Tài liệu Đề tài Gây tê vùng trong phẫu thuật điều trị ung thư da vùng mặt: GÂY TÊ VÙNG TRONG PHẪU THUẬT ĐIỀU TRỊ UNG 
THƯ DA VÙNG MẶT 
TÓM TẮT 
Mở đầu: Gây tê vùng trong phẫu thuật các mô mềm vùng mặt có một số ưu điểm so 
với gây mê toàn thể như: hồi phục nhẹ nhàng hơn, ít tác dụng phụ, giảm đau kéo dài ở 
giai đoạn hậu phẫu, thời gian lưu ở phòng hoi sức ngắn và chi phí thấp. So với gây tê 
tại chỗ thì gây tê vùng sử dụng ít thuốc tê hơn, ít gây phù nề vùng phẫu thuật, ít có 
nguy cơ gây biến dạng và tổn thương mô. 
Mục tiêu: Đánh giá hiệu quả của gây tê vùng trong phẫu thuật điều trị ung thư da 
vùng mặt. 
Phương pháp nghiên cứu: Tiền cứu, mô tả. 
Đối tượng nghiên cứu: Nghiên cứu được thực hiện trên các bệnh nhân được phẫu 
thuật cắt rộng tạo hình để điều trị ung thư da vùng mặt tại bệnh viện Ung Bướu 
TPHCM từ tháng 7 năm 2007 đến tháng 4 năm 2008. 
Kết quả: 75 bệnh nhân 28 nam 47 nữ, tuổi trung bình là 68,1 tuổi. Với tổng cộng 
190 lần phong bế, liều thuốc tê Bupivacaine 0,25% sử dụng trung bình cho mỗi 
bệnh nhân là 18,4mg, liều sử dụng ...
                
              
                                            
                                
            
 
            
                 23 trang
23 trang | 
Chia sẻ: hunglv | Lượt xem: 1448 | Lượt tải: 0 
              
            Bạn đang xem trước 20 trang mẫu tài liệu Đề tài Gây tê vùng trong phẫu thuật điều trị ung thư da vùng mặt, để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
GÂY TÊ VÙNG TRONG PHẪU THUẬT ĐIỀU TRỊ UNG 
THƯ DA VÙNG MẶT 
TÓM TẮT 
Mở đầu: Gây tê vùng trong phẫu thuật các mô mềm vùng mặt có một số ưu điểm so 
với gây mê toàn thể như: hồi phục nhẹ nhàng hơn, ít tác dụng phụ, giảm đau kéo dài ở 
giai đoạn hậu phẫu, thời gian lưu ở phòng hoi sức ngắn và chi phí thấp. So với gây tê 
tại chỗ thì gây tê vùng sử dụng ít thuốc tê hơn, ít gây phù nề vùng phẫu thuật, ít có 
nguy cơ gây biến dạng và tổn thương mô. 
Mục tiêu: Đánh giá hiệu quả của gây tê vùng trong phẫu thuật điều trị ung thư da 
vùng mặt. 
Phương pháp nghiên cứu: Tiền cứu, mô tả. 
Đối tượng nghiên cứu: Nghiên cứu được thực hiện trên các bệnh nhân được phẫu 
thuật cắt rộng tạo hình để điều trị ung thư da vùng mặt tại bệnh viện Ung Bướu 
TPHCM từ tháng 7 năm 2007 đến tháng 4 năm 2008. 
Kết quả: 75 bệnh nhân 28 nam 47 nữ, tuổi trung bình là 68,1 tuổi. Với tổng cộng 
190 lần phong bế, liều thuốc tê Bupivacaine 0,25% sử dụng trung bình cho mỗi 
bệnh nhân là 18,4mg, liều sử dụng trung bình cho một phong bế là 7,3 mg. 20 bệnh 
nhân (26,7%) cần phải gây tê tại chỗ thêm trong quá trình phẫu thuật, không có 
bệnh nhân nào phải chuyển sang gây mê nội khí quản. Thời gian mất cảm giác trung 
bình là 10,3 phút, thời gian phẫu thuật trung bình là 47,3 phút, thời gian phục hồi 
cảm giác đau trung bình là 163,2 phút. 86,7% bệnh nhân hợp tác tốt và rất tốt trong 
phẫu thuật, hơn 90% bệnh nhân hài lòng về phương pháp vô cảm gây tê vùng để 
phẫu thuật. 
