Tài liệu Đề tài Giá trị nồng độ đỉnh estradiol ở những chu kỳ kích thích buồng trứng trong thụ tinh trong ống nghiệm: GIÁ TRỊ NỒNG ĐỘ ĐỈNH ESTRADIOL Ở NHỮNG CHU KỲ KÍCH 
THÍCH BUỒNG TRỨNG TRONG THỤ TINH TRONG ỐNG NGHIỆM 
TÓM TẮT 
Mục tiêu: Đánh giá mối liên quan giữa giá trị nồng độ đỉnh estradiol (E2) cao 
và kết cục điều trị của những chu kỳ kích thích buồng trứng có kiểm soát 
(COH) trong thụ tinh trong ống nghiệm (IVF) tại bệnh viện Hùng Vương. 
Thiết kế nghiên cứu: Đoàn hệ tiền cứu. 
Kết quả: Tùy theo nồng độ đỉnh estradiol của bệnh nhân, chúng tôi chia hai 
nhóm bệnh nhân: ≥4300 pg/ml (nồng độ đỉnh estradiol cao), và <4300 pg/ml. 
Tỉ lệ có thai lâm sàng của nhóm bệnh nhân có nồng độ đỉnh estradiol cao cao 
hơn có ý nghĩa so với nhóm <4300 pg/ml (OR = 2,7, KTC 95% = 1,4 – 5,3). 
Tuy nhiên, tỉ lệ làm tổ và tỉ lệ phôi có thể sử dụng được của hai nhóm thì tương 
đương nhau. Tỉ lệ có thai của những bệnh nhân ≥35 tuổi thấp hơn những bệnh 
nhân <35 tuổi (OR = 0,4, KTC 95% = 0,2 – 0,9). 
Kết luận: Tỉ lệ có thai lâm sàng được cải thiện với nồng độ đỉnh estradiol cao ở 
những chu k...
                
              
                                            
                                
            
 
            
                 14 trang
14 trang | 
Chia sẻ: hunglv | Lượt xem: 1566 | Lượt tải: 0 
              
            Bạn đang xem nội dung tài liệu Đề tài Giá trị nồng độ đỉnh estradiol ở những chu kỳ kích thích buồng trứng trong thụ tinh trong ống nghiệm, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
GIÁ TRỊ NỒNG ĐỘ ĐỈNH ESTRADIOL Ở NHỮNG CHU KỲ KÍCH 
THÍCH BUỒNG TRỨNG TRONG THỤ TINH TRONG ỐNG NGHIỆM 
TÓM TẮT 
Mục tiêu: Đánh giá mối liên quan giữa giá trị nồng độ đỉnh estradiol (E2) cao 
và kết cục điều trị của những chu kỳ kích thích buồng trứng có kiểm soát 
(COH) trong thụ tinh trong ống nghiệm (IVF) tại bệnh viện Hùng Vương. 
Thiết kế nghiên cứu: Đoàn hệ tiền cứu. 
Kết quả: Tùy theo nồng độ đỉnh estradiol của bệnh nhân, chúng tôi chia hai 
nhóm bệnh nhân: ≥4300 pg/ml (nồng độ đỉnh estradiol cao), và <4300 pg/ml. 
Tỉ lệ có thai lâm sàng của nhóm bệnh nhân có nồng độ đỉnh estradiol cao cao 
hơn có ý nghĩa so với nhóm <4300 pg/ml (OR = 2,7, KTC 95% = 1,4 – 5,3). 
Tuy nhiên, tỉ lệ làm tổ và tỉ lệ phôi có thể sử dụng được của hai nhóm thì tương 
đương nhau. Tỉ lệ có thai của những bệnh nhân ≥35 tuổi thấp hơn những bệnh 
nhân <35 tuổi (OR = 0,4, KTC 95% = 0,2 – 0,9). 
Kết luận: Tỉ lệ có thai lâm sàng được cải thiện với nồng độ đỉnh estradiol cao ở 
những chu kỳ IVF. 
ABSTRACT 
THE VALUE OF HIGH PEAK ESTRADIOL LEVELS DURING 
CONTROLLED OVARIAN HYPERSTIMULATION IN IN VITRO 
FERTILIZATION 
Vo Thanh Lien Anh, Nguyen Duy Tai 
* Y Hoc TP. Ho Chi Minh * Vol. 13 – Supplement of No 1 - 2009: 165 - 
169 
Objective: To examine the relationships between high peak serum estradiol 
(E2) levels and treatment outcome during controlled ovarian hyperstimulation 
(COH) in in vitro fertilization (IVF) cycles at Hung Vuong hospital. 
