia tăng thu nhập quốc dân trên đầu người, đầu tư xã hội, mức tăng trưởng phúc lợi xã hội, chuyển dịch cơ cấu kinh tế. - Giải quyết việc làm, tăng thu nhập cho người lao động: ở nước ta hiện nay nạn thất nghiệp còn rất phổ biến. Để tạo nhiều công ăn việc làm cho người lao động và nhanh chóng thoát khỏi đói nghèo lạc hậu đòi hỏi các doanh nghiệp phải đưa ra các biện pháp phù hợp. Nhà in không ngừng mở rộng quy mô sản xuất đưa ra các biện pháp nâng cao hoạt động sản xuất kinh doanh, do đó hàng năm Nhà in giải quyết công ăn việc làm cho hơn 60 người lao động, với mức lương ngày càng được nâng lên. Đây cũng là mức lương cao trong số những doanh nghiệp nhà nước, ngang bằng, thậm chí còn cao hơn một số Nhà in khác. Ngoài việc tạo ra công ăn việc làm cho công nhân viên Nhà in, Nhà in cũng gián tiếp tạo ra công ăn việc làm cho người lao động bên ngoài từ đó góp phần giảm thất nghiệp cho xã hội. - Đóng góp cho nguồn ngân sách. Nhà in tiến hành sản xuất kinh doanh thì phải có nghĩa vụ nộp ngân sách cho nhà nước dưới các hình thức là các loại thuế mức. Mức đóng góp của Nhà in ngày càng tăng: năm 2003 là 230.234 ngàn đồng, năm 2004 là 266.000 ngàn đồng, năm 2005 là 328.700 ngàn đồng. Vì hiệu quả kinh doanh của Nhà in ngày càng tăng, điều đó góp phần tăng nguồn thu cho ngân sách nhà nước, Nhà nước sẽ sử dụng những khoản này cho sự phát triển của nền kinh tế quốc dân và ở các lĩnh vực phi sản xuất. Bảng 11: Hiệu quả kinh tế xã hội Chỉ tiêu Đơn vị tính Năm 2003 Năm 2004 Năm 2005 Nộp ngân sách 1000đ 230.234 266.000 328.700 Để đáp ứng nhu cầu đa dạng của thị trường, tạo điều kiện cho các ngành liên quan phát triển, hiện nay trong nước ta xuất hiện nhiều nhà xuất bản, cả nước ta có hàng chục nhà xuất bản lớn và biết bao nhiêu nhà xuất bản các trường mới thành lập, các ngành công nghiệp của Việt Nam ngày càng được nâng cao. Đây là một thị trường lớn để Nhà in cần khai thác và kinh doanh. Nhà in phát triển đem lại hiệu quả ích lợi xã hội như đáp ứng nhu cầu in ấn các sản phẩm của khách hàng và thị trường, mang lại sự phát triển cho các ngành khác có liên quan như : Giấy, điện, cơ khí, hoá chất, quảng cáo,… Vì vậy nếu việc sản xuất kinh doanh của Nhà in ngày càng phát triển sẽ thúc đẩy sự phát triển của nhiều doanh nghiệp trong các lĩnh vực có liên quan khác. Ngoài việc in ấn các loại: Sách báo, tạp chí, nhãn mác, nhà in còn in ấn các loại giấy tờ quảng cáo, các biểu mẫu, làm bìa cứng và các loại sản phẩm này đã từng mang sang các nước Pháp, Hàn Quốc, Thái Lan, Trung Quốc… các loại sản phẩm này được các nhà khoa học đã đánh giá rất cao các cuốn sách của Nhà in . Trong chiến lược phát triển kinh doanh của Nhà in, việc đa dạng hoá sản phẩm là không thể thiếu được. Điều này nhằm hạn chế những rủi ro xảy ra cho Nhà in, cũng như các ngành có liên quan. 2.2.3. Những nhân tố hạn chế hiệu quả hoạt động kinh doanh của Nhà in Qua quá trình tìm hiểu, nghiên cứu và phân tích hoạt động kinh doanh của Nhà in trong 3 năm qua (2003-2005) chúng ta thấy rằng thực tế hoạt động kinh doanh của Nhà in đã và đang gặp phải một số khó khăn, làm hạn chế hiệu quả kinh doanh của Nhà in. * Vấn đề thị trường: Nhà in là đơn vị sản xuất kinh doanh trực thuộc Đại học Quốc gia Hà