TCNCYH 117 (1) - 2019 93 
TẠP CHÍ NGHIÊN CỨU Y HỌC 
ĐẶC ĐIỂM LÂM SÀNG, CẬN LÂM SÀNG 
BỆNH KHÔNG CÓ GAMMAGLOBULINE MÁU LIÊN KẾT 
NHIỄM SẮC THỂ GIỚI TÍNH X 
Nguyễn Thị Vân Anh1, Lê Thị Minh Hương1, Lê Thanh Hải1, 
Vũ Văn Quang2, Nguyễn Thanh Bình1,3, Ngô Diễm Ngọc1, 
Nguyễn Phương Mai1, Thục Thanh Huyền1, Nguyễn Ngọc Quỳnh Lê1 
1Bệnh viện Nhi Trung ương; 2Trường Đại học Y Dược Hải Phòng; 3Trường Đại học Y Hà Nội 
Suy giảm miễn dịch bẩm sinh thể không có Gammaglobulin máu liên kết giới tính X (XLA) là bệnh bẩm 
sinh di truyền do đột biến nằm trên nhiễm sắc thể giới tính X, gây nhiễm khuẩn nặng, tái diễn thậm chí tử 
vong. Bệnh có thể chữa được nếu được chẩn đoán sớm và điều trị bằng truyền Gammaglobulin máu định kì 
thích hợp. Nghiên cứu mô tả 20 bệnh nhân từ 19 gia đình được chẩn đoán bệnh XLA tại bệnh viện Nhi 
Trung Ương, giải trình tự gene bằng phương pháp Sanger sequencing in Seattle Children’s Hospital. Tuổi 
trung bình là 7,7 tuổi (từ 2 - 16,5 tuổi), khởi phát nhiễm trùng trung bình lúc 9,1 tháng; 60% bệnh nhân được 
chẩn đoán trước 5 tuổi. Các bệnh nhiễm trùng thường gặp trước khi trẻ được chẩn đoán là: nhiễm khuẩn 
đường hô hấp (95%, trong đó có 70% viêm phổi, 75% viêm tai giữa), 55% bệnh nhân đã từng nhiễm khuẩn 
nặng (nhiễm khuẩn huyết, viêm màng não, viêm não). 55% bệnh nhân có tiền sử gia đình mắc bệnh. Nồng 
độ IgG trung bình trước chẩn đoán là 0,58 g/L, số lượng tế bào lympho B trung bình là 15,45 tế bào/mm3. 
Đột biến gen BTK được tìm thấy ở 17/20 bệnh nhân. Triệu chứng nhiễm khuẩn hô hấp tái diễn, nhiễm khuẩn 
nặng và tiền sử gia đình có người mắc bệnh XLA hoặc tử vong sớm do nhiễm khuẩn nặng là dấu hiệu quan 
trọng để nghĩ tới bệnh XLA. 
Từ khoá: suy giảm miễn dịch bẩm sinh, thiếu hụt miễn dịch dịch thể, bệnh XLA, Bệnh Bruton 
Địa chỉ liên hệ: Nguyễn Thị Vân Anh, Bệnh viện Nhi 
Trung ương 
Email: 
[email protected] 
Ngày nhận: 18/10/2018 
Ngày được chấp thuận: 20/11/2018 
I. ĐẶT VẤN ĐỀ 
Không có gammaglobulin di truyền liên kết 
giới tính X (X-linked Agammaglobulinemia - 
XLA) là bệnh di truyền do đột biến gene Btk 
nằm trên nhiễm sắc thể giới tính X ở vị trí Xq 
21.3 - q 22 [1; 2]. Đột biến này gây nên giảm 
hoặc mất chức năng của protein Btk khiến cho 
tế bào lympho B không thể biệt hóa hoặc 
trưởng thành được, dẫn đến cơ thể bị thiếu 
hụt hoặc không có kháng thể [3]. Do đó, người 
bệnh thường xuyên bị nhiễm khuẩn sớm, 
nặng và tái diễn thường xuyên. Đa số các 
bệnh nhân không được chẩn đoán hoặc chẩn 
đoán muộn, dẫn tới nhiều biến chứng và di 
chứng nặng nề [4]. 
