Đề tài Đẩy mạnh xuất khẩu chè ở công ty trách nhiệm hữu hạn sản xuất – xuất nhập khẩu Thiên Hoàng

Tài liệu Đề tài Đẩy mạnh xuất khẩu chè ở công ty trách nhiệm hữu hạn sản xuất – xuất nhập khẩu Thiên Hoàng: LỜI NÓI ĐẦU Quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước đang diễn ra vô cùng mạnh mẽ, chúng ta đang dần hội nhập sâu rộng vào nền kinh tế thế giới. Đối với những nước đang phát triển như Việt Nam, hoạt động xuất khẩu đóng vai trò hết sức to lớn, nó tạo tiền đề vững chắc cho quá trình hội nhập cũng như công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Đảng và Nhà nước ta đã khẳng định tầm quan trọng đặc biệt của hoạt động xuất khẩu và coi đó là một trong ba chương trình kinh tế lớn cần tập trung thực hiện. Với đặc điểm là một nước nông nghiệp với hơn 70% dân số làm nông nghiệp, Việt Nam xác định mặt hàng nông sản nói chung và chè nói riêng là mặt hàng xuất khẩu chủ yếu chiếm tỷ trọng lớn trong tổng kim ngạch xuất khẩu. Chè là mặt hàng nông sản được nhiều người biết đến về tính hấp dẫn khi sử dụng, uống chè đã trở thành một nét văn hóa truyền thống tại nhiều quốc gia trên thế giới. Khi xã hội ngày càng phát triển thì nhu cầu tiêu dùng chè, thưởng thức chè ngày càng cao, từ đó kích thích v...

doc77 trang | Chia sẻ: hunglv | Lượt xem: 992 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem trước 20 trang mẫu tài liệu Đề tài Đẩy mạnh xuất khẩu chè ở công ty trách nhiệm hữu hạn sản xuất – xuất nhập khẩu Thiên Hoàng, để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
LỜI NÓI ĐẦU Quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước đang diễn ra vô cùng mạnh mẽ, chúng ta đang dần hội nhập sâu rộng vào nền kinh tế thế giới. Đối với những nước đang phát triển như Việt Nam, hoạt động xuất khẩu đóng vai trò hết sức to lớn, nó tạo tiền đề vững chắc cho quá trình hội nhập cũng như công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Đảng và Nhà nước ta đã khẳng định tầm quan trọng đặc biệt của hoạt động xuất khẩu và coi đó là một trong ba chương trình kinh tế lớn cần tập trung thực hiện. Với đặc điểm là một nước nông nghiệp với hơn 70% dân số làm nông nghiệp, Việt Nam xác định mặt hàng nông sản nói chung và chè nói riêng là mặt hàng xuất khẩu chủ yếu chiếm tỷ trọng lớn trong tổng kim ngạch xuất khẩu. Chè là mặt hàng nông sản được nhiều người biết đến về tính hấp dẫn khi sử dụng, uống chè đã trở thành một nét văn hóa truyền thống tại nhiều quốc gia trên thế giới. Khi xã hội ngày càng phát triển thì nhu cầu tiêu dùng chè, thưởng thức chè ngày càng cao, từ đó kích thích việc sản xuất, xuất khẩu chè ngày càng phát triển. Việt Nam là quốc gia có điều kiện thuận lợi để phát triển cây chè, chúng ta có điều kiện về thổ nhưỡng, khí hậu thích hợp cho cây chè phát triển, có nguồn lao động nông nghiệp dồi dào và thị trường tiềm năng cả trong và ngoài nước. Tuy nhiên thực trạng xuất khẩu chè hiện nay của nước ta lại chưa tương xứng với tiềm năng đó. Nhà nước, ngành chè, các doanh nghiệp sản xuất, kinh doanh xuất khẩu chè cần chung sức tìm ra các biện pháp hạn chế các điểm yếu, phát huy điểm mạnh, đẩy mạnh hơn nữa xuất khẩu chè. Xuất phát từ thực tiễn đó, qua quá trình thực tập nghiên cứu và tìm hiểu tại công ty TNHH sản xuất – xuất nhập khẩu Thiên Hoàng, cùng với kiến thức đã được học trong nhà trường em xin chọn đề tài: “Đẩy mạnh xuất khẩu chè ở công ty TNHH sản xuất – xuất nhập khẩu Thiên Hoàng” làm đề tài của báo cáo tốt nghiệp. Mục đích là nhằm tìm hiểu tình hình xuất khẩu chè của công ty trong thời gian qua, từ đó đưa ra một số giải pháp đẩy mạnh xuất khẩu chè của công ty trong thời gian tới. Với mục đích như vậy, bài báo cáo được chia làm ba chương như sau: Chương I: Những vấn đề cơ bản về xuất khẩu chè ở các doanh nghiệp kinh doanh xuất khẩu Chương II: Thực trạng xuất khẩu chè của công ty TNHH sản xuất – xuất nhập khẩu Thiên Hoàng Chương III: Một số giải pháp chủ yếu thúc đẩy xuất khẩu chè của công ty TNHH sản xuất – xuất nhập khẩu Thiên Hoàng Do còn nhiều hạn chế về trình độ, thời gian cũng như thiếu kinh nghiệm thực tiễn nên bài viết khó tránh khỏi những hạn chế thiếu sót. Rất mong nhận được ý kiến đóng góp, những lời nhận xét quý báu của thầy cô, các cô chú trong cơ quan cùng toàn thể các bạn để em có thể từng bước hoàn thiện đề tài này tốt hơn. CHƯƠNG 1 NHỮNG VẤN ĐỀ CƠ BẢN VỀ XUẤT KHẨU CHÈ Ở CÁC DOANH NGHIỆP KINH DOANH XUẤT KHẨU 1.1. Chè và sự cần thiết đẩy mạnh xuất khẩu chè đối với Việt Nam nói chung và các doanh nghiệp xuất khẩu chè nói riêng 1.1.1. Chè và khái niệm xuất khẩu chè 1.1.1.1. Khái niệm chè Từ xa xưa, chè đã được biết đến không chỉ như một thứ nước giải khát thông dụng, bồi bổ sức khỏe mà còn có tác dụng chữa và ngăn ngừa một số lọai bệnh. Thú uống chè vào mỗi sớm mai (thậm chí, có người còn thưởng thức chè vào buổi tối mà không sợ mất ngủ) là thói quen của nhiều người Việt Nam. Có người thích độc ẩm, một bình chè, một chén tống. Cạn bình, hết nước một là có thể bắt đầu một ngày mới. Nếu có bạn tâm giao thì sẽ thành “đối ẩm”, “song ẩm”, “tứ ẩm” hoặc “quần ẩm”. Có bình chè ngon, gọi bạn hiền đến cùng thưởng thức, đó là nét văn hóa từ lâu đời của cha ông ta. Khi đã đưa lên thành nghệ thuật thì ngoài mục đích giải khát, uống chè còn có ý nghĩa nhân văn, thể hiện tâm hồn, tình cảm và nhân cách của con người. Nghệ thuật uống chè và thưởng thức chè là sự thể hiện nét vǎn hoá rất riêng của từng đất nước, dân tộc. Mỗi nơi có cách thưởng thức chè của riêng mình. Cây chè xuất hiện từ lúc nào trên quà địa cầu này chưa ai xác định được, theo như các bảng thống kê việc sản xuất chè trên thế giới và kho dữ liệu về chè của Trung Hoa đã làm cho người ta lầm tưởng rằng quê hương của cây chè là Trung Quốc hay Ấn Ðộ. Nhưng theo các tài liệu xưa cổ và kết quả nghiên cứu gần đây của những nhà khoa học và hiệp hội chè thì chè không xuất xứ từ Trung Hoa hay Ấn Ðộ (người ta không tìm thấy cây chè thiên nhiên hay cây chè hoang mọc ở các vùng châu thổ sông Hoàng Hà hay sông Hằng Hà).Quê hương thật sự của cây chè ở tận mãi phương Nam. Mặc dù người Trung Hoa đã biết đến cây chè từ thời nhà Châu (1134 -770 BC) nhưng mãi đến đời nhà Tuỳ (581 - 618 AC) chè mới được du nhập vào Trung Quốc từ hai nước Nam Chiếu và Nam Việt. Ðến đất Tàu chè được chăm sóc kỹ lưỡng và tinh vi, sau khoảng thời gian dài, chè được đưa lên hàng nghệ thuật. Hiện nay trên thế giới có trên 40 dân tộc có thói quen dùng chè làm thức uống. Người Nhật biết uống chè vào khoảng năm 600 sau Tây lịch. Năm 1610 những thuyền buôn người Ðức nhập cảng chè lần đầu tiên vào Âu châu từ hai nước Tàu và Nhật. Năm 1650, các thuyền buôn người Ðức nhập cảng chè vào lãnh địa Mỹ Châu. Cùng với sự phát triển và hội nhập rộng rãi kinh tế xã hội, ngành chế biến chè trong nước và thế giới cũng bung ra với những bước tiến ào ạt về số lượng và chất lượng. Khái niệm về chè hiện nay không còn bó hẹp trong phạm vi các lọai chè chế biến từ cây chè. Nhiều loài thảo dược được trưng dụng để bổ sung vào danh sách các lọai chè đang có mặt trên thị trường. Có thể ai đó phàn nàn rằng, mấy thứ cây cỏ đó làm lệch khái niệm tinh khiết của chè; rằng, đã là chè thì chỉ có thể được chế biến từ cây chè. Song, với định nghĩa, chè là thứ sản phẩm dùng để giải khát và chữa bệnh thì bất cứ thứ gì na ná đều có thể gọi là chè. Do vậy, thị trường chè đang nở rộ với vô số loại chè thảo dược uống liền : chè Atiso, chè khổ qua, chè cỏ ngọt, chè trái nhàu, chè linh chi, chè dây, chè đắng v.v… 1.1.1.2. Khái niệm xuất khẩu chè Xuất khẩu là hoạt động đưa hàng hóa, dịch vụ từ quốc gia này sang quốc gia khác trên cơ sở tiền tệ làm phương tiện thanh toán trên nguyên tắc ngang giá. Mục đích của hoạt động xuất khẩu là khai thác được lợi thế so sánh của mỗi quốc gia khi có sự phân công lao động quốc tế. Theo nghị định 57/1998/NĐ-CP(ban hành 31/7/1998) hướng dẫn về thi hành luật thương mại đối với hoạt động xuất khẩu, nhập khẩu thì “Hoạt động xuất khẩu, nhập khẩu hàng hoá là hoạt động mua, bán hàng hoá của thương nhân Việt Nam với thương nhân nước ngoài theo các hợp đồng mua bán hàng hoá , bao gồm cả hoạt động tạm nhập tái xuất, tạm xuất tái nhập và chuyển khẩu hàng hoá”. Xuất khẩu chè là hoạt động ngoại thương mà trong đó hàng hóa xuất khẩu là chè. Hoạt động xuất khẩu chè nói riêng và các hàng nông sản nói chung là một trong những hoạt động thương mại quan trọng của các nước nông nghiệp như Việt Nam, đó là việc đưa các sản phẩm chè, nông sản bán trên thị trường thế giới, thu ngoại tệ, góp phần tăng thu nhập người nông dân, tạo công ăn việc làm cho người lao động, tăng GDP của đất nước… Chè là mặt hàng nông sản do đó xuất khẩu chè mang những đặc điểm của xuất khẩu hàng nông sản, đó là: Giá cả chè xuất khẩu phụ thuộc vào tính thời vụ của việc sản xuất chè nên sẽ khác nhau trong từng khoảng thời gian khác nhau cùng một năm. Mặt hàng chè có cầu co giãn theo giá thấp do chè không phải là mặt hàng thiết yếu hay xa xỉ. Chất lượng thường không được đồng đều do việc thu mua nhỏ lẻ, phân tán và phụ thuộc nhiều vào đặc điểm khí hậu thổ nhưỡng nơi trồng. Việc xuất khẩu thường gặp phải các rào cản kỹ thuật về mức độ an toàn vệ sinh, hàm lượng chất bảo vệ thực vật… 1.1.2. Sự cần thiết đẩy mạnh xuất khẩu chè 1.1.2.1. Nhu cầu về chè trên thế giới và khả năng xuất khẩu chè của Việt Nam a) Nhu cầu về chè trên thế giới Cầu về sản phẩm chè chịu tác động của các nhân tố sau: Sức mua hay nhu cầu có khả năng thanh toán của người tiêu dùng, đây là yếu tố quyết định đến quy mô và dung lượng thị trường, ở một mức độ nhất định đóng vai trò điều tiết sản xuất. Giá cả sản phẩm chè trên thị trường, chủng loại và chất lượng của chè xuất khẩu Giá cả của những hàng hóa có liên quan, đặc biệt là hàng hóa thay thế như: cà phê, nước khoáng, nước giải khát… Các yếu tố thuộc về khẩu vị sở thích của người tiêu dùng đối với từng sản phẩm chè Yếu tố văn hóa chè ở từng quốc gia Bảng 01: Tình hình tiêu thụ chè của một số quốc gia chính Đơn vị: nghìn tấn Nước 2002 2003 2004 2005 2006 2007 2008 Argentina 259.37 282.25 257.78 247.57 254.07 264.89 278.13 Brazil 511.84 481.73 575.91 476.89 414.51 359.02 370.23 China 482.18 483.22 465.39 531.37 614.57 553.44 594.75 India 658.39 667.68 675.44 681.66 685.8 688.48 698.4 Kazakhstan 16.43 18.31 8.99 9.89 3.25 8.09 7.34 Iran,Islamic Rep 66.36 64.09 61.66 56.93 48.41 40.52 36,82 Pakistan 109.98 105.89 102.26 106.6 111.93 119.21 121.12 Russian Federation 166.31 168.16 167.94 168.5 171.23 175.32 179.5 SyrianArab Republic 37.24 37.64 40.15 43.23 45.01 38.17 43.33 USA 102.27 104.58 106.25 108.31 111.01 114.05 120.24 England 134.44 133.64 131.29 126.79 124.62 124.01 123.79 (Nguồn: Số liệu FAO, 2009) Theo dự báo nhu cầu chè trên thế giới sẽ tiếp tục tăng trong những năm tới. Trung đông, nhất là các nước xuất khẩu dầu mỏ vẫn là một trong những thị trường tiêu thụ chè mạnh nhất. Nhu cầu ở Iran, Ai Cập, và Pakixtan cũng sẽ tăng nhiều. Mặc dù liên tục giảm trong các năm 2005, 2006, 2007 nhưng mức tiêu thụ chè ở các nước Châu Âu sẽ tăng trong vài năm tới. Phần lớn các nước xuất khẩu chè và một số nước nhập khẩu chè như Pakixtan và Iran đang tích cực khuyến khích sản xuất chè thông qua việc mở rộng và trẻ hóa các vùng trồng chè. Mới đây nhất, chính phủ Ấn Độ đã thông báo một chương trình rộng lớn về khôi phục sản xuất chè thông qua giảm thuế cho nông dân. b) Khả năng xuất khẩu chè của Việt Nam Theo tính toán của hiệp hội chè thì hiện nay nước ta đã có khoảng 110 nghìn ha trồng chè, với năng xuất khoảng hơn 80 nghìn tấn/năm. Nếu như đến năm 2015 có thể mở rộng diện tích trồng chè đến 135 nghìn ha thì lượng cung sẽ thừa cho nhu cầu tiêu dùng trong nước. Khả năng cung thực tế của sản phẩm chè cũng phụ thuộc vào một số yếu tố cơ bản như: Giá cả các yếu tố đầu vào Giá cả của hàng hóa chè trên thị trường Giá cả của các sản phẩm cạnh tranh Trình độ chuyên môn hóa và tập trung hóa trong sản xuất nông nghiệp Các nhân tố thuộc về cơ chế chính sách của chính phủ trong việc lưu thông, xuất khẩu sản phẩm chè trong từng thời kỳ. Các yếu tố thuộc về môi trường tự nhiên: đất đai, khí hậu, thổ nhưỡng… Ngành chè Việt Nam phát triển chưa tương xứng với tiềm năng và một điều quan ngại là giá chè xuất khẩu của Việt Nam có xu hướng ngày càng giảm trên thị trường thế giới. Đứng đầu danh sách nhập khẩu chè Việt Nam là Iraq, Pakistan, Đài Loan, Nga, Ấn Độ, Ba Lan, Nhật Bản, Hoa Kỳ và Bỉ, chiếm 90,86% khối lượng và 89,9% trị giá. Tuy nhiên, thị phần chè Việt Nam tại những nước này vẫn còn nhỏ bé và đang bị cạnh tranh gay gắt. Khối lượng chè xuất khẩu của Việt Nam hiện nay mới chỉ chiếm 3-4% tổng lượng chè xuất khẩu của thế giới. Tại châu Á, Việt Nam có 2 khách hàng lớn là Nhật Bản và Đài Loan. Trong đó, Nhật là một thị trường