Nội được thành lập sớm hơn các Nhà in thuôc các trường Đại học khác nhưng vẫn đang phải cạnh tranh gay gắt với các Nhà in khác và các cơ sở in tư nhân thành lập nhiều như hiện nay. Trong những năm gần đây Nhà in ĐHQG Hà Nội mới chỉ chú trọng đến in ấn các tài liệu phục vụ công tác đào tạo và nghiên cứu khoa học của Đại học Quốc gia Hà Nội giao. Tuy nhiên khối lượng tài liệu về in ấn của các khoa, các Trung tâm, các Viện trực thuộc Đại học Quốc gia Hà Nội chưa được Nhà in khai thác hết. Ngoài ra Nhà in cũng mới chỉ đáp ứng được nhu cầu in ấn của một số khách hàng quen thuộc chứ chưa có được những định hướng phát triển cụ thể cho thị trường và các sản phẩm in ấn phục vụ nhu cầu của xã hội. Việc nghiên cứu thị trường vẫn chưa rõ ràng, đặc biệt là vấn đề tìm kiếm thị trường vẫn còn xem nhẹ. Việc dự báo thị trường của Nhà in chủ yếu vẫn dựa vào kế hoạch ,nhiệm vụ của cấp trên giao. Đây là những vấn đề về thị trường mà Nhà in cần nghiên cứu để khắc phục. * Vấn đề về tài chính: Hiện nay, Nhà in hoạt động sản xuất kinh doanh có hiệu quả song thời gian gần đây Nhà in ĐHQG Hà Nội còn gặp phải những khó khăn nhất định về tài chính ,đặc biệt là các khoản nợ phải trả. Để quá trình sản xuất được tiến hành liên tục không bị gián đoạn, việc dự trữ nguyên vật liệu đầu vào cho sản xuất là rất quan trọng. Chính vì vậy Nhà in đang rất cần các khoản tài chính để mua nguyên vật liệu dự trữ đảm bảo sự ổn định sản xuất,…… Bảng12: Chi tiết các khoản phải trả của Nhà in năm 2005. Đơn vị tính: Đồng Nội dung Số tiền - Phải trả người bán 420.000.000 - Người mua phải trả 530.000.000 -Phải trả các đơn vị nội bộ 58.000.000 Qua bảng trên ta thấy số vốn mà khách hàng nợ của Nhà in là rất lớn , Nhà in cần phải thu về để trả cho người bán nguyên vật liệu. * Vấn đề quản lý giá thành các sấn phẩm: Nhà in chủ yếu tiến hành sản xuất theo các đơn đặt hàng ký kết với khách. Do đó mỗi khi tìm được khách hàng, dựa trên các yêu cầu về kỹ thuật in, đóng sách, về số lượng sản phẩm, thời gian hoàn thành sản phẩm, phòng kế hoạch tính toán sơ bộ các chi phí về giấy, mực,công in,… và thêm một khoản % để bù đắp các chi phí khác như hao hụt, chi phí quản lý, từ đó hình thành giá của hợp đồng. Việc sản xuất chỉ được tiến hành khi hai bên có sự thoả thuận thống nhất về các mặt. Do đó công tác quản lý tính giá thành đóng một vai trò quan trọng nhằm xem xét, xác định hiệu quả sản xuất kinh doanh của Nhà in. Đối tượng tính giá thành của Nhà in là toàn bộ các đơn đặt hàng được hoàn thành trong tháng. Trong khi đó số lượng đơn đặt hàng mỗi tháng thường khá nhiều nên việc tính giá thành cho toàn bộ các đơn đặt hàng không cho chúng ta thấy được đơn đặt hàng nào được sản xuất hợp lý, tiết kiệm, còn đơn hàng nào gây lãng phí kém hiệu quả. Nguyên nhân của tình trạng này là do giá thành của các đơn hàng đã bù trừ cho nhau, và như thế vai trò to lớn của giá thành sản phẩm đã giảm đi rất nhiều. Với đối tượng tính giá thành như hịên nay Nhà in chỉ có thể so sánh được hiệu quả của các tổng đơn đặt hàng, còn về chi tiết thì không thể theo dõi được, do đó hiệu quả quản lý chi phí giá thành không được phát huy. Vì vậy Nhà in cần áp dụng một phương pháp tính giá thành hợp lý hơn. * Vấn đề máy móc