Tỷ lệ mắc bệnh XLA thay đổi ở nhiều quần 
thể nghiên cứu khác nhau. Tại Hoa Kỳ, tỷ lệ 
này là 11,25 trên 100.000 dân [5]. Chẩn đoán 
bệnh dựa trên các dấu hiệu lâm sàng nhiễm 
khuẩn tái diễn, nồng độ kháng thể giảm nặng 
trong máu ngoại vi và số lượng tế bào lympho 
B giảm dưới 2%. Chẩn đoán xác định được 
thiết lập khi có kết quả đột biến gene BTK [6]. 
Trên thế giới, bệnh nhân XLA đã được 
chẩn đoán và nghiên cứu từ những năm 50 
của thế kỉ XX. Đa số các bệnh nhân XLA 
được phát hiện sớm, điều trị kịp thời và có 
cuộc sống tương đối khỏe mạnh. Tại Việt 
Nam, có rất ít các báo cáo về bệnh XLA. Năm 
2010, trẻ bị bệnh XLA đầu tiên được chẩn 
đoán sơ bộ bằng xét nghiệm định lượng 
 94 TCNCYH 117 (1) - 2019 
 TẠP CHÍ NGHIÊN CỨU Y HỌC 
kháng thể và xác định dấu ấn màng tế bào. 
Điều này cho thấy thực tế là nhiều bệnh nhân 
XLA không được chẩn đoán, chuẩn đoán 
muộn hoặc nhầm. Vì vậy chúng tôi tiến hành 
đề tài này với mục tiêu: 
1. Mô tả đặc điểm lâm sàng của trẻ mắc 
bệnh không có gammaglobulin máu liên kết 
giới tính X (XLA) tại Bệnh viện Nhi Trung 
ương. 
2. Phân tích xét nghiệm miễn dịch và phân 
tích đột biến gen Bruton Tyrosine Kinase ở 
các đối tượng nghiên cứu trên. 
II. ĐỐI TƯỢNG VÀ PHƯƠNG PHÁP 
1. Đối tượng 
1.1. Tiêu chuẩn chọn bệnh nhân 
Chúng tôi áp dụng tiêu chuẩn chẩn đoán 
bệnh không có gammaglobulin di truyền liên 
kết giới tính X (XLA) theo tiêu chuẩn của 
European Society for Immunodeficiencies năm 
1999 [6]. 
- Tiêu chuẩn chẩn đoán xác định: bệnh 
nhân nam có số lượng tế bào lympho B 
CD19+ ≤ 2% và ít nhất một tiêu chuẩn sau: 
+ Tìm thấy đột biến trên gen Btk (Bruton 
tyrosine kinase). 
+ Anh, em trai cùng mẹ của bệnh nhân, 
cậu và bác trai bên mẹ, hoặc cháu trai bên mẹ 
có số lượng tế bào lympho B CD19+ ≤ 2%. 
+ Không có Btk mRNA trong mẫu phân tích 
mARN của bạch cầu hạt trung tính và bạch 
cầu đơn nhân theo phương pháp Northern 
blot analysis. 
+ Không có protein Btk trong tế bào bạch 
cầu mono hoặc tiểu cầu. 
- Tiêu chuẩn chẩn đoán gần chắc chắn 
(possible): Bệnh nhân nam có số lượng tế bào 
lympho B CD19+ ≤ 2% và ít nhất một tiêu 
chuẩn sau: 
+ Xuất hiện các đợt nhiễm vi khuẩn tái diễn 
trong năm năm đầu đời. 
+ Nồng độ IgG, IgM và IgA ≤ - 2 độ lệch 
chuẩn với nồng độ ở trẻ bình thường cùng 
lứa tuổi. 
+ Không có kháng thể kháng hồng cầu Anti
-A và Anti-B trong máu và/hoặc đáp ứng kém 
với vaccine. 