đầy triển vọng với tổng nhu cầu 136.000 tấn/năm và sản xuất trong nước của Nhật chỉ có thể đáp ứng khoảng 90.000 tấn/năm. Mặt hàng chè đen đang đặc biệt được ưa chuộng trên thị trường này. Chè Việt Nam chỉ chiếm khoảng 6,5% tỷ trọng và giá thành chỉ bằng 35% so với giá 3.400 USD/tấn nhập khẩu từ các nước khác. Với EU, nhu cầu chè của khối này chủ yếu đều được đáp ứng bằng nhập khẩu với gần 300.000 tấn/năm. Nhưng chè Việt Nam chỉ chiếm khoảng 1-1,5% tổng kim ngạch. Giá chè của Việt Nam tại đây chỉ bằng 40% so với mặt bằng giá 2.500 USD/tấn nhập khẩu từ các nước khác. Nga là thị trường truyền thống giàu tiềm năng với sức tiêu thụ khoảng 147.000-162.000 tấn/năm mà sản xuất chỉ đáp ứng 1% nhu cầu. Tuy nhiên, giá chè Việt Nam vào Nga cũng mới chỉ bằng 75% so với giá 1.330 USD/tấn nhập khẩu từ các nước khác. Thêm vào đó, chè Việt Nam phải chịu sự cạnh tranh gay gắt của Ấn Độ, Sri Lanka, Trung Quốc và Indonesia. Hoa Kỳ, nước tiêu thụ chè lớn thứ 8 thế giới với tổng lượng nhập hàng/năm khoảng 149.000 tấn (chè đen chiếm 84%). Năm 2008, chè Việt Nam xuất khẩu vào đây là 2.420 tấn (chiếm 3% thị trường chè chiết xuất tại Hoa Kỳ), trong đó, chè đen OPA chiếm 80% tổng giá trị xuất khẩu vào thị trường này. Giá chè xuất khẩu của Việt Nam vào Hoa Kỳ thấp hơn nhiều so với giá chè của các nước khác. Giá chè đen nhập khẩu vào Hoa Kỳ năm 2008 bình quân là 1.320 USD/tấn (giá FAS ở cảng xếp hàng nước xuất khẩu) trong khi đó, giá nhập từ Việt Nam chỉ là 740 USD/tấn, bằng 56% giá bình quân nói trên. Đây cũng là một thị trường chè có đòi hỏi rất khắt khe với sự kiểm soát chặt chẽ của Cơ quan Quản lý an toàn thực phẩm và dược phẩm Hoa Kỳ (FDA). Pakistan: Dự báo, đến năm 2015, Pakistan sẽ là nước nhập khẩu chè lớn nhất thế giới. Nước này có nhu cầu thị trường hàng năm khoảng 150.000 tấn. Trong đó, chỉ có 5% chè xanh, còn lại là chè đen. Năm 2008, Việt Nam xuất 14.260 tấn vào nước này nhưng chủ yếu lại là chè xanh. Tuy nhiên, thuế nhập khẩu chè của Pakistan cao hơn so với các nước khác. 1.1.2.2. Sự cần thiết đẩy mạnh xuất khẩu chè Văn hoá chè có một vai trò nổi bật trong di sản văn hoá Việt Nam, là đồ uống phổ biến nhất, "quốc thuỷ", là chỗ dựa tâm linh của cộng đồng các dân tộc Việt Nam. Hiếm có một nơi nào trên thế giới lại được thiên nhiên ưu đãi, hầu như cho phép trồng chè ở khắp nơi. Về phân bố địa lý hành chính, 32/61 tỉnh thành trong cả nước có chè, từ Trung du - Miền núi phía Bắc, đồng bằng Bắc Bộ, Bắc Trung Bộ đến Duyên hải miền Trung, 4 tỉnh Tây Nguyên và 3 đô thị lớn nhất là Hà Nội, Hải Phòng và TP.HCM. Có những nơi như ở Đài Loan, phải cậy từng viên đá, mua hoặc vận chuyển đất từ nơi khác đến nhưng ở nước ta, những vùng trồng chè lớn như Trung du - Miền núi phía Bắc và Lâm Đồng thường tập trung liền đồi, liền khoảnh. Việt Nam có đủ các loại chè nguyên sản, núi cao trên mực nước biển > 1.000m có hương thơm tự nhiên, những cây chè cổ thụ hầu như còn nguyên vẹn tại một số tỉnh miền núi phía Bắc. Có những giống chè địa phương trồng ngay ở trong vườn riêng của gia đình và cách pha chế hết sức đặc biệt. Việc sản xuất chế biến chè đảm bảo nhu cầu tiêu dùng trong nước, có dư thừa dẫn đến nhu cầu xuất khẩu sản phẩm chè. Những thuận lợi đó chính là tiền đề quan trọng tạo lợi thế cho sản phẩm chè Việt Nam trên thị trường thế giới. Xuất khẩu chè là hoạt động tất yếu vì nó mang lại lợi ích to lớn cho quốc gia thể hiện qua vai trò của nó: Xuất khẩu chè làm tăng nguồn thu ngoại tệ cho ngân sách, tạo nguồn vốn ngoại tệ cho nhập khẩu, phục vụ cho sự nghiệp công nghiệp hóa hiện đại hóa đất nước. Xuất khẩu chè góp phần thúc đẩy quá trình công nghiệp hóa hiện đại hóa nông thôn, cải thiện đời sống người nông dân, tạo công ăn việc, làm tăng thu nhập. Cây chè gắn liền với đời sống hàng chục vạn người nông dân miền núi và trung du, hàng năm xuất khẩu chè giải quyết việc làm cho hàng chục vạn lao động Xuất khẩu chè phát triển thúc đẩy sản xuất chè phát triển từ đó góp phần nâng cao hiệu quả sử dụng đất nông nghiệp, cân bằng sinh thái. Cây chè giúp tận dụng được lượng đất trống đồi trọc ở các vùng núi và trung du, giúp chống xói mòn giảm thiên tai, điều hoà khí hậu và cân bằng môi trường sinh thái. Xuất khẩu chè góp phần vào việc mở rộng quan hệ buôn bán với các nước trên thế giới, tạo dựng mối quan hệ và xây dựng hình ảnh Việt Nam trên trường quốc tế. Xuất khẩu chè cũng góp phần tích cực vào việc chuyển dịch cơ cấu kinh tế, mở rộng thị trường hàng hóa tiêu thụ trong nước, tạo điều kiện cho sản xuất phát triển. Là cơ sở để tạo thêm vốn, đưa khoa học kỹ thuật công nghệ tiên tiến của nước ngoài vào sản xuất. Xuất khẩu chè nói riêng và xuất khẩu hàng hóa nói chung có nghĩa vô cùng to lớn, mang lại lợi ích mọi mặt cho quốc gia. Đẩy mạnh xuất khẩu chè là hoạt động cần thiết vì lợi ích của người nông dân trồng chè, lợi ích của các doanh nghiệp sản xuất chế biến chè và lợi ích của quốc gia. 1.2. Nội dung xuất khẩu chè 1.2.1. Sản phẩm và cơ cấu sản phẩm chè xuất khẩu Là một quốc gia có truyền thống uống chè lâu đời, Việt Nam sản xuất và tiêu thụ rất nhiều chủng loại chè, từ các loại chè truyền thống cho đến các loại chè được du nhập từ nước ngoài. Việt Nam cũng là 1 trong những nước là quê hương của cây chè (miền núi trung du Bắc Bộ) cùng với Trung Quốc, Ấn Độ... Ngoài việc là thị trường tiêu thụ chè lớn, Việt Nam còn là nước xuất khẩu chè đứng thứ 6 thế giới. Hiện nước ta có 150 đầu mối xuất khẩu chè và đã thâm nhập thị trường của khoảng 60 nước trong đó chủ yếu là Irac, Pakixtan, Apganixtan, Nga…ngay cả những nước xuất khẩu chè lớn như Trung Quốc, Ấn Độ cũng nhập khẩu chè của Việt Nam. Các mặt hang chè xuất khẩu có thể kể đến đó là: Chè đen: chiếm phần trăm lớn nhất trên thị trường buôn bán chè thế giới, theo quy trình công nghệ OTD: chè nguyên liệu tươi→ làm héo→ vò →lên men →sấy khô→ sàng phân loại. Nước chè đen có màu nâu đỏ tươi, vị dịu, hương thơm nhẹ. Sau khi sàng sẩy, phân loại (trong quá trình tinh chế) chia ra nhiều loại như: OP, P, BOP, BP, FBOP, PS, F, D chất lượng từ cao đến thấp theo kích thước của cánh chè. Chè xanh (xưa gọi là chè lục): Sản xuất nhiều ở Trung Quốc, Nhật Bản, Đài Loan, Việt Nam theo quy trình: chè nguyên liệu tươi → diệt men → làm nguội → vò →sấy khô→ sàng phân loại thành phẩm. Nước xanh vàng, tươi sáng, vị chát mạnh, có hậu, hương thơm nồng mùi cốm. Diệt men bằng sao chảo gang hoặc máy diệt men có nhiệt độ 230 đến 250oC (chè sao), hấp hơi nước nóng hay hơi nước nóng (chè hấp), hay nhúng nhanh vào nước sôi (chè chần). Sấy khô bằng hơi nóng, sao chảo (sao suốt), sấy than hoa , sấy lửa củi (chè lửa), hay phơi nắng kết hợp sấy than (chè nắng) chất lượng rất khác. Trong thời kỳ chiến tranh thống nhất đất nước, với sự giúp đỡ của Liên Xô, Trung Quốc chè đen và chè xanh tăng nhanh về sản lượng, chủ yếu để xuất khẩu, nhất là chè đen OTD. Thị trường trong nước có thêm các loại chè gói ướp hương (Thanh Tâm, Thanh hương, Liên Hoa, Hồng Đào, Ba Đình, Đồng Tâm…), chè ướp hoa, chè tiết kiệm (chè lá già, cẫng hương…), ngoài các chủng loại truyền thống của thời kỳ trước. Chè hương: dùng các hương liệu khô, như hoa ngâu khô, hoa cúc khô, hạt mùi, tiểu hồi, đại hồi, cam thảo, quế…pha trộn với các tỷ lệ khác nhau. Công nghệ: chuẩn bị hương liệu→ sao chè → cho hương liệu và sao → ướp hương trong thùng. Chè hoa tươi: được sản xuất nhiều ở Trung Quốc, Việt nam; hoa tươi gồm có: sen, nhài, ngọc lan,sói, ngâu, bưởi quế, ngọc lan…Mỗi nhà sản xuất có bí quyết công nghệ gia truyền riêng. Công nghệ chung như sau: chuẩn bị chè và hoa tươi→ ướp hương (trộn chè và hoa)→ thông hoa→ sàng hoa→ sấy khô→ để nguội→ để hoa → sàng hoa→ chè hoa tươi thành phẩm. Chè ô long: Trước đây được sản xuất chủ yếu ở Trung Quốc (Phúc Kiến Quảng Đông) và Đài Loan; còn gọi là thanh trà. Công nghệ: chè nguyên liệu → làm héo và lên men kết hợp→ sao và vò kết hợp sấy khô→ bán thành phẩm. Nước chè màu vàng kim óng ánh, vị đậm mạnh, hương thơm đặc biệt. Các danh trà Ô long như Thiết quan âm, Thuỷ tiên, Đại hồng bào, Kỳ chủng, Sắc chủng, Bao chủng…là chè Ô long dùng nguyên liệu của từng giống chè đã chọn lọc để chế biến. Chè đen mảnh: Búp chè tươi sau khi héo được đưa vào thiết bị vò và nghiền sau đó đưa ra máy cắt → lên men → sấy, gọi là chè đen CTC, sản xuất nhiều ở Xrilanca, Ấn Độ, Châu Phi. Chè hoà tan: sản xuất tại các nước công nghệ phát triển, công nghệ: chè nguyên liệu đã chế biến → chiết suất→ cô đặc → sấy phun sương; nguyên liệu chè xanh hoặc đen vụn già, thứ phẩm. Chè hoà tan có dạng bột tơi xốp, rất mịn, gồm những hạt nhỏ, màu vàng nhạt (chè xanh), nâu nhạt (chè đen). Hàm lượng tanin, catesin, axit amin, cafeine rất cao, gấp chè nguyên liệu. Màu nước, vị chè đạt yêu cầu, nhưng hương nhạt, vì bay hết trong quá trình chiết xuất, cô đặc và sấy. Chè túi (tea bag):Tỷ lệ chè mảnh, chè vụn có nhiều trong công nghệ chè CTC và OTD; để tiết kiệm và thu hồi chè tốt, đã có công nghệ làm túi giấy đặc biệt để đựng các loại chè đó. Túi chè có sợi dây buộc nhãn hiệu của hãng sản xuất, khi pha chỉ cần nhúng túi vào cốc hoặc chén nước sôi, túi bã chè vớt lên dễ dàng, không cần ấm pha trà mà lại sạch như trà Kim Anh… Chè dược thảo: gồm chè đen trộn với một dược liệu như cỏ ngọt, vừa có vị chè lại có giá trị chữa bệnh. Đứng thứ 6 thế giới về khối lượng xuất khẩu chè với sản phẩm khá đa dạng, tuy vậy cơ cấu xuất khẩu chè của Việt Nam lại khá mất cân đối với 60% là chè đen, chè xanh chiếm 20%, chè thành phẩm chiếm 7% còn lại là các loại chè khác. Biểu đồ 01: Cơ cấu sản phẩm chè xuất khẩu Đơn vị: % (Nguồn: báo cáo hiệp hội chè Việt Nam 2008) 1.2.2. Thị trường xuất khẩu chè Nghiên cứu thị trường chè là việc làm quan trọng đầu tiên mà bất cứ doanh nghiệp nào muốn tham gia vào thị trường chè quốc tế phải thực hiện. Nghiên cứu thị trường chè giúp các doanh nghiệp nắm bắt được các yếu tố của thị trường, nắm vững đặc điểm biến động của thị trường và giá cả chè trên thế giới là nền móng vững chắc đảm bảo cho các doanh nghiệp kinh doanh xuất khẩu chè hoạt động hiệu quả trên thị trường thế giới. Tại các doanh nghiệp, nghiên cứu thị trường thường được tiến hành theo hai phương pháp: Phương pháp nghiên cứu tại bàn: là phương pháp thu thập thông tin từ các nguồn tài liệu đã được xuất bản công khai như sách, báo, tạp chí, ấn phẩm… và xử lý các thông tin đó. Đây là phương pháp phổ thông nhất phù hợp với các doanh nghiệp xuất khẩu mới tham gia vào thị trường thế giới. Tuy nhiên nó cũng có hạn chế là thời gian thực hiện chậm và độ tin cậy không cao. Phương pháp nghiên cứu tại hiện trường: là việc thu thập thông tin chủ yếu thông qua tiếp xúc trực tiếp với đối tượng tại hiện trường. Đây là phương pháp đem lại thông tin chính xác, thường xuyên, giúp việc xử lý dễ dàng linh hoạt. Song phương pháp này khá tốn kém và đòi hỏi người làm phải có năng lực chuyên môn. Các doanh nghiệp khi nghiên cứu thị trường chè cần nắm bắt được thị trường và khách hàng để trả lời cho các câu hỏi như: Mặt hàng chè của doanh nghiệp sẽ được bán ở đâu? Doanh nghiệp lựa chọn mặt hàng chè gì để xuất khẩu? Doanh nghiệp bán mặt hàng chè đó cho ai? Việc lựa chọn được thị trường nước ngoài khó khăn hơn nhiều lần so với việc lựa chọn thị trường trong nước vì nó gặp phải những trở ngại lớn về văn hóa, ngôn ngữ, các rào cản thương mại…Để lựa chọn được thị trường chè có hiệu quả doanh nghiệp cần chú ý những vấn đề sau: Thị trường và dung lượng thị trường: các doanh nghiệp cần phải tìm hiểu nắm bắt được các thông tin về khối lượng chè được giao dịch trên một phạm vi thị trường nhất định trong một thời gian nhất định. Biến động giá cả mặt hàng chè trên thị trường: chè là mặt hàng có giá biến động rất mạnh, nắm bắt được sự biến động đó giúp doanh nghiệp đưa ra mức giá tối ưu và chủ động trong hoạt động xuất khẩu. Số lượng chủng loại chè rất đa dạng phong phú, tuy nhiên mỗi thị trường chỉ ưa chuộng một loại chè nhất định vì vậy doanh nghiệp cần phải cần phải lựa chọn mặt hàng chè phù hợp với nhu cầu của thị trường và khả năng cung ứng của doanh nghiệp. Mặt hàng chè được lựa chọn không những phải đạt tiêu chuẩn phù hợp với thị trường thế giới mà còn phải phù hợp với khả năng của doanh nghiệp, điều đó đòi hỏi doanh nghiệp phải có sự phân tích nhận xét đúng đắn, chính xác. Khi lựa chọn mặt hàng chè xuất khẩu doanh nghiệp cũng nên lưu ý những vấn đề như: Thị trường đang cần loại mặt hàng chè gì, chủng loại kích cỡ, mẫu mã ra sao… Tình hình tiêu thụ loại chè đó ra sao. Vấn đề này phụ thuộc vào tập quán, thị hiếu tiêu dùng, quy luật biến động cung cầu của mặt hàng chè đó. Mặt hàng chè đó đang ở giai đoạn nào của chu kỳ sống sản phẩm. Trong hoạt động xuất khẩu, để có thể thâm nhập vào thị trường nước ngoài một cách thuận lợi, hạn chế đến mức thấp