Kết luận: Gây tê vùng có thể được sử dụng một cách an toàn, dễ thực hiện và tạo 
được một tình trạng huyết động ổn định trong phẫu thuật cắt rộng tạo hình để điều trị 
ung thư da vùng mặt. 
ABSTRACT 
EVALUATE THE EFFECTS OF REGIONAL ANESTHESIA 
 IN SURGICAL TREATMENT OF FACIAL SKIN CANCER 
Nguyen Van Chung, Nguyen Dinh Phong 
* Y Hoc TP. Ho Chi Minh * Vol. 13 - Supplement of No 1 - 2009: 447 - 454 
Introduction: Regional anesthesia for facial surgery presents several advantages over 
general anesthesia including smoother recovery, less side-effects, residual analgesia 
into the postoperative period, earlier discharge from the recovery room and reduced 
costs. Regional anesthesia has advantages over local anesthesia because there is less 
tissue swelling at the operative site, decreases the risk of distortion and damage of 
tissue. 
Objectives: to evaluate the effects of regional anesthesia in surgical treatment of 
facial skin cancer. 
Study design: Prospective, descriptive study. 
Subjects and methods: We analysed patients undergoing regional anesthesia for 
wide excision and reconstruction in treatment of facial skin cancer in Oncology 
Hospital from July 2007 to April 2008. 
Results: 75 patients were studied (28 males, 47 females); mean age was 68.1 year-
old; 190 blocks were performed; mean dose of Bupivacaine 0.25% per patient was 
18.4mg, mean dose per block was 7.3mg. No patient received general anesthesia but 
additional infiltration of local anesthetics was necessary in 20 patients (26.7%). Mean 
time to full sensory loss was 10.3 min; mean duration of block before recovery of 
pain sensory was 163.2 min. Tolerance of the surgical procedure was considered as 
good or excellent in 65 patients (86.7%); 70 patients (93.3%) were very satisfied or 
satisfied with regional anesthesia for surgery. 
Conclusions: Technically, facial regional blocks are safe and easy to perform, they 
provide a stable hemodynamic during perioperative period in surgical treatment of 
facial skin cancer. 
MỞ ĐẦU 
Ung thư da, chủ yếu là ung thư biểu mô loại tế bào đáy và tế bào gai, là 1 trong 10 
nhóm ung thư thường gặp(Error! Reference source not found.). Tần xuất và tỷ lệ tử vong đang có 
chiều hướng gia tăng(Error! Reference source not found.,Error! Reference source not found.). 
Tại Việt Nam, ung thư da đứng vị trí thứ 8 trong 10 vị trí ung thư thường gặp tại 
TPHCM năm 1997 cho cả 2 giới nam và nữ(Error! Reference source not found.) và phẫu thuật 
cắt rộng tạo hình là phương pháp điều trị an toàn và hiệu quả nhất. 
Tại bệnh viện Ung Bướu TPHCM, phẫu thuật cắt rộng tạo hình thường được thực 
hiện với phương pháp vô cảm là gây mê toàn thể có đặt nội khí quản hoặc gây tê tại 
chỗ đối với bệnh nhân có bệnh lý tim mạch, hô hấp với một lượng thuốc tê lớn do 
vùng phẫu thuật thường rộng, làm thay đổi rìa diện cắt do bơm thuốc tê gây phù nề 
vùng mổ. 
Trong khi đó, gây tê vùng có một số ưu điểm so với gây mê toàn thể như: hồi phục 
nhẹ nhàng, ít tác dụng phụ, giảm đau kéo dài ở giai đoạn hậu phẫu, thời gian lưu ở 
phòng hồi sức ngắn và chi phí thấp(Error! Reference source not found.). 
So với gây tê tại chỗ thì gây tê vùng sử dụng ít thuốc tê hơn, ít gây phù nề vùng phẫu 
thuật, ít có nguy cơ gây biến dạng và tổn thương mô đối với vết thương dơ, dập 
nát(Error! Reference source not found.,Error! Reference source not found.,Error! Reference source not found.,Error! 
Reference source not found.). 
