Đề tài Đánh giá hiệu quả kinh tế Khu bảo vệ hệ sinh thái biển Rạn Trào, Khánh Hòa

Tài liệu Đề tài Đánh giá hiệu quả kinh tế Khu bảo vệ hệ sinh thái biển Rạn Trào, Khánh Hòa: Đánh giá hiệu quả kinh tế Khu bảo vệ hệ sinh thái biển Rạn Trào, Khánh Hòa MỤC LỤC GIẢI THÍCH CÁC THUẬT NGỮ VIẾT TẮT TRONG ĐỀ TÀI Từ viết tắt Tiếng Việt BQL Ban quản lý CVM Phương pháp đánh giá ngẫu nhiên IUCN Tổ chức bảo tồn thiên nhiên thế giới KBT Khu bảo tồn KBTB Khu bảo tồn biển KBV Khu bảo vệ KBVB Khu bảo vệ biển KBVHSTB Khu bảo vệ hệ sinh thái biển MCD Trung tâm bảo tồn sinh vật biển và phát triển cộng đồng NGO Tổ chức phi chính phủ UNESCO Tổ chức văn hóa, giáo dục, khoa học liên hợp quốc WTP Mức sẵn lòng chi trả DANH MỤC CÁC BẢNG BIỂU TÊN BẢNG Bảng 1: Danh sách các điểm được đề xuất thành KBTB Bảng 2 : Bảng so sánh hai mô hình Bảng 3: Bảng so sánh phân tích chi phí- lợi ích với phân tích tài chính Bảng 4: Tình hình sử dụng đất đai xã Vạn Hưng Bảng 5: Dân số và lao động xã Vạn Hưng Bảng 6: Số hộ tham gia các ngành nghề ở xã Vạn Hưng Bảng 7: Mật độ (con/400m2) các nhóm cá rạn san hô tại khu vực Rạn Trào Bảng 8 : Danh sách loài có tên trong ...

doc85 trang | Chia sẻ: hunglv | Lượt xem: 986 | Lượt tải: 2download
Bạn đang xem trước 20 trang mẫu tài liệu Đề tài Đánh giá hiệu quả kinh tế Khu bảo vệ hệ sinh thái biển Rạn Trào, Khánh Hòa, để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Đánh giá hiệu quả kinh tế Khu bảo vệ hệ sinh thái biển Rạn Trào, Khánh Hòa MỤC LỤC GIẢI THÍCH CÁC THUẬT NGỮ VIẾT TẮT TRONG ĐỀ TÀI Từ viết tắt Tiếng Việt BQL Ban quản lý CVM Phương pháp đánh giá ngẫu nhiên IUCN Tổ chức bảo tồn thiên nhiên thế giới KBT Khu bảo tồn KBTB Khu bảo tồn biển KBV Khu bảo vệ KBVB Khu bảo vệ biển KBVHSTB Khu bảo vệ hệ sinh thái biển MCD Trung tâm bảo tồn sinh vật biển và phát triển cộng đồng NGO Tổ chức phi chính phủ UNESCO Tổ chức văn hóa, giáo dục, khoa học liên hợp quốc WTP Mức sẵn lòng chi trả DANH MỤC CÁC BẢNG BIỂU TÊN BẢNG Bảng 1: Danh sách các điểm được đề xuất thành KBTB Bảng 2 : Bảng so sánh hai mô hình Bảng 3: Bảng so sánh phân tích chi phí- lợi ích với phân tích tài chính Bảng 4: Tình hình sử dụng đất đai xã Vạn Hưng Bảng 5: Dân số và lao động xã Vạn Hưng Bảng 6: Số hộ tham gia các ngành nghề ở xã Vạn Hưng Bảng 7: Mật độ (con/400m2) các nhóm cá rạn san hô tại khu vực Rạn Trào Bảng 8 : Danh sách loài có tên trong Sách đỏ sinh sống ở KBVB Rạn Trào Bảng 9. So sánh thành phần loài sinh vật ở Rạn Trào và vịnh Văn Phong Bảng 10 : Bảng chi phí- lợi ích của dự án Bảng 11 : Bảng chi phí trực tiếp của dự án Bảng 12 : Bảng chi phí quản lý và vận hành dự án Bảng 13 : Bảng tổng chi phí của dự án Bảng 14 : Bảng sản lượng thủy sản qua các năm Bảng 15 : Bảng tính giá thủy sản khai thác qua các năm Bảng 16 : Bảng tính lợi ích từ đánh bắt thủy sản Bảng 17 : Bảng sản lượng nuôi tôm hùm qua các năm Bảng 18 : Bảng tính lợi ích từ nuôi tôm hùm qua các năm Bảng 19 : Bảng tính lợi ích từ nuôi tôm sú qua các năm Bảng 20 : Bảng tính lợi ích từ nuôi ốc hương qua các năm Bảng 21 : Bảng lợi ích từ nuôi trồng qua các năm Bảng 22 : Bảng giả định diện tích san hô bị mất qua các năm Bảng 23: Bảng lợi ích từ chức năng sinh thái của 1ha san hô/năm Bảng 24 : Bảng lợi ích từ chức năng sinh thái của san hô ở Rạn Trào qua các năm Bảng 25: Các yếu tố có thể ảnh hưởng đên mức sẵn lòng chi trả (WTP) Bảng 26: Bảng tổng hợp các lợi ích thu về qua các năm Bảng 27 : Bảng tính NPV của dự án DANH MỤC CÁC HÌNH VẼ Hình 1: Sơ đồ các loại hình KBT Hình 2: Sơ đồ các loại hình KBTB Hình 3: Mô hình quản lý ngành dọc có sự tham gia của cộng đồng Hình 4: Mô hình do địa phương quản lý Hình 5: Bản đồ hành chính tỉnh Khánh Hòa Hình 6 : Bản đồ phân vùng chức năng vùng biển Rạn Trào Hình 7 : Tổ chức quản lý KBVB Rạn Trào Hình 8: Mô hình phát triển bền vững LỜI NểI ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài. Dự án xây dựng mô hình khu bảo vệ hệ sinh thái biển Rạn Trào do chính địa phương tự quản lý được MCD tài trợ và tiến hành từ năm 2001. Đây là mô hình đầu tiên ở Việt Nam, điểm đặc biệt của mô hình là theo cơ chế từ dưới lên tức là do người dân tự xây dựng nên khu bảo vệ biển sau đó được cấp huyện, cấp tỉnh công nhận. Tuy nhiên vẫn chưa có một nghiên cứu đầy đủ nào về hiệu quả kinh tế của dự án, do đó đề tài đã tiến hành đánh giá kinh tế để thấy được tính hiệu quả của dự án. Phạm vi tiến hành dự án của MCD chủ yếu là các khu vực bảo tồn ven biển, do đó mô hình đánh giá hiệu quả kinh tế này có thể áp dụng cho những dự án về sau trong giai đoạn tiền dự án, giai đoạn tiến hành dự án và giai đoạn kết thúc dự án. Việc đánh giá được các giá trị về lợi ích lẫn chi phí đều phục vụ cho khâu quản lý tài nguyên tại khu vực, quản lý được các bước tiến hành dự án. 2. Mục đích của đề tài: Việc định giá giúp đo được tốc độ sử dụng và mức độ khan hiếm của tài nguyên Phục vụ cho nhà ra quyết định đưa ra những quyết định công bằng và đầy đủ. Bảo vệ môi trường và thực hiện nguyên tắc người gây ô nhiễm phải trả. Việc tiền tệ hoỏ cỏc giá trị làm tăng khả năng thuyết phục trong giáo dục cộng đồng. 3. Phạm vi nghiên cứu. Về không gian lãnh thổ: KBVHSTB Rạn Trào, xã Vạn Hưng. Về thời gian nghiên cứu: dự tính điều tra, phỏng vấn người dân tại khu bảo vệ vào đầu tháng 4/2009, sử dụng số liệu từ 2000 đến nay. Về giới hạn nghiên cứu: đề tài đánh giá hiệu quả kinh tế của dự án thông qua các chỉ số kinh tế là BCR, NPV. 4. Phương pháp nghiên cứu. Phương pháp thu thập, xử lý thông tin. Phương pháp thực địa. Phương pháp điều tra xã hội học. Phương pháp chuyên gia. Phương pháp giá thị trường. Phương pháp chi phí thay thế. Phương pháp đánh giá ngẫu nhiên. Phương pháp tiếp cận thay đổi năng suất. Phương pháp xử lý số liệu bằng Excel, SPSS. 5. Cấu trúc đề tài. Ngoài lời nói đầu và kết thúc, luận văn gồm 3 chương: Chương I: Cơ sở lý luận về quản lý và đánh giá hiệu quả kinh tế KBTB. Chương II: Thực trạng mô hình quản lý tại KBVHST biển Rạn Trào. Chương III: Áp dụng công cụ phân tích kinh tế nhằm đánh giá hiệu quản kinh tế KBVHSTB Rạn Trào do cộng đồng dân cư địa phương quản lý. PHẦN NỘI DUNG CHƯƠNG I: CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ QUẢN LÝ VÀ ĐÁNH GIÁ HIỆU QUẢ KINH TẾ KBTB 1.1.Khu bảo tồn biển 1.1.1. Khái niệm và phân loại 1.1.1.1. Khu bảo tồn Định nghĩa: Theo IUCN:“Khu bảo tồn là một khu vực trên đất liền hoặc trên biển được khoanh vùng để bảo vệ đa dạng sinh học, các tài nguyên thiên nhiên và văn hoá đi kèm, được quản lý bằng các công cụ pháp luật hoặc các hình thức quản lý có hiệu quả khỏc” (IUCN 1994). Các loại hình KBT: Theo báo cáo quốc gia của VN về các KBT và phát triển. Khu bảo tồn Khu rừng đặc dụng Đất ngập nước Khu bảo tồn biển Khu di sản thế giới Khu dự trữ sinh quyển Vườn quốc gia Khu bảo tồn thiên nhiên Khu rừng văn hóa lịch sử môi trường Hình 1: Sơ đồ các loại hình KBT Khu rừng đặc dụng: Rừng đặc dụng bao gồm các vườn quốc gia, các khu bảo tồn thiên nhiên và các khu di tích lịch sử-văn húa-mụi trường, do bộ NN&PTNT trực tiếp quản lý. Tính đến tháng 12 năm 2002 Bộ NN&PTNT đã thống kê được 25 vườn quốc gia, 60 khu bảo tồn thiên nhiên, 37 khu di tích văn húa-lịch sử-mụi trường. Đất ngập nước: Bằng việc thông qua Công ước đa dạng sinh học và Công ước Ramsar về đất ngập nước có tầm quan trọng quốc tế, Chính phủ đã cam kết thành lập một mạng lưới các khu bảo tồn đất ngập nước. Kế hoạch hành động đa dạng sinh học bao gồm 61 khu đất ngập nước. Mới đây, 68 khu đất ngập nước có tầm quan trọng quốc gia đã được xác định trong đó có một số khu nằm trong hệ thống rừng đặc dụng. Cơ quan chịu trách nhiệm quản lý trực tiếp khu đất ngập nước là Bộ TN&MT. Các KBTB: Việt Nam hiện có 2 khu di sản thiên nhiên thế giới là Vịnh Hạ Long, vườn quốc gia Phong Nha- Kẻ Bàng và 3 khu di sản thế giới nữa là: Thánh địa Mỹ Sơn, Phố cổ Hội An và tổ hợp các công trình Huế đã được UNESCO công nhận. Các khu dự trữ sinh quyển: Chương trình con người và sinh quyển của UNESCO đã công nhận trên 370 khu dự trữ sinh quyển trên toàn thế giới. Rừng ngập mặn Cần Giờ là khu dự trữ con người và sinh quyển đầu tiên của Việt Nam. Mục tiêu của các khu dự trữ sinh quyển là kết hợp bảo tồn đa dạng sinh học với sử dụng bền vững tài nguyên cho con người. 1.1.1.2. Khu bảo vệ biển Theo IUCN: “KBVB là bất cứ 1 khu vực lãnh thổ giữa 2 mức triều hoặc cận thủy triều cùng với khối nước che phủ và hệ động vật hệ thực vật kèm theo, các đặc điểm lịch sử và văn hóa, được luật pháp bảo hộ hoặc các biện pháp có hiệu quả khác cần để bảo vệ một bộ phận hay toàn bộ môi trường bao quanh”. Theo đú thỡ mọi khu vực ven biển đều có thể trở thành các KBVB mà không phải có bất cứ điều kiện ràng buộc nào. 1.1.1.3. Khu bảo tồn biển Định nghĩa Theo IUCN: “KBTB được xác định là bất kỳ khu vực nào nằm trong vùng triều hoặc dưới triều cùng với toàn bộ bao gồm toàn bộ phần mặt nước phía trên cùng với các hệ động thực vật và các di sản văn hóa và lịch sử liên đới được lưu giữ bởi luật pháp và các phương thức hữu hiệu khác nhằm bảo vệ một phần hoặc toàn bộ môi trường liên quan”. Theo nghị định số 27 của Chính phủ Việt Nam hướng dẫn thi hành một số điều của Luật Thủy sản: “KBTB là vùng biển được xác định (kể cả đảo có trong vùng biển đú) cú cỏc loài động vật, thực vật có giá trị và tầm quan trọng quốc gia hoặc quốc tế về khoa học, giáo dục, du lịch, giải trí được bảo vệ và quản lý theo quy chế của Khu Bảo tồn”. Phân loại KBTB Theo Nghị định số 57/2008/NĐ-CP: KBTB có tầm quan trọng quốc gia và quốc tế được phân loại thành: Vườn quốc gia; Khu bảo tồn loài, sinh cảnh; Khu dự trữ tài nguyên thiên nhiên thủy sinh. Khu bảo tồn biển Vườn quốc gia Khu bảo tồn loài, sinh cảnh Khu dự trữ tài nguyên thiên nhiên thủy sinh Hình 2: Sơ đồ các loại hình KBTB - Vườn Quốc gia có đủ các điều kiện sau: Là vùng biển có một hay nhiều hệ sinh thái điển hình như: san hô, cỏ biển, rừng ngập mặn hay hệ sinh thái đầm phá, cửa sông còn nguyên vẹn hoặc ít bị tác động của con người; là nơi sinh cư của một hay nhiều loài động, thực vật biển hoang dã, quý hiếm, đang bị đe dọa có nguy cơ tuyệt chủng, cần được quản lý, bảo vệ, bảo tồn. Diện tích Vườn Quốc gia nhỏ nhất không ít hơn 20.000 ha. Trong đó, diện tích các hệ sinh thái điển hình còn nguyên vẹn hoặc ít bị tác động của con người tối thiểu phải chiếm 1/3 diện tích của Vườn. Là khu vực mà mục tiêu bảo tồn bảo đảm được thực hiện và không bị thay đổi bởi những hoạt động bất lợi của con người. - Khu bảo tồn loài, sinh cảnh có đủ các điều kiện sau: Là vùng biển có một hay nhiều loài động, thực vật biển hoang dã, quý hiếm, đang bị đe dọa có nguy cơ tuyệt chủng; cú cỏc hệ sinh thái điển hình như san hô, cỏ biển, rừng ngập mặn, hay hệ sinh thái đầm phá, cửa sông còn nguyên vẹn hoặc ít bị tác động của con người, cần được quản lý, bảo vệ, bảo tồn. Diện tích của Khu bảo tồn loài, sinh cảnh nhỏ nhất không ít hơn 10.000 ha. Trong đó, vùng bảo vệ nghiêm ngặt tối thiểu phải chiếm 1/5 diện tích của Khu bảo tồn. Là khu vực mà mục tiêu bảo tồn bảo đảm được thực hiện và không bị thay đổi bởi những hoạt động bất lợi của con người. - Khu dự trữ tài nguyên thiên nhiên thủy sinh có đủ các điều kiện sau: Là vùng biển, nơi sinh cư của nhiều loài động, thực vật biển; cú cỏc bói đẻ hay khu vực tập trung các loài sinh vật biển chưa trưởng thành; nguồn giống bổ sung cho các vùng biển liền kề. Diện tích của Khu dự trữ tài nguyên thiên nhiên nhỏ nhất không ít hơn 10.000 ha. Trong đó, diện tích cỏc bói đẻ hoặc khu vực tập trung các loài sinh vật biển chưa trưởng thành tối thiểu phải chiếm 2/3 diện tích của Khu bảo tồn. Là khu vực mà mục tiêu bảo tồn bảo đảm được thực hiện và không bị thay đổi bởi những hoạt động bất lợi của con người. Từ các quy định này ta thấy để trở thành KBTB thỡ cỏc khu vực ven biển phải đạt được rất nhiều tiêu chí. Đây lại chính là rào cản cho các vùng ven biển có giá trị nhưng không có được đầy đủ các điều kiện này. Theo định nghĩa của IUCN đó nờu ở trên thỡ cỏc khu vực không đạt các điều kiện về KBTB đều có thể trở thành các khu bảo vệ biển. Tuy nhiên đây là khái niệm do IUCN đưa ra trong khi luật pháp Việt Nam chưa có bất cứ quy định nào về Khu bảo vệ biển mà chỉ đưa ra một số hướng dẫn trong quản lý vùng ven bờ. Do đó, các khu bảo vệ biển nếu được thành lập thì cũng sẽ không nhận được bất cứ quyền lợi nào về mặt pháp lý. Có chăng thì chỉ là sự hỗ trợ từ phía địa phương. Mặc dù khác nhau về quy mô diện tích nhưng mục tiêu, khó khăn, thách thức, cách thức quản lý… của KBTB và KBVB là hoàn toàn giống nhau. Do đó, trong phần phương pháp luận tuy nói về KBTB nhưng thực chất đó cũng là cơ sở lý luận về KBVB. 1.1.2. Mục tiêu KBTB Theo IUCN, mục tiêu của các KBTB là nhằm bảo tồn đa dạng sinh học và khả năng sinh sản (bao gồm sự sống sinh thái) của đại dương. IUCN cũng đã xác định mục tiêu cho mạng lưới các KBTB toàn cầu theo ngôn ngữ tiêu chuẩn trong Nghị quyết Đại hội đồng như sau: “Hỗ trợ bảo vệ, tái tạo, sử dụng một cách thông minh, am hiểu và tận hưởng vĩnh viễn các di sản biển trên thế giới thông qua việc thiết lập một hệ thống đại diện các KBTB toàn cầu và thông qua việc quản lý phù hợp với các nguyên tắc trong chiến lược bảo tồn thế giới về các hoạt động của con người có thể sử dụng hoặc ảnh hưởng tới môi trường biển”(Trích từ: Nghị quyết Đại hội đồng 17.38 năm 1998. Mục tiêu này cũng được lặp lại trong Nghị quyết Đại hội đồng 19.46 năm 1994 và trong nghị quyết tương tự của Đại hội hoang dã thế giới năm 1997). 