Đề tài Cơ sở lý luận về hàng giả và gian lận thương mại

Tài liệu Đề tài Cơ sở lý luận về hàng giả và gian lận thương mại: Phần mở đầu Phát triển nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần vận động theo cơ chế thị trường có sự quản lý điều tiết vĩ mô của nhà nước theo định hướng XHCH là một tất yếu khách quan đối với Việt Nam, đặc biệt là trong điều kiện hội nhập, toàn cầu hiện nay. Thực tế hơn 10 năm đổi mới nền kinh tế Việt Nam đã có nhiều bước phát triển vượt bậc: sản xuất hàng hoá phát triển, tốc độ tăng trưởng cao, đời sống nhân dân không ngừng tăng lên... Tuy nhiên, bên cạnh những mặt tích cực thì cơ chế thị trường cũng có rất nhiều mặt tiêu cực mà người ta hay gọi nó là "mặt trái của cơ chế thị trường". Một trong những mặt tiêu cực đó là nạn hàng giả và gian lận thương mại. Nói đến hàng giả có lẽ không ai trong chúng ta là không biết tới và thậm chí cũng đôi ba lần là nạn nhân của hàng giả. Hiện nay hàng giả vẫn ngang nhiên chen vai hích cánh cùng hàng thật ở mọi lúc, mọi nơi, bất kỳ một thứ gì cũng có nguy cơ bị làm giả từ hàng tiêu dùng, vật tư cho đến thuốc chữa bệnh... Hàng giả gây tác hại trực tiế...

doc40 trang | Chia sẻ: hunglv | Lượt xem: 1021 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem trước 20 trang mẫu tài liệu Đề tài Cơ sở lý luận về hàng giả và gian lận thương mại, để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Phần mở đầu Phát triển nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần vận động theo cơ chế thị trường có sự quản lý điều tiết vĩ mô của nhà nước theo định hướng XHCH là một tất yếu khách quan đối với Việt Nam, đặc biệt là trong điều kiện hội nhập, toàn cầu hiện nay. Thực tế hơn 10 năm đổi mới nền kinh tế Việt Nam đã có nhiều bước phát triển vượt bậc: sản xuất hàng hoá phát triển, tốc độ tăng trưởng cao, đời sống nhân dân không ngừng tăng lên... Tuy nhiên, bên cạnh những mặt tích cực thì cơ chế thị trường cũng có rất nhiều mặt tiêu cực mà người ta hay gọi nó là "mặt trái của cơ chế thị trường". Một trong những mặt tiêu cực đó là nạn hàng giả và gian lận thương mại. Nói đến hàng giả có lẽ không ai trong chúng ta là không biết tới và thậm chí cũng đôi ba lần là nạn nhân của hàng giả. Hiện nay hàng giả vẫn ngang nhiên chen vai hích cánh cùng hàng thật ở mọi lúc, mọi nơi, bất kỳ một thứ gì cũng có nguy cơ bị làm giả từ hàng tiêu dùng, vật tư cho đến thuốc chữa bệnh... Hàng giả gây tác hại trực tiếp cho con người như ảnh hưởng an toàn tính mạng, an toàn sức khoẻ, và nguy hại hơn là làm mất uy tín của nhà sản xuất kinh doanh. Do đó hàng giả vẫn đang là vấn đề bức xúc với các cơ quan nhà nước, nỗi lo của nhà sản xuất kinh doanh và sự bất bình của người tiêu dùng. Gian lận thương mại là một hành vi vi phạm pháp luật gây hậu quả nghiêm trọng đối với xã hội, rất nhiều kẻ vì ham tiền đã tìm mọi thủ đoạn buôn gian, bán lận, lừa bịp người khác để thu lợi bất chính làm thất thu ngân sách nhiều tỷ đồng làm cho nhiều doanh nghiệp dở khóc dở cười thậm chí bị phá sản vì bị lừa. Thật đáng lo khi mà số vụ gian lận thương mại ngày một gia tăng và thủ đoạn ngày càng tinh vi hơn. Thực tế những hậu quả do nạn hàng giả và gian lận thương mại gây ra là hết sức nghiêm trọng do đó đặt ra cho chúng ta một yêu cầu cấp bách là phải tìm ra những biện pháp hữu hiệu nhất để diệt trừ tận gốc nạn hàng giả và gian lận thương mại. Và đó cũng chính là lý do mà em nghiên cứu đề tài này. Do điều kiện hiểu biết cũng như kinh nghiệm có hạn do đó trong đề tài sẽ không tránh khỏi sai sót nếu không có sự giúp đỡ của các thầy cô. Em xin chân thành cảm ơn! Kết cấu của đề tài bao gồm: - Chương I: Cơ sở lý luận về hàng giả và gian lận thương mại. - Chương II: Thực trạng nạn hàng giả và gian lận thương mại ở Việt Nam thời gian qua. - Chương III: Giải pháp chống hàng giả và gian lận thương mại ở Việt Nam. Chương I Cơ sở lý luận về hàng giả và gian lận thương mại. I. Tổng quan về hàng giả và gian lận thương mại I.1. Hàng giả I.1.1. Khái niệm hàng giả. Việc đưa ra một khái niệm chính xác, đầy đủ và dễ hiểu về hàng giả là một điều hết sức quan trọng. Bởi vì trước hết ta phải hiểu hàng giả là gì thì ta mới có thể có những biện pháp để chống lại nó. Có rất nhiều khái niệm khác nhau về hàng giả do các nhà nghiên cứu có những quan điểm, khác nhau về hàng giả. Tuy nhiên ở Việt Nam chúng ta chỉ nghiên cứu hàng giả với hai khái niệm chủ yếu sau: - Khái niệm 1: Trong bộ luật hình sự của nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam được Quốc hội khoá VII thông qua tại kỳ họp thứ 9 ngày 27/6/1985, có hiệu lực từ ngày 1/1/1986 quy định tội làm hàng giả, buôn bán hàng giả tại điều 167. "Hàng giả là loại hàng có giá trị và giá trị sử dụng không đúng với tên gọi của nó, không đúng với tiêu chuẩn đã quy định của Nhà nước trong việc sản xuất các loại hàng hoá hoặc sử dụng trái phép nhãn hiệu của một cơ sở sản xuất khác". - Khái niệm 2: Trong điều 3 Nghị định số 140/HĐBT của Hội đồng Bộ trưởng ngày 25/4/1991 nêu rõ: Hàng giả là những sản phẩm hàng hoá được sản xuất ra trái pháp luật và có hình dạng giống như những sản phẩm, hàng hoá được Nhà nước cho phép sản xuất, nhập khẩu và tiêu thụ trên thị trường, hoặc những sản phẩm hàng hoá không có giá trị sử dụng đúng với bản chất tự nhiên tên gọi và công dụng của nó, là loại sản phẩm hàng hoá mang nhãn hiệu hàng hoá giống hệt hoặc tương tự có khả năng làm cho người tiêu dùng nhầm lẫn với sản phẩm hàng hoá thực mà có cơ sở sản xuất kinh doanh đã đăng ký với cơ quan bảo hộ quyền sở hữu công nghiệp hoặc được bảo hộ theo điều ước quốc té mà Việt Nam có tham gia. Hiện nay ta thống nhất dùng loại khái niệm thứ 2 này trong các văn bản quy phạm pháp luật có liên quan và trong công tác chống sản xuất và buôn bán hàng giả. Khái niệm này đã đáp ứng được yêu cầu đầy đủ, dễ hiểu tuy nhiên để có nhận thức đầy đủ và có một bức tranh tổng quan về hàng giả ta cũng cần phải nghiên cứu bản chất của sản xuất và buôn bán hàng giả và các dạng hàng giả. I.1.2. Bản chất của sản xuất và buôn bán hàng giả Bản chất của sản xuất và buôn bán hàng giả là hành vi cướp đoạt giá trị vật chất và tinh thần của người khác, lừa dối người tiêu dùng để thu lợi bất chính. Sản xuất và buôn bán hàng giả là hành vi cướp đoạt giá trị vật chất và giá trị tinh thần của người khác điều này được thể hiện rất rõ đối với mọi loại hàng giả. Đã là hàng giả thì bao giờ chất lượng cũng kém hơn so với hàng thật, thậm chí có những loại hàng giả có độc tố ảnh hưởng trực tiếp đến sức khoẻ sinh mạng của người tiêu dùng. Chính vì vậy số tiền mà người tiêu dùng bỏ ra và giá trị sử dụng công dụng của hàng giả không tương xứng với nhau. Để cướp đoạt được giá trị vật chất và giá trị tinh thần của người khác bọn sản xuất và buôn bán hàng giả dùng rất nhiều thủ đoạn để lừa dối che mắt người tiêu dùng để thu lợi bất chính. Chúng chủ yếu dựa vào sự thiếu hiểu biết của khách hàng để lừa dối như hàng nội giá ngoại ăn cắp sử dụng nhãn mác của sản phẩm nổi tiếng làm cho người tiêu dùng thường là bị động trước những trò lừa dối ngày càng tinh vi của bọn chúng. I.1.3. Những dấu hiệu để nhận biết hàng giả. I.1.3.1. Dấu hiệu của hàng giả Có những loại hàng giả khi mua đem