1.2. Tiêu chuẩn loại trừ: một trong các 
tiêu chuẩn sau 
- Bệnh nhân bị suy giảm miễn dịch thứ 
phát do HIV, thuốc hoặc hóa chất. 
- Bệnh nhân hoặc người nhà không chấp 
thuận tham gia nghiên cứu. 
1.3. Địa điểm và thời gian nghiên cứu: 
nghiên cứu thực hiện tại Bệnh viện Nhi Trung 
ương từ tháng 6/2015 đến tháng 6/2017. 
2. Phương pháp 
2.1. Thiết kế nghiên cứu: Mô tả. 
2.2. Cỡ mẫu nghiên cứu: lựa chọn tất cả 
các bệnh nhân đủ tiêu chuẩn chẩn đoán; 
chúng tôi có được 20 bệnh nhân trong thời 
gian nghiên cứu. 
2.3. Phương pháp và kỹ thuật thu thập 
số liệu 
- Mỗi bệnh nhân có 1 bệnh án thống nhất 
để thu thập thông tin. 
- Tiền sử bản thân: khai thác tuổi khởi phát 
nhiễm khuẩn, cơ quan nhiễm khuẩn, tần suất 
và vị trí nhiễm khuẩn, tại tất cả các cơ quan, 
mức độ nặng, di chứng, ảnh hưởng tới phát 
triển thể chất. Tiêu chuẩn chẩn đoán nhiễm 
khuẩn như: viêm phổi, viêm khớp, viêm tai 
giữa, viêm não màng não, nhiễm khuẩn ngoài 
da, áp xe cơ, nhiễm khuẩn huyết, viêm não 
màng não, dựa vào chẩn đoán của các bác sỹ 
tại nơi bệnh nhân được thăm khám. Chỉ có 
biểu hiện nhiễm khuẩn trên (viêm muĩ họng, 
viêm thanh quản) là chủ quan của bệnh nhân. 
 TCNCYH 117 (1) - 2019 95 
TẠP CHÍ NGHIÊN CỨU Y HỌC 
- Tiền sử gia đình: bệnh nhân có anh trai 
hoặc em trai hoặc có anh/em họ là nam giới - 
con của em gái hoặc chị gái của mẹ; em trai 
hoặc anh trai của mẹ được chẩn đoán bệnh 
Không có Gammaglobulin máu liên kết nhiễm 
sắc thể giới tính X hoặc nhiễm khuẩn nặng, tái 
diễn và tử vong từ khi còn nhỏ do. 
- Khám lâm sàng: phát hiện các biểu hiện, 
cơ quan nhiễm khuẩn, các di chứng về thần 
kinh, hô hấp. Khám dấu hiệu thực thể: thiểu 
sản Amydal và hệ hạch bạch huyết ngoại vi. 
- Cận lâm sàng: 
• Nồng độ Immunoglobulin 
Định lượng các Immunoglobulin: IgG, IgA, 
IgM bằng kỹ thuật miễn dịch đo độ đục trên hệ 
thống xét nghiệm hóa sinh tự động AU 2700. 
Nồng độ IgG, IgA, IgM được tính tại thời 
điểm bệnh nhân được chẩn đoán lần đầu (khi 
chưa được điều trị truyền Gammaglobulin tĩnh 
mạch). 
• Phân tích lympho dưới nhóm: Số lượng 
tuyệt đối cũng như tỷ lệ phân bố theo phần 
trăm các tế bào lympho B (CD19+) và lympho 
T (CD3+; CD4+; CD8+) ở máu ngoại vi được 
phân tích bằng máy dòng chảy tế bào 3 màu 
FACSCalibur và xử lý với phần mềm Cell 
Quest software (BD Biosciences PharMingen). 
Số lượng tế bào lympho B được tính tại 
thời điểm bệnh nhân được chẩn đoán lần đầu 
(khi chưa được điều trị truyền Gammaglobulin 
tĩnh mạch). 
• Phân tích gen: genomic DNA được tách 
từ máu ngoại vi của bệnh nhân sau đó gửi 
phân tích tại bệnh phẩm được thực hiện tại 
bệnh viện trẻ em Seattle - Hoa Kỳ từ tháng 5 
tới tháng 7 năm 2017. 