1.1.3. Tính cấp thiết của việc thiết lập KBTB Việt Nam trải dài qua 13 vĩ tuyến theo hướng Bắc - Nam với khoảng 3260 km bờ biển và 2.700 đảo lớn nhỏ. Các hệ sinh thái nhiệt đới điển hình như rạn san hô, rừng ngập mặn, thảm cỏ biển phân bố rộng ở vùng ven biển và các đảo xa. Biển Việt Nam còn được coi là nơi có thành phần loài sinh vật khá cao, cung cấp nhiều nguồn lợi đáng kể. Nghề cá ở nước ta mang tính đa loài, giá trị các loài khác nhau nhiều. Ngoài nghề cá truyền thống, nhiều nguồn lợi mới mang lại lợi ích lớn. Biển và vùng ven biển nước ta còn cho một tiềm năng lớn về du lịch. Cảnh quan trên bờ và dưới nước ở vịnh Hạ long, Nha Trang,... đang thu hút du khách từ bốn phương. Nguồn lợi biển đã và đang được sử dụng với cường độ ngày càng cao. Cùng với quá trình tăng trưởng kinh tế, hoạt động của con người đã gây ra nhiều tác động đối với tài nguyên và môi trường biển. Có thể kể đến một số tác động chính sau đây: Khai thác quá mức: Nhờ các cải tiến về phương pháp đánh bắt và tăng số lượng, công suất tàu thuyền, sản lượng khai thác mỗi năm tăng. Tuy vậy, hiệu quả đánh bắt lại đang giảm. Những nguồn lợi có giá trị cao như tôm hùm, cá mú, hải sâm, bào ngư, cá ngựa,... được khai thác rất triệt để ở vùng nước nụng. Cỏc loài hiếm như rùa biển cũng bị khai thác làm thực phẩm. Sử dụng san hô làm mỹ nghệ rất phổ biến. Buôn bán cá cảnh biển phát triển kéo theo đánh bắt quá mức cá rạn san hô. Sự biến mất của một số loài có thể gây ra mất cân bằng sinh thái của các quần xã sinh vật biển. Đánh cá huỷ diệt: Đánh cá bằng chất nổ, chất độc gây mê cá đã trở lên phổ biến trong nhiều năm qua. Phá hoại các quần xã: Nghề nuôi tôm phát triển mạnh trong thời gian qua gắn liền với quá trình khai hoang rừng ngập mặn. Bên cạnh những tác động cơ học do hoạt động chủ động của con người, rạn san hô còn bị suy thoái do tăng lượng thải từ sông. Hoạt động trên đất liền làm tăng quá trình lắng đọng trầm tích và gây hại cho các rạn san hô ở cỏc vựng khỏc. Lắng đọng trầm tớch cũn do đánh cá bằng giã cào, nạo vét và xây dựng công trình ven biển. Hơn nữa, quần xã rạn san hô còn chịu ảnh hưởng tiêu cực của du lịch biển - một ngành mới phát triển. Ở vịnh Hạ Long, Nha Trang nhiều rạn đang bị phá huỷ do thả neo, bơi lặn và thu thập san hô, thân mềm làm lưu niệm. Sự suy thoái các quần xã không chỉ làm giảm các nguồn lợi và chất lượng môi trường mà còn liên quan đến tính bền vững của nguồn lợi vùng khơi. Trữ lượng của nhiều loài ở vùng xa bờ phụ thuộc chặt chẽ vào nguồn giống được cung cấp từ cỏc bói sinh sản, ương giống ven bờ. Nhiễm bẩn: Nhiễm bẩn biển chưa đến mức nghiêm trọng đối với tính đa dạng sinh học ở vùng ven bờ, ngoại trừ những nơi chịu ảnh hưởng lớn của sản xuất nông nghiệp hay công nghiệp. Tuy nhiên, sự giàu dinh dưỡng (chủ yếu là hàm lượng NO3 cao) đã được ghi nhận ở nhiều nơi. Sự nở hoa của tảo (trong đó cú cỏc loài tảo độc) cũng là một hệ quả của sự giàu dinh dưỡng và đã được quan sát thấy ở nhiều vùng ven biển ở Khánh Hoà, Bình Thuận, cửa sông Đồng Nai. Tính đa dạng sinh học và nguồn lợi biển nước ta đang chịu những tác động có hại. Vì vậy, vấn đề bảo tồn thiên nhiên và sử dụng lâu bền đang được các nhà quản lý, khoa học và cộng đồng quan tâm. Luật bảo vệ môi trường đặc biệt nhấn mạnh đến bảo tồn các hệ sinh thái và nghiêm cấm các hoạt động gây ảnh hưởng xấu đến môi trường. Trên thực tế, các luật lệ có hiệu lực rất thấp và tài nguyên biển đang suy giảm nghiêm trọng, các hệ sinh thái ven bờ tiếp tục bị huỷ diệt. Trong tỡnh hỡnh đú việc thiết lập các KBTB bao gồm các hệ sinh thái tiêu biểu với tính đa dạng sinh học cao là hết sức cần thiết nhằm giữ gìn một phần các quần thể sinh vật nguồn lợi và bảo tồn một phần các hệ sinh thái. KBTB là một phương thức hiệu quả, ít tốn kém để duy trì và quản lý nguồn lợi thuỷ sản, bảo vệ đa dạng sinh học và và đáp ứng nhu cầu sinh kế của con người. Kinh nghiệm trên thế giới cho thấy, mật độ sinh vật trong các khu bảo tồn biển tăng gấp đôi sau một thời gian thiết lập (thường là 5 năm), cung cấp ấu trùng và bổ sung hải sản non vào vùng biển xung quanh nhờ cỏc dũng hải lưu. Hệ sinh thái rạn san hô, hệ sinh thái cỏ biển và hệ sinh thái rừng ngập mặn cũng sẽ được khôi phục. Do vậy, nguồn lợi thuỷ sản không bị sụt giảm, dẫn đến tăng năng suất nghề cá. Ngoài ra, KBTB cũn có sức hấp dẫn đối với du khách, tạo điều kiện thuận lợi cho phát triển du lịch sinh thái, nghiên cứu khoa học và giáo dục cộng đồng. 1.1.4. Một số trở ngại khi triển khai KBTB Việt Nam là một nước đang phát triển có tốc độ tăng trưởng nhanh (GDP tăng 8 -9%/năm), phát triển kinh tế đang là ưu tiên của Chính phủ và cộng đồng. Đồng thời với mức sống được nâng cao, sức ép đối với tài nguyên và môi trường cũng gia tăng. Là một quốc gia biển với 70% dân cư sống ở vùng ven biển và các châu thổ, hoạt động kinh tế chủ yếu tập trung ở vùng ven biển và trên biển. Các khu vực đề xuất bảo tồn biển đang đứng trước các mối đe doạ với mức độ khác nhau. Tác động lớn nhất gây ra bởi khai thác nguồn lợi và du lịch biển thiếu kiểm soát. Tuy nhiên, điều đáng buồn là nhiều hành động vô ý thức cũng góp phần làm suy giảm tính đa dạng sinh học. Hiểu biết về bảo tồn thiên nhiên biển của cộng đồng và các nhà quản lý còn rất hạn chế. Dưới tầm nhìn của một số người, mục tiêu lợi nhuận vẫn được coi trọng hơn so với mục tiêu bảo tồn ngay cả trong kế hoạch thiếp lập KBTB. Các dự án phát triển ít khi quan tâm đến bảo tồn thiên nhiên và làm nảy sinh nhiều mâu thuẫn. Khó khăn về tài chính đã hạn chế đầu tư của Nhà nước cho việc nghiên cứu thiết lập và quản lý các KBTB. Hơn nữa, các mục tiêu dài hạn về bảo tồn thiên nhiên (ví dụ như giáo dục ý thức) ít khi nhận được sự hỗ trợ lớn của các nhà hoạch định chính sách. Cạnh tranh trong nội bộ và giữa các cộng đồng cũng làm tăng sức ép với cỏc vựng đề xuất bảo tồn biển. Do hạn chế về năng lực tàu thuyền, vùng ven bờ thường là các ngư trường chính. Ngư dân không muốn mất đi khu vực khai thác hàng ngày của họ. Điều này không thuận lợi cho kiểu quản lý dựa trên cơ sở cộng đồng. Một trở ngại khác là thiếu thông tin cần thiết liên quan đến việc thiết lập và quản lý KBTB. Các nghiên cứu cho đến nay chủ yếu tập trung về tính đa dạng sinh học mà chưa quan tâm nhiều đến các phương diện kinh tế-xã hội, tính hợp lý của hoạt động khai thác tài nguyên và đánh giá tác động môi trường. Cơ sở cho việc quy hoạch hệ thống KBTB chưa mang tính sinh thái cao do thiếu thông tin về các đặc trưng đa dạng sinh học và tài nguyên của các vùng biển. Đồng thời những khác biệt trong phân vùng chức năng giữa bảo tồn biển và trên cạn chưa được thống nhất. Thực chất, quản lý KBTB là quản lý tài nguyên và người sử dung tài nguyên. Tài nguyên nằm dưới nước, nhưng người sử dụng tài nguyên lại ở trên cạn. Vì vậy, không thể áp dụng máy móc nguyên tắc cho rằng bảo tồn biển chỉ lo phần dưới nước. Khái niệm vùng đệm đang sử dụng cho bảo tồn trên cạn cũng phải được hiểu rằng, đõy chớnh là vùng sinh sống của cộng đồng trờn cỏc đảo và vùng ven bờ. Vấn đề duy trì sự tồn tại của các KBTB sau khi thành lập cũng cần được suy nghĩ ngay từ bây giờ. Rõ ràng là đầu tư từ Nhà nước và các tổ chức quốc tế chỉ có được đáng kể ở giai đoạn đầu. Duy trì hoạt động bảo tồn trên biển chắc chắn sẽ khó khăn và tốn kém hơn nhiều so với trên đất liền. Giải quyết sinh kế cho cộng đồng ngư dân nghèo cũng là một vấn đề bức xúc của hoạt động bảo tồn biển. Các dự án bảo tồn chỉ có thể đóng góp bằng những hoạt động trong khuôn khổ bảo tồn biển. Trong đó, việc làm giàu nguồn lợi tự nhiên nếu quản lý tốt sẽ làm tăng nguồn thu nhập cho cộng đồng thông qua khai thác hợp lý. Những hổ trợ trực tiếp chỉ có thể đối với số ít ngư dân nghèo chịu ảnh hưởng do quy hoạch vựng khụng đánh bắt trong khu bảo tồn. Mặc dù việc thiết lập các KBTB đã được đề xuất vài năm trước đây, khả năng hiện thực hoá bị hạn chế do thiếu một cơ quan điều hành thống nhất cấp trung ương và chính sách quốc gia về bảo tồn thiên nhiên biển. Sự quan tâm riêng lẻ của các bộ, ngành, địa phương khó có thể dẫn đến thành công nếu không muốn nói là còn có tác dụng ngược lại. Một thách thức lớn là phải duy trì, quản lý và cải tạo những sinh cảnh quan trọng về đa dạng sinh học có vai trò chủ đạo đối với kinh tế địa phương và quốc gia, đặc biệt là những khu bảo tồn quan trọng cả về bảo tồn đa dạng sinh học cũng như đối với các cộng đồng ven biển mà phúc lợi và nguồn kiếm sống của họ phụ thuộc vào một môi trường biển và ven biển. Đầu tư vào hoạt động bảo tồn đa dạng sinh học ở Việt Nam có thể và nên được coi là những bước quan trọng để bảo đảm sự ổn định kinh tế tại miền duyên hải và là chất xúc tác cho những hoạt động cải thiện hơn nữa chất lượng môi trường, đồng thời tạo ra một cộng đồng bảo tồn và một công chúng được thông tin tốt hơn và ủng hộ hoạt động bảo tồn thiên nhiên. Như vậy, để hình thành hệ thống các KBTB ở Việt Nam còn rất nhiều việc phải làm và sẽ gặp không ít trở ngại. Theo các chuyên gia bảo tồn biển quốc tế, thực trạng ở nước ta hiện nay tương tự với Australia cách đây 20 năm hay với Indonesia 5-10 năm trước. Với nỗ lực của ngành thủy sản và phối hợp đồng bộ giữa các cơ quan nhà nước, các tổ chức quốc tế, các cộng đồng ven biển, hy vọng rằng việc thiết lập hệ thống bảo tồn biển và ven bờ sẽ được triển khai có hiệu quả, góp phần vào việc bảo vệ và duy trì bền vững nguồn lợi thủy sản của nước ta. 1.2. Vấn đề quản lý KBTB. 1.2.1.Hoạt động thiết lập và quản lý KBTB. 1.2.1.1. Tình hình nghiên cứu và thiết lập các khu bảo tồn biển trên thế giới Trong chiến lược bảo tồn tài nguyên thiên nhiên của thế giới (IUCN,1991) đã nhấn mạnh “con người tồn tại như một phần của tự nhiên, nếu không bảo tồn tự nhiên và tài nguyên thiên nhiên thì sẽ không có tương lai”. Chiến lược đã khẳng định rằng “bảo tồn không thể thành công nếu không có những kế hoạch quản lý, qui hoạch cụ thể và phát triển sinh kế bền vững cho cộng đồng sống xung quanh và trong khu bảo tồn”. Nội dung của chiến lược còn nhấn mạnh sự phụ thuộc lẫn nhau giữa bảo tồn và phát triển, chiến lược bảo tồn còn đưa ra một khái niệm đó là “Sự phát triển bền vững”. Trong đó, chiến lược bảo tồn thế giới đã nhấn mạnh vào 3 mục tiêu chính sau (IUCN, 1991): (1) Duy trì những tiến trình sinh thái quan trọng, (2) Bảo vệ đa dạng nguồn gen và (3) Sử dụng bền vững loài và các hệ sinh thái. Trên thực tế, cho đến nay nhiều nước trong khu vực Châu Á cũng đã có nhiều hoạt động nghiên cứu thiết lập các KBTB nhằm bảo tồn và sử dụng hợp lý nguồn lợi. Tính đến năm 1970, trên thế giới đó cú khoảng 118 KBTB ở 27 nước. Đến năm 1985 đó cú 470 KBTB ở 69 nước và 298 KBTB đang được đề nghị thành lập. Cho đến nay, trên toàn thế giới đã thống kê được trên 1310 KBTB, phân bố trong 18 vùng địa sinh vật biển, trong đó Việt Nam nằm ở vùng biển Đông á (vùng số 13) (Kellcher, 2001). Trong số 1310 KBTB đã được thống kê, có khoảng 640 KBTB được xác định là ưu tiên quốc gia về mặt bảo tồn đa dạng sinh học, 155 KBTB được xác định là có giá trị ưu tiên khu vực. KBTB đầu tiên trên thế giới được thành lập ở Florida (Mỹ) vào năm 1935 với 18.850 ha diện tích mặt biển và 35 ha vùng đất ven bờ. KBTB lớn nhất thế giới là Great Coral Reef ở Australia với diện tích 34,4 triệu ha. KBTB nhỏ nhất là khu dự trữ san hô đỏ ở Monaco và khu Doctor's Gully ở Australia (1ha). Tính tới năm 2002, Đông Nam Á có 310 KBTB và ven biển, trong đó Philippines có 280 khu. Khoảng 46% số KBTB không được quản lý hoặc quản lý lỏng lẻo, 28% được quản lý dưới mức trung bình, còn số khu được quản lý tốt chỉ đếm trên đầu ngón tay. Nếu so sánh với bảo tồn thiên nhiên trên đất liền thì vấn đề bảo tồn biển còn rất chậm. Hơn nữa, diện tích biển gấp khoảng 2,5 lần tổng diện tích đất liền của thế giới, nhưng cho đến nay mới chỉ khoảng 1 % diện tích biển là các khu bảo tồn biển được thiết lập (Salm & Clark, 2003). 