thiết bị và công nghệ. Nhân tố máy móc thiết bị và công nghệ là nhân tố ảnh hưởng trực tiếp đến hiệu quả kinh doanh của Nhà in. Máy móc thiết bị và công nghệ tiến bộ sẽ làm cho tăng năng suất lao động và chất lượng sản phẩm. Chương 3: một số biện pháp cơ bản nhằm nâng cao hiệu quả kinh doanh của Nhà in ĐHQG Hà Nội 3.1. Định hướng phát triển của Nhà in ĐHQG Hà Nội. Thời gian gần đây Nhà in đã đạt được nhiều thành tích trong sản xuất kinh doanh, việc đầu tư vào sản xuất đã đạt được kết quả tốt, việc xây dựng và bố trí lại nhà xưởng, lắp đặt máy điều hoà cho các phòng sản xuất tạo điều kiện thuận lợi cho sản xuất, đời sống cán bộ công nhân viên được năng cao. Tất cả những kết quả đó tạo một nền tảng vững chắc cho sự phát triển lâu dài, coi những gì đã đạt được là bước khởi đầu thuận lợi nhưng cũng còn không ít khó khăn. Cùng với sự phát triển của nền kinh tế, của khoa học công nghệ trong tương lai Đại học Quốc gia Hà Nội sẽ có thêm nhiều trường Đại học thành viên, nhiều khoa trực thuộc, các Trung tâm nghiên cứu,… Số lượng sinh viên Đại học chính qui tăng lên, hệ sau Đại học sẽ tăng qui mô đào tạo. Ngoài những ngành học, môn học hiện nay, sẽ bổ sung thêm những ngành học mới, môn học mới. Số lượng giáo trình, sách giáo khoa, sách tham khảo cần in rất lớn. Nhiệm vụ in của Nhà in là rất nặng nề. Nhà in ĐHQG Hà Nội cần phát huy những tiềm năng sẵn có, xây dựng đơn vị thành cơ sở in có trang thiết bị hiện đại, ấn phẩm đạt chất lượng cao, hoạt động sản xuất có hiệu quả phục vụ đắc lực cho công tác đào tạo, nghiên cứu khoa học của Đại học Quốc gia Hà Nội, các trường thành viên, các khoa, các đơn vị trực thuộc và của xã hội. Mục tiêu cho những năm 2006 -2008 được thể hiện rõ trong kế hoạch phát triển của Nhà in: Hoàn thiện cơ chế tự chủ tài chính, đảm bảo phát huy hiệu qủa nguồn nhân lực, nguồn vốn, trang thiết bị, phấn đáu đạt kết quả cao trong sản xuất kinh doanh trên cơ sở thực hiện bốn chương trình lớn là: + Chương trình đào tạo, đào tạo lại tay nghề cho công nhân. + Chương trình nâng cấp trang thiết bị đặc biệt là khâu sau in. + Chương trình tìm kiếm việc làm. + Chương trình hoàn thiện cơ chế tự hạch toán. Từ những chương trình đã đặt ra ở trên Nhà in phấn đấu doanh thu đạt 5 – 5,5 tỷ đồng/ năm, bổ sung vốn nâng cấp trang thiết bị 500 triệu đồng, từng bước tăng thu nhập cho cán bộ công nhân viên đồng thời tích luỹ, tự đổi mới nâng cấp trang thiết bị. 3.2. Một số biện pháp nhằm nâng cao hiệu quả kinh doanh của Nhà in ĐHQG Hà Nội. Để thực hiện được những phương hướng và mục tiêu đã đề ra trong những năm tới, đòi hỏi Nhà in phải từng bước đổi mới và hoàn thiện các mặt còn hạn chế của mình. Sau đây là một số biện pháp nhằm nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh của Nhà in: 3.2.1 Mở rộng thị trường: Trong cơ chế thị trường để tồn tại và phát triển Nhà in cần coi trọng vấn đề nghiên cứu khai thác thị trường. Trước hết phải giữ vững thị trường có sẵn bao gồm các đối tượng phục vụ của Nhà in như các trường Đại học, các khoa, các Phòng ban trực thuộc Đại học Quốc gia Hà Nội. Hiện nay ngoài nhiệm vụ in ấn phục vụ công tác đào tạo và nghiên cứu khoa học của Đại học Quốc gia Hà Nội Nhà in còn khai thác thị trường bên ngoài nhằm