sử dụng ta có thể biết ngay nhưng có những sản phẩm làm giả rất khó nhận biết vì tính năng sử dụng bị giảm sút khó phân biệt hoặc mức độ ảnh hưởng của nó dai dẳng, ngấm ngầm. "Trong điều kiện hiện nay công tác chống hàng giả cần tập trung vào những hàng hoá bị làm giả ở những dấu hiệu sau: - Sản xuất và sử dụng nhãn giả và bao bì mang nhãn hiệu giả hoặc sử dụng nhãn của người khác, của cơ sở sản xuất khác mà không được phép của chủ nhãn (bao gồm nhãn sản phẩm, nhãn hiệu hàng hoá và dấu phù hợp tiêu chuẩn Việt Nam). - Hàng hoá không có giá trị sử dụng, không đúng với nguồn gốc bản chất tên gọi công dụng của nó hoặc có mức chất lượng dưới mức tối thiểu do Nhà nước quy định nhằm đánh lừa gây thiệt hại cho người tiêu dùng nhằm thu lợi bất chính. (Trong Điều 4. Nghị định số 140/HĐBT của Hội đồng Bộ trưởng 25/4/1991). I.1.3.2. Phân biệt giữa hàng giả và hàng kém chất lượng Sản phẩm hàng hoá có mức chất lượng thấp hơn mức chất lượng đã đăng ký và ghi nhãn sản phẩm (ê-tihét) song chưa vi phạm mức chất lượng tối thiểu thì chưa bị coi là hàng giả mà chỉ là những hàng kém chất lượng. Những hàng hoá này được xử lý theo Nghị định số 327/HĐBT của Hội đồng Bộ trưởng về việc thi hành pháp lệnh chất lượng hàng hoá. Việc phân biệt giữa hàng giả và hàng kém chất lượng là rất quan trọng trong công tác chống hàng giả bởi có phân biệt ta mới biết đâu là hàng giả, đâu làm hàng kém chất lượng để xử lý đúng người đúng tội theo đúng quy định và luật pháp của nhà nước. I.1.3.3. Mức chất lượng tối thiểu. Mức chất lượng tối thiểu là mức chất lượng (chủ yếu là các chỉ tiêu liên quan đến an toàn, vệ sinh và môi trường) được cơ quan nhà nước có thẩm quyền (như Uỷ ban Khoa học Nhà nước, Bộ Y tế, Bộ Lao động Thương binh và xã hội) quy định dưới dạng tiêu chuẩn hoặc văn bản quy định khác. Những hàng hoá có mức chất lượng dưới mức tối thiểu thì bị coi là hàng giả và bị xử lý theo Nghị định số 140 - HĐBT. I.1.4. Phân loại hàng giả Có rất nhiều tiêu thức khác nhau làm căn cứ để phân loại hàng giả, một trong những tiêu thức đó là phân loại theo hàng hoá sản xuất trong nước hay nước ngoài. Với căn cứ đó hàng giả được xem xét dưới những dạng sau: - Nội giả nội như xe đạp VIHA, diêm thống nhất, thuốc lá Du lịch, Vinataba, xà phòng, xi măng, nước mắm, thóc giống, quần áo, bia, rượu, thuốc tân dược giả. - Nội giả ngoại như các rượu Henessy, Johnie Walker, Remy Mar-tin, phụ tùng xe máy, xe đạp, thuốc lá... - Giả sản phẩm của liên doanh với nước ngoài như mỳ chính, nước khoáng Lavie. - Ngoại giả ngoại: như mỳ chính Ajnomoto, máy điện thoại Nukio, băng hình, đĩa CD... - Ngoại giả nội: như thuốc bảo vệ thực vật do nước ngoài sản xuất, giả nhãn mác Việt Nam... Ngoài ra, người ta cũng có thể phân loại theo hình thức của hàng giả: - Hàng giả sử dụng nhãn mác bao bì của hàng thật, loại hàng giả này rất nguy hiểm với người tiêu dùng vì thường là phải sử dụng rồi mới biết là thật hay giả. - Hàng giả nhái theo kiểu dáng của hàng thật. Loại hàng giả n ày dễ nhận biết hơn nhưng hiện nay lại phổ biến trên thị trường do người tiêu dùng không có những hiểu biết đầy đủ về hàng hoá định mua. I.2. Gian lận thương mại I.2.1. Khái niệm Gian lận thương mại là một thuật ngữ mà cho đến nay rất ít người hiểu về nó một cách đầy đủ thậm chí ta cũng không thể tìm thấy một khái niệm cụ thể nào về gian lận thương mại trong các văn bản pháp luật của nhà nước. Thuật ngữ này đang được tranh luận gay gắt về khái niệm cũng như nội hàm của nó. Để đưa ra được một khái niệm về gian lận thương mại ta phải quay trở về với lịch sử ra đời của thuật ngữ này. Gian lận thương mại theo từ điển tiếng Việt là "dối trá, lừa lọc"(1), trong hoạt động thương mại. Người có hành vi gian lận thương mại gọi là "gian thương" tức là "người có nhiều mưu mô lừa lọc", "kẻ buôn bán gian lận và trái phép"(2). Gian lận thương mại được coi là hành vi của con người cụ thể có lời nói hoặc cử chỉ hành động không đúng với bản chất của sự vật hiện tượng nhằm mục đích đánh lừa người khác. Trong dân gian, gian lận thương mại gắn liền với thành ngữ "buôn gian, bán lận" và dùng để chỉ những thủ đoạn mánh khoé lừa lọc khách hàng hoặc người khác để thu lợi bất chính. Hành vi "buôn gian, bán lận" trong dân gian được hiểu bao gồm một số thủ đoạn đơn giản như: hàng xấu nói tốt, ít nói nhiều, rẻ nói đắt, cân đo điêu, buôn bán hàng cấm lén lút, giấu giếm, lậu thuế... Từ sự phân tích trên, theo tôi, gian lận thương mại có thể hiểu là "hành vi có ý gian dối trong khai báo hải quan". I.2.2. Các loại hình gian lận thương mại. Tại Hội nghị của tổ chức Hải quan quốc tế về chống gian lận thương mại được tổ chức từ ngày 9 đến ngày 13-10-1995 ở Brúcxen (Bỉ) đã thống nhất phân chia các hình thức gian lận thương mại thành 16 loại: 1) Buôn bán hàng cấm qua biên giới hoặc ra khỏi sự kiểm soát của hải quan (thí dụ: buôn bán động vật quý hiếm, sản phẩm văn hoá,...) 2) Khai báo sai chủng loại hàng hoá. 3) Khai tăng, giảm trị giá hàng hoá. 4) Lợi dụng chế độ ưu đãi xuất xứ hàng hoá (thí dụ, Nhà nước ta có chính sách ưu đãi về thuế đối với hàng hoá của các nước ASEAN). 5) Lợi dụng chế độ ưu đãi đối với hàng gia công. 6) Lợi dụng chế độ tạm nhập tái xuất, tạm xuất tái nhập (đây là hàng hoá được miễn thuế XNK nhưng đã sử dụng sai mục đích). 7) Lợi dụng các yêu cầu về giấy phép về XNK (thí dụ các loại giấy phép theo nhu cầu chuyên ngành như hàng cho an ninh, quốc phòng; cho y tế, văn hoá, xã hội,...). 8) Lợi dụng chế độ quá cảnh đem dùng trong nước (thí dụ: hàng của Lào, Trung Quốc vận chuyển qua lãnh thổ Việt Nam). 9) Khai báo sai về số lượng, chất lượng hàng hoá. 10) Lợi dụng chế độ mục đích sử dụng buôn bán trái phép hàng hoá được ưu đãi về thuế nhập khẩu dành cho những đối tượng sử dụng nhất định (thí dụ: hàng cho đồng bào bị lũ lụt; cho các dân tộc miền núi để xoá đói giảm nghèo, hàng cho các cơ quan ngoại giao,...). 11) Vi phạm đạo luật về diễn giải thương mại, hoặc quy định bảo vệ người tiêu dùng. 12) Buôn bán hàng giả, hàng ăn cắp mẫu mã. 13) Buôn bán hàng không có sổ sách. 14) Làm giả làm khống việc hoàn hay truy hoàn thuế hải quan (thí dụ: làm giả chứng từ về hàng đã xuất...) 15) Kinh doanh "ma", doanh nghiệp ma đăng ký kinh doanh bất hợp pháp nhằm hưởng tín dụng thuế trái phép. 16) Thanh lý phá sản có chủ đích để trốn tránh nghĩa vụ nộp thuế (thí dụ: công ty đăng ký kinh doanh một thời gian ngắn, nợ thuế rồi tuyên bố phá sản), loại gian lận này thường được gọi là "Hội chứng phượng hoàng". I.2.3. Phân biệt giữa gian lận thương mại và Gian lận thương mại và buôn lậu là hai khái niệm khác nhau. Tuy nhiên một thức tế hiện nay là hai khái niệm này chưa được tách bạch. Phân biệt rõ ràng và và chúng vẫn luôn tồn tại bên nhau trong nhận thức xã hội. Thực tế đó đặt ra yêu cầu là phải phân định rõ ranh giới giữa hai khái niệm này để tránh tình trạng xử lý tuỳ tiện, buông lỏng bỏ lọt tội phạm, đảm bảo xử lý nghiêm minh đúng người đúng tội, đúng pháp luật làm hậu thuẫn tích cực cho công tác đấu tranh chống buôn lậu và gian lận thương mại. Tuy gian lận thương mại không phải là một tội danh trong luật hình sự, nhưng các dấu hiệu đặc trưng của nó lại trùng hợp với buôn lậu. Một bộ phận của gian lận