nhất rủi ro, doanh nghiệp phải thông qua một hay nhiều công ty đang hoạt động trên thị trường đó, họ có kinh nghiệm thị trường mình cần hướng tới cũng như địa vị pháp lý để đảm bảo cho hai bên hoạt động một cách thuận lợi. Nhưng khi lựa chọn đối tác cần phải chú ý tới: - Quan điểm kinh doanh của đối tác - Lĩnh vực kinh doanh của đối tác - Khả năng về tài chính. - Uy tín và mối quan hệ của đối tác kinh doanh. - Những người đại diện cho Công ty kinh doanh và phạm vi trách nhiệm của họ đối với Công ty nếu người giao dịch trực tiếp là đại diện của Công ty. Khi lựa chọn đối tác giao dịch, phương án tối ưu là trực tiếp giao dịch, ký kết hợp đồng với bạn hàng kinh doanh hạn chế những hoạt động trung gian. Nên ưu tiên những bạn hàng đã có quan hệ làm ăn quen thuộc. Trong một số trường hợp có thể sử dụng các trung gian nếu xét thấy cần thiết và có hiệu quả đó là khi chúng ta thâm nhập vào thị trường mới. 1.2.3. Giá cả chè xuất khẩu và phương thức xuất khẩu 1.2.3.1. Giá cả chè xuất khẩu Giá chè là một nhân tố nhạy cảm đối với cung cầu thị trường thế giới và chịu ảnh hưởng lớn của điều kiện khí hậu. Chất lượng chè xuất khẩu vẫn còn thấp. Chè Việt Nam xuất khẩu thường có giá thấp hơn 25-30% so với giá thế giới. Một mặt, việc giảm dần khoảng cách chênh lệch giá giữa giá chè Việt Nam xuất khẩu và giá thế giới cho thấy ngành chè Việt Nam đang hội nhập với thế giới. Mặt khác, giá tính trên một đơn vị của chè Việt Nam so với các thị trường lớn khác vẫn rất thấp cho thấy bản chất của việc giao hàng gộp chung với các loại chè xuất khẩu giá trị thấp hiện nay của Việt nam. Có một nghịch lý là trong khi chè xuất khẩu hầu hết là xuất dưới dạng chè thô, sơ chế thì chè bán trên thị trường trong nước lại là chè thành phẩm với chất lượng cao hơn và có giá cao hơn giá chè xuất khẩu. Một số vùng trồng chè nổi tiếng về chất lượng ngon như chè Mộc Châu, Thái Nguyên và Kim Anh. Người tiêu dùng Việt Nam rất sành về chất lượng chè và giá của loại chè ngon nhất với chè loại thường nhất có khi hơn kém nhau tới 10 lần. Các hộ nhỏ thường bán chè ra thị trường với giá 2-5 USD/kg nhưng chè loại ngon của các công ty liên doanh có giá tới 15 USD/kg. Điều đáng lưu ý là những giá này đều cao hơn giá xuất khẩu. Mặc dù những loại chè ngon hiện khá sẵn, các nhà sản xuất trong nước vẫn còn chậm chạp trong việc theo sát các xu hướng tiêu dùng ở các khu vực thành thị. Các nhà sản xuất chè nước ngoài chiếm phần lớn doanh số bán tại các nhà hàng, quầy bar ở khu vực thành thị. Khối lượng tiêu thụ trong nước còn thấp so với lượng xuất khẩu cho thấy, các nhà sản xuất nội địa đang bỏ lỡ nhiều cơ hội và tiềm năng ở chính thị trường trong nước. 1.2.3.2. Phương thức xuất khẩu Các phương thức xuất khẩu ngày nay ngày càng trở nên phong phú đa dạng, đều cố gắng khai thác tối đa lợi ích do xuất khẩu mang lại. Tuy nhiên trong điều kiện nền kinh tế nước ta hiện nay các hình thức xuất khẩu của các doanh nghiệp kinh doanh xuất khẩu còn nghèo nàn, chưa tận dụng được các nguồn lực trong nước để xuất khẩu đạt hiệu quả cao. Theo nghị định 33/CP (19/4/1994) thì hoạt động xuất khẩu của nước ta bao gồm các phương thức chủ yếu sau đây: Xuất khẩu trực tiếp Là phương thức mà nhà xuất khẩu gặp trực tiếp hoặc quan hệ trực tiếp qua điện tín để thỏa thuận về hàng hóa, giá cả, các điều kiện giao hàng cũng như giao dịch thanh toán với nhà nhập khẩu. Những nội dung được thỏa thuận một cách tự nguyện, không ràng buộc với lần giao dịch trước, việc mua bán không nhất thiết phải gắn liền nhau. Công việc của các doanh nghiệp thương mại khi tham gia hình thức xuất khẩu trực tiếp này gồm 2 công đoạn: Thu mua tạo nguồn hàng với các đơn vị, địa phương trong nước Đàm phán ký kết hợp đồng xuất khẩu với các doanh nghiệp nước ngoài, giao hàng và thanh toán tiền hàng với đơn vị bạn Hình thức này có một số ưu điểm là: giảm được chi phí trung gian từ đó tăng lợi nhuận của doanh nghiệp, có điều kiện phát huy tính chủ động của doanh nghiệp, dễ dàng đi đến thống nhất tránh những hiểu lầm đáng tiếc với khách hàng. Tuy nhiên hình thức này cũng có một số nhược điểm như: đòi hỏi cán bộ xuất nhập khẩu phải có trình độ kinh nghiệm, khối lượng hàng hóa giao dịch phải lớn mới bù đắp được chi phí giao dịch. b) Xuất khẩu ủy thác Xuất Trong hoạt động xuất khẩu ủy thác tất cả mọi việc thiết lập quan hệ giữa người xuất khẩu và người nhập khẩu đến việc qui định các điều kiện mua bán đều thông qua một người thứ ba được gọi là người nhận ủy thác. Người nhận ủy thác tiến hành xuất khẩu với danh nghĩa của mình nhưng mọi chi phí đều do bên có hàng xuất khẩu, bên ủy thác thanh toán, và nhận khoản tiền thù lao gọi là phí ủy thác. Ưu điểm của phương thức này: giảm thiểu rủi ro, các doanh nghiệp không cần tốn chi phí nghiên cứu thị trường, đối với người nhận ủy thác thì không cần bỏ vốn vào kinh doanh, tạo công ăn việc làm cho nhân viên. Hạn chế của phương thức này: lợi nhuận bị chia sẻ, các doanh nghiệp xuất khẩu mất đi cơ hội tiếp xúc trực tiếp với khách hàng, có thể phải đáp ứng các yêu sách của người trung gian. c) Buôn bán đối lưu Đây là phương thức xuất khẩu trong đó xuất khẩu kết hợp chặt chẽ với nhập khẩu, người bán hàng đồng thời là người mua, mục đích là thu về hàng hóa có giá trị tương đương hàng xuất khẩu. Các loại hình buôn bán đối lưu, buôn bán đối lưu đã ra đời từ rất lâu trong đó sớm nhất là hình thức hàng đổi hàng và trao đổi bù trừ. Nghiệp vụ hàng đổi hàng là hai bên trao đổi trực tiếp với nhau hàng hóa có giá trị tương đương, việc giao hàng diễn ra hầu như đồng thời. Nghiệp vụ bù trừ là hai bên trao đổi hàng hóa với nhau trên cơ sở giá trị hàng giao, đến cuối kỳ hạn hai bên mới đối chiếu sổ sách, đối chiếu giá trị giao và giá trị nhận. Ngoài ra còn có các nghiệp vụ khác như: nghiệp vụ mua đối lưu, nghiệp vụ chuyển giao nghĩa vụ, giao dịch bồi hoàn. Gia công quốc tế Là phương thức kinh doanh trong đó người đặt mua gia công ở nước ngoài cung cấp máy móc thiết bị theo mẫu hàng và định mức trước. Người nhận gia công làm theo yêu cầu của người đặt gia công và sẽ giao lại toàn bộ sản phẩm cho người đặt gia công để nhận tiền thù lao gọi là phí gia công. Đây là phương thức xuất khẩu khá phổ biến trên thế giới và đang phát triển mạnh mẽ do lợi ích mà nó mang lại cho các bên. Đối với bên đặt gia công, phương thức này giúp họ tận dụng được nguồn nguyên liệu và nhân công giá rẻ ở nước nhận gia công. Đối với bên nhận gia công, phương thức này giúp họ tạo công ăn việc làm cho người dân lao động trong nước, có điều kiện tiếp thu công nghệ thiết bị mới, cách quản lý của các nước tiên tiến. Tạm nhập tái xuất Đây là hình thức xuất khẩu trở lại nước ngoài những hàng hóa đã nhập khẩu, chưa qua chế biến ở nước tái xuất thông qua hợp đồng tái xuất bao gồm nhập khẩu và xuất khẩu với mục đích thu về số ngoại tệ lớn hơn số đã bỏ ra ban đầu. Ưu điểm của phương thức xuất khẩu này là doanh nghiệp có thể thu được lợi nhuận cao mà không phải tổ chức sản xuất, đầu tư vào nhà xưởng máy móc thiết bị, khả năng thu hồi vốn cũng nhanh hơn. Tuy nhiên kinh doanh tái xuất chứa đựng nhiều rủi ro, đòi hỏi phải nhạy bén về giá cả, thị trường do vậy doanh nghiệp kinh doanh tái xuất cần phải có đội ngũ cán bộ xuất nhập khẩu có trình độ và kinh nghiệm. 1.2.4. Các hoạt động nghiệp vụ xuất khẩu chè 1.2.4.1. Đàm phán và ký kết hợp đồng xuất khẩu Đàm phán là quá trình trao đổi ý kiến của các chủ thể trong một xung đột nhằm đi tới thống nhất các nhận định, thống nhất quan niệm, cách xử lý những vấn đề nảy sinh trong quan hệ giữa các bên. Căn cứ để thực hiện đàm phán là dựa vào nhu cầu thị trường, vào đối thủ cạnh tranh, khả năng, điều kiện và mục tiêu của doanh nghiệp cũng như mối quan hệ giữa doanh nghiệp và đối tác. Nếu đàm phán diễn ra tốt đẹp thì kết quả của nó là hợp đồng sẽ được kí kết. Một cam kết trong hợp đồng sẽ là những pháp lý quan trọng, vững chắc và đáng tin cậy để các bên thực hiện đúng lời cam kết của mình. Có nhiều hình thức đàm phán khác nhau: Đàm phán qua thư tín: đây là hình thức chủ yếu để giao dịch kinh doanh giữa các nhà xuất khẩu. So với gặp gỡ trực tiếp thì giao dịch qua thư tín tiết kiệm được nhiều chi phí, trong cùng lúc có thể giao dịch với nhiều khách hàng ở các quốc gia khác nhau. Tuy nhiên giao dịch qua thư tín mất rất nhiều thời gian, có thể bỏ lỡ cơ hội kinh doanh. Nhược điểm này có thể khắc phục bằng điện tín. Đàm phán qua điện thoại: việc trao đổi qua điện thoại nhanh chóng giúp người giao dịch tiến hành đàm phán một cách khẩn trương đúng vào thời cơ cần thiết. Nhưng phí tổn điện thoại giữa các nước rất cao, các bên không thể trình bày chi tiết và không có gì làm bằng chứng cho các thỏa thuận quyết định. Đàm phán bằng gặp gỡ trực tiếp: gặp gỡ trực tiếp giữa hai bên để trao đổi mọi điều kiện giao dịch, mọi vấn đề liên quan đến ký kết hợp đồng là hình thức đàm phán đặc biệt quan trọng. Hình thức này đẩy nhanh tốc độ đàm phán giữa hai bên và nhiều khi là lối thoát cho những đàm phán bằng thư tín kéo dài quá lâu mà không có hiệu quả. Đàm phán bằng hình thức gặp gỡ trực tiếp tuy có hiệu quả hơn thư tín nhưng đây cũng là hình thức khó khăn nhất, đòi hỏi người tiến hành phải giỏi nghiệp vụ, tự tin, phản ứng nhanh lẹ. Sau khi kết thúc đàm phán, nếu cuộc đàm phán đạt được kết quả các bên sẽ tiến hành ký kết hợp đồng kinh tế - hợp đồng mua bán quốc tế. Nội dung của hợp đồng thể hiện đầy đủ quyền và nghĩa vụ của các bên. Khi thiết lập hợp đồng mua bán quốc tế cần chú ý những điều kiện sau để hợp đồng có hiệu lực: Hình thức của hợp đồng phải là văn bản Bên mua và bên bán là các chủ thể của hợp đồng phải có đủ tư cách pháp lý Hàng hóa theo hợp đồng là hàng hóa được phép mua bán theo quy định của pháp luật Nội dung của hợp đồng phải có đầy đủ các nội dung chủ yếu mà pháp luật đã quy định Các nội dung chủ yếu của hợp đồng mà pháp luật quy định là: Tên hàng Số lượng Quy cách, chất lượng Giá cả Phương thức thanh toán Địa điểm và thời hạn giao hàng. 1.2.4.2.Tổ chức thực hiện hợp đồng xuất khẩu Đơn vị xuất khẩu với tư cách là một bên ký kết phải thực hiện hợp đồng sau khi hợp đồng mua bán ngoại thương được ký kết. Đây là một công việc hết sức phức tạp nó đòi hỏi phải tuân thủ luật pháp quốc gia, quốc tế, những tập quán thương mại quốc tế, đồng thời phải đảm bảo quyền lợi của quốc gia và uy tín của đơn vị. Về mặt kinh doanh trong quá trình thực hiện các khâu của việc thực hiện hợp đồng, đơn vị phải cố gắng tiết kiệm chi phí lưu thông, nâng cao tính doanh lợi và hiệu quả của toàn bộ giao dịch. Để thực hiện hợp đồng xuất khẩu các đơn vị cần thực hiện các bước sau: Sơ đồ 01: Trình tự thực hiện hợp đồng xuất khẩu Ký hợp đồng xuất khẩu Xin giấy phép xk Chuẩn bị hàng hóa Kiểm tra L/C Thuê tàu Mua bảo hiểm Làm thủ tục hải quan XK Kiểm nghiệm hàng hóa Giao hàng Làm thủ tục thanh toán Xử lý tranh chấp 1.3. Các nhân tố ảnh hưởng tới xuất khẩu chè 1.3.1. Nguồn hàng Nguồn hàng chè xuất khẩu của Việt Nam được đánh giá là rất phong phú. Do điều kiện đất đai và khí hậu thích hợp cho nên cây chè được trồng trọt rải rác ở hầu hết các tỉnh trung du và miền núi, tập trung ở một số vùng chính như sau: Vùng chè miền núi: Gồm các tỉnh Hà Tuyên, Hoàng Liên Sơn, Sơn La, giống chè được trồng chủ yếu ở vùng này là chè Shan (còn gọi là chè tuyết) có năng suất cao, phẩm chất tốt. Sản lượng chè của vùng này chiếm 25 - 30% tổng sản lượng chè của miền Bắc. Trong tương lai sẽ nâng tỷ trọng sản lượng lên 50 - 60%. Sản phẩm chủ yếu của vùng chè miền núi là chè lục, chè mạn. Vùng chè trung du: gồm các tỉnh Vĩnh Phú, Hà Bắc, Hà Sơn Bình, Bắc Thái và một phần của Hoàng Liên Sơn (Yên Bái cũ). Là vùng sản xuất chè chủ yếu, chiếm 70% sản lượng chè của miền Bắc. Giống chè chính được trồng trọt là giống Trung du (Trung Quốc lá to) có năng suất cao và phẩm chất tốt. Vùng chè tươi: gồm các tỉnh đồng bằng Bắc bộ và khu 4 cũ, vùng này nhân dân có tập quán sử dụng lá bánh tẻ để uống tươi (không qua quá trình chế biến). Năm 1972 diện tích vùng chè tươi là 8.098 ha, chè được trồng chủ yếu ở các tỉnh Nghệ Tĩnh (4.550 ha), Thanh Hóa (1.427 ha). Những năm gần đây một số vườn chè tươi đã được chăm sóc, đốn hái để chuyển sang chè hái búp. Ở miền Nam chè được trồng chủ yếu ở hai tỉnh Lâm Đồng và Gia Lai - Công Tum. Vùng nam Tây Nguyên (Lâm Đồng) là vùng cao nguyên nhiệt đới, độ cao 800 - 1.500 m, thích hợp với giống chè Shan. Vùng bắc Tây Nguyên thấp hơn (500 - 700m), khí hậu thích hợp với các giống chè Atxam và Trung du. Diện tích trồng chè của các tỉnh phía nam hiện có khoảng 8.200 ha (diện tích trồng chè đạt được cao nhất năm 1965: 9.685 ha với tổng sản lượng là 5.905t chè khô). Tuy nhiên do chè chủ yếu ở vùng miền núi trung du, nơi có điều kiện hạn chế về cơ sở hạ tầng cũng như khó tiếp cận