đáp ứng nhu cầu ngày càng tăng của xã hội. Với mỗi thị trường cần có chính sách giá cả sao cho phù hợp để thu hút khách hàng. Việc nghiên cứu thị trường còn nhằm tìm ra nhà cung cấp các yếu tố đầu vào tốt nhất, từ đó tạo dựng mối quan hệ mật thiết để đem lại sự ổn định cho khâu sản xuất. Nội dung của việc nghiên cứu thị trường bao gồm: -Nghiên cứu nhu cầu: thị trường cần những loại ấn phẩm nào? số lượng bao nhiêu? chất lượng như thế nào? - Nghiên cứu chiến lược đưa ấn phẩm ra thị trường: Nhằm để khi đưa ấn phẩm ra thị trường được thị trường chấp nhận và tiêu thụ nhiều nhất, chi phí thấp nhất. Từ đó xem xét tìm ra các thị trường tiềm năng. - Nghiên cứu đối thủ cạnh tranh: Xem xét khả năng cung cấp của các đơn vị khác, lợi thế của họ để các biện pháp đối phó thích hợp. Muốn áp dụng biện pháp này cần xem xét điều kiện để thực hiên: Hiện nay kế họach sản xuất kinh doanh của Nhà in chủ yếu vẫn dựa vào kế hoạch của Đại học Quốc gia Hà Nội giao đặc biệt là dựa vào kết quả sản xuất kinh doanh của những năm trước và ý kiến chủ quan của lãnh đạo Nhà in về biến động của nhu cầu thị trường. Để thực hiện biện pháp này đòi hỏi Nhà in phải tiến hành thầnh lập một bộ phận chuyên trách về nghiên cứu thị trường bao gồm những cán bộ có kinh nghiệm, trình độ chuyên môn nghiên cứu thị trường, giá cả,…. được đầu tư thích đáng, việc dự báo của họ không bị ý kiến chủ quan của một người nào của Nhà in. Nhưng chi phí cho bộ phận này phải được tính toán kỹ lưỡng cẩn then, tránh lãng phí. Tất cả các bộ phận khác của Nhà in đều có trách nhiệm trợ giúp cho bộ phận nghiên cứu thị trường hoàn thành nhiệm vụ. 3.2.2. Nâng cao chất lượng sản phẩm: Trong nền kinh tế thị trường, nâng cao chất lượng sản phẩm có tầm quan trọng sống còn đối với doanh nghiệp. Chất lượng là yếu tố quan trọng nhất, được xếp lên trên yếu tố giá cả, nó quyết định tới khả năng cạnh tranh của mỗi doanh nghiệp. Do đó muốn tồn tại và phát triển doanh nghiệp phải không ngừng nâng cao chất lượng sản phẩm, nhờ đó làm tăng danh tiếng, uy tín của doanh nghiệp, giữ được khách hàng cũ, thu hút khách hàng mới tạo điều kiện cho doanh nghiệp mở rộng thị trường, tạo đà cho sự phát triển lâu dài bền vững của doanh nghiệp. Đi đôi với việc tăng chất lượng sản phẩm, cải tiến chất lượng, tăng tính hiệu quả của quá trình kinh doanh, tạo việc làm ổn định và tăng thu nhập cho người lao động. Nâng cao chất lượng sản phẩm là biện pháp hữu hiệu kết hợp các loại lợi ích của doanh nghiệp, người tiêu dùng xã hội và người lao động. Đứng trên góc độ nền kinh tế quốc dân mà xét thì tăng chất lượng sản phẩm cũng như là tăng năng xuất lao động xã hội. Chất lượng sản phẩm tăng dẫn đến tăng giá trị sử dụng và lợi ích kinh tế – xã hội trên một đơn vị chi phí đầu vào, tiết kiệm chi phí nguyên vật liệu, tiết kiệm tài nguyên thiên nhiên, giảm ô nhiễm môi trường. Vì vậy, chất lượng sản phẩm không chỉ là vấn đề của doanh nghiệp mà còn là năng suất lao động xã hội, là cơ sở quan trọng nâng khả năng cạnh tranh và sức mạnh kinh tế của đất nước. Chất lượng sản phẩm in được đánh giá bởi các chỉ tiêu: Đối với sản phẩm in màu: Đúng màu, chồng khít màu, đúng maket, đúng số lượng, hình thức đẹp. Đối với sản phẩm sách: đúng kích thước, hình