Tại Việt Nam nói chung và bệnh viện Ung Bướu TPHCM nói riêng, chúng tôi chưa 
ghi nhận được nghiên cứu nào về lợi ích của gây tê vùng trong phẫu thuật các mô 
mềm vùng mặt. 
Chính vì điều đó, chúng tôi thực hiện đề tài nghiên cứu "Đánh giá hiệu quả của gây tê 
vùng trong phẫu thuật điều trị ung thư da vùng mặt" với mục tiêu: 
1. Xác định liều lượng thuốc tê sử dụng trong gây tê vùng để phẫu thuật điều trị ung 
thư da vùng mặt. 
2. Đánh giá hiệu quả giảm đau của gây tê vùng trong phẫu thuật điều trị ung thư da 
vùng mặt. 
3. Khảo sát các tai biến, biến chứng của gây tê vùng trong và sau phẫu thuật điều trị 
ung thư da vùng mặt. 
ĐỐI TƯỢNG – PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU 
Đối tượng nghiên cứu 
Tiêu chuẩn chọn bệnh 
Bệnh nhân có chỉ định phẫu thuật cắt rộng tạo hình vùng mặt để điều trị ung thư da 
theo chương trình tại khoa Phẫu Thuật – Gây Mê Hồi Sức, bệnh viện Ung Bướu 
TPHCM từ tháng 7 năm 2007 đến tháng 4 năm 2008. 
Xếp loại ASA 1,2,3. 
Được sự đồng ý của bệnh nhân và ký cam kết. 
Tiêu chuẩn loại trừ 
Bệnh nhân không hợp tác hoặc rối loạn tâm thần. 
Tiền căn dị ứng thuốc tê. 
Nhiễm trùng nơi gây tê. 
Rối loạn đông máu. 
Bệnh nhân ung thư da đã được phẫu thuật cắt rộng tạo hình bị tái phát 
Bệnh nhân có tổn thương nằm trên điểm mốc để gây tê vùng. 
Phương pháp nghiên cứu 
Thiết kế nghiên cứu 
Nghiên cứu tiền cứu, mô tả. 
Cỡ mẫu 
Với khoảng tin cậy 95% ta có  = 0,05; Z = 1,96; P = 0,78 (dựa vào nghiên cứu có 
trước trong y văn(Error! Reference source not found.)); d = 0,1 (sai số cho phép). 
n = 65,922 
Cỡ mẫu tối thiểu là 66 bệnh nhân. 
Phương pháp tiến hành 
Chuẩn bị máy móc, thuốc men và phương tiện nghiên cứu: 
Máy gây mê, đèn soi thanh quản, mặt nạ, ống nội khí quản, máy hút, ống hút, máy 
theo dõi dấu hiệu sinh tồn, ống nghe, ống chích 5ml, 10ml, kim tiêm 25G… 
Thuốc 
Thuốc tê: Bupivacaine (Marcain) 0,25%, Lidocaine 1-2%. 
Thuốc khác: Midazolam, Fentanyl, Thiopentone, Propofol, Rocuronium, Atropine, 
Ephedrine, Adrenaline, Hydrocortisone… 
Dịch truyền: Lactat Ringer, Natri Chlorua 0,9%, Glucose 5%, Gelafundin… 
Chuẩn bị bệnh nhân 
Bệnh nhân được làm các xét nghiệm tiền phẫu như: huyết đồ, nhóm máu, chức năng 
đông máu, đường huyết, ion đồ, chức năng gan, thận, ECG, X quang tim phổi… 
Bệnh nhân được khám lâm sàng và cận lâm sàng để xếp loại ASA và đánh giá những 
vị trí định gây tê vùng. 
Kỹ thuật tiến hành 
Trước phẫu thuật 
Bệnh nhân được đặt đường truyền tĩnh mạch ở tay với kim luồn 20G hoặc 18G, theo 
dõi và ghi nhận mạch, huyết áp, SpO2, nhịp tim, ECG từ lúc vào phòng mổ. 
Bệnh nhân được phẫu thuật viên đánh dấu vùng dự kiến phẫu thuật và vùng dự kiến 
xoay, chuyển vạt da. 
Dựa vào các điều trên chúng ta chọn các điểm mốc tê vùng thích hợp. 
Bệnh nhân được tiền mê với Midazolam 0,03mg/kg và Fentanyl 1g/kg. 