1.2.1.2. Tình hình nghiên cứu và thiết lập các khu bảo tồn biển ở Việt Nam Việt Nam có 29 tỉnh ven biển với hơn 3260 km đường bờ biển với hơn 3000 đảo, vùng biển rộng khoảng 1triệu km², Việt Nam có 125 huyện có vị trí ven biển với khoảng 81.500 hộ dân tương đương với 17 triệu người, chiếm 17% diện tích cả nước. Vấn đề thiết lập các KBTB đã được đề cập từ những năm 1980 trong khuôn khổ của chương trình biển Nhà nước với các đề xuất hình thành các KBTB ở Côn Đảo, Cát Bà và Sinh Tồn. Trong thời kỳ 1992-1994, với sự hỗ trợ của WWF và Trung tâm Khoa học Tự nhiên và Công nghệ Quốc gia, Viện Hải dương học đã tiến hành các nghiên cứu về tính đa dạng sinh học, hiện trạng sử dụng nguồn lợi và tiềm năng bảo tồn thiên nhiên ở một số vùng và đề xuất 7 khu vực ưu tiên để thiết lập KBTB. Tất cả các khu vực đề xuất đều lấy rạn san hô làm trọng tâm vì tầm quan trọng của chúng về tài nguyên và môi trường. Bên cạnh đó, nhiều khu rừng ngập mặn đã được qui hoạch trong hệ thống bảo tồn rừng thuộc sự quản lý của Bộ Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn (Nguyễn Chu Hồi, 2000). Bộ Khoa học Công nghệ & Môi trường (nay là Bộ TN&MT) và Phân viện Hải dương học tại Hải Phòng (1998-1999) đã nghiên cứu cơ sở khoa học qui hoạch hệ thống KBTB Việt Nam với một danh mục 15 KBTB. Cho đến năm 1999, hệ thống gồm 15 KBTB này đã được đề nghị và trình Chính Phủ phê duyệt. Đó là: Danh sách các điểm được đề xuất thành KBTB: - Đảo Trần, đảo Cô Tô (Quảng Ninh) - Đảo Cát Bà, Bạch Long Vĩ (Hải Phòng) - Hòn Mê (Thanh Hoá) - Đảo Cồn Cỏ (Quảng Trị) - Sơn Trà - Hải Vân (Thừa Thiên Huế) - Cù Lao Chàm (Quảng Nam) - Đảo Lý Sơn (Quảng Ngãi) - Hòn Mun, Nam Yết (Khánh Hoà) - Hòn Cau, Đảo Phú Quý (Bình Thuận) - Côn Đảo (Bà Rịa - Vũng Tàu) - Phú Quốc (Kiên Giang) Bảng 1: Danh sách các điểm được đề xuất thành KBTB Cùng thời gian này, WWF và Ngân hàng Phát triển Châu Á (ADB) cũng đưa ra một kế hoạch các KBTB và ven biển Việt Nam. Kế thừa các kết quả nghiên cứu trên, Bộ Thuỷ sản (2000-2003) đã tiếp tục cập nhật thông tin kinh tế-xã hội và những thay đổi về quản lý ở 15 địa điểm đề xuất (chủ yếu bằng cách đánh giá nhanh) để rà soát lại qui hoạch và xây dựng qui chế quản lý các KBTB ở cấp quốc gia. Với sự tài trợ của Danida, WB-GEF và IUCN, dự án KBTB thí điểm Hòn Mun (2001-2005) đã tiến hành đánh giá đa dạng sinh học phục vụ lập kế hoạch quản lý khu bảo tồn này. Sự đầu tư vào KBTB Hòn Mun, Khánh Hoà (nay là KBTB vịnh Nha Trang) là một mô hình triển khai thử nghiệm. Sau 5 năm hoạt động, KBT Hòn Mun đã được các chuyên gia của Bộ Thuỷ sản, Chính phủ Đan Mạch, Ngân hàng Thế giới, WWF và IUCN đánh giá là một mô hình khá thành công và đạt được những hiệu quả tốt về bảo tồn biển, đây là một minh chứng khả thi cho việc thiết lập và quản lý các KBTB ở Việt Nam. Đến năm 2003-2004, Viện Nghiên cứu Hải sản phối hợp với Phân viện Hải dương học tại Hải Phòng tiến hành khảo sát, nghiên cứu bổ sung cơ sở khoa học cho việc quy hoạch và quản lý hai KBTB Cát Bà và Cụ Tụ. Nội dung chủ yếu là khảo sát đa dạng sinh học, rạn san hô, thảm rong cỏ biển, hệ sinh thái rừng ngập mặn và hệ sinh thái vùng triều. Kết quả nghiên cứu đã xây dựng quy hoạch và đề xuất kế hoạch quản lý tài nguyên trong KBTB Cát Bà và Cụ Tụ. Tuy nhiên, vẫn còn nhiều vấn đề phức tạp liên quan đến những khiếm khuyết lớn trong hệ thống khu bảo tồn hiện nay. Ngoại trừ một vài KBT có kế hoạch quản lý thì Việt Nam vẫn còn thiếu một chương trình dành cho các KBTB và ven biển. 1.2.2. Các mô hình quản lý KBTB Hiện nay ở Việt Nam mô hình quản lý KBTB chủ yếu là mô hình quản lý theo ngành dọc có sự tham gia của cộng đồng. Tuy nhiên, ở trên thế giới người ta còn quản lý theo một mô hình khác đó là mô hình do địa phương tự quản lý và mô hình này đã được đưa vào thử nghiệm ở Việt Nam tại Khu bảo vệ hệ sinh thái biển Rạn Trào, Khỏnh Hũa. Sau đây là phần giới thiệu về hai mô hình quản lý này. 1.2.2.1. Mô hình quản lý theo ngành dọc có sự tham gia của cộng đồng Mô hình này còn được gọi là mô hình quản lý từ trên xuống (top down modeling). Các cơ quan chính phủ chủ chốt có liên quan đến chính sách và quản lý các KBTB bao gồm Bộ Kế hoạch và Đầu tư, Bộ NN&PTNT, Bộ TN&MT, Bộ Văn hóa- thể thao&du lịch, UBND tỉnh. - Bộ NN&PTNT: có trách nhiệm chủ trì, phối hợp với các Bộ, ngành, tổ chức liên quan để xõy dựng, trình Thủ tướng Chính phủ phê duyệt quy hoạch và tổ chức thực hiện quản lý hệ thống các KBTB. Xây dựng, trình Thủ tướng Chính phủ các dự án thiết lập và trực tiếp tổ chức quản lý các KBTB có tầm quan trọng quốc gia, quốc tế hoặc liên quan đến nhiều ngành, nằm trên địa bàn nhiều tỉnh. Chỉ đạo, hướng dẫn các địa phương xây dựng các dự án thiết lập và kế hoạch quản lý, quy chế quản lý các KBTB được phân cấp. - Bộ KH&ĐT: thông qua quá trình lập ngân sách hàng năm chịu trách nhiệm xác định mức cấp kinh phí và thỏa thuận phân bổ ngân sách trong đó có ngân sách cho các KBTB với các bộ chuyên ngành và các tỉnh. - Bộ TN&MT: chịu trách nhiệm về công ước RAMSAR, Công ước về đa dạng sinh học, điều phối việc thực hiện Kế hoạch hành động đa dạng sinh học của Việt Nam. - Bộ văn hóa, thể thao, du lịch: Cùng với bộ NN&PTNT chịu trách nhiệm bảo vệ Di sản tự nhiên thiên nhiên thế giới cùng với chính quyền tỉnh. - Các bộ có nhiệm vụ điều phối về mặt kỹ thuật tới các sở trực thuộc bộ. - UBND tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương ven biển: Căn cứ Quy chế này và hướng dẫn của Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn, chỉ đạo các cơ quan chức năng của địa phương xây dựng các dự án thiết lập, kế hoạch quản lý và quy chế quản lý các KBTB được phân cấp. Tổ chức quản lý các KBTB được phân cấp; hướng dẫn các Ban quản lý KBTB xây dựng quy chế, nội quy cụ thể để quản lý các KBTB: chịu trách nhiệm quản lý một số vườn quốc gia và các khu bảo tồn thiên nhiên. - Nhà tài trợ thường là các tổ chức phi chính phủ (NGOs): Họ có thể là những nhà tài trợ, nhà tư vấn cho quá trình thiết lập quản lý KBTB hoặc là người xây dựng nên những mô hình sinh kế bền vững cho người dân địa phương. - Cộng đồng người dân: Càng ngày người ta càng nhận ra tầm quan trọng của người dân địa phương trong việc thiết lập quản lý KBTB. Họ là những người bị ảnh hưởng trực tiếp do việc bảo tồn đồng thời các hoạt động sinh kế hàng ngày của họ cũng tác động ngược lại tới công tác bảo tồn. Do đó, để việc bảo tồn đạt hiệu quả thì cần phải phối hợp Nhà nước và nhân dân cùng làm. Nghị định số 57/2008/NĐ-CP đã nêu rõ vai trò của cộng đồng trong quá trình xây dựng và quản lý các KBTB đó là: Công tác truyền thông, giáo dục, nâng cao nhận thức về bảo vệ và bảo tồn đa dạng sinh học; Quan trắc, tuần tra và bảo vệ KBTB; Nghiên cứu khoa học và đào tạo trong KBTB; Dịch vụ du lịch sinh thái trong các KBTB. Các hoạt động trên phải tuân thủ các quy định của pháp luật và nội quy của Ban quản lý KBTB. Có thể tóm tắt mô hình quản lý từ trên xuống trong sơ đồ sau: Chính phủ Bộ văn hóa, thể thao& du lịch Bộ TN&MT Bộ NN&PTNT Bộ KH&ĐT UBND tỉnh Sở NN&PTNT+Sở thủy sản Sở TN&MT Sở văn hóa, thể thao&du lịch Sở KH&ĐT Cộng đồng người dân Nhà tài trợ (NGO) KBTB Mối liên hệ hành chính. Mối liên hệ kỹ thuật. Hình 3: Mô hình quản lý ngành dọc có sự tham gia của cộng đồng Ngoài ra, giữa các bộ, ban, ngành; các sở có liên quan cần phải có sự bàn bạc, phối hợp và trao đổi thông tin với nhau để đảm bảo tính thống nhất hạn chế sự chồng chéo trong quản lý. 1.2.2.2. Mô hình do cộng đồng địa phương quản lý Đõy còn được gọi là mô hình từ dưới lên (bottom up modelling). Điểm xuất phát của mô hình là từ phía cộng đồng địa phương bao gồm UBND quận/huyện, UBND phường/xã và đại diện cộng đồng do người dân địa phương bầu ra. - UBND tỉnh là người chịu trách nhiệm trong việc phê duyệt dự án, phê duyệt quyết định thành lập và phê duyệt các đệ trình từ phía địa phương hoặc nhà tài trợ nếu dự án này đã được duyệt. UBND tỉnh còn là người đưa ra quyết định cho các cơ quan cấp tỉnh liên quan như: sở thủy sản (nay là sở NN&PTNT).... hỗ trợ về mặt kỹ thuật cho KBTB. - UBND quận/huyện cùng UBND xã, nhà tài trợ, người dân địa phương xây dựng và trình UBND tỉnh đề án KBTB; ban hành quy chế quản lý; ban hành quyết định thành lập, điều lệ tổ chức hoạt động của Ban quản lý và ban hành quyết định thành lập các tổ nhúm chớnh trong cộng đồng người dân vì mục đích bảo tồn. - UBND phường/xó: tham gia xây dựng đề án, xây dựng quy chế KBTB. Xõy dựng các tổ nhúm chớnh trong cộng đồng người dân vì mục đích bảo tồn. Tổ chức quản lý, kiểm tra, giám sát hoạt động của các tổ nhóm này. - Cộng đồng địa phương tại phường/xó: Tham gia xây dựng đề án, xây dựng quy chế KBTB, quyết định các hoạt động sẽ tiến hành tại KBTB, trực tiếp lập kế hoạch quản lý, bảo tồn KBTB. Là người nằm trong các tổ nhóm có liên quan đến bảo tồn được thành lập tại địa phương. - Các đơn vị có liên quan tại địa phương như: Đồn biên phòng, Trạm bảo vệ nguồn lợi thủy sản có vai trò đóng góp ý kiến cho việc thành lập và quản lý KBTB. Họ cũng có đại diện tham gia vào các tổ nhóm tại địa phương. - Nhà tài trợ (NGO): đóng vai trò là người đồng hành, nhà tư vấn trong tất cả các hoạt động của KBTB. Xác định vấn đề Xây dựng dự án Phê duyệt Dự án UBND tỉnh UBND quận/huyện & UBND phường/xã Cộng đồng địa phương tại phường/xã Nhà tài trợ (NGO) KBTB Nhóm đại diện cộng đồng Trạm bảo vệ NLTS địa phương Các đơn vị có liên quan khác: Đồn biên phòng... Các cơ quan cấp tỉnh liên quan tỉnh Hình 4: Mô hình do địa phương quản lý Đây là mô hình lần đầu tiên được thử nghiệm tại Việt Nam nên vẫn chưa có khung thể chế hay tài liệu chính thức nào quy định về mô hình này. Do đó, mô hình trên chỉ mang tính chất khái quát từ mô hình thực tế. Trong Chương 2 sẽ trình bày cụ thể hơn về mô hình do địa phương quản lý tại KBVHST Rạn Trào. 1.2.2.3. So sánh 2 mô hình Từ 2 mô hình trên ta có thể thấy được một số điểm khác biệt giữa chúng. Dưới đây là bảng so sánh 2 mô hình thông qua các tiêu chí điển hình sau : Mô hình Tiêu chí Mô hình quản lý ngành dọc có sự tham gia của cộng đồng Mô hình do cộng đồng địa phương quản lý Cách tiếp cận Xuất phát điểm là từ cơ quan Nhà nước và có sự hợp tác của cộng đồng Mô hình bắt đầu từ phía cộng đồng địa phương Cơ sở thiết lập KBTB Nhà nước thấy được sự cần thiết nên cùng các cơ quan chức năng tiến hành quy hoạch và thành lập các KBTB Nhà tài trợ tư vấn và cộng đồng là người đưa ra quyết định có thành lập KBTB hay không Vai trò của cộng đồng địa phương Sau khi KBTB được thành lập thì cộng đồng mới bắt đầu được tham vấn ý kiến trong bước lập kế hoạch hoạt động của dự án Họ là người đưa ra mọi quyết định từ việc chọn địa điểm xây dựng KBTB, phân vùng bảo vệ. Họ cũng là người trực tiếp lập kế hoạch quản lý, bảo vệ KBTB. Tuy nhiên, vai trò của nhà tài trợ là không thể thiếu, họ cũng là nhà tư vấn góp ý kiến để các hoạt động đạt hiệu quả Quyền quyết định hoạt động trong KBTB Người dân được tham vấn ý kiến tuy nhiên Nhà nước là người đưa ra quyết định Người dân trực tiếp quyết định mọi hoạt động nhưng phải tuân thủ quy chế KBTB và trong khuôn khổ quy định của pháp luật Hoạt động tài chính Được Nhà nước phân bổ ngân sách hàng năm cùng với đầu tư từ phía các nhà tài trợ Đầu tư từ phía nhà tài trợ, hỗ trợ từ phía UBND huyện, UBND xã và đóng góp từ phía người dân. Bảng 2: Bảng so sánh hai mô hình 1.3. Các cách thức tiến hành đánh giá hiệu quả của 1 KBTB Mỗi dự án thường đặt ra các mục tiêu khác nhau. Tùy thuộc vào mỗi mục tiêu lại cú cỏc chỉ tiêu đánh giá khác nhau. Dưới đây là các chỉ tiêu đánh giá theo các tiêu chí của dự án. 1.3.1. Đánh giá theo tiêu chí kinh tế Đứng trên góc độ của các nhà kinh tế thì mục đích chính của phát triển kinh tế là tạo nên sự dồi dào về của cải vật chất phục vụ cuộc sống của con người. Theo đú thỡ phát triển kinh tế được đặt lên hàng đầu, lấn át tất cả các yếu tố khác của sự phát triển như : xã hội, văn hóa, môi trường... Để đạt mục đích phát triển kinh tế, con người tìm mọi cách phát triển công nghiệp, nông nghiệp, thương nghiệp, mục tiêu mà kinh tế theo đuổi là tốc độ tăng trưởng, tốc độ tăng của các hàng hóa và dịch vụ. Thậm chí khuynh hướng ‘‘ phát triển với bất cứ giá nào’’ đó cú giai đoạn được hưởng ứng rộng rãi trong lịch sử phát triển của loài người. Quan điểm khá phổ biến vào thời kỳ đó là ‘‘tạm thời’’ hy sinh tính công bằng xã hội và môi trường để có được tốc độ tăng trưởng nhanh. Điều đó có nghĩa là phải chấp nhận một sự bất bình đẳng trong xã hội và sự suy thoái về môi trường nào đó. Sau khi đạt được trình độ phát triển kinh tế cao, lúc bấy giờ sẽ có điều kiện để khắc phục dần bất bình đẳng về phân phối thu nhập trong xã hội và làm trong sạch lại môi trường. Tuy nhiên, tùy theo quy mô dự án, loại dự án, mục đích dự án thì chúng ta sẽ cú cỏc chỉ tiêu kinh tế tương ứng. Sau đây là một số chỉ tiêu đánh giá dự án: 1.3.1.1. Đánh giá thông qua chỉ tiêu kinh tế đơn thuần Các chỉ tiêu này thường dùng để đánh giá cho những dự án mà mục tiêu của dự án là bằng mọi giá phải phát