kỹ thuật công nghệ nên nguồn hàng đôi lúc vẫn không ổn định canh tác phụ thuộc nhiều vào điều kiện tự nhiên. Hiện nay, ở hầu hết các đồi chè trồng giống chè cũ như chè Trung Du ở các vùng Trung Du hoặc giống chè Shan ở các vùng núi với năng suất thu hoạch dao động từ 5-6 tấn/ha. Mức năng suất này thấp hơn nhiều so với ở các nước sản xuất chè lớn trên thị thế giới như Sri Lanka, Kenya và Ấn Độ. Ở những nước này, năng suất thu hoạch chè thường cao hơn 30-60% so với Việt Nam. Hiện nay, hầu hết các vườn chè của Việt Nam (khoảng 60-70%) đã hơn 30 tuổi và qua tuổi cho năng suất cao nhất. Điều này cho thấy, nếu trồng mới thay thế và trồng những giống có năng suất cao hơn sẽ đem lại lợi ích đáng kể. Việc áp dụng và trồng những giống mới, cho năng suất cao hơn đang được mở rộng. Kết quả điều tra thực địa cho thấy, tỷ lệ trồng giống mới tăng từ 12% năm 2000 lên 20% hiện nay. Nghiên cứu các vùng sản xuất cũng nhận thấy rằng các giống mới hiện được trồng trên 50% diện tích chè ở Phú Thọ và 25% ở Thái Nguyên. Số liệu báo cáo chính thức ở các vùng này còn cao hơn các con số trên. Tuy nhiên, chi phí trồng cây con mới rất cao cũng cản trở việc áp dụng giống mới. Trong khi chi phí về giống trồng cho 1 ha là 250.000 đồng (16 USD) nếu trồng các giống cũ, chi phí này với trồng cây con mới vào khoảng 6 triệu đồng (382 USD) như với các giống mới như LDP1, LPD2 hay 1A và khoảng 16 triệu đồng (1.019 USD) với những giống có chất lượng cao như Kim Tuyến, Ngọc Thúy. 1.3.2. Chất lượng chè xuất khẩu Xét về chất lượng và uy tín trên thị trường quốc tế thì chè Việt nam vẫn thuộc loại không có tên tuổi. Chè Việt Nam thường được các nước nhập khẩu trộn với cốt của các loại chè khác hoặc để chiết suất rồi đóng gói thành phẩm bán ra với một thương hiệu khác. Đây cũng chính là lý do tại sao giá chè xuất khẩu của Việt Nam rất thấp so với giá trung bình của thế giới. Chè Việt Nam thường yếu do khâu bảo quản, lẫn loại, không đen, kém xoăn, nước không sánh, chè thường nhiều vụn và lẫn tạp chất v.v. Mặc dù vậy, khối lượng chè xuất khẩu của Việt Nam vẫn tăng đều hàng năm. Đây là tín hiệu hết sức khả quan và cũng phần nào thể hiện nỗ lực của ngành chè trong việc nâng cao chất lượng sản phẩm và mở rộng thị trường trong thời gian qua. Việt Nam đã được thế giới biết đến như là một quốc gia sản xuất và xuất khẩu chè lớn, đứng thứ sáu trên thế giới cả về diện tích, sản lượng sản phẩm và xuất khẩu. Song chè Việt Nam hiện được bán phần lớn là dưới dạng nguyên liệu thô, chưa có nhãn mác và bao bì hoàn chỉnh, không được kiểm soát chặt chẽ về chất lượng cũng như các tiêu chuẩn kỹ thuật. Theo báo cáo chuyên đề của Cục Nông nghiệp, chè nguyên liệu hiện nay xuống cấp nghiêm trọng so với tiêu chuẩn Nhà nước (TCVN 2843-79) quy định. Do cạnh tranh nguyên liệu, các DN quy loại chất lượng theo giá mua, dẫn đến chè nguyên liệu bị trộn lẫn loại, loại 1 lẫn loại 2, trong đó chè bánh tẻ khoảng từ 0-20%. Hơn nữa, dư lượng thuốc bảo vệ thực vật trong chè nguyên liệu đa số còn cao hơn ngưỡng cho phép. Hiện sản phẩm chè chế biến gồm có 7 cấp chất lượng đối với chè xanh: OP, P, FPOP, PS, BPS, F và D nhưng chủ yếu phục vụ thị trường nội địa, một phần được xuất khẩu sang thị trường Nhật Bản, Đài Loan như chè Ôlong, chè xanh Nhật Bản... Xuất khẩu vẫn chủ yếu là chè đen có 6 cấp chất lượng: OP, P, B, BPS, F và D, tuy nhiên chất lượng chè đen hiện nay chưa đáp ứng được yêu cầu của khách hàng. Chè chất lượng tốt (P, OP, FBOP) chiếm tỷ trọng thấp, dưới 50% lượng chè xuất khẩu. Chất lượng chè hiện nay chưa thật ổn định; các chỉ tiêu về tạp chất cao hơn so với quy định; hương vị, màu sắc chưa thật sự hấp dẫn khách hàng. Nguyên nhân chính là giống chè chưa tốt, giống chè trung du, giống PH1 chỉ cho chất lượng trung bình chiếm tới trên 60%, các giống chè Shan, chè nhập nội, LDP1, LDP2... chất lượng tốt nhưng sản lượng còn ít... Một số nơi chè nguyên liệu thu hái già, vận chuyển dập, ôi, ngót. Ngoài một số thiết bị chế biến mới được nâng cấp ở một số nhà máy, còn lại đều cũ, lạc hậu, đã ảnh hưởng rất lớn đến chất lượng sản phẩm. Hơn nữa, có một số DN kinh doanh chè bằng cách tăng cường tính năng động về giá cả để thu hút khách hàng từ các đối thủ cạnh tranh khác bằng việc hạ giá bán sản phẩm, ít chú ý đến chất lượng. Ban đầu, các công ty này đã tạo ra cho mình được một thị phần nhất định. Tuy nhiên, trong quá trình thực hiện hợp đồng với khách hàng do không chủ động được nguồn hàng, một số công ty đã từ chối thực hiện các cam kết của mình đối với khách hàng bằng cách giao hàng kém chất lượng hơn so với mẫu hàng hai bên đã thoả thuận hoặc không giao hàng đúng thời hạn, vì vậy đã mất khách hàng và thị phần, ảnh hưởng đến uy tín của chè Việt Nam. Sản xuất chè hiện còn gặp nhiều trở ngại do kỹ thuật canh tác lạc hậu của người dân. Tỷ lệ sử dụng phân bón còn thấp, chỉ gần 30% diện tích trồng chè của Việt Nam được bón phân. Trong khi đó lượng thuốc trừ sâu sử dụng lại không cân đối, nhiều hộ (chủ yếu là những hộ làm việc với các doanh nghiệp nhà nước [DNNN]) sử dụng quá nhiều thuốc trừ sâu so với định mức quốc tế. Việc sử dụng quá nhiều thuốc trừ sâu không chỉ làm giảm khả năng thâm nhập các thị trường lớn khó tính như Liên minh châu Âu (nơi có các quy định rất khắt khe về lượng tồn dư hoá chất trong chè) mà còn gây tác động xấu tới những người sản xuất đang nỗ lực theo hướng sản xuất chè hữu cơ ở các vùng sản xuất lớn vì sâu bệnh sẽ lan sang vùng trồng cây không được phun thuốc. Mặc dù nước tưới không phải là vấn đề lớn đối với ngành chè vì chè chủ yếu tăng trưởng nhờ mưa, tình trạng thiếu giếng đào ở một số vùng đã cản trở việc sản xuất chè suốt cả năm và khiến người sản xuất không tận dụng được các thời điểm giá lên cao vào mùa khô.  Vừa qua, Hiệp hội Chè Việt Nam đã làm lễ công bố thương hiệu chè Việt Nam “Cheviet”. Đây được coi như một bước ngoặt quan trọng của ngành chè Việt Nam. Bởi từ nay trên thị trường thế giới, sản phẩm chè của Việt Nam sẽ được khách hàng biết đến bởi chính thương hiệu của quốc gia mình, có nghĩa là danh đã chính. Tuy nhiên, việc xây dựng thương hiệu cho sản phẩm không phải chỉ đơn thuần là công bố mà nó phải được xây dựng một cách công phu, nghiêm túc. Với tình hình thực tế thì để tạo dựng được hình ảnh tốt, khẳng định được vị thế của Cheviet, ngành chè còn nhiều việc phải làm 1.3.3. Quy định pháp lý Hoạt động xuất khẩu mang lại lợi ích to lớn cho quốc gia vì vậy không chỉ Việt Nam mà các quốc gia trên thế giới đều có chính sách khuyến khích xuất khẩu. Trong điều 16 luật thương mại về chính sách ngoại thương Việt Nam đã nêu rõ: Nhà nước khuyến khích các thành phần kinh tế sản xuất hàng xuất khẩu và tham gia xuất khẩu hàng hóa theo quy định của pháp luật; có chính sách ưu đãi để đẩy mạnh xuất khẩu tạo các mặt hàng xuất khẩu có sức cạnh tranh; hạn chế nhập khẩu những mặt hàng trong nước đã sản xuất được và có khả năng đáp ứng nhu cầu. Ngày nay hoạt động xuất khẩu chè nói riêng và hoạt động xuất khẩu nói chung chịu sự ràng buộc của rất nhiều quy định pháp lý do sự hội nhập sâu rộng của Việt Nam vào thị trường thế giới. Nước ta đã tham gia vào các tổ chức, thực hiện ký kết các hiệp định quốc tế như: hiệp định về mậu dịch tự do ASEAN – AFTA, hiệp định khung về hợp tác kinh tế toàn cầu giữa Trung Quốc và ASEAN…Những hiệp định đó mở ra một thị trường mới, hướng đi mới cho hoạt động xuất khẩu chè và cũng là thách thức đối với các doanh nghiệp xuất khẩu chè. Với việc gia nhập vào tổ chức thương mại thế giới WTO, Việt Nam phải cam kết các hiệp định về áp dụng các biện pháp kiểm dịch động thực vật (SPS), hiệp định sở hữu trí tuệ, hiệp định về các biện pháp kỹ thuật trong thương mại (TBT)…Gia nhập WTO bên cạnh những thuận lợi thì sản phẩm chè Việt Nam cũng gặp phải sự cạnh tranh khốc liệt, đòi hỏi cao hơn về chất lượng, quy cách, mẫu mã, thương hiệu sản phẩm… CHƯƠNG 2 THỰC TRẠNG XUẤT KHẨU CHÈ CỦA CÔNG TY TNHH SẢN XUẤT & XUẤT NHẬP KHẨU THIÊN HOÀNG 2.1. Tổng quan về công ty TNHH sản xuất & xuất nhập khẩu Thiên Hoàng 2.1.1. Lịch sử hình thành và phát triển của công ty Công ty TNHH Sản Xuất – Xuất Nhập Khẩu Thiên Hoàng được thành lập ngày 27/02/2004 theo giấy phép đăng ký kinh doanh số 0102011460 do sở kế hoạch và đầu tư thành phố Hà Nội cấp. Tên giao dịch: THIENHOANG MANUFACTURE IMPORT - EXPORT LIMITED COMPANY Tên viết tắt: THIENHOANG CO.LTD Địa chỉ trụ sở chính: Số 7, ngách 40, ngõ 79, đường Cầu Giấy, tổ 2, Phường Yên Hòa, Quận Cầu Giấy, Thành phố Hà Nội Điện thoại: 043.7845519 Fax: 043.7847936 Email: mocchautea@netnam.vn Ngành nghề kinh doanh: Sản xuất, buôn bán, chế biến chè; Sản xuất, buôn bán các ngành nông, lâm, thổ sản; Buôn bán máy móc, thiết bị phục vụ chế biến lương thực, thực phẩm; Vận tải hàng hóa; Đại lý mua bán ký gửi hàng hóa; Vận chuyển hành khách; Dịch vụ cho thuê xe ô tô./. Thành viên sáng lập công ty gồm có: Ông Hoàng Trọng Huy Ông Hoàng Hải Sơn Các thành viên sáng lập đều đã tốt nghiệp các trường đại học thuộc khối kinh tế và hiện đang nắm giữ các chức vị chủ chốt trong công ty. Sự phát triển qua các giai đoạn - Năm 2005 công ty nâng vốn điều lệ lên thành 1.750.000.000 ® - Năm 2006 công ty nâng vốn điều lệ lên thành 2.450.000.000 ® - Năm 2007 công ty đầu tư xây dựng trụ sở chính, đến tháng 7 năm 2008 đã khánh thành. - Năm 2009 công ty nâng vốn điều lệ lên thành 4.650.000.000 ® 2.1.2. Chức năng và nhiệm vụ của công ty a) Chức năng Công ty TNHH sản xuất và xuất nhập khẩu Thiên Hoàng là một công ty tư nhân có đầy đủ tư cách pháp nhân, có tài sản và con dấu riêng, thực hiện chế độ hạch toán kinh doanh độc lập, thực hiện kinh doanh theo luật pháp Việt Nam. Trên cơ sở đó công ty Thiên Hoàng có những chức năng sau: Trực tiếp xuất khẩu và nhận ủy thác xuất khẩu các mặt hàng nông, lâm thổ sản do công ty thu mua, gia công chế biến hoặc do liên doanh, liên kết tạo ra Tổ chức thu mua từ các chân hàng, từ các công ty để xuất khẩu Nhận xuất khẩu và nhập khẩu ủy thác cho các doanh nghiệp trong nước và quốc tế. Thực hiện các hoạt động kinh doanh an toàn có lãi, đảm bảo và nâng cao đời sống cho cán bộ công nhân viên của công ty. b) Nhiệm vụ Nghiên cứu nhu cầu chè thế giới và nguồn cung chè trong nước để lập kế hoạch xuất khẩu, trên cơ sở đó tổ chức hoạt động kinh doanh XNK theo quy định của nhà nước từ khâu thu mua chế biến và xuất khẩu. Giao dịch ký kết hợp đồng với các doanh nghiệp trong nước, tổ chức ký kết hợp đồng với doanh nghiệp nước ngoài. Tổ chức thực hiện các hợp đồng đã ký theo đúng quy định của Nhà nước, phù hợp với thủ tục, tập quán thương mại quốc tế. Không ngừng nâng cao hiệu quả kinh doanh của công ty, quản lý và sử dụng có hiệu quả vật tư, tài sản, tiền vốn và tăng cường cơ sở vật tư kỹ thuật của công ty. Quản lý tốt nguồn nhân lực, thực hiện đúng các chính sách đối với người lao động, không ngừng nâng cao năng lực và phẩm chất đạo đức cho người lao động. 2.1.3. Cơ cấu tổ chức bộ máy của công ty Bộ máy tổ chức của công ty Cơ cấu, quy mô tổ chức của công ty TNHH Thiên Hoàng do giám đốc của công ty quyết định để phù hợp với sự phát triển của công ty, đảm bao gọn nhẹ kinh doanh đạt hiệu quả. Sơ đồ 02: Sơ đồ bộ máy tổ chức quản lý của công ty BỘ PHẬN CHẾ BIẾN SẢN XUẤT BỘ PHẬN KHO HÀNG GIÁM ĐỐC PHÒNG TỔ CHỨC HÀNH CHÍNH TỔ BẢO VỆ TỔ NẤU ĂN PHÒNG KẾ TOÁN TÀI CHÍNH PHÒNG KINH DOANH TỔ PHÂN CẤP SẢN PHẨM (Nguồn: phòng kinh doanh) Chức năng của các phòng ban Ban giám đốc: Giám đốc là người điều hành quyết định các việc liên quan đến hoạt động hàng ngày của công ty, chịu trách nhiệm về toàn bộ hoạt động sản xuất kinh doanh của công ty trước pháp luật và bộ chủ quản. Phòng tổ chức hành chính: có chức năng tham mưu giúp giám đốc chỉ đạo và tổ chức thực hiện các công tác: tổ chức bộ máy cán bộ; tuyển dụng, đào tạo, phát triển nguồn nhân lực; lao động tiền lương, khen thưởng thi đua kỷ luật; kiểm tra an toàn bảo hộ lao động; thực hiện chính sách chế độ với người lao động; quản trị hành chính văn phòng công ty… Phòng kế toán tài chính: có chức năng tham mưu giúp giám đốc chỉ đạo và phân tích, hoạch định và kiểm soát tài chính kế toán trên phạm vi toàn công ty; chấp hành thực hiện đầy đủ theo đúng các chế độ và quy định của nhà nước trong quản lý vốn và tài sản tại doanh nghiệp; tổ chức quản lý và sử dụng có hiệu quả các nguồn vốn và tài sản của công ty trong sản xuất; kế toán toàn bộ quá trình hoạt động sản xuất kinh doanh của công ty bằng việc thu nhận, sử lý kịp thời chính xác các nghiệp vụ kinh tế có liên quan đến hoạt động sản xuất kinh doanh; tổ chức công tác kế toán theo chuẩn mực kế toán Việt Nam do Bộ tài chính ban hành; lập báo cáo quyết toán tài chính quý, năm theo quy định của Nhà nước và của công ty; tổ chức công tác kiểm kê tài sản, nguồn vốn theo định kỳ; tổ chức và quản lý nguồn đầu tư, chi phí đầu tư của công ty; kết hợp với các phòng ban khác để thu hồi tiền bán hàng, thu hồi công nợ và lập kế hoạch thanh toán nợ phải trả. Phòng kinh doanh: có chức năng tham mưu cho giám đốc thực hiện các công tác: xây dựng quy hoạch, kế hoạch dài hạn trung hạn, hàng năm về đầu tư cơ sở vật chất kỹ thuật; quản lý đầu tư xây dựng cơ bản; quản lý khai thác hệ thống cơ sở vật chất kỹ thuật; quản lý kỹ thuật an toàn. Phòng kinh doanh là đầu mối đàm phán ký kết các hợp đồng kinh tế, marketing tìm kiếm nguồn hàng, quản lý kho hàng đội xe. Bộ phận kho hàng: chịu trách nhiệm lưu giữ, bảo quản hàng hóa, cung cấp hàng hóa đúng phẩm chất, số lượng theo kế hoạch kinh doanh. Tổ phân cấp sản phẩm: có chức năng phân loại sản phẩm, đảm bảo giao cho khách hàng những sản phẩm đạt yêu cầu chất lượng. Bộ phận chế biến sản xuất: có chức năng quản lý sắp xếp nhân lực vật tư, tổ chức sản xuất, sơ chế, đóng gói chè theo mẫu mã đã được thông qua; đảm bảo trả hàng đúng yêu cầu về số lượng chất lượng và thời gian. 2.1.4. Tình hình tài chính của công ty Khi mới được thành lập công ty TNHH Thiên Hoàng có số vốn điều lệ là 1.500.000.000 VNĐ trong đó 80% là tài sản lưu động chủ yếu dưới dạng tiền mặt hoặc hàng hóa. Sau 5 năm hoạt động, số vốn chủ sở hữu của công ty đã tăng lên 7.709.525.042 VNĐ. Bảng 02: Qui mô vốn của công ty Đơn vị: VNĐ Năm Tổng nguồn vốn Vốn lưu động Vốn cố định Giá trị Tỷ lệ % Giá trị Tỷ lệ % 2005 4.979.209.454 4.389.589.747 88 589.619.707 12 2006 6.247.439.820 5.913.104.882 95 334.334.938 5 2007 6.883.504.502 4.871.028.215 71 2.012.476.287 29 2008 7.709.525.042 6.938.572.538 90 770.952.504 10 2009 8.865.953.798 8.156.677.494 92 709.276.304 8 (Nguồn: Phòng kinh doanh) Công ty cũng chú trọng đến việc điều chỉnh cơ cấu vốn hợp lý. Do đặc điểm của lĩnh vực kinh doanh của một doanh nghiệp thương mại và lại là công ty xuất nhập khẩu, nên lượng vốn lưu động phải chiếm tỷ trọng lơn trong cơ cấu vốn của doanh nghiệp. Công ty có được cơ cấu vốn khá hợp lý với việc tỷ trọng vốn lưu động tăng đều qua các năm. Riêng năm 2008 tỷ trọng vốn lưu động có giảm xuống, lý do là trong năm 2008 công ty có đầu tư lớn vào tài sản cố định, tuy nhiên vốn lưu động vẫn chiếm tỷ trọng lớn trong tổng nguồn vốn của công ty. Biểu đồ 02: Cơ cấu vốn của công ty Đơn vị: VNĐ (Nguồn: Phòng kinh doanh) Qua hơn năm năm kinh doanh trong lĩnh vực xuất khẩu chè, tuy đây là mặt hàng có lợi nhuận thấp và rủi ro cao, nhưng công ty vẫn bảo toàn và phát triển được vốn kinh doanh. Khả năng tự đảm bảo vốn và khả năng độc lập về tài chính của công ty được cải thiện rõ rệt qua các năm. 2.2. Thực trạng xuất khẩu của công ty 2.2.1. Quá trình tổ chức thu mua Công tác mua hàng do phòng kinh doanh đảm nhiệm, căn cứ vào đặc điểm thị trường, yêu cầu về hàng hóa và đặc điểm, sự đa dạng về chủng loại chất lượng, công ty cử cán bộ chuyên trách xuống tận địa phương hoạt động để khai thác nguồn hàng. Việc mua hàng được tiến hành theo trình tự: Nghiên cứu nguồn hàng xuất khẩu: dựa trên các đơn đặt hàng và các hợp đồng đã ký, công ty công ty nghiên cứu các nguồn hàng, xác định khả năng cung cấp hàng hóa cho xuất khẩu. Người của công ty đến ký kết hợp đồng với các đầu mối ở địa phương, thường là các thương nhân chuyên về thu gom, các nhà máy giám đốc nông trường, nhà máy chế biến. Những cơ sở này sẽ chịu trách nhiệm toàn bộ trước công ty về chất lượng, mẫu mã, kiểu dáng, chủng loại sản phẩm theo yêu cầu của công ty, thời gian giao hàng và địa điểm giao hàng. Người đại diện của công ty đến địa điểm giao hàng để kiểm tra hàng hóa xem đã thỏa mãn yêu cầu hay chưa. Nếu đạt yêu cầu thì nhận hàng và giao tiền cho bên bán. Nếu hàng hóa chưa đạt yêu cầu thì buộc bên bán phải tái chế lại và chi phí đó do bên bán chịu. Các hình thức tạo nguồn và mua hàng chủ yếu của công ty là: Phương thức mua đứt bán đoạn: Đây là phương thức mua hàng chủ yếu, chiếm gần 80% giá trị hàng hóa mua vào. Phương thức mua hàng này không qua trung gian nên công ty có thể linh hoạt chủ động được giá mua vào, giá bán ra, chi phí lưu thông được tính toán chặt chẽ chính xác. Phương thức mua ủy thác: Phương thức này công ty dùng danh nghĩa của mình để tiến hành giao dịch với khách hàng những mặt hàng ủy thác xuất khẩu. Công ty lúc này đóng vai trò như một người trung gian hưởng khoản hoa hồng do thỏa thuận giữa 2 bên thường là 1,5-2% giá trị hàng hóa. Một số phương thức mua hàng khác của công ty nhưng chỉ chiếm tỷ trọng nhỏ trong giá trị hàng mua như: Thu mua thông qua đại lý Thu mua thông qua hàng đổi hàng Thu mua thông qua liên doanh, liên kết với đơn vị sản xuất. 2.2.2. Sản lượng và kim ngạch xuất khẩu chè Nguồn chè của công ty chủ yếu tập trung ở các tỉnh: Yên Bái, Sơn La, Tuyên Quang, Phú Thọ, Hà Giang…trọng điểm ở các huyện như Yên Bình (Yên Bái), Mộc Châu (Sơn La), Sơn Dương (Tuyên Quang), Yên Lập (Phú Thọ). Các địa phương này đều có điều kiện thuận lợi về khí hậu, thổ nhưỡng và cơ sở vật chất cho việc trồng chè; hơn nữa chè ở các vùng này có chất lượng tương đối cao, giảm bớt công việc sàng lọc, tạo điều kiện cho việc xuất khẩu chè. Diện tích trồng chè của nước ta những năm vừa qua liên tục tăng tính đến năm 2008 cả nước đã có hơn 170.000 ha chè, số diện tích đó được phân bổ chủ yếu ở 16 tỉnh và 3 thành phố. Diện tích chè mở rộng, năng suất chè tăng cao cũng tạo điều kiện thuận lợi cho việc cung cấp nguồn hàng đầu vào của công ty. Bảng 03: Kết quả canh tác chè ở một số tỉnh trong nước năm 2009 TT Tỉnh Diện tích ( ha) Sản lượng ( tấn/ha) 1 Hà Giang 16992 26000 2 Tuyên Quang 14938 19000 3 Phú Thọ 19710 41000 4 Sơn La 10000 18 000 5 Lào Cai 6785 11300 6 Yên Bái 8600 16700 7 Thái Nguyên 4300 10200 8 Hà Bắc 2720 8560 9 Lâm Đồng 3200 9200 10 Quảng Nam 2600 5320 (Nguồn: Tổng cục thống kê Việt Nam) Trong những năm gần đây mặc dù gặp nhiều khó khăn, thị trường có nhiều biến động phức tạp có chiều hướng đi xuống, nhưng công ty Thiên Hoàng vẫn giữ được tốc độ tăng trưởng của mình, sản lượng và kim ngạch xuất khẩu chè của công ty tăng đều qua các năm. Bảng 04: Sản lượng và kim ngạch xuất khẩu chè của công ty TNHH Thiên Hoàng Năm Sản lượng (Tấn) Kim ngạch (USD) 2005 104 145.600 2006 330 471.900 2007 550 830.500 2008 700 1.050.000 2009 790 1.216.600 (Nguồn: phòng kinh doanh) Có được sự tăng trưởng mạnh mẽ như trên là do những năm gần đây công ty đã chủ động được nguồn hàng, mặt hàng chè của công ty đã chiếm được lòng tin của khách hàng, công ty đã mở rộng thị trường sang Nga, Trung Quốc… Năm 2005 là năm đầu thứ 2 công ty tiến hành sản xuất kinh doanh nên vẫn còn rất nhiều khó khăn bỡ ngỡ. Sản lượng của công ty chỉ là 104 tấn xuất cho khách hàng ở Pakixtan, đạt kim ngạch hơn 145000 USD. Năm 2006 đã cho thấy sự tăng trưởng mạnh mẽ về sản lượng xuất khẩu khi đạt tới 330 tấn, kim ngạch cao gấp 3,5 lần năm 2005. Đó là do công ty đã mạnh dạn mở rộng thị trường khu vực Trung Đông bao gồm các thị trường chính như: Pakixtan, Apganixtan…Năm 2008, 2009 tuy gặp nhiều khó khăn nhưng công ty vẫn đảm bảo tăng sản lượng cũng như kim ngạch xuất khẩu chè, mặc dù tốc độ tăng có chậm hơn các năm trước. Biểu đồ 03: Sản lượng chè xuất khẩu qua các năm Đơn vị: tấn (Nguồn: phòng kinh doanh) Năm 2007 đánh dấu bước chuyển mình mạnh mẽ của công ty với việc sản lượng và kim ngạch xuất khẩu đều tăng mạnh. Năm 2007 là năm có điều kiện thuận lợi cho xuất khẩu chè khi mà cầu chè của thị trường thế giới tăng cao, giá chè xuất tăng cao. Nắm bắt được thời cơ đó công ty đã chủ động tìm kiếm các thị trường mới như Nga, Ấn Độ, đồng thời đưa các mặt hàng chè mới vào danh mục hàng xuất khẩu. Nếu như năm 2005, 2006 mặt hàng xuất khẩu của công ty chỉ là chè đen, chè xanh sô Mộc Châu và một ít chè CTC, thì đến năm 2007 công ty đã xuất khẩu thêm mặt hàng chè đen sơ chế, chè xanh Thái Nguyên, chè Shan. Những mặt hàng đó có giá trị xuất khẩu hơn chè đen rất nhiều khiến kim ngạch xuất khẩu chè của công ty tăng đột biến. Biều đồ 04: Kim ngạch xuất khẩu chè qua các năm Đơn vị: USD (Nguồn: phòng kinh doanh) Bước phát triển trong năm 2007 đã tạo tiền đề vững chắc cho những năm tiếp theo. Kim ngạch xuất khẩu của năm 2008 và 2009 đều năm sau tăng cao hơn năm trước, năm 2009 đạt hơn 1 triệu USD. Điều đó cho thấy công ty đang có hướng đi đúng đắn trong việc nâng cao giá trị xuất khẩu mặt hàng chè. 2.2.3. Các mặt hàng chè xuất khẩu của công ty Mặt hàng kinh doanh xuất khẩu của công ty là chè, bao gồm các loại sau: Chè đen OTD (ORTHODOX) gồm 7 loại: OP, FBOP, P, PS, F, D, BPS, OPA, PF1 Chè đen CTC: BOP, BP, O, D, PF Chè xanh: chè xanh xơ chế. Từ khi thành lập cho đến nay công ty đã từng bước khẳng định mình trên thị trường với các loại chè xuất khẩu sau: Bảng 05: Cơ cấu và chủng loại chè xuất khẩu năm 2004-2008 Đơn vị: % Chủng loại chè XK 2005 2006 2007 2008 2009 Chè đen Chè xanh Chè CTC Chè sơ chế Các loại chè khác 50,5 47,5 1,98 - - 52,5 45,21 2,29 - - 48,7 33,43 4,30 7,87 5,70 46,5 34,3 4 6,6 8,2 47,43 35,6 4,6 6,4 6 Tổng cộng 100 100 100 100 100 (Nguồn: Phòng kinh doanh) Qua bảng trên ta thấy mặt hàng xuất khẩu chủ lực của công ty là chè đen và chè xanh chiếm tới hơn 70% trong cơ cấu xuất khẩu. Tuy nhiên giá trị xuất khẩu của chè đen lại thấp hơn so với các loại chè khác. Việc nầy ảnh hưởng khá lớn đến qui mô, kim ngạch xuất khẩu của công ty. Bảng 06: Kim ngạch xuất khẩu một số mặt hàng năm 2009 Chủng loại Sản lượng (tấn) Trị giá USD/tấn Thành tiền USD Chè xanh Mộc Châu 173 1600 276.800 Chè xanh Thái Nguyên 160 1700 272.000 Chè CTC 35 1300 45.500 Chè đen 332 1400 464.800 Tổng 700 1.059.100 (Nguồn: phòng kinh doanh) Năm 2009 thị trường chè xanh vẫn xuất khẩu được với số lượng lớn giá cao, đặc biệt là chè xanh Mộc Châu và chè xanh Thái Nguyên, các khách hàng cũ vẫn thường xuyên liên lạc và đặt hàng với số lượng lớn. Năm 2009 công ty đã có 1 nhà máy sản xuất chè xanh với sản lượng 300 tấn/năm được đặt tại vùng nguyên liệu tiềm năng của tỉnh Sơn La, và một nhà máy chuyên sản xuất chè đen với sản lượng 500 tấn/ năm tại tỉnh Yên Bái. Để nâng cao giá trị xuất khẩu công ty tập trung vào mặt hàng chè xanh có giá trị xuất khẩu cao là một hướng đi đúng đắn. Tuy nhiên mặt hàng chè xanh xuất khẩu vẫn chưa ổn định, chè đen vẫn là mặt hàng xuất khẩu chủ yếu của công ty Bảng 07: Kim ngạch một số mặt hàng xuất khẩu qua các năm Đơn vị: USD Mặt hàng 2007 2008 2009 Chè xanh Mộc Châu 216.000 272.000 276.800 Chè xanh Thái Nguyên 170.000 209.160 272.000 Chè đen 341.600 392.000 464.800 Chè CTC 27.300 31.200 45.500 (Nguồn: phòng kinh doanh) Năm 2009 có sự đột biến trong xuất khẩu chè đen là do khách hàng đã tin tưởng vào chất lượng chè đen của công ty, nhu cầu về chè đen cũng tăng cao trong năm 2009 và công ty mở rộng được thị trường sang Nga với số lượng đặt hàng 100 tấn vào tháng 9/2009. Lượng chè xanh Thái Nguyên xuất khẩu giảm mạnh do nguồn hàng loại chè này không được ổn định và thị trường xuất khẩu loại chè này của công ty còn hạn chế. 2.2.4. Thực trạng thị trường xuất khẩu chè của công ty Khách hàng chủ yếu của công ty là các công ty tư nhân, doanh nghiệp xuất nhập khẩu thuộc các khu vực Nga và Đông Âu như: Nga, Apganistan, Pakistan, Ấn Độ. Một số thị trường khác cũng đang được công ty tiếp cận như Nhật Bản, Đài Loan, Ả Rập. Bảng 08: Lượng chè XK đến một số thị trường chủ yếu Đơn vị: tấn Quốc gia 2005 2006 2007 2008 2009 Nga - - 68 82 110 Ấn Độ - - 29 54.8 81 Pakistan 104 180 240 280 330 Apghanistan - 110 250 220 280 (Nguồn: phòng kinh doanh) Thị trường truyền thống của công ty là các nước Đông Âu như Pakistan, Apghanistan, đây là những thị trường tiêu thụ chè lớn của thế giới, tương đối dễ tính và khá ưa chuộng chè của Việt Nam. Tính khắt khe của khách hàng về chất lượng sản phẩm tại thị trường này chưa cao lắm do mức sống người dân còn thấp. Do đó công ty có thể cạnh tranh tại thị trường này bằng các chiến lược và chính sách về giá hiệu quả. Cùng với uy tín và mối quan hệ với các bạn hàng lâu năm của công ty như: WADAN Trading Co.Ltd, NEW IRSHAD TAHIR Co.Ltd, REHMAN INTERNATIONAL…hứa hẹn sẽ vẫn là thị trường chính của công ty trong thời gian tới. Các thị trường khác của công ty là Nga và Ấn Độ, trong 2 năm gần đây công ty hoạt động khá hiệu quả tại các thị trường này chiếm khoảng 50% kim ngạch xuất khẩu chè của công ty. Tại các thị trường này công ty gặp một số thuận lợi khó khăn sau: Thuận lợi Đây là thị trường lớn, rất ưa thích mặt hàng chè đen của Việt Nam mà đây lại là mặt hàng xuất khẩu chính trong cơ cấu hàng xuất khẩu của Thiên Hoàng. Chính phủ đang có chủ trương khuyến khích các doanh nghiệp tìm kiếm và mở rộng thị trường xuất khẩu, trong đó có Nga và Ấn Độ. Khó khăn: Nhu cầu và thị hiếu của người tiêu dùng tại các thị trường này khá cao, yêu cầu