thức đẹp, bìa vào vuông, đúng trang. Để nâng cao chất lượng sản phẩm cần áp dụng các biện pháp sau đây: Thứ nhất: Đầu tư máy móc thiêt bị, hạn chế tính không đồng bộ của máy móc thiết bị. Nhà in đã nhiều lần nhập máy móc,thiết bị công nghệ của Nhật, Đức… đến nay máy móc đã cũ .Vì vậy, muốn sản xuất ra sản phẩm thì phải có đầy đủ máy móc thiết bị công nghệ, con người. Nhưng với thực trạng hiện nay của Nhà in những ấn phẩm làm ra chưa được đẹp, chưa đúng tiêu chuẩn. Đầu tư máy móc thiết bị hạn chế tính không đồng bộ của máy móc thiết bị, tăng công suất hoạt động của máy móc thiết bị, tăng năng suất của người lao động đồng thời hạn chế sự lãng phí nguyên vật liệu trong quá trình sản xuất. Từ đó năng cao được chất lượng các ấn phẩm, khi chất lượng ấn phẩm tăng lên thì số phế phẩm sẽ được hạn chế. Nhà in cần đầu tư máy móc trang thiết bị khâu sau in như máy gấp, máy vào bìa,… Thứ hai: Nâng cao hoạt động quản lý chất lượng ấn phẩm đặc biệt là hình thành nhóm chất lượng. - Xuất phát từ những thành công trong quá trình nâng cao chất lượng sản phẩm của Nhật Bản là “ Hoạt động của nhóm chất lượng”. Nhóm chất lượng là một nhóm nhỏ các công nhân của cùng một xưởng hoạt động trên nguyên tắc tự nguyện giúp nhau cùng phát triển hướng về mục tiêu hoàn thiện cải tiến chất lượng. Việc hình thành nhóm chất lượng ở Nhà in là cần thiết với ấn phẩm đòi hỏi tính bền đẹp trong khâu làm sách. Nó đòi hỏi sự phối hợp cộng tác của mọi người trong và giữa các giai đoạn công nghệ với nhau. Thực hiện nhóm chất lượng Nhà in sẽ phát huy triệt để yếu tố con người trong và giũa các giai đoạn công nghệ với nhau. Thực hiện nhóm chất lượng Nhà in sẽ phát huy triệt để yếu tố con người đúng như quan điểm quản trị chất lượng tổng hợp “ Con người ở giữa vị trí trung tâm”. Để hình thành nhóm chất lượng, Nhà in cần tiến hành qua 2 giai đoạn sau: Giai đoạn 1: Giáo dục qui trình công nghệ, hiểu biết về chất lượng. Giới thiệu về qui trình công nghệ sản xuất ấn phẩm, nêu tính phức tạp của qui trình, bắt đầu và kết thúc như thế nào?Yêu cầu của mỗi giai đoạn công nghệ đó và mối quan hệ tác động giữa qui trình trước và sau như thế nào?ảnh hưởng của họ tới chất lượng ấn phẩm như thế nào? Cụ thể là giai đoạn qui trình công nghệ sau đó. Khẳng định sự thành công của Nhà in là sự đóng góp của mọi người trong việc đưa chất lượng đi lên. Giới thiệu về công cụ thống kê để kiểm soát chất lượng, chỉ ra phế phẩm thường gặp và tự cho công nhân điền vào nguyên nhân. Quá trình giáo dục phải tiến hành liên tục, tạo điều kiện cho hoạt động cải tiến chất lượng mà còn có tác dụng cho hoạt động quản lý chất lượng nói chung. Giai đoạn 2: Muốn cho công nhân chú tâm vào quá trình sản xuất cao hơn nữa, họ cố gắng tìm tòi khắc phục nguyên nhân thì Nhà in cần phải tạo điều kiện cho họ: +Tổ chức đào tạo củng cố tay nghề +Tạo ra nơi làm việc thuận lợi, cải tạo nơi làm việc ở khâu in, giảm nóng, bụi, mùi xăng dầu, hạn chế sự tiếp xúc với hoá chất,…. + Cung cấp thông tin về tình hình chất lượng, hàng tuần có tổng kết về tỷ lệ phế phẩm, thông báo về chi phí chất lượng. Từ đó giúp họ thấy rõ tỷ lệ phế phẩm tập trung ở khâu nào, chi phí chất lượng ảnh hưởng như thế nào đến giá thành, lợi nhuận. Từ đó tìm