triển được kinh tế. Liên quan đến các dự án vùng biển có thể kể ra một số chỉ tiêu kinh tế đơn thuần là : - Doanh thu tăng do nguồn lợi thủy hải sản ngày càng tăng. Để phục vụ mục đích này con người sẽ sử dụng nhiều phương pháp đánh bắt mới để tăng công suất đánh bắt. Thậm chí là đánh bắt mang tính chất hủy diệt hàng loạt kể cả những con giống nhỏ, những loài cần được bảo vệ. - Tăng doanh thu từ khai thác tự nhiên tại vùng ven biển bằng cách tăng thời gian khai thác và số người vào khai thác. - Tăng doanh thu bằng cách đưa các biện pháp nuôi trồng trước mắt cho năng suất cao nhưng lại gây ảnh hưởng không tốt đến môi trường và về lâu dài sẽ gây ra những tổn thất cho xã hội. ∑TR= ∑∆Pi*Qi Có thể tóm tắt tiêu chí này bằng công thức : ∑TR: Tổng doanh thu ∆Pi: Mức tăng sản lượng loại i Qi: Giá loại i Hầu như chỉ tiêu kinh tế đơn thuần dùng để đánh giá ở các khu vực ven biển đều giống nhau. Tuy nhiên, chúng vẫn khác nhau trong cỏch tớnh ∆Pi. 1.3.1.2. Đánh giá thông qua chỉ tiêu kinh tế tổng hợp Việc đánh giá tổng hợp thường được thực hiện thông qua 3 phương pháp là phương pháp phân tích tài chính, phương pháp chi phí hiệu quả và phương pháp phân tích kinh tế. Phân tích tài chính : Phân tích tài chính được thực hiện để xem xét khả năng sinh lợi về mặt tài chính của dự án đối với người thực hiện dự án. Việc phân tích này nhằm mục đích ngăn chặn các dự án xấu, bảo vệ các dự án tốt không bị bác bỏ và mức độ rủi ro có thể xảy ra. Thông thường cần tiến hành phân tích tài chính nếu đầu ra của dự án có thể được bỏn trờn thị trường hoặc được đánh giá theo giá cả thị trường. Điều này luôn cần thiết với các dự án tư nhân và dự án kinh doanh của chính phủ. Tính khả thi của dự án được đánh giá thông qua chỉ tiêu NB (lợi ích ròng) NB=∑B- ∑C Theo đú thỡ lợi ích ròng bằng tổng lợi ích thu về (∑B) trừ tổng chi phí (∑C). Lợi ích tài chính của dự án chỉ là doanh thu mà dự án nhận được (thực thu) và chi phí tài chính là các khoản chi tiêu mà cơ quan (đơn vị) thực hiện thực sự chi ra (thực chi). Trong phân tích tài chính, tất cả các khoản thu- chi được đánh giá như chúng thể hiện trong bảng cân đối tài chính của dự án và được đo lường theo giá cả thị trường- giá này là giá theo nền kinh tế trong nước đó tớnh cỏc khoan thuế, hoa hồng. Các lợi ích- chi phí này đều xột trờn quan điểm tư nhân. Phân tích chi phí- hiệu quả (CEA): Kết quả chỉ tiêu chi phí- hiệu quả được sử dụng để lựa chọn dự án có thể tạo ra cùng một kết quả nhất định với chi phí sản xuất thấp nhất (xếp hạng các dự án được thiết kế có cùng một kết quả theo chi phí của các dự án này) hoặc lựa chọn dự án có thể tạo ra kết quả lớn nhất với cùng mức chi phí (xếp hạng theo số lượng kết quả mà dự án có thể tạo ra với cùng một khoản ngân sách cố định). Phương pháp này có 2 chỉ tiêu tương ứng là chỉ tiêu về tổng chi phí theo giá thị trường (∑C) khi mục đích các phương án là như nhau hoặc tổng lợi ích theo giá thị trường (∑B) khi chi phí các phương án bỏ ra là như nhau. Phân tích kinh tế hay phân tích chi phí- lợi ích (CBA) - Khái niệm: Phân tích chi phí- lợi ích là một phương phỏp/cụng cụ dùng để đánh giá và so sánh các phương án cạnh tranh dựa trên quan điểm xã hội nói chung nhằm cung cấp thông tin cho việc ra quyết định lựa chọn phân bổ nguồn lực hiệu quả nhất. - CBA lựa chọn các phương án theo mục tiêu phúc lợi kinh tế để chỉ ra phương án nào cải thiện phúc lợi kinh tế nhiều nhất tức là sự gia tăng trong tổng phúc lợi xã hội được đo bằng sự gia tăng lợi ích ròng tạo ra từ sản xuất và tiêu dùng các hàng hóa và dịch vụ. - Các bước thực hiện CBA: Bước 1 : Nhận dạng vấn đề. Trong quá trình phát triển, xã hội sẽ phải đối mặt với các vấn đề cần phải đưa ra quyết định lựa chọn. Việc xác định vấn đề cần ra quyết định là bước đầu tiên trong CBA. Ngoài ra cũng cần phải xác định phạm vi phân tích: địa phương, vùng, tỉnh hay quốc gia. Một dự án đáng giá sẽ đóng góp vào phúc lợi kinh tế của quốc gia, có khả năng làm cho mọi người đều được lợi (tốt hơn so với không có dự án). Tuy nhiên, thường không phải ai cũng được hưởng lợi từ dự án mà một số người sẽ bị thiệt. Hơn nữa, những nhóm người được lợi từ dự án lại không nhất thiết là những người phải chịu chi phí của dự án. Cho nên người phân tích phải đặt và trả lời các câu hỏi như sau : Dự án sẽ có những tác động như thế nào: địa phương, vùng, tỉnh, quốc gia hay toàn cầu. Nếu nguồn tài trợ cho dự án là của chính phủ thỡ cú nên xem xét tính đến các lợi ích và chi phí phát sinh bên ngoài quốc gia hay không. Thông thường các chính phủ thực hiện phân tích dựa trên quan điểm quốc gia, tính lợi ích và chi phí phát sinh trong một quốc gia nhất định. Ngày nay với xu hướng hội nhập, toàn cầu hóa và nhiều vấn đề về môi trường đang phát sinh mang tính toàn cầu cho nên cũng có nhiều ý kiến đề xuất phân tích theo quan điểm toàn cầu. Tuy nhiên, thông thường việc xác định phạm vi phân tích tùy thuộc vào ai là người tài trợ chính của dự án hay chương trình cụ thể. Bước 2 : Xỏc định cỏc phương án. Thông thường mỗi dự án, chương trình hay chính sách có thể có rất nhiều phương án để chọn lựa. Cú cỏc khó khăn sau đây : Xác định số lượng các phương án tùy thuộc vào số tiêu chí (đặc điểm) cần xem xét đối với mỗi dự án cụ thể. Theo Boardman (2001), nếu có ‘‘a’’ tiêu chí, mỗi tiêu chí có k mức giá trị sẽ cú kê phương án. Xác định quy mô dự án. Phân tích chi phí- lợi ích so sánh lợi ích xã hội ròng của việc đầu tư nguồn lực vào một dự án cụ thể với lợi ích xã hội ròng của một dự án giả định nào đó. Thông thường dự án giả định đó gọi là hiện trạng. Bước 3 : Nhận dạng các lợi ích và chi phí. Trong bước này, tất cả các loại tác động trực tiếp hay gián tiếp, hữu hình hay vô hình đều phải được xác định. Đồng thời cũng xác định các đơn vị đo lường các lợi ích và chi phí đó. Trong phân tích lợi ích- chi phí, các nhà phân tích chỉ quan tâm đến các tác động có ảnh hưởng đến sự thỏa dụng của cỏc cỏc nhõn thuộc phạm vi quan tâm của dự án. Những tác động không có giá trị gì đối với con người thì không được tính trong phân tích lợi ích- chi phí. Nói cách khác, muốn xác định một tác động nào đó của một dự án người phân tích cần tìm hiểu mối quan hệ nhân quả giữa tác động đó với sự thỏa dụng của những người thuộc phạm vi ảnh hưởng. Bước 4 : Lượng húa cỏc lợi ích và chi phí trong suốt vòng đời dự án. Sau khi xác định được tất cả các lợi ích và chi phí có thể có của dự án cũng như đơn vị đo lường tương ứng, người phân tích phải lượng húa chỳng cho suốt vòng đời dự án cho từng phương án. Tuy nhiên, một khả năng có thể chấp nhận được là nếu những tác động rất khó lượng hóa hay đo lường chính xác được như tác động về văn hóa, xã hội người phân tích có thể cung cấp các thông tin dạng mô tả về chúng. Ngoải ra, cũng có những trường hợp cần đến các giả định nào đó có thể ước lượng được. Bước 5: Quy ra giá trị bằng tiền các lợi ích và chi phí. Đây là nhiệm vụ chính của các nhà kinh tế thực hiện phân tích lợi ích- chi phí. Khi có được lượng các tác động của dự án người phân tích phải gán cho chúng một giá trị bằng tiền để có thể so sánh được. Thực hiện bước này đòi hỏi người phân tích phải trang bị lượng kiến thức nhất định về các phương pháp đánh giá các lợi ích và chi phí trong trường hợp có giá cả thị trường (giá ẩn= giá tài chính sau khi đã điều chỉnh biến dạng,...) và trong trường hợp không có giá thị trường hay không có thị trường (giá kinh tế= giá sẵn lòng trả, chi phí cơ hội). Đây là bước quan trọng nhất trong quy trình thực hiện phân tích chi phí- lợi ích. Bước 6 : Chiết khấu các lợi ích và chi phí, tính hiện giỏ rũng NPV. Một dự án cú cỏc dũng lợi ích và chi phí phát sinh trong các thời điểm khác nhau không thể so sánh trực tiếp được nên người phân tích phải tổng hợp chúng lại để có thể so sánh được. Thông thường các lợi ích và chi phí tương lai phải được chiết khấu để đưa về giá trị tương đương ở hiện tại để có cơ sở chung cho việc so sánh. Có một số tiêu chí có thể được áp dụng để có thể được so sánh lợi ích và chi phí của một phương án cụ thể. Hiện giỏ rũng (NPV) bằng hiện giỏ rũng của lợi ích trừ hiện giỏ rũng của chi phí. Nếu lớn hơn 0 thì đó là một dự án đáng giá và ngược lại. Tiêu chí thứ 2 là tỷ số lợi ớch/chi phớ nếu lớn hơn 1 là dự án đáng giá. Ngoài ra, tỷ suất sinh lợi nội hoàn (IRR) cũng là một tiêu chí quan trọng, nếu lớn hơn suất chiết khấu xã hội được chọn thì đó là một dự án tốt. Bước 7 : Thực hiện phân tích độ nhạy. Bất kỳ phân tích chi phí- lợi ích nào cũng hàm chứa sự không chắc chắn và người phân tích thường có một số giả định nào đó về giá trị các lợi ích và chi phí. Phân tích độ nhạy đòi hỏi sự nới lỏng các giả định cho chúng thay đổi ở nhiều mức độ khác nhau có thể có và tính toán lại các lợi ích, chi phí. Nói cách khác, trong phân tích độ nhạy người phân tích thay đổi giá trị của một hay nhiều biến quan trọng liên quan đến dũng ngõn lưu kinh tế của dự án và xem kết quả (NPV, IRR,...) thay đổi như thế nào để có cơ sở quyết định lựa chọn. Bước 8 : Đề xuất dựa trên kết quả NPV và phân tích độ nhạy. Từ kết quả trên người ta phân tích nên đề xuất phương án được ưa thích nhất. Phương án được ưa thích nhất là phương án có lợi ích xã hội ròng lớn nhất. Lưu ý rằng người ra phân tích đề xuất phương án tốt nhất một cách khách quan dựa vào sự tối đa hóa hiệu quả hay phúc lợi kinh tế chứ không phải phương án do mình ưa thích. Phương pháp CBA thường được dùng để thẩm định các dự án tư nhân thuần túy theo quan điểm xã hội. Thẩm định các dự án cụng: cỏc dự án cung cấp vốn vật chất như cơ sở hạ tầng (cầu, đường, thủy điện, truyền thông), phát triển nông nghiệp; các dự án làm tăng trữ lượng vốn môi trường (cải tạo đất, kiểm soát ô nhiễm, quản lý và khai thác thủy sản, xây dựng các công viên quốc gia); các dự án đầu tư phát triển vốn nhân lực như sức khỏe, giáo dục, kỹ năng và phát triển vốn xã hội như ngăn chặn tội phạm, cai nghiện ma túy, giảm thất nghiệp.... 1.3.2. Đánh giá theo tiêu chí xã hội Xã hội theo đuổi mục đích chính là tạo nên phẩm chất tốt đẹp của từng con người và những giá trị văn hóa cho toàn xã hội. Trong đó phát triển giáo dục, y tế, văn hóa, cải tiến quản lý hành chính chính trị, tăng cường phúc lợi xã hội là những tiêu chí quan trọng mà xã hội lựa chọn. Ngoài ra có thể đánh giá thông qua các tác động của dự án tới việc thực hiện công bằng xã hội, bình đẳng giới, thực hiện chính sách giảm nghèo, chính sách đối với vùng dân tộc và cỏc nhúm xã hội bất lợi khác. Đối với KBTB tiêu chí mà xã hội đặt ra là có được những cơ chế quản lý phù hợp để làm tăng tối đa phúc lợi xã hội thông qua các hoạt động khai thác tài nguyên. Từ đó nâng cao mức sống, tăng thu nhập, tạo ra nhiều công ăn việc làm và có thể giữ được những giá trị văn hóa truyền thống. Cải thiện công bằng xã hội là cải thiện trong phân phối lợi ích ròng giữa cỏc cỏc nhõn trong xã hội và thường đựoc giải thích bằng sự gia tăng cơ hội cho những người bị thiệt. Do đó, các chỉ tiêu được dùng ở đây có thể là chỉ tiêu về mức tăng việc làm, mức độ bình đẳng giới, mức tăng thu nhập người nghèo... 