Sau đó bệnh nhân được sát trùng các điểm mốc cần làm tê và tiến hành gây tê vùng 
bằng Bupivacaine 0,25% với thể tích từ 2 – 4ml tùy vùng gây tê(Error! Reference source not 
found.). 
Cụ thể 
Đối với gây tê thần kinh trên ổ mắt: dùng kim 25G – 3cm, thể tích thuốc tê sử dụng là 
3ml mỗi bên. 
Đối với gây tê thần kinh trên ròng rọc thể tích thuốc tê sử dụng là 3ml mỗi bên. 
Đối với gây tê thần kinh trên ổ mắt + thần kinh trên ròng rọc thể tích thuốc tê sử dụng 
là 5ml mỗi bên. 
Đối với gây tê thần kinh mũi mi thể tích thuốc tê sử dụng là 2ml mỗi bên. 
Đối với gây tê thần kinh dưới ổ mắt thể tích thuốc tê sử dụng là 4ml mỗi bên. 
Đối với gây tê thần kinh cằm thể tích thuốc tê sử dụng là 2ml mỗi bên. 
- Ghi nhận thời gian mất cảm giác (cảm giác sờ và cảm giác đau – đánh giá cảm giác 
sờ bằng que gòn và cảm giác đau bằng kim đầu tù, so sánh với bên đối diện hoặc 
vùng da không bị mất cảm giác). 
Trong phẫu thuật 
- Bệnh nhân sẽ được đánh giá mức độ an thần theo 5 mức độ: 
0: Bệnh nhân thức hoàn toàn 
1: Mơ màng hay thiu thiu ngủ 
2: Ngủ nhưng dễ thức tỉnh bằng lời nói 
3: Ngủ sâu hơn, chỉ thức khi phải lay dậy 
4: Rất khó đánh thức 
- Bệnh nhân sẽ được đánh giá hiệu quả giảm đau của gây tê vùng khi rạch da và trong 
phẫu thuật bằng thang điểm đau VAS (Visual Analog Scale): 
0 – 2: Không đau 
3 – 4: Đau ít 
5 – 6: Đau vừa 
7 – 8: Đau nhiều 
9 – 10: Đau dữ dội 
Trong nghiên cứu này khi VAS > 4 chúng tôi hỗ trợ điều trị đau bằng cách thêm 
Midazolam 0,02mg/kg và Fentanyl 1g/kg. Nếu tình trạng đau không cải thiện (VAS 
vẫn > 4) thì cần hỗ trợ thêm bằng gây tê tại chỗ (sử dụng Lidocaine 1-2%) hoặc gây 
mê toàn thể có đặt nội khí quản. 
Theo dõi, ghi nhận dấu hiệu sinh tồn trong lúc phẫu thuật cũng như ghi nhận và xử trí 
kịp thời các tai biến, biến chứng xảy ra (nếu có). 
Đánh giá mức độ hợp tác của bệnh nhân trong phẫu thuật dưới gây tê vùng bằng 4 
mức độ: rất tốt, tốt, được và kém (do phẫu thuật viên đánh giá). 
Sau khi phẫu thuật 
Bệnh nhân được theo dõi và ghi nhận dấu hiệu sinh tồn, thời gian phục hồi cảm giác 
đau cũng như các tai biến, biến chứng do gây tê hoặc do phẫu thuật (nếu có). 
Đánh giá mức độ hài lòng của bệnh nhân về phương pháp vô cảm bằng 4 mức độ: rất 
hài lòng, hài lòng, ít hài lòng và không hài lòng. 
Xử lý số liệu 
Các số liệu cần thu thập được ghi nhận vào bảng thu thập số liệu. 
Nhập và xử lý số liệu bằng phần mềm SPSS 13.0 For Windows. 
Mối tương quan giữa hai biến được kiểm định bằng test 2 hoặc test t. 
Giá trị p < 0,05 được xem là có ý nghĩa thống kê với độ tin cậy 95%. 