thương mại là buôn lậu, và buôn lậu cũng bao gồm gian lận thương mại. Từ thực tiễn đấu tranh chống buôn lậu và gian lận thương mại, chúng ta có đủ cơ sở pháp lý để phân định ranh giới giữa hai "tội danh" này. Trong điều 97 Bộ luật hình sự của nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam đã ghi nhận tội danh buôn lậu "Buôn bán trái phép hoặc vận chuyển trái phép qua biên giới hàng hoá tiền Việt Nam, ngoại tệ, kim khí quý, đá quý hoặc vật phẩm thuộc di tích lịch sử, văn hoá...". Tính "trái phép" ở đây được thể hiện rõ: không chấp hành các quy định xuất khẩu, nhập khẩu của nhà nước, không khai báo hải quan hoặc khai báo gian dối, giả mạo giấy tờ; giấu giếm hàng hoá, tiền tệ... không có giấy tờ hợp lệ của các cơ quan có thẩm quyền của Nhà nước (thương mại, hải quan, ngân hàng, văn hoá...) không đi qua các cửa khẩu quy định, cố tình trốn tránh sự kiểm tra kiểm soát của hai quan hoặc cơ quan chức năng cửa khẩu, trốn thuế, lậu thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu và các sắc thuế khác có liên quan. Như vậy sự khác nhau cơ bản giữa gian lận thương mại và buôn lậu là: Buôn lậu trước hết phải là hành vi gian lận thương mại nhưng ở mức cao hơn, tính chất nghiêm trọng hơn. Trong khi gian lận thương mại là việc cố ý làm trái các quy định của pháp luật, lợi dụng sự sơ hở của luật pháp để thực hiện hành vi gian dối, lừa gạt người khác nhằm thu lợi bất chính. Về phạm vi, khái niệm gian lận thương mại bao gồm 16 hành vi đã nêu do đó rộng hơn khái niệm buôn lậu. Về mức độ nhận biết, hành vi buôn lậu dễ nhận thấy, dễ phát hiện trong khi hành vi gian lận thương mại khó phát hiện, nhiều khi hành vi này được núp dưới vỏ bọc rất hợp pháp, hợp lệ. Về việc xử lý, xử lý hành vi buôn lậu dễ dàng hơn do đã có quy định cụ thể rõ ràng về các hình thức xử lý và các mức xử lý. Còn đối với việc xử lý hành vi gian lận thương mại là rất khó khăn. Nguyên nhân chính của hiện tượng này lại chính là do chưa phân định rõ ranh giới giữa buôn lậu và gian lận thương mại. II. Nguyên nhân của nạn hàng giả và gian lận thương mại. II.1. Nguyên nhân hay động cơ của nạn sản xuất và buôn bán hàng giả. Nền kinh tế nước ta đi vào xây dựng và phát triển trên cơ sở một nền sản xuất nông nghiệp nghèo nàn lạc hậu kéo dài, trình độ dân trí nói chung còn thấp, nhất là tri thức về pháp luật. Đại bộ phận dân cư sống còn mang nặng lối suy nghĩ cá nhân hẹp hòi chỉ nhìn thấy cái lợi thiển cận. Có khi chỉ vì cái lợi không đáng là bao mà họ vẫn sẵn sàng làm hàng giả ảnh hưởng đến tính mạng, sức khoẻ của bao nhiêu người khác. Thêm vào đó là cơ chế thị trường, nền kinh tế chuyển hướng dựa trên cơ sở phát triển nhiều thành phần, chấp nhận sự cạnh tranh. Đó là một nguyên nhân, một điều kiện cho tện nạn làm hàng giả phát triển. II.2. Nguyên nhân hay động cơ dẫn đến gian lận thương mại. Có nhiều nguyên nhân (động cơ) thúc đẩy hành vi gian lận thương mại. Nhưng nói chung động cơ chủ yếu đó là chủ hàng hay những người có hành vi gian lận thương mại muốn thu lợi riêng cho bản thân mình và không muốn làm nghĩa vụ với ngân sách nhà nước, chẳng hạn như: - Trốn thuế xuất nhập khẩu. - Trốn tránh các thuế nội địa. - Nhập hoặc xuất những mặt hàng cấm để thu lợi. III. Tác động của hàng giả và gian lận thương mại. III.1. Tác động đến nền kinh tế. 1. Tác động của hàng giả đến nền kinh tế. Hàng giả là hành vi vi phạm pháp luật có tính chất nghiêm trọng đối với toàn xã hội. Việc sản xuất và buôn bán hàng giả ngày càng gia tăng đều trực tiếp hay gián tiếp gây ra những hậu quả xấu đối với nền kinh tế. Một tác động điển hình là nạn hàng giả làm giảm hoạt động đầu tư nước ngoài vào Việt Nam đặc biệt là với những loại hàng giả thuộc dạng nội giả ngoại này càng nhiều hơn làm cho các doanh nghiệp, các chủ đầu tư nước ngoài không dám bước chân vào thị trường Việt Nam. Hàng giả còn ảnh hưởng đến nguồn thu ngân sách Nhà nước. Thông qua sự tác động tới các doanh nghiệp Nhà nước, hàng giả làm thiệt hại ngân sách hàng tỷ đồng. Thêm vào đó ngân sách Nhà nước luôn phải chi ra những khoản tiền tương đối lớn cho công tác chống sản xuất và buôn bán hàng giả. Và như vậy hàng giả sẽ luôn là gánh nặng cho ngân sách Nhà nước nếu như chúng ta không có những biện pháp mạnh để chặn đứng hành vi này. 2. Tác động của gian lận thương mại đến nền kinh tế. Như chúng ta đã biết động cơ chủ yếu của các hành vi gian lận thương mại là chốn thuế. Chính vì lẽ đó mà gian lận thương mại làm cho Nhà nước thất thu thuế lớn, làm ảnh hưởng đến quá trình tích luỹ vốn của Nhà nước để cân đối thu chi ngân sách, để đầu tư cho quá trình CNH HĐH đất nước. Khi ngân sách mất cân đối Nhà nước sẽ phải cắt giảm các chương trình, dự án. Các chính sách kinh tế, tài chính ít nhiều cũng sẽ bị ảnh hưởng. Do đồ ngoại trốn thuế rất rẻ cho nên, gian lận thương mại đã tạo ra sự mất ổn định về giá cả, gây rối loạn thị trường nội địa, gây ách tắc cho sản xuất và tiêu dùng trong nước. III.2. Tác động của hàng giả và gian lận thương mại đến các doanh nghiệp 1. Tác động cảu hàng giả đến các doanh nghiệp. Những sản phẩm hàng hoá có uy tín là kết quả của quá trình nghiên cứu đổi mới công nghệ, cải tiến mẫu mã, nâng cao chất lượng, quảng cáo tiếp thị, có sản phẩm mang tính gia truyền hoặc xuất xứ ở những vùng có điều kiện đặc thù mà trở nên nổi tiếng. Hàng giả được làm giống hệt hoặc tương tự hàng thật nhưng không phải đầu tư vào những công việc trên cho nên chi phí sản xuất thấp vì vậy dễ thu được lợi nhuận cao, có "lợi thế cạnh tranh" cao. Cuộc "cạnh tranh" không cân sức này đã làm hàng thật điêu đứng, các doanh nghiệp luôn có nguy cơ đứng bên bờ vực của sự phá sản. Bởi vì: Thứ nhất: hàng giả rẻ hơn và bán được nhiều (khi người tiêu dùng chưa biết là hàng giả) do đó ảnh hưởng trực tiếp đến doanh số bán của các doanh nghiệp. Doanh số bán của doanh nghiệp sẽ liên tục giảm, hàng hoá tồn đọng không tiêu thụ được dẫn đến ứ đọng vốn, nợ ngày một nhiều và nếu cứ kéo dài tình trạng này thì tất yếu doanh nghiệp sẽ bị phá sản. Thứ hai: khi người tiêu dùng biết có hàng giả thì doanh nghiệp cũng bị mất uy tín và khách hàng có thể không mua nữa (VD: Mì chính Ajinomoto) và doanh nghiệp bị đẩy vào nguy cơ phá sản. 2. Tác động của gian lận thương mại đối với các doanh nghiệp. Cũng giống như hàng giả, hàng hoá gian lận sẽ có chi phí thấp do chốn được thuế do đó "tính cạnh tranh" cao hơn đặc biệt là cạnh tranh bằng giá cả. Điều đó làm cho các doanh nghiệp làm ăn chân chính nếu có cạnh tranh được thì cũng bị thiệt hại nặng nề, tuy nhiên đa phần là không cạnh tranh được và kết quả có thể dẫn tới phá sản. III.3. Tác động của hàng giả và gian lận thương mại đến người tiêu dùng. 1. Tác động của hàng giả đến người tiêu dùng. Hàng giả luôn là nỗi kinh hoàng cho mỗi người tiêu dùng, bất kỳ ai cũng có thể là nạn nhân của hàng giả và nó có thể ảnh hưởng đến sinh mạng, sức khoẻ của người tiêu dùng. Nguy hiểm nhất trong số các loại hàng giả phải kể đến là thuốc chữa bệnh. Nhiều bệnh nhân mua phải thuốc giả giá thì đắt mà bệnh vẫn hoàn bệnh, thậm chí bệnh còn nặng thêm và gây chết người. Với người nông dân hàng giả làm cho họ dở khóc dở cười, tiền mất tật mang khi mua phải phân bón, thuốc trừ sâu giả... Và còn rất nhiều những hậu quả mà hàng giả gây ra cho người tiêu dùng mà trong phạm vi bài viết này không thể liệt kê hết được. Nhưng qua đó chúng ta cần phải biết rằng tron khi chúng ta đang "loay hoay" tìm những biện pháp chống hàng giả từ người tiêu dùng đang hàng ngày hàng giờ phải "chung sống" với hàng giả và đang phải hứng chịu những hậu quả do hàng giả gây ra. 2. Tác động của gian lận thương mại đến người tiêu dùng. Gian lận thương mại gây ra tình trạng hàng ngoại tràn ngập vào thị trường nội địa với giá rẻ tạo ra tâm lý ưa dùng hàng ngoại cho người tiêu dùng. Tuy nhiên nguồn hàng này là không ổn định và rất bấp bênh cho nên nó luôn tạo ra những cơn sốt về hàng hoá và giá cả. Hơn nữa những người tiêu dùng không khỏi lo ngại khi trên thị trường lại có những hàng ngoại nhập có tính chất đồi truỵ, phản động... có thể ảnh hưởng đến con em mình... Chương II Thực trạng nạn hàng giả và gian lận thương mại ở Việt Nam thời gian qua I. Thực trạng nạn hàng giả và gian lận thương mại ở Việt Nam I.1. Thực trạng sản xuất và buôn bán hàng giả ở Việt Nam thời gian qua. I.1.1. Những loại hàng hoá hay bị sản xuất giả ở Việt Nam. Thời bao cấp, hàng giả hầu như ít có đất phát triển bởi sản phẩm sản xuất theo chỉ tiêu do các cơ quan sản xuất thuộc lĩnh vực quốc doanh và khu vực tập thể đảm nhiệm. Cung không đủ cầu nên họ không phải lo cải tiến mẫu mã, không cần thiết thị hiếu của khách hàng, không phải lo tiếp thị thị trường mà chỉ lo hoàn thành kế hoạch trên giao. Người tiêu dùng hầu như không có quyền lựa chọn, không cần mặc cả về giá. Vì vậy hàng giả khó "chen chân". Song từ khi chuyển sang nền kinh tế thị trường tạo điều kiện cho sản xuất hàng hoá phát triển nhưng cũng là những mảnh đất có đủ "độ ẩm" "nhiệt độ"... thích hợp cho hàng giả phát triển, từ những mặt hàng cao cấp đắt tiền như đá quý, vàng bạc, rượu ngoại, nước hoa, mỹ phẩm... đến các mặt hàng chuyên dụng như tân dược, thuốc trừ sâu, phân bón... rồi đến các mặt hàng điện tử như các thiết bị điện tử, đĩa CD... rồi đến các mặt hàng công nghiệp như máy bơm nước, các phụ tùng ôtô, xe máy... tiếp đến là các mặt hàng vật liệu xây dựng (sắt, thép, xi măng...). Các mặt hàng may mặc, giầy dép và cả đến các loại hàng thông dụng, rẻ tiền như viên phấn, giấy vệ sinh.... Nhưng có lẽ nhiều nhất vẫn là mặt hàng thực phẩm, đồ uống. Hiện nay trên thực tế hàng giả tồn tại ở khắp mọi nơi với hầu hết các loại hàng hoá. Chỉ cần thị trường có nhu cầu mà khả năng làm được thì đều có nguy cơ bị làm hàng giả. I.1.2. Những thủ đoạn làm hàng giả. Hàng giả trên thị trường phổ biến là sử dụng nhãn mác bao bì của hàng thật, nhái theo kiểu dáng của hàng thật trong nước và ngoài nước trong khi đó ruột lại là hàng giả (VD: rượu, bia, nước hoa,...). Theo thống kê thời gian qua các vi phạm này chủ yếu về sở hữu công nghiệp chiếm gần 75%, về kiểu dáng công nghiệp chiếm gần 25%. Mấy năm gần đây còn thấy xuất hiện một số loại hàng sản xuất từ nước ngoài mang nhãn mác hàng nội nhập vào để trà trộn tiêu thụ trong nước chủ yếu là những mặt hàng có chất lượng được người tiêu dùng ưa chuộng như quạt bàn, giày dép... Vừa qua, lực lượng cảnh sát kinh tế Hà Nội, Thái Bình, Thừa Thiên - Huế... còn phát hiện một loại hàng giả là những túi nilon in mác nhãn bột ngọt Ajinomoto được nhập qua đường biên giới phía Bắc vào để bán cho những ổ nhóm làm bột ngọt giả. Đáng chú ý còn có hình thức liên doanh làm hàng giả như trường hợp Công ty Golden Desire (Hồng Kông) liên doanh với Công ty LOTABA và Công ty KHATACO với hình thức Công ty Golden Desire đưa nguyên vật liệu vào để sản xuất thuốc lá Malbro giả, Công ty Golden Desire chịu trách nhiệm tiêu thụ ra nước ngoài, Công ty LOTABA và Công ty KHATOCO nhận tiền gia công từ 8 đến 16 USD/thùng (500 bao)... Liên doanh này đã sản xuất tiêu thụ trên 20 triệu bao mới bị phát hiện... Nguy hại là loại hàng giả độc hại mà bọn tội phạm không cần biết đến tính mạng người sử dụng, chỉ vì lợi nhuận, bọn chúng làm những loại hàng giả gây tác hại trực tiếp đến sức khoẻ của người tiêu dùng như pha thuốc trừ sâu, phân đạm urê vào rượu để tăng nồng độ rượu (alcol), dùng da trâu nhựa đường nấu làm cao hổ cốt, cao khỉ toàn tính, dùng phẩm hồng hoà vào nước máy giả làm thuốc bổ B12... Ngoài cách bắt chước mẫu mã, kiểu dáng, bọn tội phạm còn dùng thủ đoạn bày bán cùng với hàng thật, đưa vào các cửa hàng, thậm chí cả siêu thị. Đa số các vụ sản xuất hàng giả thường là ở quy mô nhỏ, khép kín trong gia đình hoặc một số ít người đảm bảo từ khâu sản xuất đến khâu tiêu thụ. Phương tiện sản xuất thô sơ, đơn giản... tổ chức sản xuất không thừ xuyên, không liên tục, thường là theo thời vụ, thấy thị trường khan hiếm, tiêu thụ dễ, có lợi mới tổ chức sản xuất. Để che dấu hành vi phạm pháp và dễ dàng phi tang khi bị kiểm tra, từ sản xuất tập trung, quy mô bọn làm hàng giả đã chuyển sang phân tán và chia nhỏ công đoạn, làm tới đâu tiêu thụ ngay tới đó, sản xuất ở các hẻm sâu, vùng ven đô, gần bờ ao, sông, rạch v.v.. Mặt khác để tiêu thụ được, với kỹ thuật tinh vi làm cho hàng giả giống hệt, hoặc tương tự làm cho hàng giả giống hệt hoặc tương t ự, người mua dễ nhầm lẫn với hàng thật, nhưng chất lượng kém hơn, khối lượng ít hơn, có trường hợp hàng giả toàn bộ hay từng phần. I.1.3. Nguyên nhân của nạn hàng giả. Có rất nhiều nguyên nhân dẫn đến tình trạng nạn sản xuất và buôn bán hàng giả ngày một gia tăng, bao gồm cả những nguyên nhân khách quan và nguyên nhân chủ quan, trong đó nguyên nhân chủ quan vẫn là cơ bản nhất. 1. Nguyên nhân khách quan. Do cơ chế thị trường phát triển, bên cạnh những mặt tích cực, những thành tựu mà nó đem lại cho nền kinh tế nước ta thì nó ngày càng bộc lộ những hạn chế, những hậu quả to lớn cho nền kinh tế mà không phải một sớm một chiều mà khắc phục được. Hàng giả là một trong những hạn chế đó. Do trình độ dân trí nước ta còn thấp cộng thêm lối suy nghĩ cá nhân hẹp hòi chỉ nhìn thấy cái lợi trước mắt mà dẫn đến động cơ làm hàng giả. Do cơ sở vật chất kỹ thuật nước ta nói chung là thấp kém, những thiết bị, máy móc chuyên dụng cho công tác kiểm tra chất lượng sản phẩm hàng hoá là không có. Các công nghệ tiên tiến để bảo vệ hàng hoá như mã số, mã vạch, nhãn hiệu... hầu như chưa phát triển. 