về chất lượng cao, kiểm duyệt khắt khe. Sản phẩm của công ty cũng như toàn ngành xuất sang các thị trường này kém cạnh tranh hơn sản phẩm của các nước khác như Trung Quốc, Đài Loan về chất lượng, tính độc đáo cũng như thương hiệu. Gặp phải sự cạnh tranh quyết liệt của các hãng chè bản địa cũng như các hãng lớn của thế giới như Lipton. Hàng năm doanh số từ việc xuất khẩu chè chiếm hơn 90% tổng doanh thu của công ty, vì vậy việc giữ vững thị trường truyền thống và tìm kiếm khai thác thị trường mới mang ý nghĩa sống còn với công ty. Nhận thức được điều đó công ty cũng chú trọng vào việc tìm kiếm các thị trường tiềm năng như: Mỹ, Nhật Bản, Hàn Quốc…Đây là những thị trường tiêu thụ chè lớn trên thế giới, yêu thích hương vị chè Việt Nam. Tuy nhiên tại các thị trường này mức độ cạnh tranh cũng rất gay gắt, đối với một công ty nhỏ mới thành lập như Thiên Hoàng đó là một thách thức không nhỏ. Phòng kinh doanh của công ty có trách nhiệm thực hiện công tác nghiên cứu thị trường sau đó tham mưu cho Giám đốc. Từ các nguồn tư liệu, thông tin trên báo, tạp chí mạng internet như: Số liệu về giá, phân tích kinh tế xã hội, dự báo của FAO Thông tin xuất nhập khẩu của bộ Thương Mại Tạp chí của Hội Chè Việt Nam Các trang web cập nhật giá chè thế giới: … Các nhân viên của phòng kinh doanh công ty đã tiến hành phân tích , đưa ra các dự báo về nhu cầu chè thế giới, biến động giá cả chè, nguồn cung chè trong nước…Từ đó tham mưu cho Giám đốc để lập ra các kế hoạch, chiến lược kinh doanh. Ngoài ra công ty còn lựa chọn cán bộ cử đi thực tế, ra nước ngoài để nghiên cứu thị trường, thông qua chính các đối tác, các bạn hàng để nắm bắt thị trường nước ngoài. Tranh thủ sự giúp đỡ của các tổ chức thương mại về chè của thế giới, các tham tán thương mại của Việt Nam ở các nước, các chương trình hỗ trợ của chính phủ giúp các doanh nghiệp vừa và nhỏ nghiên cứu nắm bắt thị trường. Hiện tại đối với những thị trường truyền thống như Pakistan, Apghanistan công ty sử dụng chính sách phát triển thị trường, tiếp tục khai thác lợi thế của mặt hàng chè xanh, chè đen. Đối với các thị trường như Nga, Ấn Độ công ty sử dụng việc phát triển sản phẩm là vũ khí cạnh tranh, với việc xuất khẩu các loại chè mới độc đáo, có chất lượng cao như chè Tuyết, chè Shan. 2.2.5. Chất lượng và giá cả chè xuất khẩu Chất lượng chè xuất khẩu Chất lượng búp chè tươi được quyết định bởi các yếu tố: Giống chè Quy trình thâm canh Thu hái Vận chuyển Mặt hàng chè đen xuất khẩu của công ty như OP, PF1, CTC… được thu mua chủ yếu tại Yên Bái, nơi công ty có nhà máy sản xuất tại xã Hán Đà, huyện Yên Bình. Vùng trè nơi đây có độ cao dưới 500m, giống trung du và PH1, sản phẩm có vị chát hơi đắng, hương thơm chưa được đặc trưng. Khuyết tật lớn là tỷ lệ cẫng vẫn còn cao và nhẹ cánh. Mặt hàng chè xanh của công ty được thu mua từ Thái Nguyên và Mộc Châu, nơi có độ cao trên 500m và khí hậu thuận lợi, giống chủ yếu là giống chè San nên chất lượng cao. Tuy nhiên sản phẩm vẫn có những khuyết tật như nhiều cẫng, cánh nhẹ chưa cạnh tranh được với chè của các nước khác. b) Giá cả chè xuất khẩu Chất lượng chè xuất khẩu còn hạn chế đã ảnh hưởng không nhỏ tới giá xuất khẩu của chè. Giá xuất khẩu chè của Việt Nam thường thấp hơn giá thế giới từ 30% đến 40%. Những năm gần đây với sự cố gắng của các bên từ người dân trồng chè, các doanh nghiệp xuất khẩu chè và Nhà nước nên giá chè xuất khẩu của Việt Nam đã nhích lại gần giá chè thế giới. Bảng 09: Giá chè xuất khẩu của công ty Thiên Hoàng Đơn vị: nghìn USD/tấn Năm Giá chè của công ty Giá chè Việt Nam Giá chè thế giới 2005 1,4 1,47 2,05 2006 1,43 1,5 2,1 2007 1,51 1,59 2,23 2008 1,5 1,53 2,14 2009 1,54 1,62 2,28 (Nguồn: phòng kinh doanh) Nhìn vào bảng trên ta thấy giá chè xuất khẩu của công ty tăng đều qua các năm, năm 2007 tăng mạnh nhất do năm này nhu cầu chè thế giới tăng cao đẩy giá chè tăng tới 2,23 nghìn USD/tấn trên thị trường thế giới. Năm 2008 giá chè xuất khẩu của công ty có giảm sút do thị trường thế giới có nhiều biến động, đồng thời phải chịu ảnh hưởng nặng nề của cuộc suy thoái, giá chè thế giới giảm 19% so với năm 2007. Biều đồ 05: So sánh giá chè của thế giới với Việt Nam và công ty Đơn vị: nghìn USD/tấn (Nguồn: phòng kinh doanh) Giá chè của công ty vẫn thấp hơn chút ít so với các đơn vị cùng ngành và thấp hơn khá nhiều so với mặt bằng chung của thế giới. Để nâng cao được giá chè xuất khẩu công ty cần phải tập trung nhiều hơn nữa vào công tác tạo nguồn để có được chè với chất lượng tốt nhất, đồng thời cần chú trọng đến công tác nghiên cứu thị trường, marketing xây dựng thương hiệu cho sản phẩm của mình. 2.3. Đánh giá, nhận xét chung về tình hình xuất khẩu chè của công ty 2.3.1. Những kết quả đạt được a) Kim ngạch xuất khẩu chè Biểu đồ 06: Kim ngạch xuất khẩu các loại chè qua 3 năm gần nhất Đơn vị: USD (Nguồn: phòng kinh doanh) Chè xanh là mặt hàng có giá trị xuất khẩu cao, giá xuất khẩu của chè xanh thường cao hơn chè đen từ 20 - 30%. Kim ngạch xuất khẩu chè xanh của công ty cũng tăng đều qua các năm do công ty đã chủ động mạnh dạn tìm kiếm thị trường đầu ra cho chè xanh. Mặt hàng chè đen vẫn là mặt hàng xuất khẩu chủ lực của công ty với kim ngạch cao qua các năm, năm 2008 kim ngạch chè đen có xuống thấp là do đây là năm chịu ảnh hưởng của cuộc khủng hoảng toàn cầu, nhu cầu về chè đen giảm mạnh. Tuy nhiên năm 2008 kim ngạch xuất khẩu chè xanh lại đạt khá cao nên tổng kim ngạch xuất khẩu chè năm 2008 vẫn đạt được mức độ tăng trưởng cao. Năm 2009 kim ngạch xuất khẩu chè đen đã được hồi phục, tổng kim ngạch xuất khẩu của năm 2009 cũng tăng trưởng tốt cho thấy doanh nghiệp đã có hướng đi đúng đắn trước tình hình khó khăn chung. b) Doanh thu Công ty TNHH Thiên Hoàng tuy mới chỉ được thành lập chưa đầy 5 năm, nhưng cũng đã đạt được những kết quả đáng ghi nhận. Doanh thu của công ty liên tục tăng trong 5 năm: Biểu đồ 07: Doanh thu của công ty qua các năm Đơn vị: triệu đồng (Nguồn: Phòng kinh doanh) Mức tăng doanh thu trung bình từng năm là khá cao, đạt khoảng gần 200%: năm 2006 tăng 217% so với năm 2005, năm 2007 tăng 191% so với năm 2006, năm 2008 tăng 139% so với năm 2007. Nếu doanh thu của năm 2004 - chỉ là 3.765 triệu đồng thì đến năm 2009 đã là 22.237 triệu đồng, tăng gần gấp 6 lần. Mức tăng trưởng doanh thu năm 2009 có phần chững lại, chỉ tăng 102% so với năm 2008 (gần như là không tăng), điều này là do ảnh hưởng lớn từ các yếu tố của môi trường bên ngoài và các chính sách kinh tế vĩ mô của Nhà nước như: Ảnh hưởng của cuộc suy thoái toàn cầu Chính sách tiền tệ của Nhà Nước Những yếu tố đó đã ảnh hưởng rất lớn đến hoạt động kinh doanh và kết quả kinh doanh của công ty. Bảng 10: Báo cáo kết quả kinh doanh 3 năm gần nhất Đơn vị: VNĐ Chỉ tiêu Năm 2007 Năm 2008 Năm 2009 1. Doanh thu thuần 15.683.721.500 21.799.112.424 22.237.089.690 2. Lợi nhuận từ hoạt động kinh doanh 1.112.315.970 1.151.482.996 1.174.645.723 3. Lợi nhuận khác - - - 4. Lợi nhuận trước thuế 1.112.315.970 1.151.482.996 1.174.645.723 5. Lợi nhuận sau thuế 800.867.498 829.067.757 845.744.921 (Nguồn: Phòng kinh doanh) Bảng 11: So sánh hoạt động kinh doanh của 2 năm gần nhất Chỉ tiêu Chênh lệch 2009/2008 Giá trị (VNĐ) % 1. Doanh thu thuần 437.977.270 2,1 2. Lợi nhuận từ hoạt động kinh doanh 23.162.727 2 3. Lợi nhuận trước thuế 23.162.727 2 4. Lợi nhuận sau thuế 16.677.164 1,97 (Nguồn: Phòng kinh doanh) Nhìn vào bảng số liệu trên ta có thể thấy rõ hơn sự chững lại trong tăng trưởng của năm 2009. Tất cả các chỉ số doanh thu thuần và lợi nhuận năm 2009 chỉ tăng 2% so với năm 2008 và giá trị tuyệt đối cũng tăng rất ít: doanh thu thuần chỉ tăng 437.977.270 VNĐ còn lợi nhuận sau thuế chỉ là 16.677.164 VNĐ Bảng 12: Hiệu quả hoạt động kinh doanh 2009 Đơn vị: VNĐ Chỉ tiêu Giá trị Lợi nhuận sau thuế 845.744.921 2. Tỷ suất Lợi nhuận sau thuế/Doanh thu thuần 3,8% 3. Vốn chủ sở hữu 4.308.004.498 4. ROE 19,63% 5. Tổng tài sản 7.370.611.942 6. ROA 11,47% (Nguồn: Phòng kinh doanh) c) Chi phí kinh doanh Bảng 13: Cơ cấu các khoản mục chi phí Đơn vị: VNĐ STT Yếu tố chi phí Năm 2006 Năm 2007 Năm 2008 Năm 2009 1 Giá vốn hàng bán 6.685.603.452 13.506.075.000 18.639.877.413 18.656.258.484 2 Chi phí bán hàng 541.186.140 650.760.150 1.426.299.311 1.698.450.905 3 Chi phí QLDN 200.199.884 250.760.380 365.742.559 458.024.098 Tổng chi phí 7.426.989.476 14.407.595.540 20.431.919.283 20.812.733.487 (Nguồn: Phòng kinh doanh) Cũng như chỉ tiêu doanh thu, chỉ tiêu chi phí cũng tăng đều qua các năm theo sự phát triển của hoạt động kinh doanh của công ty. Do đặc điểm của lĩnh vực kinh doanh xuất nhập khẩu nên giá vốn hàng bán luôn chiếm tỷ trọng lớn trong tổng chi phí của công ty, tỷ lệ giá vốn hàng bán ở công ty khá ổn định luôn dao động ở mức 90%. Nguyên nhân là do công ty có được nguồn hàng ổn định và làm tốt công tác tạo nguồn. Giá cả mặt hàng chè trong nước và thế giới biến đổi rất thất thường, có những năm tăng cao như 2006 nhưng công ty vẫn giữ ổn định được tỷ lệ giá vốn hàng bán trong tổng chi phí. Biểu đồ 08: Tỷ trọng từng loại chi phí qua các năm (Nguồn: Phòng kinh doanh) Chi phí bán hàng và chi phí quản lý doanh nghiệp thường chỉ chiếm khoảng 10% trong tổng chi phí. Chi phí quản lý doanh nghiệp khá ổn định và có xu hướng giảm cho thấy hiệu quả trong quản lý kinh doanh của công ty ngày càng tăng. d) Lương nhân viên công ty Công ty TNHH Thiên hoàng luôn chú trọng chăm lo đến đời sống của cán bộ công nhân viên, tạo niềm tin nơi cán bộ công nhân viên để họ có thể yên tâm công tác. Thu nhập trung bình của cán bộ công nhân viên công ty liên tục tăng qua các năm, quỹ lương, quỹ khen thưởng của công ty năm sau luôn cao hơn năm trước. Biểu đồ 09: Thu nhập trung bình của 1 người lao động Đơn vị: triệu VNĐ (Nguồn: phòng tổ chức hành chính) 2.3.2. Những mặt tích cực Là một công ty nhỏ mới thành lập, mới gia nhập ngành chưa lâu chịu muôn vàn khó khăn thách thức nhưng công ty TNHH Thiên Hoàng đã từng bước khẳng định được mình đạt được những thành tích đáng kể. Về kim ngạch xuất khẩu: Những năm gần đây lượng chè xuất khẩu của công ty liên tục tăng, nếu năm 2005 lượng xuất khẩu của công ty là 104 tấn thu về 145.600 USD, thì đến năm 2009 lượng chè xuất khẩu đã đạt 790 nghìn tấn thu về hơn 1,2 triệu USD. Về thị trường: Thị trường xuất khẩu của công ty liên tục được mở rộng. Năm 2005 thị trường xuất khẩu của công ty chỉ là một số nước Trung Đông như Pakistan, Apghanistan, đến năm 2007 công ty đã mở rộng sang các thị trường như Nga, Ấn Độ. Công ty cũng đã xác định rõ mục tiêu của từng loại thị trường và có những phương án kinh doanh cụ thể trên từng thị trường. Uy tín của công ty trên các thị trường cũng không ngừng được nâng cao, công ty đã tạo được mối quan hệ lâu dài bền vững với các bạn hàng, có nhiều khách hàng vẫn có mối quan hệ làm ăn với công ty từ năm 2004 đến giờ. Về chủng loại chè xuất khẩu: Năm 2004 công ty chỉ xuất khẩu được chè đen OP, P và chè xanh. Những năm sau chủng loại chè công ty đã đa dạng hơn, cụ thể công ty đã xuất khẩu thêm những giống chè: CTC, FBOP, PS, BPS, PF. Công ty cũng đang nghiên cứu xuất khẩu các loại chè đặc biệt có giá trị kinh tế lớn của Việt Nam như: chè tuyết, chè Shan sang các thị trường tiềm năng Nhật Bản, Mỹ, Đài Loan. Về chất lượng: Chất lượng chè xuất khẩu được coi là yếu tố sống còn, là vũ khí cạnh tranh mạnh mẽ trên các thị trường Mỹ, Nga, Nhật Bản, Đài Loan. Nhận thức được vấn đề đó công ty luôn quan tâm chú trọng đến công tác đảm bảo chất lượng của chè từ lúc thu mua ở địa phương cho đến khi hàng hóa được vận chuyển lên tàu. Vấn đề kiểm tra kiểm dịch được làm rất cẩn thận kỹ lưỡng vì vậy mà từ khi kinh doanh đến giờ chưa có một lô hàng nào của công ty bị trả về, bị cho là vi phạm tiêu chuẩn về vệ sinh an toàn thực phẩm của Việt Nam cũng như thế giới. Về công tác tạo nguồn: Ông Hoàng Trọng Huy, giám đốc công ty, là một người con của quê hương Yên Bái, ông luôn trăn trở một nỗi niềm mong muốn xây dựng quê hương đất nước, phát triển cây chè của quê hương. Ông luôn quan tâm đến đời sống của bà con nông dân trồng chè, của người công nhân trong nhà máy sản xuất chế biến chè. Chính nhờ những tình cảm đó mà công ty luôn có được nguồn cung chè ổn định từ những tỉnh Yên Bái, Lạng Sơn. Cho dù có những năm chè mất mùa, sản lượng chung toàn ngành kém nhưng công ty vẫn đáp ứng kịp thời và đầy đủ các đơn hàng của khách hàng. 2.3.3. Những tồn tại và nguyên nhân a) Những hạn chế còn tồn tại Trong khâu thu mua: Công ty không có nhà máy sản xuất chè tại địa phương nên chất lượng chè phụ thuộc nhiều vào đơn vị chế biến. Chất lượng chè còn chưa được tốt, lượng chè nhặt ra của mỗi lô hàng là khá nhiều, điều này đã làm tăng chi phí kinh doanh của công ty. Nguồn cung chè của công ty chủ yếu ở các