KẾT QUẢ 
Đặc điểm nhóm nghiên cứu 
Từ tháng 07/2007 đến tháng 04/2008 có 75 bệnh nhân tại bệnh viện Ung Bướu 
TPHCM được gây tê vùng để phẫu thuật cắt rộng tạo hình với kết quả như sau 
Đặc điểm Số trường hợp (%) 
Nam / Nữ 28 (37,3) / 47 (62,7) 
Tuổi 68,1  14,1 (25-95)* 
Cân nặng (kg) 49,1  9,0 (30-70)* 
Đặc điểm Số trường hợp (%) 
Nghề nghiệp thường 
tiếp xúc nhiều với 
ánh sáng mặt trời 
51 (68) 
ASA 1 / 2 / 3 
21 (28) / 40 (53,3) / 14 
(18,7) 
Kích thước bướu 
1,9  0,9cm (0,5cm-
5cm)* 
Giải phẫu bệnh 
Ung thư tế bào đáy 62 
(82,7) 
Ung thư tế bào gai 13 
(17,3) 
*Trung bình (tối thiểu-tối đa) 
Vị trí bướu 
Vị trí Số trường hợp (%) 
Mũi 30 (40) 
Má 11 (14,7) 
Mũi-má 7 (9,3) 
Môi 13 (17,3) 
Trán 2 (2,7) 
Quanh ổ mắt 12 (16) 
Một số đặc điểm về vô cảm và phẫu thuật 
Các kiểu phong bế và số lần phong bế 
Kiểu 
TK 
trên ổ 
mắt 
TK 
trên 
ròng 
rọc 
TK 
mũi 
mi 
TK 
dưới ổ 
mắt 
TK 
cằm 
Tổng 
cộng 
1 bên 5 9 24 53 1 92 
2 bên 5 4 20 12 8 49 
Số 
lần 
15 17 64 77 17 190 
Số lần phong bế trên một bệnh nhân 
Số 
lần 
1 2 3 4 5 6 
Số 
TH 
(%) 
12 
(16) 
31 
(41,3) 
17 
(22,7) 
12 
(16) 
1 
(1,3) 
2 
(2,7) 
Liều thuốc tê Bupivacaine 0,25% sử dụng trung bình cho mỗi bệnh nhân là 18,4 mg 
Liều sử dụng trung bình cho một phong bế là 7,3 mg 
20 bệnh nhân (26,7%) cần phải gây tê tại chỗ thêm 
Mức độ giảm đau trong phẫu thuật 
Mức độ giảm đau Số trường hợp (%) 
Không đau (VAS 0-2) 37 (49,3) 
Đau ít (VAS 3-4) 18 (24) 
Đau vừa (VAS 5-6) 15 (20) 
Đau nhiều (VAS 7-8) 5 (6,7) 
Đau dữ dội (VAS 9-10) 0 (0) 
Khảo sát trên 55 trường hợp không phải hỗ trợ gây tê tại chỗ thêm 
- Thời gian mất cảm giác trung bình là 10,3  3,9 phút 
- Thời gian phẫu thuật trung bình là 47,3  20,0 phút (15-100 phút). 
- Thời gian phục hồi cảm giác đau trung bình là 163,2  48,5 phút (90-300 phút). 
Thay đổi huyết động học qua các giai đoạn phẫu thuật và hồi sức 
Thay đổi huyết động học qua các thời điểm 
Thời 
điểm 
Mạch 
(lần/phút) 
HATT 
(mmHg) 
HATTr 
(mmHg) 
T0 80,7  12,9 
155,1 
27,5 
84,3  12,8 
T1 77,3  11,4* 
140,4 
23,4* 
78,8  10,3* 
T2 81,7  11,4 
143,5 
23,3* 
81,1  11,3* 
T3 81,1  10,7 
140,7 
24,7* 
79,7  11,2* 
T5p 79,4  11,0 
139,1 
23,4* 
78,9  10,4* 
T10p 79,2  11,1 
137,7 
24,2* 
78,1  10,8* 
T15p 78,4  11,0* 
137,4 
23,5* 
77,9  10,9* 
T30p 78,1  11,3* 
138,9 
23,9* 
79,0  11,0* 
T1g 77,9  12,5* 
141,1 
23,4* 
78,5  10,1* 
T2g 78,4  11,5 
138,7 
22,8* 
78,8  10,6* 
T3g 79,5  11,0 
144,1 
20,6* 
80,1  9,8* 
T4g 74,5  9,2* 
135,0 
18,0* 
78,2  8,0* 
T5g 71,4  7,8* 
132,3 
16,5* 
78,1  8,1* 
T6g 73,0  7,6* 
138,3 
15,4* 
80,6  6,8* 
*p < 0,05 so với thời điểm T0 
Ghi chú: 
T0: lúc vào phòng mổ 
T1: ngay sau tiền mê 
T2: ngay sau khi gây tê 
T3: ngay sau khi rạch da 