nguyên nhân bất hợp lý do công nghệ, con người trong và giữa các giai đoạn công nghệ, hạn chế phế phẩm, nâng cao tỷ lệ chính phẩm. 3.2.3. Hoàn thiện công tác tính giá thành sản phẩm Với đặc thù sản xuất và tiêu thụ riêng của ngành Nhà in nên xác định lại đối tượng tính giá thành là từng đơn đặt hàng đã hoàn thiện. Việc lựa chọn đối tượng tính giá thành mới này thực ra cũng rất thuận lợi cho Nhà in vì hiện nay Nhà in đã xây dựng được hệ thống định mức về nguyên vật liệu chính ( giấy), hệ thống đơn giá tiền lương công nhân sản xuất. Trong thực tế mỗi đơn đặt hàng mà Nhà in nhận được có thể chỉ là một đầu sách nào đó, nhưng cũng có khi lại bao gồm nhiều đầu sách khác nhau. Do đó, nếu đơn đặt hàng chỉ có một loại ấn phẩm thì tiến hành tính giá thành cho chính loại sản phẩm đó và đồng thời cũng là giá thành của đơn đặt hàng. Còn nếu đơn đặt hàng gồm nhiều loại ấn phẩm khác nhau thì tính giá thành cho từng loại ấn phẩm rồi tổng hợp lại sẽ được giá thành của đơn đặt hàng. Phương pháp tính giá thành theo đơn đặt hàng sẽ giúp cho kế toán tính giá thành chính xác và nhanh chóng làm cơ sở tính giá cho các sản phẩm tương tự khi tiến hành các giai đoạn sản xuất tiếp theo. Trong quá trình tính giá thành, mỗi đơn đặt hàng kế toán phải mở một bảng kê chi phí cho từng đầu sách. Những chi phí trực tiếp được tập hợp thẳng vào đơn đặt hàng, còn những chi phí liên quan đến nhiều đỗi tượng khác nhau thì được phân bổ theo các tiêu chuẩn thích hợp. Bảng kê chi phí theo dõi sản phẩm từ lúc bắt đầu sản xuất cho đến khi hoàn thành (nhập kho hay giao thẳng cho khách hàng) Nhà in phải mở cho mỗi đơn đặt hàng một bảng tính giá thành. Hàng tháng căn cứ vào bảng kê chi tiết tổng hợp chi phí sản xuất từng ấn phẩm để ghi vào bảng tính giá thành theo các đơn đặt hàng. Cuối tháng, đối với các đơn đặt hàng đã hoàn thành kế hoạch Nhà in cộng chi phí sản xuất đã tập hợp được ở bảng tính giá thành để xác định giá thành của đơn đặt hàng đó. Còn các đơn đặt hàng chưa hoàn thành thì các chi phí đã tập hợp được sẽ là chi phí sản xuất dở dang. - Nhà in ĐHQG Hà Nội nên có thống kê về chi phí cho mỗi đơn đặt hàng để theo dõi và so sánh giữa chi phí định mức và chi phí thực tế để biết được đơn đặt hàng nào sản xuất có hiệu quả tiết kiệm và đơn đặt hàng nào sản xuất không hiệu quả, gây lãng phí để từ đó đưa biện pháp quản lý thích hợp. 3.2.4. Xác định lượng nguyên vật liệu dự trữ hợp lý để đẩy nhanh tốc độ luân chuyển vốn Trong các hoạt động kinh tế - xã hội các doanh nghiệp, tổ chức kinh tế đều phải quan tâm tới vấn đề dự trữ nguồn lực sao cho chi phí dự trữ ít tốn kém nhất, điều đó khắc phục được tình trạng ứ đọng vốn trong khâu dự trữ. Nguyên nhân của việc dự trữ là do thay đổi của nhu cầu, sự biến đổi của giá cả trên thị trường. Việc xác định lượng nguyên vật liệu dự trữ hợp lý để đẩy nhanh tốc độ luân chuyển vốn, cũng là vấn đề không chỉ riêng Nhà in quan tâm mà còn doanh nghiệp khác, tổ chức kinh tế khác cũng hết sức quan tâm. Do đặc điểm sản xuất kinh doanh của Nhà in đòi hỏi nhiều nguyên vật liệu khác nhau, có loại nguyên vật liệu mua từ nước ngoài, có loại được cung cấp ngay trong nước. Do đó mỗi loại nguyên vật liệu thì có thời gian dự trữ khác nhau: Đối với loại