2. Nguyên nhân chủ quan. Thứ nhất, do hệ thống pháp luật của nhà nước ta về công tác đấu tranh chống sản xuất kinh doanh buôn bán hàng giả còn tản mạn, một số quy định chưa chặt chẽ, thậm chí còn chồng chéo gây khó khăn, cản trở công tác kiểm tra xử lý. Thứ hai, do việc quản lý sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp và các cấp các ngành quản lý sản xuất kinh doanh có liên quan còn lỏng lẻo thiếu sự kiểm tra kiểm soát hoặc kiểm tra kiểm soát không chặt chẽ không khách quan, không chính xác... Hơn nữa cá doanh nghiệp chưa có những biện pháp hữu hiệu để bảo vệ cho sản phẩm của mình. Thứ ba, nguyên nhân xuất phát từ người tiêu dùng, một phần do họ không có đủ những thông tin về sản phẩm của các doanh nghiệp, một phần do họ chưa có ý thức cao trong công tác chống sản xuất và buôn bán hàng giả. Người tiêu dùng ít liên hệ với các cơ quan chức năng như cục quản lý thị trường, cảnh sát kinh tế... để cung cấp những thông tin về hàng giả. Tất cả những nguyên nhân trên đã chứng tỏ vì sao nạn sản xuất và buôn bán hàng giả vẫn không hề giảm bất chấp mọi nỗ lực, cố gắng của Nhà nước, của các cơ quan chức năng trong công tác chống sản xuất và buôn bán hàng giả. I.2. Thực trạng gian lận thương mại ở nước ta hiện nay Hiện nay hành vi gian lận thương mại phát sinh phát triển đa dạng, phức tạp với những thủ đoạn ngày càng tinh vi hơn, nổi bật là tình hình nhập hàng sai khai báo như có ít khai nhiều không có hàng xuất vẫn khai có hàng hoặc khai tăng giá để hưởng nhiều kim ngạch xuất khẩu, tình hình nhập thừa, nhập hàng đã qua sử dụng trốn thuế; phát hiện nhiều vụ vận chuyển chứa hàng ngoại, không có chứng từ nhập, bán hàng không lập hoá đơn xuất khẩu, vi phạm chế độ chứng từ hoá đơn sổ sách trốn thuế. Thị trường trong nước xuất hiện nhiều hàng hoá vi phạm nhãn hiệu sản phẩm, không có giấy phép không đăng ký chất lượng, không có giấy chứng nhận vệ sinh thực phẩm... Hàng ngoại thông qua hành vi gian lận thương mại và buôn lậu đang tràn ngập thị trường nội địa Việt Nam, bao gồm đủ loại từ hàng cao cấp đắt tiền cho đến những hàng tiêu dùng bình thường, từ xe hơi, xe máy, ti vi, máy đông lạnh... cho đến rượu, bia, thực phẩm, thuốc lá... Một số ví dụ điển hình: - Mặt hàng giấy in báo, giấy thường thuế suất 30-40% chủ hàng khai báo giấy cao cấp (thuế suất chỉ 10%). - Mặt hàng ôtô: có trọng tải từ 5 đến dưới 10 tấn khi nhập khẩu phải chịu thuế suất 50%, chủ hàng man khai thành xe chuyên dùng đông lạnh, xe có trọng tải trên 10 tấn chỉ chịu mức thuế suất 10-30% v.v... - Một số doanh nghiệp lợi dụng quy chế cho phép không phải nộp thuế nhập khẩu đối với các loại hàng "Nhập nguyên liệu, tái sản xuất sản phẩm" để nhập khẩu hàng gia công xuất khẩu nhưng lại tiêu thụ nội địa. - Lợi dụng chính sách khuyến khích phát triển "nội địa hoá xe máy" để nhập phụ tùng rời, phụ tùng đã đăng ký sản xuất trong nước kèm theo để về lắp ráp. - Nhiều doanh nghiệp còn lợi dụng cơ chế "hàng đổi hàng" giữa ta và lào tạo dựng hồ sơ xuất khẩu đổi hàng giả, vận chuyển trái phép ngoại tệ qua biên giới để buôn lậu hàng hoá mà điển hình là vụ Công ty TNHH Bình Minh (Nghệ An) cấu kết với một số cá nhân, doanh nghiệp ở Hà Nội làm hồ sơ mua bán giả, nhập lậu từ Lào về 357 xe máy Dream trị giá gần 500.000 USD. Thủ đoạn gian lận thương mại ngày càng tinh vi và phức tạp hơn đã làm thất thu ngân sách rất nhiều. Theo đánh giá của chính phủ, thất thu thuế mà gian lận thương mại gây ra là vào khoảng 25% trong tổng số thuế xuất nhập khẩu (theo chỉ thị số 426-TTg ngày 16/8/1994 của thị trường chính phủ về tăng cường công tác Hải quan). Tuy con số 25% đã là rất lớn nhưng so với thực tế của thực trạng gian lận thương mại hiện nay thì nó vẫn chưa thể phản ánh hết được những khoản thất thu thuế mà những đường dây gian lận thương mại ngầm chưa bị chúng ta phát hiện vẫn ngang nhiên đục khoét ngân sách nhà nước. I.2.1.1. Buôn bán hàng cấm qua biên giới khai báo sai chủng loại hàng hoá, khai tăng giảm trị giá hàng hoá 1. Buôn bán hàng cấm qua biên giới. Hiện nay tình trạng buôn bán hàng cấm qua biên giới hoặc qua khỏi sự kiểm soát của hải quan (có thể gọi là buôn lậu) đang diễn ra rất phổ biến ở hầu hết các cửa khẩu trên cả nước, số vụ vi phạm không ngừng tăng lên đặc biệt tình trạng buôn lậu, vận chuyển trái phép ma tuý, vũ khí, chất cháy nổ, cổ vật, ngoại tệ, động vật quý hiếm vẫn còn diễn ra trên các tuyến biên giới. Một số số liệu cụ thể: - 1991-1995: Hải quan sân bay Tân Sơn Nhất thu giữ hàng nghìn cổ vật quy định vận chuyển trái phép ra nước ngoài gồm gốm sứ, tiền cổ, trống đồng... - Tháng 5/1998 lực lượng cảnh sát kinh tế cả nước kiểm tra và bắt giữ 3.3.54 kg động vật hoang dã định buôn bán ra nước ngoài. - Đầu tháng 3/2000 Chi cục kiểm lâm đã cùng với cảnh sát kinh tế thành phố Hồ Chí Minh phát hiện một ôtô tải chở động vật quý hiếm: 222 kg rùa, 150 kg rắn, 26 kg kỳ đà... 2. Khai báo sai chủng loại hàng hoá, khai tăng giảm trị giá hàng hoá. Đây là hành vi gian lận phổ biến nhất thường gặp ở Việt Nam hiện nay. - Khai báo sai chủng loại hàng hoá là việc khai báo với cơ quan hải quan mặt hàng này nhưng thực tế lại xuất nhập khẩu mặt hàng khác để tránh những hàng hoá có thuế suất cao hoặc hàng hoá thuộc diện cấm hoặc hàng thuộc danh mục nhà nước quản lý, những mặt hàng hay gian lận là ôtô, xe máy... như những ví dụ trước đã nêu. - Khai tăng giảm trị giá hàng hoá Việc xác định trị giá hàng hoá là một trong những yếu tố quan trọng để tính thuế xuất nhập khẩu. Luật thuế xuất nhập khẩu của nước ta hiện nay quy định giá tính thuế hàng xuất nhập khẩu để xác định căn cứ theo giá ghi trên hợp đồng và hoá đơn thương mại hợp lệ và phù hợp với các chứng từ hợp lệ khác có liên quan tuy nhiên các doanh nghiệp vẫn gian lận bằng cách hai bên mua bán thông đồng với nhau ghi giá trên hoá đơn thấp hơn nhiều so với giá trị thực tế của hàng hoá đó. Đây là hành vi gian lận tinh vi và khó phát hiện nhất hiện nay. I.2.1.2. Hiện tượng lậu thuế, chứng từ giả Trong tất cả các hoạt động gian lận thương mại có lẽ gian lận thương mại qua lợi dụng chính sách thuế xuất nhập khẩu là loại hình gian lận đặc thù nhất ở Việt Nam bởi vì động cơ chủ yếu của bọn gian lận thương mại là trốn thuế, lậu thuế. Chúng lợi dụng đặc điểm khung thuế suất của ta có nhiều bất hợp lý. Ví dụ một số mặt hàng như ôtô du lịch, xe đạp, rượu bia, hàng điện tử... Có mức thuế suất cao nhưng một số mặt hàng tương tự mang tính chất chuyên dụng thì thuế suất lại rất thấp và bọn gian lận thương mại tìm mọi thủ đoạn để hưởng mức chênh lệch này. Ví dụ: - Xe ôtô du lịch loại 12 chỗ ngồi có thuế suất là 160% nhưng vẫn chiếc xe đó, nếu thay đổi đi một vài chi tiết phụ như. tháo hết ghế để thành xe tải thì thuế suất chỉ còn 60%, như vậy đã giảm được 100% thuế. Lại vẫn chiếc xe đó thêm bớt vài chi tiết khác như tháo bớt ghế, lắp thêm còi, hiệu cứu thương trở thành xe cứu thương thì thuế suất chỉ còn 0%. - Trong kinh doanh nội địa, vấn đề đáng quan tâm và thủ đoạn trốn thuế bằng con đường mua bán, sử dụng hoá đơn đang diễn ra nghiêm trọng. Một số doanh nghiệp mua hoá đơn VAT nhưng không sử dụng, mang bán lại cho doanh nghiệp khác với giá bằng 6% doanh số ghi trên hoá đơn tạo điều kiện cho các doanh nghiệp "đối tác" tạo dựng hồ sơ giả để trốn thuế, xin hoàn thuế. Cạnh đó, tình trạng bán hàng không xuất hoá đơn, ghi hoá đơn với số tiền ở các liên khác nhau, sử dụng hai loại sổ sách kế toán ghi giá bán trên hoá đơn thấp hơn so với giá thực thanh toán diễn ra khá phổ biến (điển hình là mặt hàng xe máy, khoản chênh lệch này lên tới 6-10 triệu đồng/1 chiếc xe bán ra). I.2.2. Những thủ đoạn thực hiện gian lận thương mại Mỗi một loại hình gian lận thương mại có nhiều thủ đoạn gian lận khác nhau cốt để trốn thuế thu lợi bất chính. Tuy nhiên ở đây ta không nhắc lại những thủ đoạn như ở trên đã nói mà ta chỉ đề cập đến một thủ đoạn hết sức nguy hiểm, đang là vấn đề nổi cộm, khó khăn và phức tạp nhất. Đó là sự cấu kết giữa bọn gian lận thương mại và một số những cán bộ Hải quan thoái hoá biến chất. Thực trạng này đang diễn ra khá phổ biến ở nước ta hiện nay và rất khó phát hiện ra nó. Bọn gian thường chỉ cần thông đồng, móc ngoặc