Design: Prospective cohort. 
Result(s): Accoding to patient's peak estradiol, they were divided into two 
group: ≥4300 pg/ml (high peak estradiol), and <4300 pg/ml. Clinical 
pregnancy rate in high peak estradiol group were significantly higher than 
<4300 pg/ml group (OR = 2.7, 95% CI 1.4 to 5.3). However, implantation 
rate and usuable embryo rate were similar. Pregnancy rates of patients ≥35 
years old are lower (OR = 0.4, 95% CI 0.2 to 0.9) than patients <35 years 
old. 
Conclusion(s): High peak estradiol levels in IVF cycles are associated with 
improved pregnancy rates. 
GIỚI THIỆU 
Từ khi Louise Brown - em bé đầu tiên ra đời nhờ kỹ thuật IVF vào năm 1978 
tại nước Anh, IVF trở thành một trong những phương pháp điều trị không còn 
xa lạ với các trường hợp hiếm muộn. 
Trong hầu hết các chu kỳ IVF, gonadotrophins ngoại sinh được sử dụng một 
mình hay kết hợp nhằm gia tăng số nang noãn thu nhận vào nhóm nan g noãn 
phát triển và duy trì đến giai đoạn phóng noãn. Quá trình này gọi là kích thích 
buồng trứng có kiểm soát. Nhờ sự chiêu tập một số lượng lớn nang noãn này sẽ 
tăng số trứng thu được, tăng cơ hội có trứng thụ tinh, tăng số phôi có thể 
chuyển phôi, và tỉ lệ thành công IVF cao hơn. Do sự phát triển đa nang noãn, 
nồng độ estradiol vượt cao trên mức sinh lý bình thường, có thể đạt hơn gấp 
mười lần nồng độ estradiol của chu kỳ tự nhiên(Error! Reference source not found.). Dưới 
sự tác động của hormone steroid này sẽ làm thay đổi nội mạc tử cung, có thể 
ảnh hưởng sự tiếp nhận phôi làm tổ. 
Tuy nhiên, ảnh hưởng của sự gia tăng nồng độ estradiol như vậy lên kết cục 
của chu kỳ IVF vẫn còn bàn cãi với những bằng chứng trái ngược nhau. Sự 
tăng chế tiết hormone steroid buồng trứng có thể ảnh hưởng xấu lên sự tiếp 
nhận phôi làm tổ của nội mạc tử cung(Error! Reference source not found.). Tuy nhiên một 
số tác giả khác không tìm thấy điều này. A. J. Levi thấy tỉ lệ có thai giữa nhóm 
bệnh nhân trẻ thực hiên IVF, có nồng độ estradiol cao tương đương với nhóm 
bệnh nhân thực hiện IVF xin trứng, không được kích thích buồng trứng(Error! 
Reference source not found.). Ngược lại, H.W.Jones lại báo cáo rằng sự gia tăng giá trị 
nồng độ estradiol tại thời điểm chích hCG lại làm tăng tỉ lệ thành công của 
IVF(Error! Reference source not found.). Nồng độ estradiol còn phản ánh đáp ứng của 
bệnh nhân với kích thích buồng trứng. Simon C và cộng sự đã phân ra bệnh 
nhân có đáp ứng cao là khi nồng độ đỉnh estradiol >3000 pg/ml, tuy nhiên tác 
giả không giải thích tại sao chọn mức estradiol này(Error! Reference source not found.). 
Một nghiên cứu khác cũng định nghĩa bệnh nhân có đáp ứng cao là những 
người có nồng độ đỉnh estradiol trên mức bách phân vị 75(Error! Reference source not 
found.), cho thấy tỉ lệ có thai của nhóm này cao hơn so với nhóm bệnh nhân có 
đáp ứng bình thường tức nồng độ đỉnh dưới mức bách phân vị 75. 
Tại Việt Nam, chưa có nhiều công trình nghiên cứu vấn đề này. Do đó, nghiên 
cứu của chúng tôi nhằm đánh giá giá trị nồng độ đỉnh estradiol ở những chu kỳ 
kích thích buồng trứng có kiểm soát với tỉ lệ có thai của những bệnh nhân thực 
hiện thụ tinh trong ống nghiệm tại khoa Hiếm Muộn, bệnh viện Hùng Vương. 
PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU 
Thiết kế nghiên cứu 
Nghiên cứu đoàn hệ tiền cứu 
Đối tượng nghiên cứu 
Bệnh nhân đến khám tại khoa Hiếm Muộn, bệnh viện Hùng Vương có chỉ định 
và thực hiện IVF từ tháng 5/2005 đến tháng 5/2008. 
Tiêu chuẩn nhận bệnh 
Các trường hợp thực hiện COH của chu kỳ IVF, đã được theo dõi nồng độ 
estradiol huyết thanh cho đến ngày chích hCG, và được chuyển phôi. 
Tiêu chuẩn loại trừ 
Những chu kỳ IVF xin trứng, chu kỳ chuyển phôi rã đông. 
Cách tiến hành nghiên cứu 
Tất cả các bệnh nhân đều được sử dụng phác đồ dài pha 2. Tuyến yên được 
giải mẫn cảm bằng GnRH đồng vận (Diphereline 0.1mg). Kích thích buồng 
trứng bắt đầu khi không có nang noãn nào vượt trội, độ dày nội mạc tử cung 
<8 mm, nồng độ estradiol huyết thanh <50 pg/ml. Bệnh nhân được kích 
thích buồng trứng bằng FSH tái tổ hợp (Puregon, Gonal- F) liều từ 150 - 450 
UI/ngày. Tiêu chuẩn khởi động sự trưởng thành nang noãn bằng hCG 10000 
UI (Pregnyl) khi đạt tối thiểu 3 nang noãn có đường kính trung bình trên 
18mm trên siêu âm. Quá trình kích thích buồng trứng được theo dõi dựa trên 
siêu âm xác định số lượng, kích thước nang noãn, độ dày nội mạc tử cung và 
định lượng nồng độ estradiol. Dựa trên nồng độ estradiol vào ngày chích 
hCG, chúng tôi phân nhóm bệnh nhân. 
Nhóm 1: Nồng độ estradiol vào ngày chích hCG <4300 pg/ml 
Nhóm 2: Nồng độ estradiol vào ngày chích hCG ≥4300 pg/ml 
Chọc hút trứng dưới sự hướng dẫn của siêu âm đầu dò âm đạo được thực hiện 
36 giờ sau chích hCG. Chuyển phôi dưới hướng dẫn siêu âm vào ngày 2. Cả 2 
nhóm nghiên cứu đều được hỗ trợ pha hoàng thể bằng progesteron tự nhiên 
(Utrogestan) đặt âm đạo 600mg/ngày. Nồng độ hCG huyết thanh được thử 
sau 14 ngày chuyển phôi. Nếu kết quả dương, siêu âm đầu dò âm đạo thực hiện 
4 tuần sau chuyển phôi. Thai lâm sàng được xác định khi thấy được tim thai 
trên siêu âm. 
KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU 
Trong tổng số 265 trường hợp bệnh nhân thực hiện IVF tại bệnh viện Hùng 
Vương từ tháng 5/2005 đến tháng 5/2008, chúng tôi thu nhận 221 trường hợp 
thỏa điều kiện thu nhân của nghiên cứu. 
Bảng 1: Các đặc điểm chung của mẫu nghiên cứu: 
Đặc điểm 
Trung bình ± Độ 
lệch chuẩn Hoặc 
số trường hợp 
(%) (n = 221) 
Tuổi bệnh nhân 33,1 ± 4,6 
Nguyên 
phát 
131(59,3%) Loại vô 
sinh 
 Thứ phát 90 (40,7%) 
 Do vợ 168(76%) 
 Do chồng 39(17,7%) 
Nguyên 
nhân 
 KRNN 14(6,3%) 
Số ngày kích thích 
nang noãn 
10,8 ± 1,8 
Số nang noãn trưởng 
thành/SA(*) 
8,6 ± 4,9 
Độ dày nội mạc tử 
cung (mm)(*) 
10,3 ± 2,0 
Nồng độ estradiol 
(pg/ml)(*)(**) 
3291 
 <4300 pg/ml 165(74,7%) 
 ≥4300 pg/ml 56(25,3%) 
Số trứng thu được 10,5 ± 6,1 
Số trứng thụ tinh 5,8 ± 4,1 
Số phôi dùng được 4,8 ± 3,4 
Tỉ lệ thụ tinh 55,5% 
Tỉ lệ phôi dùng được 82,6% 
(*) Đo vào ngày chích hCG(**) Trung vị (min=712, max=14590, bách phân vi 
25=2128, bách phân vị 75=4300) 
Các chỉ số chuyên môn của chu kỳ IVF của nhóm nồng độ estradiol ≥4300 
pg/ml như: số nang noãn trưởng thành, số trứng thu được, số trứng thụ tinh, số 
phôi dùng được đều cao hơn nhóm nồng độ estradiol <4300 pg/ml, và sự khác 
biệt này có ý nghĩa thống kê với P <0,001, Tuy nhiên, tỉ lệ thụ tinh (54,8% và 
56,8%, P = 0,8) và tỉ lệ phôi dùng được (84,2% và 79,6%, P = 0,4) không khác 
biệt có ý nghĩa giữa 2 nhóm nghiên cứu, 
Các yếu tố liên quan đến kết cục có thai IVF theo y văn được đưa vào phân tích 
đơn biến. 