nguyên vật liệu không phải mua từ nước ngoài thì có thời gian dự trữ ngắn khoảng từ 1-2 tuần. Việc xác định lượng nguyên vật liệu dự trữ đòi hỏi phải căn cứ vào nhu cầu sử dụng nguyên vật liệu, tình hình biến động về thị trường cung cấp nguyên vật liệu, giá cả, chất lượng của nguyên vật liệu. Dự trữ đòi hỏi phải đáp ứng được nhu cầu, đòi hỏi chất lượng chi phí nhỏ nhất. Điều đó sẽ giúp cho Nhà in hạn chế được sự ứ đọng vốn, giảm chi phí vốn, chi phí trong khâu dự trữ nguyên vật liệu, góp phần vào việc nâng cao hiệu quả kinh doanh của Nhà in. Việc xác định nguyên vật liệu dự trữ chủ yếu căn cứ vào nhu cầu của Nhà in. Điều này có lợi cho Nhà in trong việc đáp ứng nhu cầu thường xuyên, nhưng không xác định được mức chi phí cho mỗi lần dự trữ. Việc dự trữ đều theo nhận định chủ quan của một nhóm người mà không căn cứ vào lượng dự trữ tối ưu, với chi phí nhỏ nhất. Do đó để xác định được lượng nguyên vật liệu hợp lý, Nhà in phải tiến hành các vấn đề sau: Việc dự trữ phải căn cứ vào nhu cầu sử dụng nguyên vật liệu, điều này đòi hỏi Nhà in phải xác định đúng, sát với thực tế mà Nhà in cần. Để thực hiện được Nhà in phải tiến hành lập một người chuyên trách về việc xác định nhu cầu, tiến hành đào tạo họ. Phải xác định được thời gian đặt mua nguyên vật liệu chu kỳ dự trữ, khối lượng nguyên vật liệu một lần đặt mua. Xác định được chi phí mua hàng, chi phí đặt hàng, chi phí dự trữ, chi phí do không đảm bảo nhu cầu, chi phí do thừa nguyên vật liệu. Từ các vấn đề này Nhà in tiến hành xác định lượng nguyên vật liệu tối ưu, với chi phí nhỏ nhất, thông qua các mô hình dự trữ. Tuỳ theo nguyên vật liệu ta có thể áp dụng các mô hình khác nhau như: mô hình dự trữ bổ sung tức thời (mô hình Wilson). Mô hình có giá nguyên vật liệu thay đổi theo khối lượng nguyên vật liệu đặt mua, mô hình dự trữ có bảo hiểm… Với việc áp dụng các mô hình dự trữ vào việc xác định nguyên vật liệu hợp lý sẽ đem lại cho Nhà in nhiều thuận lợi với chi phí nhỏ nhất, tiết kiệm nguồn vốn lưu động, hạn chế sự lưu kho, đẩy nhanh sự luân chuyển của vốn. Từ đó đẩy nhanh vòng quay của vốn góp phần quan trọng vài việc nâng cao hiệu quả kinh doanh. 3.2.5. Sử dụng hợp lý tiết kiệm nguyên vật liệu để hạ thấp chi phí sản xuất kinh doanh Nguyên vật liệu là một trong ba yếu tố của quá trình sản xuất kinh doanh, trực tiếp cấu tạo nên thực thể của sản phẩm. Thiếu nguyên vật liệu thì quá trình sản xuất bị gián đoạn hoặc không thể tiến hành được. Chất lượng của nguyên vật liệu ảnh hưởng trực tiếp đến chất lượng sản phẩm, đến việc sử dụng hợp lý và tiết kiệm nguyên vật liệu đến hiệu quả việc sử dụng vốn. Vốn bỏ ra để mua nguyên vật liệu thường chiếm tỷ lệ lớn trong vốn lưu động (khoảng từ 40%- 60%). Về mặt kinh doanh, trong cơ cấu giá thành yếu tố nguyên vật liệu cũng chiếm tỷ trọng cao trong cơ cấu giá thành (thường chiếm tỷ trọng từ 60% -80%). Nguyên vật liệu không ngừng giữ vai trò trong quá trình sản xuất, nó còn có vai trò quan trọng trong lĩnh vực quản lý giá thành và tài chính trong các doanh nghiệp. Do đó việc sử dụng hợp lý, tiết kiệm nguyên vật liệu sẽ là biện pháp hạ giá thành một cách tốt nhất. Hiện nay Nhà in nói riêng, các doanh nghiệp nói chung đều hết sức quan tâm chú trọng đến