1.3.3. Đánh giá theo tiêu chí môi trường Mục tiêu mà môi trường theo đuổi là bảo đảm môi trường sống trong lành cho con người, các loài động thực vật, bảo tồn đa dạng sinh học, bảo tồn các nguồn tài nguyên thiên nhiên. Đối với khu vực ven biển người ta đặc biệt chú trọng tới khả năng làm giảm sự phụ thuộc tiêu cực vào tài nguyên biển, giảm tình trạng tiếp cận tự do, thúc đẩy việc bảo vệ phát triển tài nguyên biển theo hướng bền vững. Theo đó tiêu chí môi trường đặt ra đối với các KBTB là : Đảm bảo để các nguồn lợi thủy sản được sinh sôi nảy nở tự nhiên, cấm mọi hoạt động khai thác từ bên ngoài. Với tiêu chí này ta có thể đánh giá thông qua chỉ tiêu về mức độ tăng cá thể thủy sản tại nơi đó. Đảm bảo chất lượng nước tại khu vực này nhằm làm tăng hiệu quả nuôi trồng. Tương ứng tiêu chí này ta có chỉ tiêu về mức giảm nồng độ các chất gây ô nhiễm trong nước hoặc mức tăng thủy sản nuôi trồng khi chất lượng nước tốt hơn. Ngoài ra còn một số loại phân tích khác như phân tích phân bổ lợi ích, phân tích chính trị hay phân tích luật lệ đối với dự án. 1.4. Sự phù hợp khi sử dụng CBA làm công cụ phõn tớch đánh giá hiệu quả kinh tế mô hình quản lý KBTB. Để khẳng định sự phù hợp của công cụ CBA trong việc đánh giá hiệu quả kinh tế mô hình KBTB do địa phương tự quản lý ta sẽ dùng phương pháp loại trừ các phương pháp khác và nêu lên sự phù hợp của công cụ CBA. Xuất phát từ mục đích chính của KBTB là bảo tồn tính đa dạng sinh học của khu vực đó. Nhưng để đạt được mục đích này thì song song với việc bảo tồn cần phải tạo ra các sinh kế bền vững, tạo ra sự bình đẳng về giới, sự công bằng giữa các đối tượng trong khu vực bảo tồn. Nghĩa là phải đặt ra cả mục tiêu về kinh tế, xã hội hay mục tiêu phát triển bền vững. Do đó không thể chí đánh giá theo chỉ tiêu xã hội, môi trường hay chỉ tiêu kinh tế đơn thuần mà cần đánh giá theo các chỉ tiêu tổng hợp. Ta cần lựa chọn giữa 3 phương pháp là phân tích chi phí hiệu quả, phân tích tài chính và phân tích lợi ích- chi phí. Tuy nhiên, đây là dự án về xây dựng Khu bảo tồn biển nghĩa là ta lựa chọn giữa việc có xây dựng KBTB đó hay không. Nếu không xây dựng thì lợi ích hay chi phí đều bằng 0 do đó không thể so sánh được chi phí của phương án nào là nhỏ nhất vì lợi ích thu được là không như nhau và ngược lại cũng không thể so sánh được lợi ích của phương án nào là lớn nhất vì chi phí là không như nhau. Do đó, trong trường hợp này ta chỉ có thể so sánh thông qua lợi ích ròng. Như vậy chỉ còn lại 2 công cụ là phân tích tài chính và CBA. Có 2 loại dự án chính là dự án sản xuất kinh doanh và dự án vì mục đích cụng. Cỏc dự án sản xuất kinh doanh thì đều dùng phân tích tài chính. Các dự án vì mục đích công cũng cần phân tích tài chính tuy nhiên họ còn tiến hành phân tích kinh tế để có được sự hỗ trợ của chính phủ. Để thấy được tính ưu việt của công cụ CBA so với công cụ phân tích tài chính ta có thể xem bảng so sánh 2 công cụ theo một số tiêu chí như sau : Tiêu chí Phân tích chi phí- lợi ích Phân tích tài chính Quan điểm Toàn xã hội (cộng đồng) Cá nhân, doanh nghiệp (quan điểm chủ sở hữu hoặc quan điểm tổng đầu tư) Mục tiêu Tối đa hóa phúc lợi kinh tế (quốc gia) (NPV kinh tế) Tối đa hóa lợi nhuận, lợi tức cổ đông hay giá trị cổ phiếu (NPV tài chính) Phạm vi áp dụng Chủ yếu là các dự án công, kể cả chương trình hay chính sách (một số dự án tư nhân cần sự hỗ trợ của chính phủ) Chủ yếu là các dự án tư nhân (các dự án công cũng cần thực hiện phân tích tài chính) Đo lường lợi ích và chi phí Giá ẩn, giá kinh tế (điều chỉnh biến dạng hoặc không có giá thị trường) Giá thị trường Lợi ích chi phí Cả có giá và không có giá thị trường Có giá và có liên quan đến dự án Lợi ích và chi phí ngoại ứng Đưa vào tính (rất quan trọng) Không quan tâm Bảng 3: Bảng so sánh phân tích chi phí- lợi ích với phân tích tài chính Qua bảng trên ta thấy được sự khác biệt giữa 2 phương pháp phân tích. Hơn nữa, xây dựng KBTB được coi là dự án công do đó chi phí và lợi ích của dự án không chỉ về mặt kinh tế mà còn về mặt xã hội và môi trường do đó phân tích tài chính sẽ không đánh giá hết được các chi phí và lợi ích. Từ đó ta thấy việc áp dụng công cụ CBA trong đánh giá hiệu quả kinh tế mô hình quản lý KBTB là vô cùng phù hợp. CHƯƠNG II: THỰC TRẠNG MÔ HÌNH QUẢN LÝ TẠI KHU BẢO VỆ HỆ SINH THÁI BIỂN RẠN TRÀO 2.1. Tổng quan về KBVHSTB Rạn trào Dự án KBV Rạn Trào được IMA (liên minh sinh vật biển quốc tế) tài trợ và từ 2004 đến nay thì nhà tài trợ chính là MCD (trung tâm bảo tồn sinh vật biển và phát triển cộng đồng). Dự án chính thức được UBND tỉnh Khỏnh Hũa phê duyệt vào 25/3/2001 và 25/3/2002 thì KBT Rạn Trào được thành lập và được UBND huyện Vạn Ninh công nhận. 27/11/2009 KBVHSTB Rạn Trào đã tổ chức lễ ra mắt và được UBND tỉnh Khỏnh Hũa công nhận. Sự thay đổi tên của KBVHSTB Rạn Trào là do KBV chưa đạt được những điều kiện về mặt quy mô diện tích của một KBT. Tuy nhiên, tính đa dạng sinh học của KBV được các chuyên gia đánh giá là rất cao so với diện tích tương ứng của nó. Đặc biệt, KBV có tới 3 loài có tên trong sách đỏ Việt Nam năm 2000 và 5 loài trong sách đỏ của IUCN năm 2007. Phần tiếp theo sẽ trình bày cụ thể về điều kiện tự nhiên, kinh tế xã hội cũng như các nguồn lợi tự nhiên tại xã Vạn Hưng cũng là khu vực tiến hành dự án KBVHSTB Rạn Trào. 2.1.1. Điều kiện tự nhiên 2.1.1.1. Vị trí địa lý Ranh giới KBV được giới hạn trong khu vực tạo bởi đường nối 4 điểm tọa độ sau: Điểm 1: 12°37' 51"N; 109°12' 26"E Điểm 2: 12°37' 40"N; 109°12' 60"E Điểm 3: 12°37' 26"N; 109°12' 55"E Điểm 4: 12°37' 35"N; 109°12' 21"E Hình 5: Bản đồ hành chính tỉnh Khỏnh Hũa KBVHSTB Rạn Trào nằm giáp biển bên bờ vịnh Văn Phong, thuộc xã Vạn Hưng, huyện Vạn Ninh, tỉnh Khỏnh Hũa, cỏch Nha Trang khoảng 55km trải dài trên 9,5km đường quốc lộ 1A. Xã Vạn Hưng nằm ở phía Nam của huyện Vạn Ninh. Phía Bắc giỏp xó Xuân Sơn, phía Đông giáp biển Đông, phía Tây và phía Nam giáp huyện Ninh Hòa. Vạn Hưng là địa phương ven biển của tỉnh Khỏnh Hũa - một tỉnh Nam Trung Bộ. Vạn có 14km bờ biển với 13 rạn san hô lớn nhỏ, khu vực gần bờ nơi có độ sâu từ 40 - 70m trở ra cú cỏc thảm cỏ biển rất phong phú, là nơi trú ẩn và sinh sản của nhiều loài thuỷ sản quan trọng. Địa hình của Vạn Hưng là vùng ven biển độ dốc tương đối lớn và có những dãy núi ăn ra sát biển. Phía biển cũng có những hòn đảo với các rạn san hô rất phát triển. 2.1.1.2. Cỏc vựng chức năng trong KBV Hình 6 : Bản đồ phân vùng chức năng vùng biển Rạn Trào Vùng bảo vệ nghiêm ngặt: Là vùng biển hình chữ nhật xung quanh Rạn Trào, có tổng diện tích 105 ha trong đó có khoảng 28ha là rạn san hô, còn lại là diện tích mặt nước. Vùng phục hồi nguồn lợi và phát triển du lịch: kéo dài từ vùng phía Bắc Xuân Tự qua Cùm Meo với diện tích 175ha. Vùng bảo tồn các thảm cỏ biển:Nằm dọc ven bờ kéo dài từ mũi Hũn Chụng đến Cùm Meo có tổng diện tích 192ha. Vùng nuôi trồng hải sản: kéo dài từ giới hạn bảo tồn các thảm cỏ biển ra đến Cùm Meo với tổng diện tích 171ha. Vùng khai thác hợp lý: là toàn bộ vị trí nằm ngoài cỏc vựng chức năng trên đây bao gồm kể cả vùng nước nông ven bờ, các rạn san hô chết ven bờ như rạn Đưng, rạn Sụn, rạn Nhớt, rạn Dài và vùng khơi bao gồm cả vùng Rạn Mạn, có tổng diện tích 1.030ha. Như vây, tổng diện tích KBV Rạn Trào là 1608ha. 2.1.1.3. Khí hậu, thời tiết. Đây là vùng có điều kiện tự nhiên, khí hậu rất đặc trưng của tỉnh. Nơi đây có điều kiện tự nhiên rất thuận lợi cho việc phát triển kinh tế biển đặc biệt là phát triển thủy sản. Vạn Hưng có khí hậu nắng nóng quanh năm. Khí hậu của Vạn Hưng vừa chịu sự chi phối của khí hậu nhiệt đới gió mùa, vừa mang tính chất của khí hậu đại dương nên tương đối ôn hoà. Nhiệt độ trung bình năm là 260C. Lượng mưa trung bình trên dưới 2.000 mm/năm, chia làm 2 mùa rõ rệt: mùa mưa từ tháng 9 đến tháng 12 tập trung 70 - 80% lượng mưa cả năm. Mùa mưa chỉ kéo dài trong 2 tháng, còn lại nắng ấm, rất thuận lợi cho mựa cỏc hoạt động của người dân. Gió với tần suất khác nhau xuất hiện theo mọi hướng, gió tây khụ núng và gió Tu Bông thường xảy ra bất lợi cho cây trồng. Tuy nhiên, hai loại gió này chỉ xuất hiện nhiều vào tháng 6, 7. 2.1.2. Đặc điểm kinh tế- văn hóa- xã hội 2.1.2.1. Đất đai và sử dụng đất đai Toàn xã Vạn Hưng có diện tích đất tự nhiên là 4.842,14ha, trong đó đất nông nghiệp 2.532,45ha chiếm 52,3%, đất rừng tự nhiên 1.331,54ha chiếm 27,5%, đất rừng trồng 1.331,54ha chiếm 27,5%, đất nuôi trồng thuỷ sản là 264,97ha chiếm 5,5%. Chỉ tiêu Đơn vị tính Năm 2008 Tổng diện tích đất tự nhiên ha 4.842,14 - Đất nông nghiệp ha 2.532,45 - Đất rừng tự nhiên ha 1.331,54 - Đất rừng trồng ha 1.331,54 - Đất nuôi trồng thủy sản ha 264,97 Nguồn: MCD Bảng 4: Tình hình sử dụng đất đai xã Vạn Hưng 2.1.2.2. Dân số, giáo dục và y tế Xã Vạn Hưng có diện tích tự nhiên khoảng 48,2 km2 và được phân chia thành 6 thôn, gồm Xuân Tự 1, Xuân Tự 2, Xuân Vinh, Hà Già, Xuõn Đụng và Xuõn Tõy, trong đó có 5 thụn Xuõn Tự 1, Xuân Tự 2, Xuân Vinh, Hà Già vaf Xuõn Đụng là tiếp giáp với biển. Dân số xã Vạn Hưng có khoảng 10.470 người, trong đó riêng phụ nữ có 5.404 người (chiếm khoảng 52% dân số). Mật độ dân số trung bình là 217 người/km2. Tỷ lệ tăng dân số năm 2006 là 1,4%; năm 2008 là 0,5%. Theo kết quả thống kê năm 2008 của UBND xã Vạn Hưng, toàn xó cú tổng cộng là 2.184 hộ gia đình, trong đó số hộ nghèo là 409 hộ (chiếm 18% tổng số hộ của xã). Số hộ nghèo phân bổ đều ở cỏc thụn, tuy nhiên, ở thụn Xuõn Tự 1 là nhiều nhất 82 hộ. Kết quả điều tra đánh giá kinh tế-xã hội vào tháng 6/2005 của xã cho thấy lực lượng lao động toàn xã là 4.021 người chiếm 38,4% tổng số dân, trong tổng số 206 người được phỏng vấn thì số người ở độ tuổi lao động là 166 người, trong đó nam là 142 người; nữ là 24 người. Số TT Chỉ tiêu Đơn vị tính 2006 2008 1 Tổng số dân Người 10.044 10.834 2 Tổng số hộ Hộ 2.038 2.184 3 Tỉ lệ nữ % 67 68 4 Tỉ lệ tăng dân số % 1,04 0,5 5 Tỉ lệ hộ theo công giáo % 15 17 6 Lực lượng lao động Người 3.810 4.021 Nguồn: UBND xã Vạn Hưng Bảng 5: Dân số và lao động xã Vạn Hưng Toàn xó cú 2 trường tiểu học gồm 39 lớp với 1.189 học sinh và 46 giáo viên, ngoài ra xã mới cú thờm một trường THCS dành cho học sinh cấp 2 với 940 học sinh trong năm học 2006-2007. Những học sinh muốn chuyển lên cấp PTTH thì phải lên thị trấn Vạn Giã để nhập học. Năm 2006, xã Vạn Hưng có 36 em học sinh thi đậu các trường Đại học, Cao đẳng và Trung cấp. Chương trình chống mù chữ được xã thực hiện đã được công nhận đạt chuẩn về phổ cập giáo dục Trung học cơ sở. Chỉ có 1 trạm y tế xã với 7 giường bệnh và 10 cán bộ y tế (một nửa trong số đó làm việc trong lĩnh vực quản lý) thực hiện công tác khám chữa bệnh cho người dân. 2.1.2.3. Các giá trị văn hóa- lịch sử KBVB Rạn Trào nằm trong khu vực xã Vạn Hưng, nơi có những địa danh Núi Ông Sư, Núi Phổ Đà, một số chùa chiền và lễ hội sinh hoạt văn hoá của cộng đồng ven biển có giá trị văn hoá. Hiện tại, trong khu vực có 2 tôn giáo lớn: Thiên Chúa giáo và Phật giáo; tôn giáo nào cũng có nơi chiêm bái thờ tự rất khang trang và tôn nghiêm: Chùa Giác Hải xây dựng năm 1957 (Phật giáo Đại Thừa). Tịnh xá Ngọc Phổ xây dựng năm 1978 (Phật giáo Tiểu Thừa), Nhà thờ Vạn Xuân xây dựng năm 1960. Người dân xã Vạn Hưng sống đan xen, hoà thuận với đa dạng sinh hoạt tôn giáo. Trong số cỏc thụn của xã Vạn Hưng thỡ thụn Xuõn Tự chiếm diện tích lớn và chiếm tới 50% dân số xó. Thụn Xuõn Tự mới được tách ra làm hai thụn Xuõn Tự 1 và Xuân Tự 2 từ đầu năm 2007, tuy nhiên các địa danh và sinh hoạt lễ hội của khu vực vẫn được bảo tồn và giữ gìn như các điểm sinh hoạt văn hoá chung. Đỡnh thụn Xuõn tự, nằm trên đường bờ biển, trong khu vực gần với KBVB Rạn Trào được xây dựng từ năm 1974 do toàn thể người dân trong thôn đóng góp xây dựng. Từ năm 1975, UBND xã Vạn Hưng đã sử dụng đình làng làm hợp tác xã nông nghiệp, nơi sinh hoạt tập thể của các hộ nông dân tham gia hợp tác xã. Tuy nhiên, để thuận lợi hơn cho những hoạt động sinh hoạt, học tập cộng đồng, từ sau năm 1990, các già làng thụn Xuõn Tự đã đề xuất với chính quyền xã đưa khu vực này trở lại làm đình làng. Các hoạt động sinh hoạt cộng đồng được trở về đây kể từ sau đó. Ngoài việc là nơi sinh hoạt cộng đồng hàng ngày, đình làng còn là nơi thờ những vị tiền hiền, tiền giáo là những người khai phá khu vực này đầu tiên. Văn hoá phi vật thể còn lưu giữ và cần được xem xét trong hạng mục cần phải bảo vệ và gìn giữ trong khu vực khu bảo tồn gồm có lễ hội cỳng đỡnh, lễ hội cầu ngư kết hợp với các hình thức mỳa bụng và biểu diễn hũ bỏ trạo. Lễ hội cỳng đỡnh của cỏc thụn trong xã Vạn Hưng thường diễn ra hàng năm và vào ngày 10/3 (Âm lịch), ngoài ra trong thụn Xuõn Tự cũn cú 02 lễ hội khác là Ngày Hội Đại đoàn kết dân tộc 10/11 (Dương Lịch) và Lễ Hội Cầu Ngư hay còn được gọi là Hội Lăng cô vào ngày 25/5 (Âm lịch) hàng năm. Trong thụn Xuõn Tự còn có nhiều sinh hoạt cộng đồng khỏc, thụn cú 01 đội văn nghệ, 02 sân bóng, nhà giáo dục cộng đồng, trung tâm giáo dục môi trường. Cộng đồng rất hăng hái tham gia các hoạt động chung, trong đó có việc bảo tồn KBVB Rạn Trào. Đõy chính là một trong những tiền đề quan trọng để phát triển mô hình du lịch sinh thái nơi đây. 2.1.2.4. Các hoạt động kinh tế của cộng đồng địa phương Cơ cấu kinh tế của xã là nông – lâm – ngư nghiệp và dịch vụ khác và phân chia theo tỷ lệ như sau: nông nghiệp: 55%; ngư nghiệp : 35%; các ngành nghề khác: 10%. Số TT Chỉ tiêu Đơn vị tính 2008 1 Số hộ chuyên nông nghiệp hộ 650 2 Số hộ tham gia đánh bắt thủy sản hộ 94 3 Số hộ tham gia nuôi trồng thủy sản hộ 1.625 4 Số hộ công nghiệp/tiểu thủ công nghiệp hộ 56 5 Số hộ dịch vụ hộ 131 Nguồn: MCD Bảng 6: Số hộ tham gia các ngành nghề ở xã Vạn Hưng Theo báo cáo kết quả thực hiện phát triển kinh tế - xã hội của xã Vạn Hưng năm 2006, các hoạt động nông nghiệp của xã gồm có trồng lúa, cây lương thực (ngô, sắn, đậu), và các loại hoa màu ; ngoài ra cũn cú khoảng 7,8 ha diện tích trồng cây công nghiệp là cây điều. Tổng diện tích lúa gieo trồng thực hiện là 624 ha với tổng sản lượng lúa cả năm ước đạt 2.845 tấn; tổng sản lượng lương thực có hạt (lúa và ngô) cũng đạt 2.875 tấn. Bên cạnh việc trồng trọt, người dân xã Vạn Hưng còn chăn nuôi các loài gia súc và gia cầm khác như bò, trõu, dờ, heo, gà, vịt. Người dân cũng tham gia vào các hoạt động dịch vụ, buôn bán nhỏ như bán hàng tạp hóa, thu mua hàng thủy sản. Về lâm nghiệp, đã tiến hành trồng mới 45ha và nâng tổng số diện tích rừng được chăm sóc lên 64,66 ha. Về ngư nghiệp, xã Vạn Hưng là một trong hai vùng trọng điểm nuôi tôm hùm của huyện, chủ yếu tập trung ở 2 thôn Xuân Tự 1 và Xuân Tự 2. Năm 2008 do giỏ tụm thấp nờn đó cú 45.000 con giống với 2.800 lồng được thả., ngoài ra cũn cú cỏc đối tượng nuôi thủy sản khác như tôm sú, ốc hương.. Các hoạt động đánh bắt thủy sản ở xã Vạn Hưng chủ yếu là gần bờ với các hình thức giã cào, mành đốn, đỏnh lưới, lặn biển, đào súc. Năm 2008 sản lượng đánh bắt thủy sản của xã đạt 350 tấn. Như vậy, vị trí địa lý và những đặc điểm khí hậu, thời tiết, đIều kiện kinh tế - xã hội của Vạn Hưng rất thuận lợi cho phát triển kinh tế biển, nhất là thủy sản và du lịch. Mặt khác, thời tiết nắng nóng quanh năm cũng là điều kiện thuận lợi cho sản xuất nông nghiệp của địa phương. 