với cán bộ Hải quan, cán bộ giám định kê khai sai từ xe ôtô du lịch 12 chỗ ngồi thành xe cứu thương như ví dụ trên là đã ngang nhiên cướp không của nhà nước 160% thuế suất. Sự cấu kết này là thực sự nguy hiểm bởi các cán bộ Hải quan là cái bình phong núp bóng an toàn nhất cho bọn gian lận thương mại và nếu chẳng may bị phát hiện thì mức độ xử lý cũng "thoáng hơn" "dễ chịu hơn". Như vậy có thể nói gian lận thương mại gắn với tệ tham nhũng và nếu tệ tham nhũng vẫn còn thì gian lận thương mại không thể giảm được. I.2.3. Nguyên nhân Thứ nhất, một số Bộ, ngành, địa phương buông lỏng quản lý đối với hoạt động xuất, nhập khẩu, cá biệt có nơi cơ quan quản lý Nhà nước cơ quan chức năng đã làm ngơ hoặc tạo điều kiện cho bọn buôn lậu và gian lận thương mại hoạt động. Nhiều công ty kinh doanh xuất nhập khẩu trong đó có cả của công an, quân đội, đơn vị kinh tế, Đảng, đoàn thể do xuất phát từ lợi ích cục bộ dã trực tiếp tham gia hoặc tạo điều kiện cho bọn gian lận thương mại sử dụng làm bình phong núp bóng. Các ngành chức năng chống buôn lậu và gian lận thương mại chưa có sự phối hợp chặt chẽ, có nơi, có lúc còn chồng chéo lấn sân nhau, thậm chí vô hiêu hoá hoạt động của nhau. Thứ hai, tệ tham nhũng ngày càng nhiều, bọn buôn lậu và gian lận thương mại trong nước và nước ngoài móc nối với các phần tử thoái hoá biến chất trong các lực lượng chống gian lận thương mại để lũng đoạn, vô hiệu hoá hoạt động của các cơ quan này, trong khi đó lãnh đạo cấp trên lại thiếu sự kiểm tra, giám sát cấp dưới, một số trường hợp vi phạm chưa được xử lý nghiêm, vẫn còn hiện tượng cán bộ làm công tác chống gian lận thương mại "bảo kê" cho hoạt động gian lận thương mại. Thứ ba, chính sách thuế xuất nhập khẩu của ta hiện nay bộc lộ nhiều vấn đề bất hợp lý, tạo kẽ hở cho công tác quản lý, kiểm tra, kiểm soát rất dễ bị bọn xấu lợi dụng. II. Thực tiễn đấu tranh chống hàng giả và gian lận thương mại ở Việt Nam II.1. Thực tiễn đấu tranh chống hàng giả ở Việt Nam 1. Những biện pháp chủ yếu hiện nay. Hàng giả không chỉ tác hại đến quyền lợi của người tiêu dùng, đến sức khoẻ tính mạng của nhân dân mà còn ảnh hưởng trực tiếp đến sản xuất kinh doanh đến uy tín của những nhà sản xuất kinh doanh. Bởi vậy công tác đấu tranh chống sản xuất, kinh doanh tiêu thụ hàng giả phải là nhiệm vụ bức thiết của toàn xã hội. Cũng cần khách quan mà nhận định rằng chống sản xuất và buôn bán hàng giả thực sự là một cuộc chiến cam go, lâu dài và do đó cần có sự phối hợp chặt chẽ của nhiều cơ quan, ban ngành chức năng, các doanh nghiệp và người tiêu dùng. a) Các biện pháp đấu tranh chống hàng giả của nhà nước và các cơ quan ban ngành chức năng. * Thấy rõ mức độ nguy hại của loại tội phạm này, Nhà nước ta đã ban hành rất nhiều văn bản pháp luật có liên quan đến hàng giả và đặc biệt là những quy định về kiểm tra, xử lý, xử phạt tội làm hàng giả. Cụ thể: - Pháp lệnh về các hành vi phạm tội đầu cơ, buôn lậu, tàng trữ hàng cấm, sản xuất buôn bán hàng giả. Ngày 30-6-1982 (4 hình thức phá rối thị trường). - Điều 167, Bộ luật hình sự nước cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam ngày 27/6/1985. - Ngày 28/12/1989, Quốc hội nước cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam đã sửa đổi bổ sung điều 167 và đã nâng mức hình phạt tới mức tối đa là tử hình. - Nghị định số 140-HĐBT của Hội đồng Bộ trưởng ngày 25/4/1991. Về việc kiểm tra, xử lý việc sản xuất, buôn bán hàng giả. - Thông tư liên bộ số 1254-TT/LB của Uỷ ban khoa học Nhà nước và Bộ thương mại và du lịch: Hướng dẫn thực hiện nghị định số 140-HĐBT. - Nghị định 57/CP của Chính phủ ngày 31/5/1997 quy định xử phạt hành chính về đo lường chất lượng. - Pháp lệnh bảo vệ người tiêu dùng được Ban Thường vụ quốc hội thông qua ngày 27/4/1999. - Chỉ thị số 31/1999/CT/TTg về đấu tranh chống sản xuất và buôn bán hàng giả. Qua một loạt các văn bản pháp luật trên ta có thể thấy rõ quan điểm và ý chí quyết tâm ngăn chặn tệ nạn này của Nhà nước ta. * Bộ Công an chỉ đạo lực lượng công an các cấp tập trung kiểm tra, khám phá các đường dây, các ổ nhóm sản xuất buôn bán hàng giả, đặc biệt là giấy tờ, hoá đơn, tem, tiền và các ấn phẩm giả có giá trị như tiền; chủ động, bố trí lực lượng tham gia phối hợp các Bộ, ngành khác. * Bộ khoa học, Công nghệ và môi trường chủ trì cùng với các Bộ, ngành liên quan công bố danh mục hàng hoá Nhà nước quản lý chất lượng, gắn công tác bảo hộ quyền sở hữu công nghiệp với việc quản lý chất lượng hàng hoá. Cụ thể: - Cơ quan Tiêu chuẩn - Đo lường - Chất lượng ở trung ương và địa phương: + Tiến hành đăng ký chất lượng và nhãn sản phẩm cho những sản phẩm, hàng hoá theo danh mục Nhà nước công bố. + Tiến hành chứng nhận phù hợp tiêu chuẩn Việt Nam (TCVN) cho những sản phẩm, hàng hoá trước hết là những sản phẩm, hàng hoá thuộc danh mục Nhà nước bắt buộc chứng nhận. + Thanh tra giám sát chất lượng sản phẩm hàng hoá, phát hiện xử lý các vi phạm về sản xuất buôn bán hàng không đăng ký chất lượng, hàng hoá chất lượng. - Cơ quan Nhà nước về sở hữu công nghiệp: + Tiến hành công nhận việc bảo hộ đối với các đối tượng sở hữu công nghiệp, cung cấp thông tin cho người tiêu dùng về các đối tượng sở hữu công nghiệp được bảo hộ; * Bộ y tế chủ trì cùng với Bộ Công an, Bộ Thương mại và các Bộ, ngành liên quan trong công tác kiểm tra, kiểm soát chống sản xuất và buôn bán hàng giả trong lĩnh vực y tế, dược phẩm, dược liệu, an toàn vệ sinh thực phẩm. * Bộ Nhà nước và phát triển nông thôn chủ trì cùng với Bộ Thuỷ sản, Bộ Công an, Bộ Thương mại và các Bộ, ngành liên quan tổ chức kiểm tra chống sản xuất, buôn bán hàng giả trong lĩnh vực nông lâm - ngư nghiệp: nhận bán thuốc thú ý, thuốc bảo vệ thực vật, cây giống, con giống, thức ăn gia súc, làm đầu mối thu gom các loại thuốc thú y, thuốc bảo vệ thực vật giả. * Bộ Văn hoá - Thông tin chủ trì với sự tham gia của Bộ Công an, Bộ Thương mại và các Bộ, ngành liên quan tổ chức kiểm tra chống sản xuất, buôn bán các loại ấn phẩm giả và sản phẩm văn hoá khác. Tăng cường thời lượng thông tin cho việc giáo dục nhập luật, phổ biến kiến thức liên quan đến việc phòng, chống hàng giả, đẩy mạnh công tác kiểm tra giám sát khâu in ấn. Vì các loại mẫu mã, bao bì bắt chước kiểu dòng phần lớn đều phải qua khâu in ấn... * Tổng cục Hải quan cùng với Bộ đội biên phòng tăng cường kiểm tra, ngăn chặn việc vận chuyển, buôn bán qua biên giới các loạt hàng giả, ngăn chặn hàng giả hoặc bao bì mẫu mã giả in từ nước ngoài nhập vào. * Ngành thương mại tăng cường công tác quản lý thị trường, kiểm tra phát hiện những trường hợp kẻ gian tuồn hàng giả vào trà trộn trong hàn thật bày bán tại các cửa hàng quốc doanh. * Bộ Tài chính hướng dẫn cụ thể việc để lại và sử dụng tiền thu được từ hoạt động chống sản xuất và buôn bán hàng giả (tiền phạt, tiền bán tang vật tịch thu được phép lưu thông) cho địa phương và đơn vị để phục vụ cho hoạt động chống sản xuất và buôn bán hàng hoá. * Chủ tịch UBND các cấp có kế hoạch cụ thể chỉ đạo các cơ quan chức năng ở địa phương trong việc phát hiện, điều tra, xử lý các hành vi sản xuất và buôn bán hàng giả, tổ chức tốt phối hợp các lực lượng trong các chiến dịch kiểm tra, truy quét hàng giả trên từng địa bàn. * Các tổ chức xã hội - nghề nghiệp, Hội Luật gia Việt Nam, Hội tiêu chuẩn và bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng các cấp, các tổ chức sở hữu trí tuệ vận động các tầng lớp nhân dân tham gia phát hiện tố giác, đấu tranh với nạn sản xuất và buôn bán hàng giả. Nói tóm lại, các ngành các địa phương có 4 phương pháp chống hàng giả chủ yếu sau: 1. Lập và triển khai kế hoạch chống hàng giả trong địa bàn mình quản lý. 2. Hướng dẫn người tiêu dùng và các hội quần chúng dưới mọi hình thức về sự nguy hại của tệ sản xuất, buôn bán hàng giả nhằm tạo nên một phong trào quần chúng thường xuyên chống tệ hàng giả. 3. Tập trung kiểm tra, xử lý các vụ sản xuất, buôn bán hàng giả có tổ chức, có quy mô lớn, vào các mặt hàng quan trọng có liên quan tới điều kiện vệ sinh, an toàn của người tiêu dùng và môi trường. Điều tra, trinh sát, phát hiện nhanh chóng kịp thời phải bố trí bắt quả tang trên đường vận chuyển đi tiêu thụ hoặc đang sản xuất. Phải đưa ra truy tố, xét xử nghiêm khắc và công khai các vụ điển hình về sản xuất, buôn bán hàng giả để giáo dục chung. 