T5p: sau khi rạch da được 5 phút 
T10p: sau khi rạch da được 10 phút 
T15p: sau khi rạch da được 15 phút 
T30p: sau khi rạch da được 30 phút 
T1g: sau khi phẫu thuật được 1 giờ 
T2g: sau khi phẫu thuật được 2 giờ 
T3g: sau khi phẫu thuật được 3 giờ 
T4g: sau khi phẫu thuật được 4 giờ 
T5g: sau khi phẫu thuật được 5 giờ 
T6g: sau khi phẫu thuật được 6 giờ 
Kết quả gây tê 
Mức độ hợp tác của bệnh nhân 
Mức độ Số trường hợp (%) 
Rất tốt 22 (29,3) 
Tốt 43 (57,4) 
Mức độ Số trường hợp (%) 
Được 10 (13,3) 
Kém 0 (0) 
Mức độ hài lòng của bệnh nhân 
Mức độ Số trường hợp (%) 
Rất hài lòng 16 (21,3) 
Hài lòng 54 (72) 
Ít hài lòng 5 (6,7) 
Không hài lòng 0 (0) 
Tai biến và biến chứng 
Tai biến do phẫu thuật 
Ghi nhận 01 trường hợp có khối máu tụ lớn sau phẫu thuật và phải phẫu thuật lại để 
cầm máu, điểm chảy máu ghi nhận không liên quan đến gây tê vùng. 
Tai biến do gây tê vùng 
02 trường hợp phù + tím nhẹ mi trên do phong bế thần kinh trên ổ mắt. 
06 trường hợp phù mi trên do phong bế thần kinh mũi mi. 
04 trường hợp liệt vận động mắt và phục hồi khi phong bế thần kinh mũi mi hết tác 
dụng. 
BÀN LUẬN 
Kết quả gây tê 
Qua 75 bệnh nhân trong nghiên cứu 
20 bệnh nhân (26,7%) gây tê vùng thất bại (cần phải gây tê tại chỗ thêm) được thống 
kê như sau: 
Vị trí 
TK 
trên ổ 
mắt 
TK 
trên 
ròng 
rọc 
TK 
mũi 
mi 
TK 
dưới ổ 
mắt 
TK 
cằm 
1 bên 2 3 4 14 0 
2 bên 0 0 9 5 1 
Thất 
bại 
1 0 10 19 0 
Trong 19 trường hợp phong bế thần kinh dưới ổ mắt thất bại có 10 trường hợp khó 
phân biet rõ ràng thất bại là do phong bế thần kinh mũi mi thất bại hay do phong bế 
thần kinh dưới ổ mắt thất bại hay do cả 2 phong bế đều thất bại vì vùng phân bố khó 
xác định chính xác của thần kinh nào nhất là phẫu thuật ở vùng mũi – má, do đó 
chúng tôi xem như là thất bại cả 2. 
1 bệnh nhân được gây tê vùng thần kinh trên ổ mắt thất bại liên quan đến phẫu thuật 
vùng mi mắt trên do diện phẫu thuật lan ra đến bờ trên phía ngoài ổ mắt. 
Theo Eaton JS(Error! Reference source not found.), và Moore KL(Error! Reference source not found.): diện 
ngoài mi mắt trên và cung mày được chi phối cảm giác bởi thần kinh lệ và phẫu thuật 
ở những vùng này cần phải gây tê tại chỗ thêm hoặc phong bế thêm thần kinh lệ (tại 
bờ trên ổ mắt ngang góc mắt ngoài). 
10 bệnh nhân gây tê vùng thất bại liên quan đến phong bế thần kinh mũi mi. 
Theo Molliex S(Error! Reference source not found.): 4/24 (16%) trường hợp thất bại trong gây tê 
vùng của tác giả bao gồm phong bế thần kinh mũi mi kèm thêm phong bế khu trú 
nhánh mũi của thần kinh bướm khẩu cái và sự thất bại rất khó xác định liên quan đến 
loại phong bế nào vì vùng chi phối cảm giác của thần kinh mũi mi và thần kinh bướm 
khẩu cái thì trùng lắp nhau. 