Bảng 2: Phân tích đơn biến các yếu tố liên quan kết cục có thai 
Yếu tố 
Số 
ca 
Tỉ lệ có 
thai 
(%) 
OR thô 
KTC 
95% 
P 
Nồng độ estradiol (*) 0,001 
 <4300 
pg/ml 
165 21,2 1 
 ≥4300 
pg/ml 
56 44,6 
3,0 (1,6 - 
5,7) 
Tuổi 0,007 
 <35 tuổi 137 33,6 1 
 ≥35 tuổi 
84 16,7 
0,4(0,2 - 
0,8) 
Nội mạc tử 
cung 
221 
1,1(0,9 - 
1,3) 
0,3 
Số ngày 
kích thích 
NN 
221 
0,8(0,7 - 
1) 
0,03 
Loại vô sinh 0,3 
 Nguyên 
phát 
131 29,8 1 
 Thứ phát 
90 23,3 
0,7(0,4 - 
1,4) 
Nguyên nhân 
 Do chồng 39 35,9 1 
 Do vợ 
168 24,4 
0,6(0,3 - 
1,2) 
0,1 
 KRNN 
14 35,7 
0,9(0,3 - 
3,5) 
0,9 
(*) Đo vào ngày chích hCG 
Các yếu tố mà mối liên quan của nó với kết cục có thai có giá trị P <0,25, được 
đưa vào mô hình hồi qui đa biến đầu tiên, Sau đó chúng tôi dùng phương pháp 
loại dần để có mô hình cuối cùng, nhằm tìm ra mối liên quan của từng yếu tố 
sau khi đã hiệu chỉnh các yếu tố gây nhiễu, 
Bảng 3: Các yếu tố liên quan kết cục có thai (phân tích đa biến) 
Yếu tố 
Số 
ca 
Tỉ lệ có 
thai(%) 
OR hiệu 
chỉnh 
KTC 95% 
P 
Tuổi 0,02 
 <35 tuổi 137 33,6 1 
 ≥35 tuổi 
84 16,7 
0,4(0,2 - 
0,9) 
Nồng độ estradiol (*) 0,003 
 <4300 
pg/ml 
165 21,2 1 
 ≥4300 
pg/ml 
56 44,6 
2,7(1,4 - 
5,3) 
(*) Đo vào ngày chích hCG 
BÀN LUẬN 
Trong thực hành lâm sàng, nhằm hỗ trợ quyết định thực hiện tiếp tục hay 
hủy một chu kỳ IVF, khái niệm đáp ứng buồng trứng kém hay đáp ứng 
buồng trứng cao được đặt ra, Tuy nhiên, tiêu chuẩn để đánh giá đáp ứng 
buồng trứng cao hay thấp không đồng nhất giữa các trung tâm sinh sản hỗ 
trợ, Bệnh nhân đáp ứng buồng trứng kém thường kèm với tỉ lệ có thai thấp 
và tỉ lệ hủy chu kỳ cao, Ngược lại, bệnh nhân có đáp ứng buồng trứng cao 
được định nghĩa khi nồng độ đỉnh estradiol trên mức bách phân vị 75(Error! 