3. Xử lý số liệu: Xử lý trên phần mềm 
SPSS 20.0 để tính các tỉ lệ; ABI system 
software để phân tích kết quả giải trình tự gen; 
so sánh kết quả giải trình tự gen với ngân 
hàng gen trực tuyến để tìm đột biến. 
4. Đạo đức nghiên cứu 
Bệnh nhân và người nhà tham gia nghiên 
cứu một cách tự nguyện. Nghiên cứu được 
tiến hành trung thực và chính xác. Nghiên cứu 
sẽ được thông qua Hội đồng y đức của Bệnh 
viện Nhi Trung ương tháng 1 năm 2016. 
Bệnh nhân tham gia nghiên cứu được 
chẩn đoán xác định bệnh, từ đó trẻ sẽ được 
điều trị, chăm sóc, theo dõi và quản lý theo 
phác đồ và chương trình điều trị của bệnh 
viện. Những bệnh nhân không đủ tiêu chuẩn 
nghiên cứu hoặc từ chối nghiên cứu vẫn được 
khám, điều trị đầy đủ. 
III. KẾT QUẢ 
Chúng tôi có 20 bệnh nhân từ 19 gia đình khác nhau đã được chẩn đoán bệnh không có 
gammaglobulin di truyền liên kết giới tính X. 
Bảng 1. Triệu chứng nhiễm khuẩn lần đầu 
Vị trí nhiễm khuẩn n % 
Viêm phổi 9 45,0 
Viêm tai giữa 6 30,0 
Viêm đường hô hấp trên 2 10,0 
Viêm não-màng não 1 5,0 
Ỉa chảy nhiễm khuẩn 1 5,0 
Áp xe da, cơ 1 5,0 
Tổng: 20 100 
 96 TCNCYH 117 (1) - 2019 
 TẠP CHÍ NGHIÊN CỨU Y HỌC 
Trong số 20 bệnh nhân được chẩn đoán bệnh do nhiễm khuẩn, bệnh nhiễm trùng đầu tiên trẻ 
thường mắc nhất là viêm phổi (45%), tiếp đó là viêm tai giữa (30%), tiếp đó là nhiễm khuẩn hô 
hấp trên khác và ỉa chảy nhiễm khuẩn. 
Bảng 2. Tỷ lệ mắc các bệnh nhiễm khuẩn trước khi được chẩn đoán bệnh 
Tình trạng nhiễm khuẩn n % 
Viêm thanh quản, viêm đường hô hấp trên 19 95 
Viêm tai giữa 15 75 
Viêm phổi 14 70 
Viêm khớp gối có mủ hoặc ko có mủ 8 40 
Ỉa chảy 7 35 
Viêm màng não hoặc viêm não màng não 6 30 
Nhiễm khuẩn huyết 6 30 
Nhiễm khuẩn da hoặc viêm mô tế bào 6 30 
Nhiễm khuẩn da 5 25 
Chậm lớn tại thời điểm đc chẩn đoán 5 25 
Nhiễm khuẩn sau tiêm vaccine 2 10 
Co giật do sốt cao 1 5 
Mắc bệnh Tay – chân - miệng 1 5 
Giãn phế quản 1 5 
Bệnh phổi mạn 1 5 
Tiền sử gia đình * 11 55 
Viêm đường hô hấp (viêm đường hô hấp trên và viêm phổi) là triệu chứng thường gặp nhất 
(95%), tiếp đó là viêm tai giữa (70%), đặc biệt nhiễm khuẩn huyết rất cao (55%). 