2.1.3. Tài nguyên thiên nhiên tại KBVHSTB Rạn Trào. 2.1.3.1. Sinh vật Phù du Thực vật phù du: Kết quả phân tích mẫu vật ở vùng nghiên cứu đã ghi nhận được 145 loài Thực vật Phù du thuộc 3 lớp, trong đó tảo Silớc-Bacillariophyceae chiếm ưu thế 64 % (93 loài), tảo Hai Roi-Dinophyceae chiếm tỉ lệ 35% (51 loài), lớp tảo Xương Cát - Dictyochophyceae chiếm tỷ lệ 1% (1 loài). Thành phần cũng như số lượng loài Thực vật phù du trong mùa khô và mùa mưa không có sự khác nhau nhiều. Một số loài tảo có khả năng gây hại cũng được phát hiện ở vùng nghiên cứu như: Coolia sp, Dinophysis caudata, D. miles, D. mitra (tảo Hai Roi), đặc biệt 3 loài tảo gây hại Alexandrium pseudogonyaulax, A. tamarense, A. tamiyavanichi chỉ xuất hiện vào mùa mưa. Động vật Phù du: Kết quả phân tích đã xác định được 115 loài bao gồm 14 nhóm, trong đú Chân Mái Chèo chiếm ưu thế về số lượng loài (67% tổng số loài) và số lượng cá thể (60% tổng số lượng cá thể). Với tổng số loài như trên cho thấy thành phần loài ở vùng điều tra khá phong phú và khá đa dạng, bởi lẽ ngoài các loài nước lợ, nước mặn các nghiên cứu còn phát hiện được một số loài nước ngọt như Pseudodiaptomus incisus. Mật độ trung bình của Động vật phù du thu được tại các trạm mặt rộng ở vùng điều tra khá cao, tới 26.460 cá thể /m3, trạm có số lượng cao nhất đạt 50.318 cá thể/m3 và thấp nhất đạt 10.333 cá thể/m3. 2.1.3.2. Động vật đáy Thành phần sinh vật đáy ghi nhận theo phương pháp Reefcheck còn lại rất ít hoặc hiếm gặp trên hầu hết các rạn. Chỉ 8 trong số 18 thành phần được đánh giá xuất hiện trong các mặt cắt khảo sát. Về thành phần loài, đã ghi nhận được 25 loài sinh vật đáy kích thước lớn trên rạn san hô, trong đó có 1 loài Giun nhiều tơ, 21 loài Thân mềm và 3 loài Da gai. Thành phần loài ở Rạn Trào nhiều nhất (14 loài) so với vùng xung quanh. Mật độ sinh vật trung bình đạt 2260 cá thể/m2, cao nhất là 4194 cá thể/m2 ở khu vực Rạn Trào và thấp nhất là 1272 cá thể/m2 ở khu vực Cùm Meo. Trong tổng số trên, Giun nhiều tơ có số lượng nhiều nhất, trung bình là 1312 cá thể/m2 và thấp nhất là Thân Mềm với 211 cá thể/m2. Về khối lượng, toàn khu vực nghiên cứu trung bình đạt 17g/m2, cao nhất thuộc về khu vực Rạn Trào 22g/m2 và thấp nhất là khu vực Rạn Đưng 10 g/m2. 2.1.3.3. Rạn san hô KBVB Rạn Trào có 82 loài san hô thuộc 37 giống và 14 họ. Trong số 14 họ xác định được, họ Faviidae có số lượng giống và loài nhiều nhất (11 giống và 23 loài), kế đến là họ Acroporidae (3 giống và 21 loài) và họ Poritidae (3 giống và 11 loài). Một số họ khác chỉ có một giống và 1 loài. Trong tổng số 37 giống ghi nhận được, giống Acropora có thành phần loài nhiều nhất (14 loài), kế đến là giống Porites (6 loài), các giống còn lại có số lượng từ 1 đến 5 loài (bảng 6). Có hai loài san hô cứng chiếm ưu thế ở Rạn Trào thuộc về dạng khối Goniopora lobata và dạng não Platygyra sinensis, san hô mềm ưu thế thuộc về giống Sinularia (Hoàng Xuân Bền, 2003) Kết quả khảo sát hiện trạng rạn san hô trên mặt cắt cố định năm 2005 cho thấy độ phủ trung bình của san hô cứng tại vùng biển Rạn Trào đạt giá trị 17,3% tổng độ phủ nền đáy, trong đó độ phủ san hô cứng đạt giá trị cao nhất là 25,2% tại khu vực rạn Trào. Theo tiêu chuẩn về độ phủ của English et.al, 1997 thì độ phủ san hô sống của Rạn Trào được xếp vào hạng tốt 2.1.3.4. Cỏ biển Kết quả khảo sát năm 2004 đã xác định được 6 loài cỏ biển thuộc 5 chi và 2 họ. Kết quả nghiên cứu cũng đã xác lập được sơ đồ phân bố của cỏ biển và cây ngập mặn tại vùng biển Rạn Trào và lân cận. Mật độ, sinh lượng và độ phủ của một số loài cỏ biển ở Rạn Trào khá cao, mật độ dao động từ 56 – 1077 cõy/m2, sinh lượng từ 12 – 147g.khụ/m2 và độ phủ từ 11 – 100%. Các nghiên cứu cũng cho thấy hiện nay tổng diện tích của các thảm cỏ biển ở Rạn Trào khoảng 60ha chiếm 1/5 tổng diện tích cỏ biển của xã Vạn Hưng. 2.1.3.5. Rong biển Kết quả khảo sát đã xác định được 29 loài thuộc 20 giống và 4 ngành rong biển phân bố ở vựng Xuõn Tự. Nhìn chung, thành phần loài rong biển ở Xuân Tự khá nghèo nàn, chúng thường phân bố trên nền đá hoặc san hô chết ở Rạn Trào và Cùm Meo. Các loài rong vôi thường chiếm ưu thế trên nền đáy, đặc biệt là ở Cùm Meo loài Rong vôi Amphiroa foliacea phát triển mạnh phủ dày trên nền san hô chết. 2.1.3.6. Cây ngập mặn Kết quả nghiên cứu đã xác định 5 loài cây ngập mặn phân bố ở Cùm Meo là: Sú , Mắm trắng, Mắm biển, Đước và Bần trắng. Bề rộng của dải cây ngập mặn thay đổi từ 3 đến 8m, trong đó Sú và Mắm biển chiếm ưu thế. Bần trắng thường mọc rải rác trong dải cõy Sỳ và Mắm. Diện tích cây ngập mặn là 50ha. 2.1.3.7. Nguồn lợi thủy sản Vùng biển Vạn Hưng rất nhiều loài thủy sản có giá trị kinh tế và khoa học như: Tôm hùm, tôm thẻ, tôm sú, cá mú, cá bớp, cá hồng, cỏ dỡa cụng, mực ống, ốc hương, hải sâm cát, tu hài, cầu gai, san hô, cá ngựa, cua biển. Kết quả tổng hợp các nghiên cứu điều tra từ trước đến nay trong vùng biển Rạn Trào và các khu vực xung quanh về các loài cá biển nói chung đã ghi nhận được 114 loài cá thuộc 44 họ và 10 bộ, trong đó một số loài cá có giá trị kinh tế cao như: cá Mú, cá Kẽm….Về thành phần loài cá rạn san hô, cho đến cuộc điều tra đa dạng sinh học tại vùng biển Rạn Trào năm 2004 đã ghi nhận được 69 loài cá rạn san hô thuộc 23 họ, 41 giống. Riêng Rạn Trào có tới 65 loài, chiếm 94,2% tổng thành phần loài cá rạn ghi nhận được ở đây. Năm Nhóm cá 2001 2003 2004 2005 Cá Thia 165 331 651 1.760 Bàng chài 57 56,5 47 41 Cá bướm 15 23 9 60 Cá mú 3 5,5 1 3 Loại khác 75 139 23 106 Tổng cộng 315 555 731 1.969 Bảng 7: Mật độ (con/400m2) cỏc nhúm cỏ rạn san hô tại khu vực Rạn Trào Theo kết quả khảo sát năm 2005, mật độ trung bình các họ cá rạn san hô ở vùng biển Rạn Trào và khu vực lân cận là 1.281 con/400m2, mật độ đạt giá trị cao nhất tại Rạn Trào 1.969 con/400m2. Có thể thấy rằng tổng mật độ trung bình của cá rạn san hô tăng dần theo thời gian ở khu vực Rạn Trào, đặc biệt nhóm cá Thia chính là thành phần tạo nên mật độ cá rạn cao. Nhúm cỏ có giá trị thực phẩm như cá Mú, cá Hồng, cỏ Hố, cá Kẽm, điệp seo, ốc nhảy... có mật độ rất thấp trong vùng khảo sát và chủ yếu tập trung ở khu vực Rạn Trào. Kết quả khảo sát cũng cho thấy, cá rạn chủ yếu tập trung ở nhúm cỏ kích thước nhỏ (1 – 10 cm), chiếm 94% tổng mật độ trung bình. Nhúm cỏ cú kích thước 11 – 20 cm chiếm tỷ lệ thấp (chiếm 6% tổng mật độ trung bình) và nhúm cỏ kích thước lớn hơn 20 cm hầu như không thấy xuất hiện ở các mặt cắt khảo sát. Loài Tên Việt Nam Sách đỏ VN 2000 E: Đang nguy cấp; V: Sẽ nguy cấp Sách đỏ IUCN 2007 VU: Sẽ nguy cấp ; NT: Sắp bị đe dọa; DD: thiếu thông tin Anodontostoma chacunda Cá Mòi không răng E Cephalopholis boenak Cá Mú sọc ngang DD Epinephelus coioides Cá Mú NT Hippocampus histrix Cá Ngựa gai dài V DD Hippocampus kuda Cá Ngựa đen V VU Syngnathoides biaculeatus Cá Chìa vôi DD Bảng 8: Danh sách loài có tên trong Sách đỏ sinh sống ở KBVB Rạn Trào Nằm trong khu vực vịnh Võn Phong, Rạn Trào được coi là nơi có đa dạng sinh học cao nhất trong số 13 rạn san hô ở đây. Bảng dưới đây là theo kết quả khảo sát năm 2005. Thành phần loài của Rạn Trào đều chiếm tỉ lệ cao do tính đa dạng sinh học cao, ngoài ra còn do các Rạn san hô khác không được bảo vệ nờn cỏc nguồn sinh vật ở đó giảm đi do đó tỉ lệ của Rạn Trào càng trở nên cao hơn. Nhóm sinh vật Thành phần loài Tỉ lệ (%) Rạn Trào Vịnh Văn Phong San hô 82 128 64% Cá rạn 69 100 69% Động vật không xương sống trên rạn 25 26 96% Rong 29 80 36% Cỏ biển 6 8 75% Cây ngập mặn 5 20 25% Nguồn: MCD Bảng 9. So sánh thành phần loài sinh vật ở Rạn Trào và vịnh Văn Phong 2.2. Thực trạng quản lý- khai thác và sử dụng tài nguyên thiên nhiên tại KBVHSTB Rạn Trào. 2.2.1. Thực trạng khai thác và sử dụng 2.2.1.1. Trước khi có dự án - San hô: Trong nhiều năm gần đây việc khai thác san hô trái phép, bừa bãi tại khu vực biển Rạn Trào đã làm các bãi san hô và nguồn lợi hải sản suy giảm nghiêm trọng và nhanh chóng phá đi nơi cư trú và môi trường sống của các loài, làm mất cân bằng sinh thái tự nhiên. Vấn đề nổi cộm ở địa phương là việc khai thác các rạn san hô sống một cách ồ ạt làm suy giảm môi trường và nguồn lợi biển. Địa phương đã có nhiều biện pháp xử lý nhưng tình trạng này vẫn gia tăng. Những chủ khai thác dung cả xe tải để vận chuyển san hô khai thác được đến nơi tiêu thụ. Những hoạt động khai thác này vừa làm suy thoái môi trường vừa gây nên tình trạng mất trật tự an ninh trên địa bàn. Theo kết quả khảo sát khu vực Rạn Trào năm 2001 cho thấysan hô cứng chiếm ưu thế ở độ sâu 4,5m, đạt giá trị 60%- 63% tốc độ phủ mặt cắt. Việc khai thác san hô một cách ồ ạt làm đìa nuôi tôm sú cũng là nguyên nhân dẫn đến việc suy giảm nguồn lợi biển. Cùng với sự suy giảm nguồn lợi san hô, nghề nuôi tôm hùm lồng và nuôi tốm sỳ đó chịu nhiều ảnh hưởng xấu như nguồn giống tôm hùm khai thác tự nhiên hầu như không còn, tốc độ lớn của tôm bị chậm lại, các loài tụm nuụi dễ bị nhiễm bệnh, thậm chí đôi khi chết hang loạt do nước bị ô nhiễm. Khi nguồn lợi san hô bị tàn phá, nghề nuôi trồng thủy sản lập tức gặp khó khăn. Nếu cứ theo chiều hướng đó, nghề nuôi thủy sản sẽ dần bị xóa bỏ. - Cá rạn san hô: Khi rạn san hô bị suy thoái, độ phủ của san hô sống giảm, nền đáy phủ bởi san hô chết, bã hữu cơ, cảnh quan rạn bị thay đổi rừ rờt đó ảnh hưởng trực tiếp đến đời sống sinh vật. Tất cả các loài cá có giá trị thương mại cao như cá Mú, Hồng, Kẽm… được ngư dân mô tả trước đây đã không còn hoặc xuất hiện rất ít trên mặt cắt. Theo một số ngư dân địa phương, vùng biển Vạn Hưng trước đây có nhiều loài cá có giá trị kinh có kích thước lớn đến nay đã giảm đi khoảng 50%. -Tình trạng đánh bắt: Theo đánh giá năm 2000 sản lượng khai thác thủy sản của Vạn Hưng kiên tục suy giảm trong vòng 10 năm trở lại đây. Năm 1996 khai thác được 250 tấn, năm 1999 chỉ còn khoảng 110 tấn. Số lượng cũng như cỡ loại sản phẩm thủy sản khai thác đều giảm, một số loài thủy sản quý hiếm đang trên bờ của sự hủy diệt. 2.2.1.2. Từ khi có dự án - San hô: Theo khảo sát năm 2002 trên mặt cắt cố định độ phủ của san hô cứng đạt giá trị 51,88% ở mặt cắt sâu và 28,13% ở mặt cắt cạn. - Cá rạn san hô: Mật độ cá rạn trung bình tại Rạn Trào đạt 555 cá thể/400m². Như vậy, so với thời điểm giám sát vào tháng 3 năm 2001 mật độ cá rạn tăng 240 cá thể/400m². Việc tăng sản lượng đánh bắt và nuôi trồng sẽ được trình bày và tính toán cụ thể ở chương III. 2.2.2. Mô hình quản lý tại địa phương 2.2.2.1. Về cơ cấu tổ chức Vai trò chính quyền các cấp: Dự án thí điểm mô hình “KBVB Rạn Trào do địa phương quản lý” nhận được sự quan tâm của chính quyền các cấp tỉnh Khỏnh Hũa, từ Ủy ban nhân tỉnh đến Ủy ban nhân huyện Vạn Ninh và xã Vạn Hưng và đặc biệt cộng đồng cư dân thụn Xuõn Tự, điều đó cho thấy được sự thống nhất cao từ trên xuống dưới. Mặt khác, việc thành lập Ban quản lý KBVB Rạn Trào với sự tham gia của đại diện UBND huyện Vạn Ninh và Ủy ban nhân dân xã Vạn Hưng đã thể hiện sự kết hợp chặt chẽ giữa phương thức quản lý theo ngành và theo lãnh thổ, tạo điều kiện huy động tối đa nguồn nhân lực tại chỗ và đây được xem là yếu tố quan trọng, góp phần thành công bước đầu của mô hình. Tuy nhiên, đánh giá chung cho thấy, KBVB Rạn Trào kết quả thu được mới dừng ở “mô hình điểm”. KBVB Rạn Trào đã hình thành, song chưa được công nhận về mặt pháp lý, thiếu cơ chế tài chính bền vững và chưa có được sự phân định rõ ràng trách nhiệm của các bên tham gia. Ban quản lý KBVB Ban quản lý KBVB do Ủy bân nhân dân huyện Vạn Ninh quyết định thành lập với thành phần gồm đại diện UBND huyện Vạn Ninh, UBND xã Vạn Hưng và cộng đồng ngư dân của xã Vạn Hưng, gồm 8 thành viên (lãnh đạo UBND huyện Vạn Ninh, UBND xã Vạn Hưng, Trưởng phòng kinh tế huyện, Trưởng phòng Tài chính kế hoạch, Trạm bảo vệ nguồn lợi thuỷ sản, đại diện của Đồn Biên phòng 362 đúng trờn địa bàn và sự tham gia của đại diện cộng đồng nhân dân xã Vạn Hưng). Ban quản lý có trách nhiệm theo dõi, giám sát, điều phối công tác bảo vệ và quản lý KBVB Rạn Trào và thu hút được sự ủng hộ của nhân dân địa phương. Ban quản lý phối hợp chặt chẽ với chính quyền huyện, xã và kêu