Reference source not found.),nồng độ đỉnh estradiol >3000 pg/ml(Error! Reference source not 
found.), số trứng thu được qua chọc hút trứng >15 trứng(Error! Reference source not 
found.), 
Trong mẫu nghiên cứu của chúng tôi, chúng tôi lấy mức nồng độ đỉnh estradiol 
4300 pg/ml ngang mức bách phân vị 75 để so sánh các chỉ số chuyên môn IVF 
và tỉ lệ có thai lâm sàng, 
Các chỉ số chuyên môn của chu kỳ IVF: số nang noãn trưởng thành, số trứng 
thu được, số trứng thụ tinh, số phôi dùng được đều cao hơn có ý nghĩa ở nhóm 
nồng độ đỉnh estradiol ≥4300 pg/ml (P <0,001), Điều này chứng tỏ nồng độ 
estradiol cao vào ngày chọc hút trứng phản ánh dự trữ buồng trứng cao, Đáp 
ứng của những bệnh nhân này với kích thích buồng trứng có kiểm soát rất tốt, 
Do đó số nang noãn trưởng thành trên siêu âm và số trứng thu được đều cao 
hơn có ý nghĩa, Ngoài ra, bệnh nhân có nồng độ đỉnh estradiol cao thường trẻ 
tuổi, chất lượng trứng tốt và khả năng thụ tinh cũng như phát triển tiếp của phôi 
cũng thuận lợi hơn(Error! Reference source not found.), Khi phân tích theo tỉ lệ thụ tinh và 
tỉ lệ phân chia của phôi, thì kết quả nghiên cứu của chúng tôi thấy không có sự 
khác biệt giữa hai nhóm nghiên cứu, Điều này chứng tỏ, sự vượt cao trên mức 
4300 pg/ml của nồng độ estradiol không ảnh hưởng đến chất lượng trứng cũng 
như khả năng phân chia tiếp theo của phôi. 
Kết quả phân tích hồi quy đa biến, sau hiệu chỉnh yếu tố gây nhiễu, cho thấy 
bệnh nhân trên 35 tuổi khả năng có thai giảm 60% khi thực hiện IVF, Chúng 
tôi cho rằng ở những bệnh nhân này, đáp ứng của buồng trứng kém đi do dự trữ 
buồng trứng cũng đã giảm sút, Ngoài ra, tỉ lệ trứng bất thường nhiễm sắc thể và 
không phân chia cũng tăng (Error! Reference source not found.), chất lượng trứng xấu hơn 
dẫn đến giảm số phôi đẹp có thể sử dụng, Như vậy, tuổi là một yếu tố có liên 
quan đến kết cục có thai IVF theo nghiên cứu của chúng tôi, và cũng phù hợp 
với một số nghiên cứu khác(Error! Reference source not found.,Error! Reference source not found.), 
Dựa vào tuổi, chúng ta nên có một chiến lược điều trị thích hợp và tích cực cho 
bệnh nhân trước ranh giới tuổi 35, Thêm vào đó, dựa vào yếu tố tuổi, việc tư 
vấn trước thực hiện IVF giúp bệnh nhân xác định được vị trí cơ hội thành công 
chu kỳ IVF của họ, 
Chúng tôi cũng tìm mối liên quan giữa yếu tố nồng độ đỉnh estradiol với kết 
cục có thai IVF, Kết quả phân tích hồi qui đa biến cho thấy khả năng có thai 
tăng gấp 2,7 lần ở nhóm bệnh nhân có nồng độ đỉnh estradiol ≥4300 pg/ml khi 
thực hiện IVF, Áp dụng mối liên hệ dương này, thời điểm chích hCG có thể trì 
hoãn bằng cách kéo dài thêm số ngày chích gonadotropin, nhằm đạt được nồng 
độ estradiol cao hơn, Trong một số nghiên cứu hồi cứu khác, các lợi điểm của 
việc trì hoãn chích hCG ở những bệnh nhân thực hiện IVF với giải mẫn cảm 
tuyến yên bằng GnRH đồng vận đã được báo cáo(Error! Reference source not found.,Error! 
Reference source not found.). 
Mặc dù nồng độ đỉnh estradiol cao đi kèm với sự cải thiện kết cục có thai IVF, 
tuy nhiên sự vượt cao này cũng là yếu tố tiên lượng xuất hiện biến chứng quá 
kích buồng trứng, Vấn đề này đặt ra cho các nhà lâm sàng phải cân nhắc giữa 
lợi ích và tác hại, bởi vì quá kích buồng trứng mức độ nặng có thể gây nguy 
hiểm cho bệnh nhân, Trong thời gian nghiên cứu của chúng tôi, có 12 trường 
hợp được chẩn đoán là quá kích buồng trứng, Trong đó có 5 trường hợp phải 
nhập viện vì nặng, chiếm tỉ lệ 2,3%, Tỉ lệ này cũng tương đương với một số 
nghiên cứu khác trên thế giới. 
            Các file đính kèm theo tài liệu này:
 36_7522.pdf 36_7522.pdf