Trong nghiên cứu của chúng tôi tỷ lệ thất bại trong phong bế thần kinh mũi mi còn 
cao: 10/75 bệnh nhân (13,3%). Điều này được lý giải là do kinh nghiệm trong việc 
thực hiện phong bế thần kinh mũi mi còn hạn chế vì đây là lần đầu chúng tôi áp 
dụng phong bế vùng trong phẫu thuật vùng mặt và điểm mốc trong phong bế thần 
kinh mũi mi khó xác định hơn so với các điểm mốc còn lại (những điểm mốc này 
có thể sờ thấy). 
19 bệnh nhân được gây tê vùng thất bại liên quan đến phong bế thần kinh dưới ổ mắt 
được thống kê như sau: 
7 bệnh nhân được gây tê vùng thần kinh dưới ổ mắt thất bại do vùng phẫu thuật vượt 
quá phạm vi chi phối cảm giác của thần kinh dưới ổ mắt, được chia thành 2 nhóm như 
sau: 
5 trường hợp thất bại do vùng phẫu thuật mở rộng đến vùng má dưới ngoài, đây là 
vùng được chi phối cảm giác bởi thần kinh má (nhánh của thần kinh hàm dưới – V3). 
Muốn phẫu thuật vùng này cần gây tê tại chỗ thêm hoặc phong bế thần kinh má. 
2 trường hợp thất bại do vùng phẫu thuật mở rộng đến vùng má trên ngoài, đây là 
vùng được chi phối cảm giác bởi thần kinh tai thái dương (nhánh của thần kinh 
hàm dưới – V3) và muốn phẫu thuật vùng này cần phong bế thêm thần kinh tai 
thái dương hoặc gây tê tại chỗ thêm. 
12 trường hợp phong bế thần kinh dưới ổ mắt thất bại còn lại liên quan đến việc 
phong bế thần kinh không đầy đủ do không làm mất cảm giác đầy đủ của 4 vùng 
da được chi phối bởi thần kinh dưới ổ mắt: da của bờ ngoài mũi, da mi mắt dưới, 
da má (vùng trên trong và một phần vùng dưới trong) và da môi trên. Điều này có 
thể được giải thích bởi một số nguyên nhân sau: 
Do đặt kim không đúng nên chỉ phong bế được một phần của thần kinh. 
Theo Pascal J(Error! Reference source not found.): do thường đặt kim có khuynh hướng tiếp 
tuyến với da khi áp dụng phong bế thần kinh dưới ổ mắt nên kim cũng dễ có khuynh 
hướng tiếp tuyến với thần kinh nên dễ bị phong bế chỉ một phần thần kinh. 
Cung theo Pascal J(Error! Reference source not found.), Lynch MT(Error! Reference source not found.), 
Hanke CW(Error! Reference source not found.) cho rằng phong bế thần kinh dưới ổ mắt qua ngả 
trong miệng thì đáng tin cậy hơn là ngả qua da bên ngoài. Tuy nhiên trong nghiên cứu 
của Lynch MT(Error! Reference source not found.) so sánh vị trí phong bế thần kinh dưới ổ mắt 
2 bên với 1 bên thực hiện phong bế qua ngả miệng, bên còn lại thực hiện phong bế 
qua ngả qua da bên ngoài. Kết quả là không tìm thấy sự khác biệt có ý nghĩa thống kê 
giữa 2 phương pháp. 
Kinh nghiệm trong thực hiện phong bế cũng có thể là nguyên nhân của tỷ lệ thất bại 
cao. 
Đây là lần đầu chúng tôi áp dụng thực hiện phong bế thần kinh dưới ổ mắt nên không 
có nhiều kinh nghiệm cho việc phong bế cũng như chọn đường vào. 
Theo Pascal J(Error! Reference source not found.): 12/13 trường hợp phong bế thần kinh dưới ổ 
mắt thất bại trong nghiên cứu của tác giả là do bác sĩ nội trú thực hiện, những người 
này chỉ có kinh nghiệm thực hiện phong bế ở mỗi vị trí < 5 lần. Ngược lại, những bác 
sĩ gây mê được đào tạo và thực hiện ít nhất là 20 lần tại mỗi vị trí phong bế thì tỷ lệ 
thành công cao hơn. 