tỉnh Yên Bái, Sơn La, Tuyên Quang mà chưa mở rộng vào khu vực Tây Nguyên hay Khu bốn cũ. Phương thức thu mua truyền thống, đơn lẻ, chưa gắn chặt với sản xuất. Về sản phẩm: Mặc dù đã cố gắng nhiều trong việc đa dạng hóa mặt hàng xuất khẩu nhưng sản phẩm của công ty chỉ dừng lại ở những mặt hàng phổ biến, truyền thống như: chè đen OP, PS, P, chè xanh OPA. Với những mặt hàng này công ty khó có thể cạnh tranh được trên các thị trường lớn và khó tính như Mỹ, Nhật Bản. Hơn nữa những loại chè xuất khẩu của công ty chỉ có số ít là dùng ngay còn chủ yếu như loại chè đen dùng để làm nguyên liệu cho các hãng chè nổi tiếng. Sản phẩm còn đơn điệu về mẫu mã bao bì, ta chủ yếu xuất khẩu chè có kiểu dáng và kích thước tự nhiên. Chưa hình thành hệ thống phân phối trực tiếp ở nước ngoài. Thị trường: Thị trường của công ty còn nhỏ, mặt hàng của công ty mới chỉ xuất hiên ở 4 nước trên thế giới. Công ty còn quá phụ thuộc vào thị trường truyền thống trong khi đó lại không khai thác hết khả năng của thị trường truyền thống. Kinh doanh gần 6 năm tại thị trường nhưng công ty không có thêm bạn hàng mới nào ngoài những bạn hàng quen thuộc từ trước. Công tác nghiên cứu thị trường còn chưa được đầu tư đúng mức, nhân viên của công ty thiếu kinh nghiệm, khả năng và nghiên cứu tìm kiếm thị trường. Các nghiệp vụ Marketing, nghiệp vụ hỗ trợ xuất khẩu còn kém và hầu như không có. b) Nguyên nhân Nguyên nhân chủ quan: Do mới thành lập nên khả năng về nhân lực, vật lực còn hạn chế. Số lượng nhân viên trong công ty còn ít, có người phải cáng đáng nhiều công việc cùng lúc. Công tác nghiên cứu và dự báo thị trường còn yếu do khó khăn trong việc tiếp cân các nguồn thông tin Cán bộ công nhân viên của công ty tuổi đời còn khá trẻ, thiếu kinh nghiệm trong kinh doanh trên thị trường quốc tế, cả công ty chỉ có 4 người có trình độ đại học. Công ty rất khó khăn trong việc tiếp cận các nguồn vốn vay từ ngân hàng nên thường phải tìm ở các nguồn vốn khác với lãi suất cao hơn, Chất lượng chè phụ thuộc vào các đơn vị sản xuất bên ngoài, nhưng bộ phận chế biến sơ chế của công ty cũng còn yếu, thiếu máy móc kỹ thuật dẫn đến chất lượng chè xuất khẩu chưa cao. Nguyên nhân khách quan: Hoạt động kinh doanh sản xuất chè nói riêng, các mặt hàng nông sản nói chung ở nước ta chịu tác động của rất nhiều yếu tố khách quan từ phía Nhà nước và môi trường kinh doanh. Khó khăn trong việc sản xuất chè: Cây chè nước ta chủ yếu được trồng ở khu vực miền núi và trung du, nơi có điều kiện cơ sở vật chất hạn chế yếu kém. Các công ty xuất khẩu phải chịu thêm nhiều chi phí về thu mua, vận chuyển làm giá thành bị đẩy lên cao. Người nông dân trồng chè ngoài thuế sử dụng đất nông nghiệp còn phải chịu các khoản phí quản lý, khấu hao vườn chè… có thể chiếm tới hơn 30% tổng sản lượng khoán, mức đóng góp này là quá nặng. Mặt khác do không tiếp cận được với thông tin cũng như kỹ thuật trồng trọt mà tình trạng người dân sử dụng phân bón, thuốc bảo vệ thực vật vượt mức cho phép dẫn đến nguy cơ mặt hàng chè xuất khẩu bị trả lại do không vượt qua được khâu kiểm dịch, kiểm nghiệm. Chính phủ cũng chưa có cơ chế chính sách hỗ trợ cụ thể cho nông dân trồng chè, đầu tư cho chè chỉ chiếm 2,6% trong tổng đầu tư của Nhà nước cho ba loại cây công nghiệp: chè, cà phê, cao su. Khó khăn trong việc xuất khẩu chè: Sự hỗ trợ của các bộ ban ngành, các tham tán, đại diện thương mại của nước ta ở nước ngoài cho các doanh nghiệp xuất khẩu là không đáng kể. Các doanh nghiệp vẫn phải tự mò mẫm tìm kiếm thông tin thị trường. Dịch vụ giám định còn chưa đủ uy tín để các khách hàng nước ngoài công nhận, các doanh nghiệp vẫn phải thuê các tổ chức kiểm định nước ngoài. Công tác hải quan vẫn còn nhiều bất cập tồn tại, thủ tục hải quan tuy đã được đơn giản hóa nhưng vẫn còn rườm rà phức tạp. Thái độ của các nhân viên hải quan không tốt, thiếu hợp tác với doanh nghiệp, vẫn còn tình trạng quan liêu nhũng nhiễu. Các chính sách, định hướng của Nhà nước chưa rõ ràng và tính ổn định không cao, khiến cho các doanh nghiệp khó khăn trong việc dự báo và định hướng xây dựng chiến lược kinh doanh. Các doanh nghiệp vừa và nhỏ rất khó khăn trong việc tiếp cận nguồn vốn vay từ ngân hàng, phải huy động vốn từ những nguồn khác với lãi suất cao hơn nhiều lần. CHƯƠNG 3 MỘT SỐ GIẢI PHÁP CHỦ YẾU THÚC ĐẨY XUẤT KHẨU CHÈ CỦA CÔNG TY TNHH THIÊN HOÀNG 3.1. Phương hướng phát triển của ngành chè và của công ty TNHH Thiên Hoàng 3.1.1. Phương hướng phát triển của ngành chè Tình hình thị trường trong nước Chè hiện đang đứng thứ 7 về kim ngạch xuất khẩu trong các mặt hàng nông sản, sau gạo, cao su, cà phê, hạt điều, rau quả và hạt tiêu tính đến hết tháng 12/2009. Kim ngạch xuất khẩu chè Việt Nam đạt 146 triệu đô la Mỹ, chiếm khoảng 2% tổng giá trị nông sản xuất khẩu. Trong năm 2009 vừa qua, tổng lượng chè xuất khẩu của Việt Nam đạt 110 nghìn tấn, tương đương với 147 triệu USD, tăng 7,5% về lượng và 12,8% về giá trị so với cùng kỳ năm ngoái. Các thị trường xuất khẩu chính của Việt Nam có thể được kể tới là Đài Loan, Nga, Ấn Độ, Trung Quốc, Irắc, Đức, Hà Lan, Ba Lan, Thổ Nhĩ Kỳ và Anh. Tuy nhiên, hiện nay chè của Việt Nam vẫn chủ yếu được xuất khẩu dưới dạng nguyên liệu thô, khâu chế biến lại thiếu tiêu chuẩn, nên giá trị xuất khẩu còn chưa cao. Ngay cả trên những thị trường truyền thống như Trung Quốc, Đài Loan, Nga, chè Việt Nam vẫn ít được người tiêu dùng biết đến do chủ yếu được nhập khẩu dưới dạng nguyên liệu thô. Thương hiệu chè “Vinatea” của Tổng Công ty chè Việt Nam vẫn chưa thực sự khẳng định được uy tín cho chè đen xuất khẩu. Tại thị trường Trung Quốc, chè của Việt Nam chưa có được thị phần và thương hiệu, chủ yếu là xuất khẩu nguyên liệu thô nên giá trị xuất khẩu thấp. Về chất lượng thì mặt hàng chè của Việt Nam rất có uy tín, tuy nhiên do mới chỉ xuất khẩu nguyên liệu nên chưa được người tiêu dùng Trung Quốc biết đến nhiều. Các doanh nghiệp Trung Quốc nhập khẩu nguyên liệu về chế biến và bán với giá cao hơn nhiều. Hơn nữa, theo nhận định của Hiệp hội Chè Việt Nam, hiện nay có quá nhiều doanh nghiệp xuất khẩu chè sang cùng một thị trường. Đây là một trong những lý do làm giá chè của ta luôn thấp hơn so với các nước khác và chất lượng chè không được ổn định. Hiện bắt đầu có sự mất cân đối về khả năng cung cấp nguyên liệu chè và sự bùng nổ của các nhà máy chế biến chè. Tổng công suất chế biến của tất cả các cơ sở sản xuất đạt gấp hai lần tổng sản lượng nguyên liệu, thậm chí có địa phương nguyên liệu chỉ đáp ứng 30% năng lực chế biến, dẫn đến tình trạng tranh mua nguyên liệu gay gắt. Xét về cơ cấu sản phẩm, chè xanh hiện chiếm khoảng 20%, chè đen 79% và 1% là chè các loại khác. Tuy nhiên, giá trị xuất khẩu chè lại tăng chưa tương ứng, một mặt do giá chè chung trên thị trường thế giới giảm, mặt khác do phẩm cấp chè Việt Nam chưa cao, chủ yếu dùng để làm nguyên liệu chế biến chè các loại. Hơn nữa, thị trường chè xuất khẩu của Việt Nam chưa thật sự ổn định. Nguyên nhân hiện nay là sản phẩm chè cấp thấp chiếm tỷ trọng lớn, chất lượng chè không cao, chè được bán dưới dạng nguyên liệu là chính. Tuy nhiên, xét về mặt giá xuất khẩu, hiện giá chè của Việt Nam vẫn ở mức thấp so với sản phẩm cùng loại của các nước trên thế giới. Đơn giá xuất khẩu của Việt Nam chỉ bằng 45-55% so với giá của nhiều nước tuỳ theo mặt hàng chè. Phương hướng phát triển của ngành chè Việt Nam đến năm 2015 Ngành chè đặt ra mục tiêu phát triển chung trong giai đoạn 2010-2015 sẽ trồng mới và thay thế diện tích chè cũ đạt mức độ ổn định khoảng 150.000ha, năng suất bình quân đạt 8-9 tấn búp/ha, giá trị thu nhập bình quân đạt 35-40 triệu đồng/ha và kim ngạch xuất khẩu đạt 300 triệu USD, giải quyết việc làm cho khoảng 1,5 triệu lao động trên cả nước. Về thị trường sẽ phấn đấu xuất khẩu khoảng 70% tổng sản lượng chè, tiêu thụ nội địa 30%. Cơ cấu mặt hàng xuất khẩu gồm 50% chè đen, 20% sản phẩm chè mới có giá trị cao và 30% chè xanh chất lượng cao. Bảng 14: Các chỉ tiêu phát triển ngành chè Việt Nam Chỉ tiêu Đơn vị Năm 2010 Năm 2015 Tổng diện tích chè cả nước ha 104000 150000 Năng suất bình quân Tấn/ha 6,36 8-9 Sản lượng chè búp tươi Tấn 665000 1200000 Sản lượng chè xuất khẩu Tấn 110000 250000 Kim ngạch xuất khẩu Triệu USD 200 300 (Nguồn: Định hướng phát triển ngành chè đến năm 2015) Ngành chè định hướng quy hoạch vùng nguyên liệu tập trung tại 8 tỉnh phía Bắc: Sơn La, Lai Châu, Hà Giang, Tuyên Quang, Yên Bái, Lào Cai, Thái Nguyên, Phú Thọ, Lâm Đồng. Viện nghiên cứu chè hỗ trợ các đơn vị nhân giống và đưa nhanh các giống có năng suất cao, chất lượng tốt để cải tiến chất lượng chè xuất khẩu. Cải tạo đất bằng phân bón hữu cơ tổng hợp phù hợp với loại đất. Đầu tư cải tạo các cơ sở chế biến công nghiệp, xây dựng thêm các nhà máy chế biến công suất 14 tấn/ngày, đẩu tư xây dựng nhà máy cơ khí chè để tạo phụ tùng thiết bị phục vụ cho sửa chữa và nâng cấp nhà máy cũ. Về xuất khẩu, tiếp tục giữ vững thị trường hiện có, mở ra các thị trường mới bằng việc sản xuất tiêu thụ sản phẩm có chất lượng cao, giá cả hợp lý. Với các thị trường quen thuộc như Nga, các nước thuộc SNG và Đông Âu, cùng với việc phấn đấu đưa lượng chè xuất khẩu lên cao hơn nữa còn phải cải tiến về bao bì nhãn mác đặc biệt là chất lượng chè phải được chú trọng. Thị trường Trung Cận Đông chiếm một tỷ lệ tương đối lớn và nhiều tiềm năng do vậy cần đẩy mạnh hơn nữa khâu quảng cáo tiếp thị, giới thiệu sản phẩm. Thị trường Châu Á như Đài Loan, Nhật, đây là thị trường đòi hỏi chè có chất lượng cao cũng như nhãn mác bao bì. Ngoài ra các thị trường khác như Tây Âu, Bắc Mỹ cũng đã sử dụng chè Việt Nam nên tăng cường tiếp thị mở rộng các thị trường này. Để nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh, ngành chè đã tiến hành cổ phần hóa các cơ sở chế biến chè. Người nông dân trở thành cổ đông thông qua việc đóng góp cổ phần bằng đất đai và cây chè và sẽ được chia cổ tức theo kết quả sản xuất kinh doanh. Như vậy, lợi ích của người sản xuất không chỉ dừng ở nghĩa vụ thực hiện hợp đồng mua đứt bán đoạn trên cơ sở giá ấn định từ đầu vụ mà sẽ gắn với lợi ích mang lại từ quá trình chế biến và kinh doanh chè khô. 3.1.2. Định hướng xuất khẩu chè của công ty TNHH Thiên Hoàng Thông qua các dự báo, nghiên cứu thị trường cùng với việc quán triệt mục tiêu chung của ngành, công ty đã xây dựng mục tiêu xuất khẩu chè cụ thể cho các năm tới như sau: Bảng 15: Mục tiêu sản lượng xuất khẩu chè của công ty Đơn vị: nghìn tấn Chỉ tiêu Năm 2010 Năm 2011 Tổng sản lượng chè xuất khẩu 1150 1500 Chè đen 520 750 Chè xanh 390 450 Các loại chè khác 240 300 (Nguồn: phòng kinh doanh) Bảng 16: Mục tiêu kim ngạch xuất khẩu chè của công ty Đơn vị: USD Chỉ tiêu Năm 2010 Năm 2011 Tổng kim ngạch xuất khẩu chè 1.817.000 2.430.000 Chè đen 780.000 1.185.000 Chè xanh 631.800 747.000 Các loại chè khác 405.200 498.000 (Nguồn: phòng kinh doanh) Trong thời gian tới việc xuất khẩu chè của công ty gặp những thời cơ như: đất nước đang trong quá trình hội nhập sâu rộng vào thị trường thế giới tạo điều kiện cho công ty mở rộng thị trường, công ty đã tạo dựng được thị trường riêng có được một lượng khách hàng nhất định, quy mô công ty ngày càng được mở rộng…Đồng thời công ty cũng gặp phải những thách thức khi gặp phải sự cạnh tranh lớn từ các công ty trong và ngoài nước, chất lượng hàng chè xuất khẩu của công ty còn hạn chế, đối đầu với thiên tai hạn hán khiến chè bị mất giá… Trước những thời cơ và thách thức đó công ty đã đề ra phương hướng cho xuất khẩu chè trong những năm tới. Trong những năm qua công ty xuất khẩu những loại chè đen, chè xanh…nay cần phải bổ xung thu mua những loại chè có chất lượng cao hơn thế nữa. Bên cạnh việc thu mua chè chất lượng cao thì mẫu mã bao bì cần phải đa dạng để chè xuất khẩu đủ sức cạnh tranh trên thị trường thế giới. Công tác thị trường, tìm kiếm thêm thị trường xuất khẩu chè là một trong những chiến lược của công ty. Với những thị trường quen thuộc như Pakistan, Apghanistan, Nga công ty phấn đấu nâng cao lượng chè xuất khẩu, chú trọng hơn đến bao bì mẫu mã. Với thị trường mới xâm nhập hiện tại như Ấn Độ, Anh… công ty cần đẩy mạnh hơn nữa khâu tiếp thị quảng cáo. Đi đôi với mở rộng thị trường là đa dạng hóa chè xuất khẩu tạo ra nhiều loại thích hợp với thị hiếu của khách hàng, đồng thời áp dụng các hình thức bán linh hoạt như: buôn bán đối lưu, ký hợp đồng gửi bán… Ngoài ra công ty còn đặt ra những mục tiêu cụ thể cho từng thị trường và từng thời gian cụ thể như tháng, quý, năm. Công ty đề ra biện pháp để thực hiện những mục tiêu đã đề ra, thường xuyên kiểm tra và điều chỉnh hợp lý. 3.2. Giải pháp đẩy mạnh xuất khẩu chè 3.2.1. Hoàn thiện công tác tạo nguồn và mua hàng Giống như những mặt hàng nông nghiệp nói chung, với mặt hàng chè việc thu mua