Bảng 3. Tuổi và tuổi chẩn đoán, điều trị của bệnh nhân 
Các chỉ số Trung bình (tháng) Khoảng dao động (tháng) 
Tuổi hiện tại 154 24 - 176 
Tuổi bắt đầu bệnh 9,1 1 - 27 
Tuổi chẩn đoán 54,7 6 - 153 
Thời gian chậm chẩn đoán 45,6 5 - 152 
Tuổi bắt đầu IVIG 54,9 6 - 153 
 TCNCYH 117 (1) - 2019 97 
TẠP CHÍ NGHIÊN CỨU Y HỌC 
Tuổi khởi phát bệnh trung bình là 9,1 tháng; có những bệnh nhân khởi phát đợt nhiễm khuẩn 
đầu tiên sau 3 tuổi. Tuổi chẩn đoán trung bình của bệnh nhân là 54 tháng, muộn hơn tuổi khởi 
phát bệnh 45 tháng. 
Có 11/20 trẻ có tiền sử gia đình có người được chẩn đoán XLA, trong đó có 7 bệnh nhân có 
tiền sử đã có người cậu, bác trai ruột mất vì nhiễm trùng nặng, 6/31 bệnh nhân có anh hoặc em 
trai, anh hoặc em họ bên mẹ được chẩn đoán XLA hoặc tử vong do nhiễm khuẩn. 
Bảng 4. Nồng độ gammaglobuline và số lượng tế bào lympho B trước chẩn đoán 
Các chỉ số Trung bình Khoảng dao động 
IgG trước chẩn đoán (g/L) 0,58 0 - 3,17 
IgA trung bình trước chẩn đoán (g/l) 0,05 0 - 0,35 
IgM trung bình trước chẩn đoán (g/l) 0,18 0 - 0,82 
Số lượng tế bào lympho B (tế bào/mm3) 15,5 0 - 78 
Tế bào lympho B (%) 0,28 0 - 1 
Nồng độ IgA, IgM, IgG trong máu của bệnh nhân đều giảm nặng. Một số trường hợp IgG trong 
giới hạn bình thường nhưng IgA, IgM của bệnh nhân đó đều giảm nặng. Tất cả bệnh nhân đều có 
số lượng tế bào lympho B dưới 2%. 
Dạng đột biến lệch khung dịch mã chiến tỷ lệ cao nhất với 35%, đứng thứ 2 là các đột biến vô 
nghĩa 20% và đột biến sai nghĩa đều chiếm tỷ lệ 15%. 
Hình 2. Các dạng đột biến ở đối tượng nghiên cứu 
IV. BÀN LUẬN 
Chúng tôi phân tích các triệu chứng lâm 
sàng, cận lâm sàng của 20 bệnh nhân XLA từ 
19 gia đình khác nhau tại Việt Nam cho thấy, 
triệu chứng nhiễm trùng hay gặp nhất là viêm 
đường hô hấp trên và viêm phổi (95%), tiếp 
đó là viêm tai giữa (14/20). Kết quả tương tự 
các nghiên cứu tại Hoa Kỳ [9]. Tỷ lệ viêm 
 98 TCNCYH 117 (1) - 2019 
 TẠP CHÍ NGHIÊN CỨU Y HỌC 
khớp gối nhiễm khuẩn hoặc vô khuẩn cao 
(8/20) so với các nghiên cứu tại Trung Quốc, 
Hồng Kong, Hoa Kỳ hay tại Tây Ban Nha, tỷ lệ 
viêm khớp gối dao động từ 7 tới 29% [8 - 11]. 