gọi được sự hợp tác của các tổ chức phi chính phủ, các cơ quan đoàn thể nhằm tổ chức các hoạt động truyền thông, đào tạo, tập huấn, phục vụ quản lý KBTB Rạn Trào và bảo tồn nguồn lợi ven biển, góp phần cải thiện đời sống nhân dân xã Vạn Hưng. Mối liên hệ trực tiếp Mối liên hệ gián tiếp IMA & MCD UBND huyện Vạn Ninh UBND xã Vạn Hưng Ban quản lý KBTB RT Tổ Bảo vệ (Nhóm hạt nhân) Tổ Tuyên truyền TT.GD môi trường Các hoạt động trong khu bảo tồn biển Rạn Trào UBND tỉnh Khánh Hòa Đại diện: UBND huyện Vạn Ninh UBND xã Vạn Hưng Cộng đồng Sở Thủy sản Chi cục BVNL thủy sản Tổ nòng cốt DLST Đại diện cộng đồng và do cộng đồng lựa chọn Hình 7 : Tổ chức quản lý KBVB Rạn Trào Cỏc nhóm hoạt động chính của khu bảo tồn Tổ bảo vệ (nhóm hạt nhân, gồm 10 người), Tổ nòng cốt Du lịch sinh thái, Tổ tuyên truyền và Trung tâm giáo dục môi trường do cộng đồng lựa chọn. Chức năng chính của cỏc nhúm trờn là tiến hành các hoạt động, như : Tuyên truyền, giáo dục cộng đồng, kiểm tra, giám sát các hoạt động của ngư dân, vận hành mô hình du lịch sinh thái cộng đồng… nhằm đảm bảo việc thực hiện các qui uớc bảo vệ khu bảo tồn biển Rạn Trào và thử nghiệm các mô hình sinh kế bổ trợ mới. Vai trò của cộng đồng trong việc bảo tồn Là những người tác động trực tiếp lên nguồn lợi biển, những cộng đồng ven biển đóng vai trò hết sức quan trọng trong công tác bảo tồn và phục hồi những giá trị đa dạng sinh học biển. Những hành động thiếu tính bền vững, thiếu sự quản lý nhằm khai thác thủy, hải sản sẽ làm nguồn lợi biển bị suy giảm, cạn kiệt dẫn đến sản lượng khai thác thấp, không đáp ứng đủ nhu cầu cho cuộc sống hàng ngày. Điều này buộc người dân phải nỗ lực cao hơn để tìm kiếm cơ hội nâng cao thu nhập từ sinh kế dựa vào biển, tuy nhiên nếu không được giáo dục, nâng cao nhận thức, đào tạo thì những nỗ lực tiếp theo đó vẫn chỉ làm cho tình trạng trở nên tồi tệ hơn, tạo nên vòng luẩn quẩn: nỗ lực nhiều hơn, nguồn lợi tiếp tục suy giảm hơn, cuộc sống khó khăn hơn. Với tỷ lệ ngành nghề liên quan đến biển là 35%, sinh kế dựa vào nguồn lợi biển đóng vai trò quan trọng trong cuộc sống mưu sinh của người dân địa phương. Chính vì vậy khi nguồn lợi này bị tác động thì sẽ ảnh hưởng trực tiếp tới đời sống của một bộ phận không nhỏ những người dân của xã Vạn Hưng, một xó cú tới 5 thôn nằm tiếp giáp với biển trong tổng số 6 thôn. Việc thành lập những Khu bảo tồn biển là để bảo tồn và phát triển nguồn lợi cũng như đa dạng sinh học của khu vực, nhằm tạo nên kho dự trữ tài nguyên biển phục vụ sự phát triển bền vững. Nhưng trong quá trình thành lập, người dân cần phải được tích cực tham gia và được trao quyền, nhất là trong các hoạt động tự quản. Điều này sẽ giúp cộng đồng có được nhận thức đúng đắn về vai trò, mục đích của Khu bảo tồn biển, tránh những mâu thuẫn giữa cộng đồng với BQL Khu bảo tồn biển, đặc biệt là những cá nhân, gia đình có hoạt động sinh kế gắn liền với khu vực được khoanh vùng bảo vệ. Việc thành lập Nhóm hạt nhân mà các thành viên đều là những người dân của địa phương được cộng đồng địa phương bầu ra làm nhiệm vụ trông coi, bảo vệ vùng Rạn Trào đã cho thấy sự tin tưởng, ủng hộ của cộng đồng địa phương đối với công tác bảo tồn biển của BQL Khu bảo tồn biển Rạn Trào. Sự tham gia và được trao quyền của cộng đồng địa phương chính là một trong những yếu tố quyết định sự thành công của một Khu bảo tồn biển, nhất là khi sinh kế của người dân cũn cú sự phụ thuộc đáng kể vào nguồn lợi biển. Trong công tác bảo tồn, những giá trị đa dạng sinh học, giá trị văn hóa của khu vực luôn phải được gắn liền với niềm tự hào của người dân địa phương. Chính vì vậy, thông qua các hoạt động cộng đồng như làm sạch bờ biển, thi viết bài tìm hiểu, biểu diễn văn nghệ, làm thơ, ca hát v.v.. cộng đồng địa phương đã được chia sẻ với nhau về những giá trị quý báu cũng như những kiến thức liên quan đến vùng đất mà mình đang sinh sống. Những người khách đến thăm khu Rạn Trào luôn được những người dân ở đây chào đón và kể cho nghe về những công việc họ đang làm để bảo tồn rạn san hô; những địa danh, những nét văn hóa bản địa, thậm chí còn được lắng nghe những câu thơ do chính những người dân chài tự viết nên bằng những cảm xúc trước vẻ đẹp của thiên nhiên trên vùng biển quê hương. 2.2.2.2. Về tài chính cho khu bảo tồn Toàn bộ hoạt động của khu bảo tồn từ khi thành lập đến nay, nguồn tài chính chủ yếu vẫn từ nhà tài trợ (IMA trước đây và MCD hiện nay). Nguồn ngân sách địa phương, từ năm 2005 đến nay, mỗi năm huyện cấp cho khu bảo tồn 30 triệu đồng, chủ yếu để hỗ trợ Nhóm hạt nhân. 2.2.3. Mục tiêu KBVHSTB Rạn Trào Hoạt động thiết lập KBTB Rạn Trào, nhằm bảo tồn rạn san hô; duy trì nguồn lợi cá rạn; bảo vệ môi trường, phát triển nuôi trồng hải sản, tạo sinh kế cho cộng đồng trong khu vực và góp phần nâng cao nhận thức của người dân về bảo vệ, bảo tồn và quản lý các nguồn tài nguyên thủy sinh vật biển. Cụ thể các mục tiêu như sau: Mục tiêu môi trường: Duy trì độ phủ và chất lượng của rạn san hô; phục hồi nguồn lợi cá rạn và mật độ quần đàn các loài hải sản thủy sinh khác và giữ gìn, bảo vệ trong sạch môi trường sống của các loài thủy sinh trong Khu bảo tồn biển Rạn Trào. Mục tiêu kinh tế: Khai thác có hiệu quả trong phạm vi cho phép những giá trị mà khu bảo tồn biển Rạn Trào mang lại (khai thác các loài hải sản, nuôi trồng hải sản, du lịch sinh thái...), góp phần nâng cao đời sống của cộng đồng, đặc biệt nhóm ngư dân nghốo trờn địa bàn xã Vạn Hưng. Mục tiêu xã hội: Thực hiện việc nâng cao nhận thức và tăng cường kỹ năng quản lý tài nguyên môi trường biển cho cộng đồng địa phương; góp phần ngăn chặn những xung đột, cạnh tranh thiếu lành mạnh về mặt không gian (tranh chấp ngư trường khai thác, khu vực nuôi trồng thủy sản...); bảo vệ các giá trị văn hoá nghề cá, giữ gìn truyền thống và các di tích lịch sử phát triển của làng cá, góp phần xây dựng thôn xã nghề cá văn minh, hiện đại. 2.2.4. Các hoạt động đã được triển khai tại KBVB Rạn Trào Các hoạt động nghiên cứu sinh kế bền vững đã được thử nghiệm tại khu vực KBTB Rạn Trào do cỏc nhúm hạt nhân và tổ tuyên truyền tham gia chính. Nuôi cấy san hô, nuôi hải sâm cỏt, nuụi ghộp vẹm xanh, tụm hựn, bào ngư, rong sụn… với sự tham gia của các cán bộ khoa học thuộc các cơ quan tỉnh và huyện. Đó có 3 đợt đánh giá tài nguyên dưới nước phục vụ công tác KBT. Đợt đánh giá đầu tiên trước khi thành lập KBT vào tháng 3 năm 2001. Đợt đánh giá thứ hai vào tháng 3 năm 2003 trước khi chuyển giao cho địa phương và đợt đánh giá thứ ba vào tháng 6 năm 2005 nhằm xem xét hiệu quả của công tác bảo tồn và điều chỉnh phương pháp quản lý. Các đánh giá đều do Viện Hải dương học Nha Trang tiến hành với sự tham gia của nhóm ngư dân thuộc cộng đồng địa phương. Đợt đánh giá gần đây nhất có sự tham gia của Đại học thuỷ sản Nha Trang và chuyên gia đa dạng sinh học biển Úc. Hàng loạt các hoạt động đào tạo kỹ năng cho cán bộ và cộng đồng đã được thực hiện. Hơn 100 lượt người đã được tập huấn về đa dạng sinh học rạn san hô ven bờ. Hơn 100 lượt người được tập huấn về kỹ năng bảo vệ. Hơn 200 lượt người được tập huấn về vai trò giới trong quản lý tài nguyên ven bờ. Hơn 500 lượt người được toạ đàm thảo luận về sinh kế, bảo tồn biển. Gần 1000 lượt người được tham gia tìm hiểu qui chế Khu bảo tồn biển Rạn Trào. Hơn 100 lượt người được tham quan học tập tới các địa phương khác. Hơn 200 lượt người được đào tạo các kỹ năng điều tra đánh giá trước khi thực hiện và sau khi kết thúc dự án. Cho tới tháng 6 năm 2005, đó cú gần 2.000 lượt người tới thăm Khu bảo tồn biển Rạn Trào, thuộc các thành phần khác nhau, tổ chức nghiên cứu, trường đại học, cơ quan trung ương, tỉnh, cán bộ từ địa phương khác và học sinh sinh viên tới học tập. Cùng với đú, cỏc hoạt động tuyên truyền, nâng cao nhận thức đã lôi kéo sự tham gia của đông đảo người dân xã Vạn Hưng. Đó là những cuộc thi kiến thức tìm hiểu về nguồn lợi, môi trường biển (cuộc thi Kính vạn hoa) cho các em học sinh ; những cuộc thi sáng tác nhạc, thơ ca về Rạn Trào, kết quả là một tập thơ và nhạc do chính những người dân sáng tác đã được xuất bản và biểu diễn cho cộng đồng thưởng thức ; đó còn là sự kiện Cộng đồng làm sạch bờ biển tổ chức thu gom rác thải dọc bờ biển, tạo cảnh quan sạch đẹp… Trong tương lai Khu bảo tồn biển Rạn Trào còn rất nhiều thử thách. Đó là tiếp tục nâng cao nhận thức vệ sinh môi trường khu vực ven biển, đặc biệt khu nuôi tôm hùm lồng, khu vực thảm cỏ biển. Liệu du lịch sinh thái và nuôi trồng thuỷ sản thân thiện với môi trường có phải là giải pháp sinh kế cho người dân nơi đây hay không còn phụ thuộc rất nhiều vào chính họ và sự quan tâm giúp đỡ của chính quyền địa phương, các cơ quan nghiên cứu, các doanh nghiệp và các tổ chức phi chính phủ có liên quan. 2.2.5. Những khó khăn, thuận lợi trong quá trình thực hiện dự án Dự án tiến hành xây dựng KBVB. Do đó, cũng không tránh được những khó khăn chung đối với xây dựng 1 KBTB ở Việt Nam như: ý thức người dân chưa cao, thiếu thông tin liên quan tới thành lập KBV. Do đó, việc kết hợp một cách tổng thể giữa bảo vệ biển với phát triển kinh tế xã hội ven biển vẫn chưa được chú trọng. Ngoài ra, do rào cản về các điều kiện do luật quy định đối với KBTB nên KBV Rạn Trào vẫn chưa được nhà nước công nhận mà mới dừng ở cấp tỉnh cho nên vẫn chưa được chính phủ hỗ trợ về mặt chính sách, vồn như các KBTB khác. Tuy nhiên dự án cũng có được những thuận lợi so với việc thành lập các KBTB khác. Đó là sự ủng hộ rất nhiệt tình của các cơ quan địa phương có liên quan như UBND xã, trạm biên phòng, chi cục thủy sản, người dân địa phương vùng dự án. Đây là những vấn đề cốt lõi giúp cho dự án được tiến hành và đạt được những thành quả tốt đẹp như hiện nay. 2.2.6. Đỏnh giỏ tính bền vững mô hình quản lý. Xuất phát từ các hoạt động đã triển khai và mục tiêu của mô hình ta thấy ngay từ khi thiết lập KBVB Rạn Trào đó luụn cố gắng hướng tới cả 3 mục tiêu về kinh tế, xã hội, môi trường. Điều đó đã thỏa mãn được điều kiện phát triển bền vững Hình 8: Mô hình phát triển bền vững Tuy nhiên chặng đường để đạt được cả 3 mục tiêu này còn rất nhiều khó khăn và đòi hỏi phải có sự hợp tác của nhiều bên. Bước đầu KBVB Rạn Trào mới chỉ được tỉnh công nhận. Điều đó chứng tỏ rằng mô hình do địa phương quản lý vẫn chưa phát huy được hết tính ưu việt của nó, chưa có đủ độ tin cậy để các cấp cao hơn thừa nhân. Do đó hiện tại không thể khẳng định đây là mô hình bền vững, tuy nhiên, các nhà quản lý đều cho rằng đây là mô hình mới nhưng rất phù hợp với Việt Nam. Đặc biệt là các khu vực ven biển có quy mô nhỏ. Vì thế, ta hoàn toàn có thể nói rằng trong tương lai đây chắc chắn sẽ trở thành một mô hình bền vững và sẽ được phổ biến rộng rãi cho các khu vực ven biển Việt Nam. CHƯƠNG III: ÁP DỤNG CÔNG CỤ PHÂN TÍCH KINH TẾ NHẰM ĐÁNH GIÁ HIỆU QUẢ KBVHSTB RẠN TRÀO DO CỘNG ĐỒNG DÂN CƯ ĐỊA PHƯƠNG QUẢN LÝ 3.1. Nhận dạng vấn đề KBVB Rạn Trào thành lập 25/3/2002, được UBND tỉnh Khỏnh Hũa công nhận vào 28/08/2009 và chính thức ra mắt ngày 27/11/2008. KBV thuộc xã Vạn Hưng, huyện Vạn Ninh, tỉnh Khỏnh Hũa. Do đó người dân thuộc xã Vạn Hưng sẽ là những người chịu tác động trực tiếp từ dự án KBV Rạn Trào bao gồm cả tác động tích cực lẫn tiêu cực. Ngoài ra, dự án KBV cũng gây ra những tác động gián tiếp, mặc dự các giá trị này thường được tính thông qua giá ẩn (không có giá trên thị trường). Tóm lại, các giá trị tính toán ở các phần tiếp theo đây đều là đánh giá lợi ích và chi phí trực tiếp/giỏn tiếp của dự án đem lại cho người dân xã Vạn Hưng. 3.2. Nhận dạng lợi ích, chi phí 3.2.1. Nhận dạng lợi ích 3.2.1.1. Lợi ích trực tiếp Đây là những lợi ích mà dự án KBVB Rạn Trào trực tiếp đem lại cho người dân xã Vạn Hưng và lợi ích này có thể tính toán được thông qua giá thị trường. - Lợi ích từ việc tăng thu nhập từ đánh bắt thuỷ sản tự nhiên. Việc thiết lập và khoanh vùng KBV trong đó có khu bảo vệ nghiêm ngặt và vùng phục hồi nguồn lợi đã làm cho bãi đẻ của nhiều loài được phục hồi. Vì thế đã tạo ra tác động tích cực tới các nghề đánh bắt thủy sản ở đây do số lượng cá thể vùng bảo vệ nghiêm ngặt tăng lên nên lượng cá thể phát tán ra các khu vực xung quanh cũng tăng lên đáng kể. Đặc biệt là các nghề đánh bắt ở đây như: nghề lặn, nghề lưới, nghề giã cào, nghề nhá, nghề soi, nghề mành, nghề đăng đáy. Theo báo cáo kinh tế- xã hội xã Vạn Hưng từ năm 2001 đến nay thì sản lượng đánh bắt đều tăng theo thời gian. Tuy nhiên trong mức tăng sản lượng này thì chỉ có 1/3 sản lượng là tăng nhờ số lượng cá thể tăng trong khu vực Rạn Trào còn lại là do ngư dân đi đánh bắt ở các khu vực khác ngoài Rạn Trào. Như vậy, việc thiết lập KBV đã làm tăng thu nhập của những ngư dân đi đánh bắt ở vùng ven Rạn Trào. Do đó, đây cũng được coi là lợi ích của dự án KBV. - Lơi ích từ việc tăng thu nhập của