4. Tổ chức các hòm thư thu thập tố cáo của người tiêu dùng về hành vi sản xuất, buôn bán hàng giả. b) Biện pháp chống hàng giả của các doanh nghiệp. Sự tham gia tích cực của chính các nhà sản xuất kinh doanh là một biện pháp rất cần thiết góp phần tích cực vào việc đấu tranh chống sản xuất, kinh doanh hàng giả. Thực tiễn khẳng định rằng, chỉ khi nào doanh nghiệp với tư cách là người bị hại, chủ động sử dụng công nghệ hiện đại và hợp tác toàn diện đầy đủ với các cơ quan chức năng thì hàng giả, hàng kém chất lượng mới thực sự bị đẩy lùi. Hiện nay đi đôi với việc tăng cường cải tiến mẫu mã, quy trình công nghệ nâng cao chất lượng hàng hoá hạ giá thành. Các doanh nghiệp luôn chú trọng đầu tư thích đáng cho việc chống hàng giả. Nhiều doanh nghiệp, cơ sở sản xuất đã quan tâm đầu tư chiều sâu; có ý thức chủ động chống sản xuất và buôn bán hàng giả bằng nhiều biện pháp như dán tem chống hàng giả, đăng ký bảo hộ quyền sở hữu công nghiệp, cải tiến mẫu mã nhãn hiệu hàng hoá, cung cấp thông tin cho người tiêu dùng nhằm giúp họ phân biệt hàng thật - hàng giả, phối hợp chặt chẽ và cung cấp thông tin cho các cơ quan chức năng chống hàng giả. Nhiều cuộc hội thảo trong nước và quốc tế đã được tổ chức với sự tham gia đông đảo của các quan chức doanh nghiệp, nhà quản lý, nhà khoa học, báo giới trong nước và quốc tế, nhằm trao đổi, cung cấp cho nhau những kinh nghiệm và cùng nhau tìm ra những biện pháp để chông sản xuất và buôn bán hàng giả. VD: Mới đây, trong "Hội chợ hàng tiêu dùng 99" được tổ chức tại Hà Nội, Hội tiêu chuẩn và bảo vệ người tiêu dùng Việt Nam đã tổ chức trưng bày gồm 40 loại hàng giả bên cạnh hàng thật cùng loại để người tiêu dùng có thể đối chiếu mà phân biệt được hàng thật hàng giả. VD khác: Xà phòng giặt OMO cải tiến mẫu mã liên tục hay như giầy dép Bitis, nước giải khát Lavie dùng các phương tiện thông tin đại chúng đặc biệt là Tivi để giúp người tiêu dùng phân biệt được hàng thật, hàng giả... c) Biện pháp chống hàng giả của người tiêu dùng Người tiêu dùng kiên quyết đấu tranh và tố cáo kịp thời nếu mua phải hàng giả hoặc phát hiện ra nơi sản xuất, tiêu thụ hàng giả để các cơ quan chức năng xử lý, tố cáo các hành vi gian dối về tiêu chuẩn, đo lường, chất lượng, nhãn hiệu hàng hoá giá cả và các hành vi lừa dối khác của tổ chức, cá nhân sản xuất kinh doanh hàng hoá, dịch vụ, gây thiệt hại cho mình và cộng đồng theo quy định của pháp luật. Một biện pháp khác để chống hàng giả của người tiêu dùng mà tưởng chừng như hết sức đơn giản nhưng hiệu quả lại rất lớn. Biện pháp hữu hiệu đó là "không ham rẻ". Xuất phát từ thực tế là hàng giả thường rẻ hơn hàng thật do đó khi mua hàng nếu thấy hàng rẻ bất ngờ thì hãy coi chừng kẻo lại mua phải hàng giả. 2. Kết quả đạt được trong công tác đấu tranh chống sản xuất và buôn bán hàng giả. Những năm gần đây đặc biệt là sau Nghị định 140 - HĐBT ngày 25/4/1991 được ban hành, các lực lượng cảnh sát kinh tế (CSKT), công an, lực lượng quản lý thị trường (QLTT) đã thu được những kết quả khả quan trong công tác chống hàng giả. - Lực lượng CSKT cả nước: Chỉ tiêu Năm 1995 1996 1997 1998 6 tháng 1999 Số vụ đã khởi tố điều tra 309 256 306 217 264 Số bị can 624 369 437 396 426 Nguồn: Tạp chí TM số 13-1998 và số 18-1999 - Lực lượng QLTT cả nước: + Năm 1996: phát hiện xử lý 961 vụ + Năm 1997: phát hiện xử lý 4500 vụ + Năm 1998: phát hiện xử lý 2000 vụ Còn về phía các doanh nghiệp, các cơ sở sản xuất kinh doanh do đã có ý thức chủ động chống sản xuất và buôn bán hàng giả, quan tâm đầu tư chiều sâu cho nên đã hạn chế được rất nhiều hiện tượng sản xuất kinh doanh hàng giả. Chẳng hạn như việc sản xuất bia chai Hà Nội, Sài Gòn, 333... trước kia chỉ có dán nhãn, đóng nút chai, việc làm quá đơn giản nên bọn làm hàng giả chỉ cần 1 máy dập nút chai thủ công là làm được bia giả. Sau đó ngành sản xuất bia đã cải tiến có giấy kim loại phủ kín nắp và cổ chai, đã hạn chế gần như cơ bản nạn sản xuất bia chai giả. Rồi việc sản xuất thuốc tiêm nước, trước kia sản xuất loại thuốc bổ B12 đựng trong ống thuỷ tinh nhọn hai đầu, bọn làm hàng giả chỉ cần bộ đen khô, mua ống thuỷ tinh là có thể sản xuất ra thuốc bổ B12 từ nước máy và phẩm hồng. Sau đó các xí nghiệp dược phẩm đã cải tiến làm loại ống thắt cổ bồng đòi hỏi phải có thiết bị chuyên dùng mới sản xuất được. Từ đó hiện tượng sản xuất thuốc bổ B12 giả giảm hẳn. Một số mặt hàng có chất lượng cao như bóng điện, phích nước Rạng Đông đồ nhựa, khoá Minh Khai. Do chú ý đầu tư kỹ thuật nên đã hạn chế nhiều tệ nạn sản xuất kinh doanh hàng giả các loại mặt hàng nói trên. Trong công tác chống hàng giả, nhiều doanh nghiệp khẳng định: chống hàng giả là trách nhiệm của chúng tôi, chúng tôi sẵn sàng đứng trên tuyến đầu nhưng phải được các cơ quan chức năng và người tiêu dùng hậu thuẫn. 3. Những tồn tại trong công tác đấu tranh chống sản xuất và buôn bán hàng giả Qua hơn 9 năm thực hiện nghị định 140/HĐBT và hơn 6 tháng thực hiện chỉ thị 31/1999/CT/TTg về đấu tranh chống sản xuất buôn bán hàng giả chúng ta đã thu được một số kết quả nhất định nhưng thực tế hàng giả vẫn chưa có dấu hiệu thuyên giảm. Ví dụ: 6 tháng đầu năm 99, bột ngọt AJINOMOTO giả chiếm 90% thị phần, rau cân giả đóng gói chiệu AGAR chiếm 90% thị phần khu vực miền Tây Nam Bộ . Hạn chế nữa là khá đông người tiêu dùng chưa phân biệt được hàng thật hàng giả. Ví dụ: nước khoáng Lavie người tiêu dùng thường nhầm lẫn với các loại nước khoáng giả như: Lavi, Levile, Levu, Laviole, Lavilla và chưa có thói quen khiếu nại khi mua hàng. Một hạn chế cơ bản nữa là trước thực trạng này, giải pháp của các cơ quan chức năng lại vẫn đơn thuần là theo dõi, phát hiện, bắt quả tang mới phạt hành chính và một số vụ lớn đã được đưa ra truy tố nhưng với mức phạt còn nhẹ. 4. Nguyên nhân của những tồn tại trên Nguyên nhân của những tồn tại trên chủ yếu là do pháp luật của ta chưa hoàn chỉnh còn nhiều thiếu xót và tạo ra những khoảng trống pháp lý cho kẻ xấu lợi dụng và làm cho các cơ quan có thẩm quyền kiểm tra xử phạt hành chính trong lĩnh vực sản xuất buôn bán hàng giả gặp rất nhiều khó khăn. VD: Từ ngày 31/6/1997 (nghị định 140/HĐBT