Để đạt tỷ lệ thành công cao hơn, Bernard JM(Error! Reference source not found.) đã dùng phản 
xạ nháy mắt để định vị các nhánh thần kinh của thần kinh sinh ba. Tác giả thực hiện 
phong bế thần kinh dưới ổ mắt với kích thích điện qua kim, khi kim đặt đúng vị trí 
thần kinh dưới ổ mắt, kích thích điện sẽ được đáp ứng bởi một dị cảm nhẹ ở mi mắt 
dưới cùng bên và một phản xạ nháy mắt ở cả hai bên. 
Thay đổi huyết động học qua các giai đoạn 
Mạch 
Mạch trung bình lúc vào phòng mổ là 81 lần/phút. 
Sau khi tiền mê mạch trung bình giảm còn 77 lần/phút, sự khác biệt này có ý nghĩa 
thống kê (p < 0,05), điều này là do tác dụng của Midazolam và Fentanyl giúp bệnh 
nhân bớt lo lắng và có thể ngủ nhẹ. 
Sau khi gây tê có thể bệnh nhân đau do thủ thuật phong bế thần kinh nên mạch trung 
bình tăng lên 82 lần/phút (sự khác biệt không có ý nghĩa thống kê so với lúc mới vào 
phòng mổ) và duy trì ổn định trong 3 giờ đầu, chỉ dao động từ 78 – 81 lần/phút. 
Giảm dần ở giờ thứ 4 – 6 (dao động từ 71 – 75 lần/phút) có lẽ là do đã kết thúc cuộc 
phẫu thuật và bệnh nhân ở giai đoạn hậu phẫu nên không còn lo lắng về cuộc phẫu 
thuật nữa (sự khác biệt có ý nghĩa thống kê). 
Huyết áp tâm thu 
Cũng giống như thay đổi của mạch trung bình, huyết áp tâm thu trung bình lúc vào 
phòng mổ là 155 mmHg. Sau khi tiền mê huyết áp tâm thu trung bình giảm còn 140 
mmHg. Tăng nhẹ trở lại sau khi gây tê 143 mmHg. Duy trì ổn định trong và sau khi 
phẫu thuật (dao động từ 132 – 144 mmHg). Tất cả huyết áp tâm thu ở các giai đoạn 
đều giảm có ý nghĩa thống kê so với thời điểm lúc mới vào phòng mổ. 
Huyết áp tâm trương 
Giống như sự thay đổi của huyết áp tâm thu, huyết áp tâm trương trung bình lúc vào 
phòng mổ là 84 mmHg, giảm nhiều sau tiền mê còn 78mmHg, tăng trở lại sau khi gây 
tê 81 mmHg và cũng duy trì ổn định trong và sau khi phẫu thuật (dao động từ 78 – 81 
mmHg). Tất cả huyết áp tâm trương ở các giai đoạn đều giảm có ý nghĩa thống kê so 
với thời điểm lúc mới vào phòng mổ. 
Các kết quả trên cho thấy gây tê vùng tạo ra một tình trạng huyết động học ổn định 
trong suốt 6 giờ sau khi gây tê vùng dù phải trải qua cuộc phẫu thuật. 
Tai biến và biến chứng 
Một trường hợp bị khối máu tụ lớn phải can thiệp phẫu thuật lại để cầm máu nhưng 
điểm chảy máu không liên quan đến vị trí gây tê vùng mà là do thao tác phẫu thuật 
không cầm máu kỹ. 
Không nghi nhận tai biến đáng kể nào khác. 
KẾT LUẬN 
Với một lượng thuốc tê ít, gây tê vùng có thể được sử dụng một cách an toàn, dễ thực 
hiện và tạo được một tình trạng huyết động ổn định trong phẫu thuật cắt rộng tạo hình 
để điều trị ung thư da vùng mặt. 
Tuy kỹ thuật dễ thực hiện nhưng để tỷ lệ thành công cao hơn và vùng phong bế được 
rộng hơn cần có thêm kinh nghiệm về gây tê vùng cũng như nắm vững kiến thức về 
sự phân bố thần kinh của vùng mặt. 
            Các file đính kèm theo tài liệu này:
 140_907.pdf 140_907.pdf