thường diễn ra trên phạm vi rộng, công tác thu mua chè diễn ra trong thời gian ngắn với khối lượng lớn, vì vậy đòi hỏi công ty phải có mạng lưới thu mua rộng. Mặc dù hiện nay nguồn cung cấp chè cho xuất khẩu tương đối dồi dào, nhưng để tránh những biến động do hạn hán, thiên tai, có nhiều doanh nghiệp xuất khẩu chè… và đồng thời tạo được chân hàng ổn định công ty cần kết hợp chặt chẽ với nhà sản xuất. Công ty cần gắn hơn nữa lợi ích của người sản xuất nông nghiệp với lợi ích của sản xuất công nghiệp và xuất khẩu. Kim ngạch xuất khẩu tăng phải kéo theo năng lực sản xuất của các đơn vị tăng và đời sống của người dân trồng chè được cải thiện. Bên cạnh đó từng bước thống nhất lợi ích với các đơn vị khác trên cùng một địa bàn nhằm loại bỏ những yếu tố cạnh tranh không lành mạnh, gây phương hại tới lợi ích chung. Muốn vậy công ty cần thực hiện những nhiệm vụ sau: Gắn bó chặt chẽ hơn nữa với người trồng chè, người sản xuất từ khâu chọn giống đến chăm bón, thu hoạch để có được mặt hàng đạt chất lượng tiêu chuẩn. Mở rộng nguồn hàng, cử cán bộ đi khảo sát những nguồn hàng mới như: Lâm Đồng, Tuyên Quang, Hà Giang. Trong khâu thu mua công ty phải thực hiện giám định nghiêm chỉnh, tiến hành đầy đủ các bước giám sát kiểm tra chất lượng. Giảm lượng chè hao hụt trong quá trình thu mua và bảo quản, chú trọng khâu bảo quản với hệ thống kho bãi đúng tiêu chuẩn thuận tiện cho việc vận chuyển, xếp dỡ. Gắn sản xuất với thị trường, hỗ trợ người trồng chè về giống, phân bón, kỹ thuật để tạo nên sự phối hợp thống nhất từ khâu sản xuất nông nghiệp đến tận khâu lưu thông để làm sản phẩm luôn đáp ứng được thị hiếu người tiêu dùng. 3.2.2. Đa dạng hóa các mặt hàng chè xuất khẩu Các mặt hàng chè xuất khẩu chủ yêu của công ty vẫn là chè đen chiếm hơn 50% và chè xanh chiếm 35% , còn các mặt hàng chè khác chỉ chiếm 10% trong cơ cấu xuất khẩu của công ty. Tuy nhiên giá trị xuất khẩu của mặt hàng chè đen lại tương đối thấp hơn so với các loại chè khác, bình quân 1 tấn chè đen xuất bán thu về lợi nhuận thấp hơn từ 200 đến 800 USD so với các loại chè khác. Điều đó làm ảnh hưởng không nhỏ đến kim ngạch xuất khẩu của công ty. Các loại chè có chất lượng cao và giá trị xuất khẩu lớn như chè Vàng, chè Shan, chè tuyết, việc tiếp cận nguồn hàng này cũng rất khó khăn do các loại chè này chỉ được trồng trên những vùng núi cao hơn 1000m và diện tích trồng rất ít. Tuy vậy công ty cần có chiến lược cụ thể để tranh thủ được nguồn hàng này như: đặt hàng, bao tiêu sản phẩm từ đầu vụ, tìm kiếm các nguồn hàng mới… Bên cạnh việc tìm kiếm các mặt hàng chè mới, công ty cũng có thể đa dạng hóa mặt hàng chè xuất khẩu từ các nguồn hàng hiện tại. Do đặc điểm của chè xuất khẩu là khi đấu các loại chè khác nhau theo tỷ lệ khác nhau sẽ cho ra một loại chè mới, do đó công ty cần tập trung nguồn lực khai thác nguồn nguyên liệu và thị trường vốn có. Đa dạng hóa mặt hàng kinh doanh không những giúp công ty giảm rủi ro trong kinh doanh mà còn tăng cao lợi nhuận, kinh doanh có lãi. Do vậy công ty cần tìm tòi mở rộng nguồn hàng, tìm kiếm các loại chè mới phù hợp với nhu cầu khách hàng, tích cực xây dựng mở rộng thị trường xuất khẩu chè. 3.2.3. Đẩy mạnh ứng dụng Mar – Mix vào hoạt động xuất khẩu Trong những năm gần đây thị trường chè thế giới có sự cạnh tranh gay gắt, luôn có tình trạng cung lớn hơn cầu. Tuy nhiên theo các chuyên gia nhận định và thực tế cho thấy mặt hàng chè của Việt Nam và của công ty vẫn có lượng cầu lớn hơn nhiều lượng cung trên thị trường. Cơ hội thị trường chè vẫn còn nhiều, điều quan trọng để giữ được khách hàng và mở rộng thị trường đó là ta cần phải làm tốt công tác thị trường. Để làm tốt công tác này, công ty Thiên Hoàng nói riêng cũng như các công ty trong ngành chè Việt Nam nói chung cần tuần theo quan điểm marketing hiện đại, đặt nghiên cứu nhu cầu của khách hàng lên hàng đầu. Cần phải xóa bỏ tư tưởng cũ mang nặng tính bao cấp là bán những gì mình có mà phải bán những gì thị trường cần. Trong thời gian tới công ty cần chú trọng xây dựng và thực hiện các chiến lược marketing hiệu quả gồm: Về sản phẩm: 80% lượng chè tiêu thụ trên thế giới là chè đóng gói, thị hiếu tiêu dùng chè trên các thị trường cũng rất đa dạng, người Mỹ đang ưa dùng các loại chè ướp lạnh, ở Indonexia là chè đóng chai còn ở Nhật chè đóng lon cũng được tiêu thụ một cách đáng kể…Coi trọng sức khỏe người tiêu dùng và bảo vệ môi trường là xu hướng tiêu dùng hiện nay, gắn tiêu dùng với bảo vệ sức khỏe. Vì vậy chiến lược phổ biến trong kinh doanh hiện nay là đa dạng hóa sản phẩm chè và chú trọng tới công dụng chữa bệnh. Ngày càng xuất hiện các loại chè thuốc như: chè thanh nhiệt, chè sâm, chè giảm cafein, chè dược thảo… Trước xu hướng đó công ty cần chọn cho mình một cách đi phù hợp trên cơ sở cân đối giữa nguồn lực bên trong và điều kiện bên ngoài. Việc sáng tạo ra sản phẩm mới thường tốn công sức, thời gian và tiền bạc nhưng cũng chính là cách đem lại kết quả khả quan và lâu bền nhất. Về bao gói: đây là yếu tố quan trọng cấu thành lên sản phẩm mà công ty cần phải chú ý. Ngoài tiêu chuẩn về vệ sinh an toàn thực phẩm thì mẫu mã nhãn mác cũng là yếu tố quan trọng khi đi vào các thị trường khó tính. Về tính cân đối lượng chè đóng gới cần tính toán phù hợp với thói quen tiêu dùng như chỉ vừa đủ 1 ấm hoặc chỉ đủ dùng trong thời gian ngắn tránh việc chè để lâu bị mốc, bốc mùi. Về tính tiện dụng cũng cần được quan tâm. Về phân phối: chính sách phân phối phảm đảm bảo yêu cầu đưa hàng đến với người tiêu dùng đúng mặt hàng đúng nơi đúng lúc với chi phí thấp. Nếu được công ty nên đặt các đại lý của mình ở các thị trường truyền thống cũng như thị trường mới để tiện cho việc giao dịch cũng như nghiên cứu nắm bắt thị trường. Người sản xuất Khách hàng Công ty Thiên Hoàng Nhà trung gian Sơ đồ 03: Sơ đồ phân phối sản phẩm của công ty (Nguồn: phòng kinh doanh) Về chiến lược xúc tiến và yểm trợ: công ty nên sử dụng chiến lược kéo và chiến lược đẩy. Để kéo khách hàng về phía minh cần tăng cường tuyên truyền quảng cáo, mặc dù nguồn tài chính dành cho quảng cáo còn eo hẹp nhưng công ty có thể tận dụng sách báo, webside…Một quảng cáo hay ấn tượng có thể gây chú ý đến khách hàng và công ty có thể bán được hàng. Cần lưu ý nêu bật lên những tác dụng tốt cho sức khỏe, gắn hình ảnh chè của ta với hình ảnh thảo dược phương đông vốn nổi tiếng lành tính và hiệu quả. Về giá cả: do nước ta là nước nhỏ lượng hàng xuất khẩu chỉ chiếm tỉ lệ nhỏ so với thế giới, chè là hàng nông sản nên độ co giãn của cầu theo giá là không cao vì vậy nước ta là nước chấp nhận giá và phải theo giá của các nước xuất khẩu lớn khác. Năng lực sản xuất của nước ta còn hạn chế, chất lượng sản phẩm chưa cao, không cho phép hạ giá để cạnh tranh. Bởi vậy chính sách giá trước mắt chỉ nhằm định ra một mức giá hợp lý, thống nhất, kèm theo phương thức thanh toán thuận lợi hấp dẫn… 3.2.4. Quản lý và nâng cao chất lượng chè xuất khẩu Chất lượng chè xuất khẩu là yếu tố quyết định đến sự tồn tại và phát triển của công ty. Công tác quản lý và nâng cao chất lượng chè xuất khẩu luôn được công ty chú trọng đẩu tư các nguồn lực. Để làm tốt công tác này công ty cần áp dụng đồng bộ các biện pháp sau: Kiểm tra, giám sát sát sao, hướng dẫn chỉ đạo đúng quy trình sản xuất tại nguồn hàng của công ty Yêu cầu, khuyến khích người dân trồng trọt, chế biến theo đúng tiêu chuẩn vệ sinh an toàn thực phẩm cho chè xuất khẩu Kiên quyết không thu mua, loại bỏ những loại chè kém chất lượng Thực hiện quy trình bao gói cẩn thận, đảm bảo an toàn cho hàng hóa trong quá trình vận chuyển từ nơi sản xuất đến nơi tiêu dùng. Về lâu dài, để chủ động về nguồn hàng cũng như chất lượng chè xuất khẩu, công ty cẩn thực hiện những công việc sau: Xây dựng nhà máy chế biến chè xuất khẩu với chất luợng ISO 9001 Hiện công ty đang đầu tư xây dựng nhà máy tách cọng ở Phủ Lỗ, Sóc Sơn gần kho của công ty. Đây sẽ là một nhà máy hiện đại với dây chuyền công nghệ chuyển giao trực tiếp từ Trung Quốc. Với việc xây dựng nhà máy này, trong tương lai các mặt hàng chè xuất khẩu của công ty sẽ được tách cọng trước khi mang đi xuất khẩu, đảm bảo chè ít cọng mịn hơn đáp ứng tốt hơn nhu cầu của khách hàng. Công ty cần phối hợp thống nhất giữa cán bộ kỹ thuật, cán bộ quản lý, người dân trồng chè để cho những sản phẩm có chất lượng mà thị trường mong muốn. Luôn coi lợi ích của các hộ nông dân như chính lợi ích của công ty. 3.2.5. Các giải pháp khác Ngoài các giải pháp nêu trên, để thúc đẩy xuất khẩu chè công ty cần có những đổi mới cải cách toàn diện như sau: Cải cách bộ máy hoạt động của công ty với các phòng chuyên trách, có sự phân công rõ rệt trách nhiệm cho từng người. Đào tạo nguồn nhân lực, cán bộ quản lý, cán bộ kỹ thuật có đủ khả năng đảm đương trọng trách. Có thể cử người ra nước ngoài để học tập, mời chuyên gia nước ngoài về hướng dẫn kỹ thuật sản xuất cũng như trồng trọt. Đầu tư hoàn thiện cơ sở vật chất kỹ thuật như nhà xuởng kho bãi, phương tiện vận chuyển đảm bảo giảm tới mức tối thiểu chè thất thoát trong quá trình bảo quản, vận chuyển. Nâng cấp hệ thống thông tin, nâng cấp hệ thống máy tính, điện thoại liên lạc để đảm bảo thông tin thông suốt, nhanh chóng, kịp thời. Chú trọng đến đời sống của cán bộ công nhân viên công ty, có chế độ khen thưởng phúc lợi đầy đủ, gắn quyền lợi với trách nhiệm. 3.3. Một số kiến nghị với nhà nước, hiệp hội chè và tổng công ty chè Việt Nam nhằm góp phần thực hiện những giải pháp trên 3.3.1. Về phía nhà nước Về thuế Mặt hàng chè xuất khẩu cũng như các mặt hàng nông sản khác, trong quá trình sản xuất đến xuất khẩu phải trải qua các doanh nghiệp: doanh nghiệp sản xuất nông nghiệp, doanh nghiệp chế biến công nghiệp, doanh nghiệp xuất khẩu. Nếu thực hiện đánh thuế doanh thu và thuế lợi tức thì sẽ bị đánh thuế trùng. Các doanh nghiệp xuất khẩu chè của chúng ta hiện nay thực sự vẫn chưa có chỗ đứng trên thị trường, chưa có đủ khả năng cạnh tranh với chè xuất khẩu của các nước khác, vì vậy nhà nước cần có chính sách ưu đãi với các doanh nghiệp này như: Ưu tiên miễn thuế sử dụng đất cho các vườn chè mới trồng và đang cải tạo, những nơi đồi trọc có độ dốc cao Miễn 100% thuế nhập khẩu đối với những thiết bị máy móc chế biến chè xuất khẩu, phụ tùng đặc chủng của những loại máy móc này để tạo điều kiện hiện đại hóa ngành chè Hỗ trợ ưu tiên những sản phẩm mới trong vòng 3 năm kể từ khi đăng ký nhãn hiệu thương mại. Chính sách cho vay vốn Đối với các doanh nghiệp xuất khẩu, vốn lưu động chiếm tỷ lệ lớn trong nguồn vốn của doanh nghiệp. Hầu hết lượng vốn lưu động của các doanh nghiệp đều được đi vay từ ngân hàng hoặc các tổ chức tín dụng. Tuy nhiên hiện nay các doanh nghiệp rất khó hoặc không thể tiếp cận được với nguồn vốn này. Nhà nước cần có chính sách hỗ trợ vốn cũng như lãi suất cho các doanh nghiệp xuất khẩu, tạo điều kiện cho các doanh nghiệp tiếp cận với nguồn vốn vay dễ dàng hơn. Khuyến khích các ngân hàng cho vay vốn để thu mua và xuất khẩu chè. Trong trường hợp giá chè bấp bênh, giá chè thu mua xuất khẩu tăng lên thì nhà nước nên xem xét bằng quỹ bình ổn giá cả để giảm bớt khó khăn cho công ty xuất khẩu chè. Hiện nay người nông dân trồng chè ở các vùng dùng sổ giao quyền sử dụng đất để thế chấp vay vốn ngân hàng. Nhưng nhiều nơi chưa cấp sổ làm cho nông dân rất khó vay được vốn. Nên thay hình thức vay vốn sổ giao quyền sử dụng đất bằng giấy bảo lãnh của doanh nghiệp để vay vốn. Mức vay theo hai loại: vay để thâm canh chè từ 2 – 2,5 triệu VNĐ cho 1ha trồng chè mới từ 7 – 10 triệu/ha. Cho vay theo từng bước và có kiểm tra kết quả thực hiện trước khi cho vay bước tiếp theo. Lãi suất cho vay đối với các vùng sâu, vùng xa, khó khăn, vùng dân tộc nên thấp hơn mức lãi suất hiện hành. Điều chỉnh giá chè và quan hệ cung cầu trong nước Giá chè trong nước được quyết định bởi quy luật cung cầu và giá cả thị trường, Nhà nước cũng cần có chính sách hợp lý để cân bằng giá chè trong nước, không để giá chè xuống thấp quá. Cần có chính sách hợp lý để trợ giá khi cần thiết để ổn định mức giá, điều chỉnh quan hệ cung cầu tránh gây thiệt hại cho người sản xuất. Nhà nước cần quan tâm cân đối lợi ích của người trồng chè, doanh nghiệp kinh doanh sản xuất chè và người tiêu dùng để sử dụng nhiều biện pháp điều hành tránh những hoạt động vội vã. Nhà nước sử dụng ngân sách thu mua chè (khi lượng cung vượt quá lượng cầu) để tạo ra cầu hoặc giảm bớt cung tùy theo tình hình cụ thể trong trường hợp gặp khó khăn về thị trường nước ngoài, giá chè trong nước giảm xuống. Nhà nước cần tổ chức thu mua bù lỗ cho các nhà sản xuất, xuất khẩu chè. Như vậy các nhà xuất khẩu vẫn có thể tổ chức thu mua chè xuất khẩu tại thị trường nội

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc111012.doc
Tài liệu liên quan