Điều này có thể do trong các nghiên cứu khác 
chỉ tính tới viêm khớp gối nhiễm khuẩn. Trong 
khi nghiên cứu của chúng tôi, các bệnh nhân 
có viêm khớp gối hầu hết không được chọc 
dịch khớp gối để xét nghiệm mà dựa trên triệu 
chứng lâm sàng nên có thể bao gồm những 
bệnh nhân viêm khớp vô khuẩn. Tỷ lệ viêm 
khớp gối cao ở nhóm bệnh nhân nghiên cứu 
có thể cho thấy viêm khớp gối là một dấu hiệu 
lâm sàng quan trọng, khi kết hợp với tiền sử 
hoặc triệu chứng lâm sàng khác có thể giúp 
phát hiện và chẩn đoán sớm bệnh XLA. Trong 
nghiên cứu của chúng tôi, có hai bệnh nhân 
mắc bệnh sởi mặc dù cả hai bệnh nhân đã 
tiêm phòng sởi đầy đủ theo lịch. Điều này 
chứng tỏ, trẻ không có khả năng sản xuất 
kháng thể chống lại virus sau khi tiêm phòng 
nên không có tác dụng bảo vệ cơ thể. Viêm 
não và viêm màng não là những bệnh nhiễm 
trùng nặng ở những bệnh nhân bị XLA với các 
biểu hiện mãn tính: tổn thương thần kinh kéo 
dài, thoái triển thần kinh. Trong nghiên cứu 
này, tỷ lệ bệnh nhân đã từng mắc viêm não và 
viêm màng chiếm 30% (6/20 bệnh nhân). Kết 
quả này cũng tương tự như các nghiên cứu 
khác trên thế giới [8; 9; 11]. Về tiền sử gia 
đình, 55% bệnh nhân có tiền sử gia đình có 
người được chẩn đoán là suy giảm miễn dịch 
thể dịch và/hoặc mất sớm vì nhiễm khuẩn 
nặng. Tỷ lệ bệnh nhân có tiền sử gia đình của 
chúng tôi cao hơn so với nghiên cứu của 
Winkelstein tại Mỹ là 41%, nghiên cứu của 
Esenboga ở Thổ Nhĩ Kỳ là 47%, của Zang tại 
Trung Quốc là 23,8% [9 - 11]. 
Kết quả ở bảng 3 cho thấy, bệnh nhân có 
biểu hiện nhiễm khuẩn lần đầu lúc 9,1 tháng 
(sớm nhất bắt đầu lúc 1 tháng, muộn nhất là 
27 tháng). 14/20 bệnh nhân biểu hiện triệu 
chứng trước 1 tuổi. Trong nghiên cứu này, 
các bệnh nhân được chẩn đoán trung bình lúc 
54,7 tháng. Kết quả của chúng tôi tương tự 
với nghiên cứu tại Hàn Quốc trên 19 bệnh 
nhân, tuổi chẩn đoán trung bình là 58,7 tháng 
[7], sớm hơn ở Trùng Khánh - Trung Quốc 
92,2 tháng [8]. Tuy nhiên, bệnh nhân của 
chúng tôi đang được chẩn đoán muộn hơn 
nhiều so với các nước khác như tại Mỹ: 35 
tháng [9]. 
Nồng độ Immunoglobuline: từ Bảng 4 cho 
thấy một bệnh nhân có chỉ số IgG tại thời 
điểm chẩn đoán trong giới hạn bình thường; 
tuy nhiên, IgA, IgM của bệnh nhân này giảm 
rất nặng (lần lượt là 0,03 và 0,07 g/L). Đối 
chiếu với lâm sàng, bệnh nhân này được chẩn 
đoán lúc 14 tháng tuổi với biểu hiện nhiễm 
khuẩn tái diễn, và số lượng tế bào lympho B 
dưới 1% cũng phù hợp với chẩn đoán và phát 
hiện đột biến trên gen BTK. Đây là dạng 
không điểu hình của bệnh XLA, đã được báo 
cáo ở nhiều nghiên cứu khác như nghiên cứu 
tại Ý hoặc các báo cáo ca bệnh ở Anh [12; 
13]. Tất cả 19 bệnh nhân còn lại (95%) có 
nồng độ IgA, IgM, IgG giảm dưới -2SD so với 
tuổi. Như vậy, cùng với các dấu hiệu lâm sàng 
gợi ý, xét nghiệm nồng độ kháng thể IgA, IgM, 
IgG sẽ cung cấp bằng chứng quan trọng giúp 
định hướng tới bệnh XLA. 
Dấu ấn miễn dịch bằng phương pháp dòng 
chảy tế bào (flow cytometry): Chúng tôi phân 
tích tế bào lympho B thông qua dấu ấn miễn 
dịch CD19 trên bề mặt tế bào. Kết quả cho 
thấy hầu hết các bệnh nhân có tỉ lệ tế bào 
lympho B rất thấp, từ 0 đến 1%, trung bình là 
0,28%. Đối chiếu với tiêu chuẩn chẩn đoán, 
tất cả 20 bệnh nhân đều có khả năng cao mắc 
XLA. Tuy nhiên, việc chẩn đoán xác định cần 
dựa trên phân tích đột biến gen Btk. 