ngành nuôi trồng thủy sản. Theo điều tra phỏng vấn trực tiếp người dân thì 100% người làm nghề nuôi trồng thủy sản cho rằng nghề của họ là phụ thuộc hoàn toàn vào chất lượng nước biển. Khi chưa có KBV người dân khai thác bừa bãi- dựng cỏc chất độc làm cho nhiều cá con bị chết gây ô nhiễm nước biển, giảm nguồn thức ăn cho nuụi trụng thủy sản. Mặt khác, khi đó ý thức người dân còn thấp, họ xả rác, vỏ sò... bừa bãi ra biển làm cho chất lượng nước ở đây rất kộm. Cỏc loài thủy sản nuôi trồng thường xuyên bị các bệnh dịch, năng suất kém. KBV được xây dựng đồng nghĩa với việc ý thức người dân được nâng cao, những hoạt động gây ô nhiễm không còn diễn ra nữa. Ngoài ra, họ còn được hướng dẫn nuôi trồng đúng kỹ thuật, năng suất ngày càng tăng làm cho rất nhiều hộ gia đình khác làm theo. Dự án còn tiến hành nghiên cứu nuôi thử nghiệm thêm nhiều loài thủy sản khác tại nơi đây. Tiêu biểu là năm 2003 những lồng ốc hương đầu tiên đã được nuôi thử nghiệm và hiện nay đã lên đến hàng trăm lồng. Mô hình nuôi ốc hương này không chỉ gói gọn trong quy mô xã Vạn Hưng mà còn được cỏc xó lân cận học theo. Đó cú biết bao nhiêu ngư dân trỏ thành tỉ phú từ những mô hình nuôi trồng mới này. Hiện nay, MCD đang tiến hành nghiên cứu nuôi thử nghiệm cả hải sâm, vẹm xanh, tu hài và bước đầu đã cho những kết quả rất khả quan. Có thể nói lợi ích mà dự án đem lại cho những ngư dân nuôi trồng ở đây là rất lớn . - Lợi ích từ du lịch- giải trí: MCD đã tiến hành tổ chức rất nhiều đợt tập huấn cho người dân ở đây về mô hình du lịch sinh thái cộng đồng, chính họ sẽ trở thành các hướng dẫn viên du lịch. Tuy nhiên, do còn nhiều hạn chế về mặt cơ sở hạ tầng nên hoạt động du lịch ở đây vẫn chưa phát triển được mà mới chỉ dừng ở mức tham quan nhỏ lẻ của người địa phương hoặc các hoạt động vì mục đích nghiên cứu, học tập. Theo ý kiến người dân địa phương thì họ hoàn toàn mong muốn ngành du lịch ở đây được phát triển và các chuyên gia cũng cho rằng với những lợi thế về mặt văn hóa, tài nguyên thiên nhiên thì ngành du lịch nơi đây hoàn toàn có thể trở thành điểm mạnh của địa phương. Trong bản quy hoạch định hướng phát triển kinh tế- xã hội Vịnh Vân Phong 2010- 2020 thì ngành du lịch được coi là những ngành cần ưu tiên phát triển. Như vậy chắc chắn trong tương lai không xa Rạn Trào sẽ trở thành điểm đến thu hút của các du khách trong và ngoài nước. 3.2.1.2. Lợi ích gián tiếp Lợi ích gián tiếp là những lợi ích mà không tạo ra giá trị trực tiếp, không thể nhìn thấy được do đó nó không có giá trên thị trường. Vì thế, trong các phương pháp đánh giá thông thường giá trị này thường bị bỏ qua không đưa vào trong tính toán. Đây cũng chính là một trong những yếu tố tạo nên ưu điểm của phương pháp CBA. Lợi ích gián tiếp của KBV Rạn Trào bao gồm những lợi ích sau: - Lợi ích từ việc duy trì chức năng sinh thái của rạn san hô. Theo các chuyên gia MCD, nếu KBV Rạn Trào không được thành lập thì chắc chắn đến nay rạn san hô ở Rạn Trào sẽ không còn nữa. Nguyên nhân quan trọng nhất là từ những năm 90 nạn khai thác tràn lan san hô sống và san hô chết ở đây đã vô cùng phổ biến. Thực tế chứng minh rằng các rạn san hô xung quanh Rạn Trào như Rạn Tướng, Rạn Sụn... đã không còn nữa. Do đó, lợi ích của dự án còn là việc duy trì sự sống cho 28ha rạn san hô nơi đây. Theo nghiên cứu của Mohd Shahwahid và Mc Nally (2001) đã tính ra được giá trị của mỗi ha rạn san hô trong việc suy trì chức năng sinh thái bao gồm chức năng: điều hòa khí hậu (nhờ khả năng hấp thụ CO2 của rạn san hô); là đầu nguồn nước và là nơi cung cấp thức ăn; điều hòa sinh học; điều chỉnh tiếng ồn; xử lý rác thải. Có thể tính giá trị này bằng phương pháp chuyển giao giá trị. - Lợi ích từ việc tăng giá trị phi sử dụng của đa dạng sinh học: Dự ỏn đã góp phần làm phục hồi nhiều loài sinh vật quý hiếm và làm tăng tính đa dạng sinh học cho vùng biển Rạn Trào. Mặt khác, dự án đó giỳp nâng cao nhận thức cộng đồng trong việc bảo vệ tài nguyên môi trường. Do đó, người dân đánh giá rất cao việc bảo vệ môi trường đặc biệt là môi trường biển. Các cá nhân có thể quy ra giá trị bằng tiền cho sự tồn tại của các loài sinh vật nơi đây thông qua phương pháp phát biểu sở thích, qua đó người được hỏi cho biết mức sẵn lòng chi trả (WTP) của họ đối với đa dạng sinh học. - Lợi ích giảm ô nhiễm môi trường của rạn san hô. Việc hạn chế các hoạt động ở khu vực bảo vệ nghiêm ngặt sẽ đóng góp vào cải thiện chất lượng nước. Giá trị giảm ô nhiễm môi trường chính là lợi ích của dự án vì giảm ô nhiễm sẽ làm giảm áp lực lên môi trường vùng dự án và các vùng xung quanh, giảm chi phí phục hồi chất lượng nước, giảm chi phí về sức khoẻ của người dân. Tuy nhiên, do quy mô nghiên cứu của đề tài chưa thể nghiên cứu được giá trị này và cũng chưa có một nghiên cứu nào trước đó về giá trị này nên lợi ích này chỉ mang tính chất định tính chưa thể lượng hóa giá trị ra được. - Ngoài ra, rạn san hô còn có chức năng bảo vệ dải bờ biển. Tuy nhiên do Rạn Trào nằm trong khu vực vịnh Vân Phong nờn cỏc tác động do lũ, sóng biển là không đáng kể nên phạm vi luận văn sẽ không tính đến. San hô cũn cú những giá trị như dược liệu, đồ mỹ thuật...nhưng những giá trị này chưa xuất hiện ở địa phương và vì mục tiêu bảo tồn nên dự án cũng không khuyến khích những sinh kế trên. Do đó, sẽ không tính đến giá trị của những lợi ích này. 3.2.2. Nhận dạng chi phí 3.2.2.1. Chi phí trực tiếp Đây là những chi phí về cơ sở hạ tầng, xây dựng quy chế KBVHSTB, phục hồi nguồn lợi, quan trắc- kiểm tra giám sát, nâng cao nhận thức và trình độ quản lý, tuyên truyền, quảng cáo,....Những chi phí này do IMA tài trợ từ 2001- 2004 và từ 2004 đến nay là do MCD tài trợ trực tiếp cho dự án. Khác với các dự án thông thường chi phí ban đầu bỏ ra rất lớn, dự án KBV Rạn Trào chia đều chi phí cho các năm kể cả là thời gian đầu mới thành lập. Dự án không mất nhiều chi phí cho xây dựng cơ sở hạ tầng vì Ban quản lý Rạn Trào được nằm trong khu vực UBND huyện Vạn Ninh. Điều này đã thể hiện sự hợp tác, ủng hộ vô cùng nhiệt tình của huyện với dự án. 3.2.2.2. Chi phí quản lý và vận hành Chi phí này bao gồm chi phí tiền lương cho nhân sự ở Vạn Hưng, Khánh Hòa, Hà Nội; chi phí điện nước, điện thoại, văn phòng phẩm. Ngoài ra, hàng năm UBND huyện cũng thường chi một khoản ngân sách nhằm hỗ trợ cho các hoạt động của nhóm hạt nhân tại Vạn Hưng. 3.2.2.2. Thiệt hại do giảm sản lượng ngành thủy sản. - Thiệt hại do giảm sản lượng đánh bắt : Khi dự án được thực hiện và chính thức khoanh vùng thì hoạt động đánh bắt ở khu vực bảo vệ nghiêm ngặt và phục hồi nguồn lợi sẽ bị cấm. Trong khi đây lại là nơi đánh bắt chính của người dân thôn Xuân Tự 1, Xuân Tự 2 trước đây nên đã làm giảm sản lượng đánh bắt của ngư dân ở đây. Do đó, đây được coi là chi phí của dự án vỡ đó làm giảm thu nhập từ việc đánh bắt của ngư dân trong khu vực này. - Thiệt hại do giảm sản lượng nuôi trồng : Cũng tương tự như thiệt hại do giảm sản lượng đánh bắt, những ngư dân làm nghề nuôi trồng thủy sản cũng không được tiến hành hoạt động nuôi trồng trong 2 khu vực bảo vệ nghiêm ngặt và phục hồi nguồn lợi nên cũng dẫn đến giảm sản lượng nuôi trồng và đây cũng chính là chi phí của dự án. 3.3. Đánh giá các lợi ích và chi phí của dự án 3.3.1. Tóm tắt lợi ích- chi phí Có thể tóm tắt các chi phí- lợi ích của dự án thông qua bảng dưới đây. Tuy nhiên, có những giá trị có thể định lượng được nhưng vẫn có những giá trị chỉ mang tính chất định tính. Nội dung Định lượng Định tính Chi phí Chi phí trực tiếp Chi phí quản lý và vận hành Thiệt hại do giảm sản lượng đánh bắt Thiệt hại do giảm sản lượng nuôi trồng ☻ ☻ ☻ ☻ Lợi ích Tăng thu nhập từ đánh bắt thủy sản Tăng thu nhập từ nuôi trồng thủy sản Tăng giá trị du lịch- giải trí Duy trì chức năng sinh thái của rạn san hô Tăng giá trị phi sử dụng của ĐDSH Giảm ô nhiễm môi trường ☻ ☻ ☻ ☻ ☻ ☻ Bảng 10 : Bảng chi phí- lợi ích của dự án Trong phần đánh giá các giá trị tiếp theo chúng ta sẽ chỉ đánh giá các giá trị có thể định lượng. Các giá trị định tính đã được nêu ở phần 3.2.1. 3.3.2. Đánh giá và ước tính các chi phí của dự án 3.3.2.1. Chi phí trực tiếp Bao gồm chi phí về cơ sở hạ tầng là xây nhà bảo vệ cho KBV và mua sắm trang thiết bị, xây dựng quy chế KBVHSTB, phục hồi nguồn lợi, đánh giá nguồn lợi, PRA (đánh giá nông thôn có sự tham gia của cộng đồng), nâng cao nhận thức và trình độ quản lý, tuyên truyền, quảng cáo; các nghiên cứu- đánh giá khác như: nghiên cứu- đánh giá hiệu quả mô hình... Ta có bảng chi phí trực tiếp của dự án qua các năm như sau : Năm Chi phí phân vùng (triệu) Quan trắc môi trường (triệu) PRA (triệu) Nâng cao nhận thức người dân (triệu) Cơ sở hạ tầng và mua sắm trang thiết bị (triệu) Nghiên cứu phục hồi nguồn lợi (triệu) Nghiên cứu, đánh giá khác (triệu) thành lập KBV (triệu) xây dựng quy chế (triệu) Chi phí cho sinh kế khác (triệu) Truyền thông, quảng bá (triệu) Tổng chi phí trực tiếp (triệu) 2001 5 82,5 20 27 55,7 24,75 3,5 218,45 2002 3 22 109,5 2,5 137 2003 82,5 4 25 2,5 114 2004 7 4 2,5 13,5 2005 22 115,5 58 2,8 198,3 2006 78 50 3,5 131,5 2007 45 45 3,5 93,5 2008 48 190 44,55 67 3,5 282,55 Bảng 11 : Bảng chi phí trực tiếp của dự án 3.3.2.2. Chi phí quản lý và vận hành Chi phí này bao gồm chi phí tiền lương cho nhân sự ở Vạn Hưng, Khỏnh Hũa, Hà Nội; Chi phí vận hành hàng năm do MCD và UBND huyện Vạn Ninh hỗ trợ cho KBV nhằm chi trả cho các khoản: điện nước, điện thoại, văn phòng phẩm cho văn phòng của Ban quản lý; kinh phí hoạt động cho nhóm hạt nhân bảo vệ Rạn Trào. Năm Nhân sự (triệu) Phí di chuyển nhân sự (triệu) xây dựng kế hoạch quản lý hàng năm (triệu) Chi phí quản lý và vận hành trực tiếp tại địa phương (triệu) Tổng chi phí quản lý và vận hành (triệu) 2001 240 35,2 10 285,2 2002 240 17,6 15,65 10 283,25 2003 360 56,4 15,65 10 442,05 2004 360 56,4 15,65 10 442,05 2005 360 56,4 15,65 40 472,05 2006 360 56,4 15,65 40,6 472,65 2007 360 56,4 15,65 45 477,05 2008 360 56,4 15,65 49,44 481,49 Bảng 12 : Bảng chi phí quản lý và vận hành dự án 3.3.2.3. Chi phí cơ hội a. Thiệt hại do giảm sản lượng đánh bắt Khi dự án được thực hiện và chính thức khoanh vùng thì hoạt động đánh bắt ở khu vực bảo vệ nghiêm ngặt và phục hồi nguồn lợi sẽ bị cấm. Trong khi đây lại là nơi đánh bắt chính của người dân thụn Xuõn Tự 1, Xuân Tự 2 trước đây nờn đó làm giảm sản lượng đánh bắt của ngư dân ở đây. Theo báo cáo PRA (đánh giá sự tham gia của cộng đồng) vào thời điểm cuối năm 2000 có 200 hộ ở thụn Xuõn Tự (nay tách làm 2 thụn Xuõn Tự 1 và Xuân Tự 2) làm nghề đánh bắt thủy sản. Vào thời điểm này thu nhập của mỗi họ gia đình làm nghề đánh bắt là 25.000 đồng/ngày. Như vậy, trong một năm việc xây dựng KBV Rạn Trào đã làm giảm thu nhập của những người làm nghề đánh bắt số tiền là : 200*25.000*365= 1.825.000.000 (đồng)= 1.825 (triệu đồng) Đây là phần chi phí hàng năm do giảm sản lượng đánh bắt trong khu vực Rạn Trào. Khoản chi phí này sẽ được tính từ 2002- 2008 vì việc phân vùng được tiến hành vào cuối năm 2001. b. Thiệt hại do giảm sản lượng nuôi trồng Tương tự như thiệt hại do giảm sản lượng đánh bắt, việc xây dựng KBV Rạn Trào cũng làm thiệt hại cho ngành nuôi trồng thủy sản tại đây. Theo báo cáo PRA năm 2000 có 284 hộ làm nghề nuôi trồng thủy sản trong khu vực Rạn Trào và ước tính thu nhập một năm của mỗi hộ là 14 triệu. Như vậy, mỗi năm dự án đã làm giảm thu nhập của người dân làm nghề nuôi trồng một khoản thu nhập là : 284*18= 5.512 (triệu đồng) Thiệt hại này cũng bắt đầu tính từ năm 2002-2008. Ta có bảng tổng hợp các chi phí như sau : Năm Chi phí trực tiếp (triệu) Chi phí quản lý và vận hành (triệu) Thiệt hại do giảm sản lượng đánh bắt (triệu) Thiệt hại do giảm sản lượng nuôi trồng (triệu) Tổng chi phí (triệu) 2001 218,45 285,2 503,65 2002 137 283,25 1.825 5.112 7357,25 2003 114 442,05 1.825 5.112 7493,05 2004 13,5 442,05 1.825 5.112 7392,55 2005 198,3 472,05 1.825 5.112 7607,35 2006 131,5 472,65 1.825 5.112 7541,15 2007 93,5 477,05 1.825 5.112 7507,55 2008 282,55 481,49 1.825 5.112 7701,04 Bảng 13 : Bảng tổng chi phí của dự án 3.3.3. Đánh giá và ước tính các lợi ích của dự án Năm 2001 dự án bắt đầu đi vào thực hiện. Do đó, mọi lợi ích bắt đầu được phát sinh vào năm 2002 3.3.3.1. Lợi ích trực tiếp a. Lợi ích do tăng thu nhập từ đánh bắt thủy sản Năm 2001 KBV Rạn Trào được khoanh vùng bảo vệ. Số lượng cá thể trong KBV đã tăng lên đáng kể. Tuy nhiên, không phải tất cả ngư dân làm nghề đánh bắt ở xã Vạn Hưng đều đánh bắt ở khu vực Rạn Trào mà họ còn đánh bắt ở các vùng biển xung quanh hoặc đánh bắt xa bờ. Theo cuộc điều tra tháng 4 năm 2009 (do sinh viên và MCD thực hiện) thỡ cú 1/3 người dân đánh bắt ở khu vực khai thác hợp lý của Rạn Trào. Do đó, khi tính lợi ích này thì ta chỉ tính 1/3 sả

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc111250.doc