việc sử dụng hợp lý tiết kiệm nguyên vật liệu. Đối với Nhà in: Do tình trạng máy móc thiết bị không đồng bộ, còn máy móc thiết bị đã cũ,công nghệ sản xuất so với các Nhà in khác là hiện đại nhưng so với các Công ty trong Ngành in thì còn lạc hậu. Việc quản lý nguyên vật liệu cũng chưa được chú trọng và quan tâm đúng mức, nhiều khi còn lỏng lẻo. Đặc biệt là việc đưa ra việc định mức nguyên vật liệu tiêu dùng chưa sát chưa hợp lý và thiếu khoa học. Hiện nay việc sử dụng nguyên vật liệu lãng phí chủ yếu tập trung trong khâu sản xuất. Còn các khâu dự trữ mua nguyên vật liệu hầu như lãng phí rất ít và không đáng kể. Do đó Nhà in đặc biệt chú trọng tới khâu đưa ra định mức tiêu hao nguyên vật liệu một cách khoa học và sát thực hơn. Kết luận Nâng cao hiệu quả kinh doanh của doanh nghiệp trong nền kinh tế thị trường nói riêng nâng cao hiệu quả kinh tế nói chung luôn là vấn đề mang tính lâu dài và cấp bách của mọi Nhà nước, mọi chế độ xã hội. Xuất phát từ tầm quan trọng của việc nâng cao hiệu quả kinh doanh trong lĩnh vực sản xuất, nên trong thời gian tìm hiểu và nghiên cứu tại Nhà in ĐHQG Hà Nội tôi đã nghiên cứu đề tài “Một số biện pháp nhằm nâng cao hiệu quả kinh doanh của Nhà in ĐHQG Hà Nội ”. Qua thời gian tìm hiểu tôi thấy rằng hiệu quả kinh doanh chịu ảnh hưởng của rất nhiều yếu tố. Vì vậy muốn nâng cao hiệu quả kinh doanh phải giải quyết đồng bộ nhiều vấn đề, nhiều biện pháp liên quan. Đó là vấn đề cơ bản: Sản xuất cái gì? Số lượng bao nhiêu? Chất lượng mẫu mã ra sao? Sản xuất như thế nào? Sản xuất cho ai? Để giải quyết một cách toàn diện và triệt để những vấn đề này, tôi có một số biện pháp cơ bản đã nêu ở trên. Những biện pháp trên đây không những nhằm nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh mà còn góp phần phát triển lâu dài của Nhà in. Trong những năm tới, Nhà in Đại học Quốc gia Hà Nội cần tận dụng mọi thời cơ, phát huy tiềm năng sẵn có, khắc phục những mặt còn hạn chế tồn tại. Trong tương lai Nhà in là cơ sở in có trang thiết bị hiện đại, với chất lượng in ấn cao phục vụ cho công tác đào tạo và nghiên cứu khoa học của Đại học Quốc gia Hà Nội và các đơn vị trực thuộc, hoạt động sản xuất kinh doanh có hiệu quả. Nhà in sớm trở thành doanh nghiệp trong Đại học Quốc gia Hà Nội sẽ góp phần vào việc thực hiện thành công mục tiêu xây dựng ĐHQG Hà Nội thành một trung tâm đào tạo và nghiên cứu khoa học chất lượng cao, phục vụ đắc lực cho sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước. Danh mục tài liệu tham khảo: 1, Giáo trình Quản trị doanh nghiệp – Nhà xuất bản Giáo dục. 2, Giáo trình kinh tế và quản lý công nghiệp – Nhà xuất bản Giáo dục. 3, Giáo trình Tổ chức sản xuất và tác nghiệp - Đại học kinh tế quốc dân- Nhà xuất bản Giáo dục. 4, Giáo trình lý thuyết Quản trị kinh doanh - Đại học kinh tế quốc dân – Nhà xuất bản khoa học kỹ thuật. 5, Giáo trình Quản lý tài chính doanh nghiệp – Nhà xuất bản thống kê. 6, Quá trình phần tích hoạt động kinh doanh - Đại học kinh tế Quốc dân. 7, Các tài liệu của Nhà in ĐHQG Hà Nội theo số liệu và các báo cáo năm của Phòng kế hoạch tổng hợp, Phòng tài vụ các năm 2003, 2004, 2005 Mục lục

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc24948.DOC
Tài liệu liên quan