 TCNCYH 117 (1) - 2019 99 
TẠP CHÍ NGHIÊN CỨU Y HỌC 
Đột biến gen Btk: Bệnh suy giảm miễn dịch 
thể không có gammaglobulin máu có thể do 
gen do đột biến gen Btk nằm trên nhiễm sắc 
thể X (bệnh XLA) hoặc có thể do đột biến 
khác nằm trên nhiễm sắc thể thường. Do vậy, 
việc phân tích gen Btk là cần thiết để chẩn 
đoán xác định bệnh XLA, làm cơ sở cho công 
tác tư vấn di truyền. Từ hình 1 cho thấy có 17 
bệnh nhân tìm được đột biến, trong đó dạng 
đột biến dịch khung chiếm tỉ lệ cao nhất. Kết 
quả này tương tự với các đột biến được công 
bố trong nghiên cứu tại Trung Quốc của Chen 
và cộng sự trên 174 bệnh nhân phát hiện 126 
đột biến trên gen Btk trong đó 48 (38,10%) 
bệnh nhân có đột biến sai nghĩa, 29 (23,02%) 
bệnh nhân có đột biến dịch khung, 23 
(18,25%) bệnh nhân có đột biến vùng cắt nối 
exon/intron, 21 (16,67%) bệnh nhân có đột 
biến vô nghĩa và 5 (3,97%) bệnh nhân có đột 
biến mất đoạn lớn [14]. 
Ba bệnh nhân không tìm thấy đột biến 
(trong đó có một cặp anh em) đều có mẹ 
không tìm thấy đột biến mặc dù lâm sàng và 
số lượng tế bào lympho B < 2 % phù hợp với 
tiêu chuẩn chẩn đoán có thể của bệnh XLA. 
Hiện tượng này có thể được giải thích bằng 
rối loạn tương tác gen trong quá trình dịch mã, 
tương tác giữa gen với môi trường, và trong 
trường hợp hiếm gặp hơn là đột biến gen trên 
nhiễm sắc thể thường ví dụ như gen BLNK 
mã hoá B cell linker protein. 
IV. KẾT LUẬN 
Qua nghiên cứu 20 bệnh nhân XLA cho 
phép chúng tôi thấy hầu hết các bệnh nhân bị 
nhiễm khuẩn sớm, nặng, tái phát thường 
xuyên nhưng được chẩn đoán bệnh muộn. Đa 
số các bệnh nhân đều có tiền sử gia đình gợi 
ý. Về các xét nghiệm, hầu hết các bệnh nhân 
thiếu hụt miễn dịch dịch thể nghiêm trọng, tỉ lệ 
tế bào B < 1%. Có 17 bệnh nhân tìm được đột 
biến gen Btk, chủ yếu là đột biến dịch khung. 
TÀI LIỆU THAM KHẢO 
1. D Vetrie, I Vorechovsky, Al Sideras P 
Et (1993). The gene involved in X-linked 
agammaglobulinaemia is a member of the src 
family of protein-tyrosine kinases. Nature, 361, 
226 - 233. 
2. P Sideras, Cie Smith (1995). Molecular 
and cellular aspects of X-linked agammag-
lobulinemia. Adv Immunol, 59, 135 - 223. 
3. G Manning, Db Whyte, Al Martinez R 
Et (2002). The protein kinase comple- ment of 
the human genome. Science, 298, 912 - 1934. 
4. Fried A. J., Bonilla F. A (2009). Patho-
genesis, diagnosis, and management of pri-
mary antibody deficiencies and infections. Clin 
Microbiol Rev, 22(3), 396 - 414. 
5. Jm Boyle, Rh Buckley (2007). Popula-
tion prevalence of diagnosed primary immuno-
deficiency diseases in the United States. J 
Clin Immunol, 27(5), 497 - 502. 
6. Conley Mary Ellen, Notarangelo Luigi 
D., Etzioni Amos (1999). Diagnostic Criteria 
for Primary Immunodeficiencies. Clinical Im-
munology, 93, 190 - 197. 
7. Chun Jin-Kyong, Lee Taek Jin, Song 
Jae Woo et al (2008). Analysis of Clinical 
Presentations of Bruton Disease: A Review of 
20 Years of Accumulated Data from Pediatric 
Patients at Severance Hospital. Yonsei Medi-
cal Journal, 49(1), 28 - 36. 
8. Lee P. P., Chen T. X., Jiang L. P et al 
(2010). Clinical characteristics and genotype-
phenotype correlation in 62 patients with X-
linked agammaglobulinemia. J Clin Immunol, 
30(1), 121 - 131. 
9. Ja Winkelstein, Mc Marino, Hm Leder-
man (2006). X-linked agammaglobulinemia: 
 100 TCNCYH 117 (1) - 2019 
 TẠP CHÍ NGHIÊN CỨU Y HỌC 
report on a United States registry of 201 pa-
tients. Med Baltim, 85, 193 - 202. 
10. Zhang Z. Y., Zhao X. D., Jiang L. P. et 
al (2010). Clinical characteristics and molecu-
lar analysis of 21 Chinese children with con-
genital agammaglobulinemia. Scand J Immu-
nol, 72(5), 454 - 459. 
11. Esenboga Saliha, Ayvaz Deniz Çag-
Das (2018). Clinical and Genetic Features of 
the Patients with X-Linked Agammaglobuline-
mia from Turkey: Single Center Experience. 
Scandinavian Journal of Immunology, 87, 
1 - 8. 
12. A Plebani, A Soresina, Al Rondelli 
R Et (2002). Clinical, immunological, and mo-
lecular analysis in a large cohort of patients 
with X-linked agam- maglobulinemia: An Ital-
ian multicenter study. Clin Immunol, 104, 221 -
230. 
13. B Gaspar H, M Ferrando, I Caragol 
et al (2000). Kinase mutant Btk results in 
atypical X-linked agammaglobulinaemia phe-
notype, Clin. Exp. Immunol, 120, 346 - 350. 
14. Chen Xia-Fang, Wang Wei-Fan, 
Zhang Yi-Dan et al (2016). Clinical character-
istics and genetic profiles of 174 patients with 
X-linked agammaglobulinemia. Medicine, 95
(32), e 4544. 
Summary 
CLINICAL, LABORATORY STUDIES OF X-LINKED 
AGAMMAGLOBULINEMIA 
Primary immunodeficiency including XLA is a genetic congenital disease caused by a mutation 
located on the chromosome X. It usually causes severe, recurrent, and even fatal infections. The 
prognosis is quite good if patients are diagnosed early and treated regularly. The genomes of 
twenty patients from 19 unrelated families were diagnosed with XLA by physicians at the National 
Children's Hospital, Hanoi were analysed for the BTK gene by Sanger sequencing in Seattle 
Children’s Hospital. Mean patient age was 7.7 years with onset of symptoms at 9.1 months; 60% 
patients were diagnosed before age 5 years. 95% patient had recurrent URI's (70% experienced 
pneumonia, 75% experienced media otitis) and 55% patient suffered severe infections (including 
sepsis, meningitis, encephalitis). 55% cases had positive family histories (brother of patient, 
maternal uncle, or patient’s maternal family had one more men die because of recurrent infections 
or severe infections. Mean IgG level was 0.58 g/L, mean B-cell number was 15.45 cells/mm3. 
BTK gene mutations were identified in 17/20 patients. Symptoms of recurrent respiratory tract 
infections, severe infections and family history of people with primary Immunodeficiency congeni-
tal immunodeficiency or X-linked agammaglobulinemia or died at infancy due to severe infection 
are important signs for diagnosis. 
Keyword: primary immunodeficiency, Agammaglobulinemia, X-linked agammaglobuline-
mia, XLA, Bruton