hết hiệu lực) đến khi CT 31/TTg ra đời thì các cơ quan chức năng phải lấy điều luật hết hiệu lực thi hành (HĐ 140/HĐBT) làm căn cứ pháp lý để điều chỉnh. Khi có nhiều người cùng chịu trách nhiệm làm việc thì dễ dẫn đến hiện tượng mạnh ai nấy làm, dễ làm khó bỏ, chồng chéo "lấn sân" nhau. - Sự chồng chéo trong các văn bản về nhãn sản phẩm Bộ thương mại có quyết định 636/TM/QLCL ngày 26/7/1996 Bộ khoa học - công nghệ và môi trường có quyết định 2576/QĐ-TĐC ngày 28/10/1996. Cùng quy định về nhãn sản phẩm hàng hoá, vậy các cơ sở sản xuất, lực lượng kiểm tra kiểm soát phải tuân theo văn bản nào. - Trong xử phạt vi phạm có 4 nghị định: 92/CP; 93/CP (1993); 46/CP (1996); 57/CP (1997). - Sự chồng chéo nữa mà nhà sản xuất kinh doanh rất e ngại là chồng chéo trong hoạt động thanh tra kiểm tra hàng giả. Mặc dù Điều 7 - Nghị định 140/HĐBT nêu rất rõ rằng một trong 7 cơ quan chức năng chống hàng giả khi nhận được nguồn tin tố cáo thì phải phối hợp với các cơ quan khác đển tiến hành kiểm tra xử lý, xong trên thực tế sự phối hợp cũng chẳng những rất hạn chế mà nhiều khi còn hoàn toàn mâu thuẫn với nhau. Ngoài ra còn một số nguyên nhân khác ví dụ do người tiêu dùng và các cơ quan chức năng, các doanh nghiệp chưa có mối quan hệ chặt chẽ, lực lượng kiểm tra kiểm soát còn mỏng, trình độ chuyên môn nghiệp vụ nhất là kiến thức về hàng hoá còn yếu, trong thiết bị tối thiểu để kiểm tra, phát hiện hàng giả hầu như chưa có. II.2. Thực trạng đấu tranh chống GLTM ở nước ta. 1. Những giải pháp chủ yếu và kết quả đạt được. Nhận rõ tính chất nghiêm trọng của gian lận thương mại, lãnh đạo ngành hải quan thời gian qua đã tập trung chỉ đạo công tác chống gian lận thương mại bằng các biện pháp cụ thể, thiết thực phù hợp với từng loại hình, từng đối tượng xuất nhập khẩu, với mọi thủ đoạn gian lận thương mại. Ví dụ như: - Dán tem hàng hoá xuất nhập khẩu. - Để ngăn chốn thuế qua lợi dụng chính sách thuế xuất nhập khẩu. Tổng cục Hải quan đã tích cực cùng các Bộ ngành liên quan kiến nghị với chính phủ có biện pháp hạn chế đến mức thấp nhất việc quy định thuế suất căn cứ vào mục đích sử dụng mà không căn cứ vào tính chất mặt hàng. - Để ngăn chặn gian lận thương mại thông qua việc có ý khai sai số lượng, trọng lượng, phẩm cấp hàng hoá. Hải quan quy định tỷ lệ kiểm tra với từng loại hàng hoá, đồng thời kết hợp với các cơ quan tổ chức giám định hàng hoá đối với những hàng hoá khó xác định. Ngoài ra Tổng cục Hải quan còn áp dụng nhiều biện pháp tổng hợp, tăng cường công tác kiểm tra, tái kiểm tra, bổ sung cho phù hợp với từng giai đoạn chấn chỉnh lề lối tác phong làm việc của cán bộ Hải quan cơ sở, xử lý nghiêm những vụ tiêu cực, cố ý làm trái quy định, nên đã phát hiện nhiều vụ gian lận thương mại tinh vi, phức tạp. Những kết quả đạt được: - Sau bốn đợt dán tem với 17 mặt hàng nhập khẩu, hiện tượng gian lận thương mại đã giảm hẳn đặc biệt hiệu quả, rõ nhất là những gian lận ở sân bay, cầu cảng, hiện tượng tàng trữ hàng lận số lượng lớn giảm đáng kể, việc lợi dụng những bộ chứng từ hợp pháp (có thời hạn) đã quay vòng buôn bán cũng giảm hẳn. - Theo số liệu của tổng cục Hải quan, kết quả chống gian lận thương mại mấy năm qua được thể hiện như sau: Năm 1995 phát hiện và xử lý 3000 vụ với tổng trị giá gian lận là 70 tỷ đồng. Khởi tố hình sự 21 vụ. Năm 1996: phát hiện và xử lý 12.463 vụ với tổng trị giá gian lận thương mại là 320 tỷ đồng. Khởi tố hình sự 52 vụ. Năm 1997: phát hiện và xử lý 16.000 vụ với tổng trị giá gian lận là 530 tỷ đồng. Khởi tố hình sự 51 vụ. Năm 1998: phát hiện và xử lý 16.287 vụ với tổng trị giá gian lận là 573.642 tỷ đồng. Năm 1999: phát hiện và xử lý 11.600 vụ với tổng trị giá gian lận là 260 tỷ đồng. 4 tháng đầu năm 2000 Hải quan TPHCM phát hiện 135 vụ, tổng trị giá vi phạm 346.188 USD và 45,3 triệu đồng. Có được kết quả trên là thể hiện sự cố gắng nỗ lực ngành Hải quan cũng như kết quả phối hợp giữa các Bộ, ngành có chức năng chống gian lận thương mại ở Việt Nam. Tuy nhiên các con số trên cũng chỉ mới phản ánh được một phần hoạt động gian lận thương mại ở nước ta, trong thực tế hẳn còn nhiều vụ, nhiều đường dây gian lận thương mại chưa bị phát hiện phanh phui. 2. Những tồn tại trong công tác chống gian lận thương mại ở nước ta Như trên đã đề cập, hoạt động gian lận thương mại mang tính chất phức tạp, trong khi tội danh gian lận thương mại chưa được xác định đúng, nên trong xử lý các vụ gian lận thương mại còn khập khễnh không thống nhất giữa các cơ quan chức năng. Các pháp lệnh, nghị định về việc xử phạt hành chính đối với những hành vi gian lận thương mại cũng chỉ dừng lại ở việc xác định các nhóm hành vi nên rất khó áp dụng, tạo ra sự tuỳ tiện trong thực hiện pháp luật. Hơn nữa, biểu giá biểu thuế có nhiều, thường xuyên thay đổi chồng chéo nhưng lại không cụ thể, chi tiết gây khó khăn cho việc tính thuế (từ 1993 đến nay có 28 biểu thuế do Bộ Tài chính ban hành), chi tiết mẫu mã hàng hoá không rõ ràng. Lúc thì kê theo chủng loại, lúc thì quy định giá trị sử dụng, công dụng cấp cấu tạo... Đơn giản như mặt hàng hoa quả tươi sống, điện dân dụng nhập qua một số cửa khẩu tiểu ngạch không có trong danh mục hàng hoá nên việc xác định giá trị tính thuế cho phù hợp gặp rất nhiều khó khăn. Đã xảy ra tình trạng hàng hoá không đúng chủng loại như kê khai và giá trị thấp hơn so với thực tế ở một số cửa khẩu. Một vấn đề nữa không kém phần nan giải trong công tác chống gian lận thương mại hiện nay là có quá nhiều Bộ, ngành cùng tham gia vào việc xuất nhập khẩu nhưng lại thiếu một hành lang pháp lý cụ thể, thiếu thống nhất nên gây không ít khó khăn cho ngành Hải quan trong chức năng quản lý nhà nước, giám sát việc thực hiện Luật thương mại trên các cửa khẩu khu vực biên mậu. 3. Nguyên nhân tồn tại của công tác chống gian lận thương mại ở Việt Nam Tuy rằng các ngành các cấp đã có nhiều cố gắng trong công tác chống buôn lậu song tình trạng buôn lậu vẫn như con bệnh nhờn thuốc, công tác chống buôn lậu chưa đạt kết quả như mong muốn. Nguyên nhân thì có nhiều song vấn đề chính yếu vẫn xoay quanh các yếu tố sau đây: - Một số cấp uỷ Đảng và Chính quyền địa phương chưa thực sự quan tâm đến công tác đấu tranh chống gian lận thương mại, thậm chí có nơi còn cho rằng, nhờ gian lận thương mại nên hàng hoá mới rẻ, mới phong phú, đáp ứng được nhu cầu đa dạng của nhân dân, xoá đói giảm nghèo của địa phương...(!) - Các Bộ quản lý chuyên ngành chưa có sự phối hợp nhịp nhàng với Hải quan để có những quy định cụ thể trong việc nhập khẩu hàng hoá, nhất là hàng hoá vật tư chuyên dùng. - Một nguyên nhân quan trọng, phải kể đến một bộ phận mất phẩm chất trong các lực lượng làm nhiệm vụ chống gian lận thương mại của Nhà nước như Hải quan, thuế vụ, quản lý thị trường. Qua các vụ án kinh tế lớn như Tân Trường Sanh, Epco Minh Phụng... mà mọi người đều biết. - Công tác tuyên truyền giáo dục nhân dân địa phương, động viên mọi người chống gian lận thương mại chưa thực sự có hiệu quả. - Các giải pháp chống gian lận thương mại cũng chưa được xây dựng hoàn chỉnh, đồng bộ. Chính sách pháp luật còn nhiều kẽ hở dễ bị lợi dụng, pháp luật chưa thực sự được tuân theo và chấp hành nghiêm chỉnh thậm chí có lúc còn mâu thuẫn nhau. Ngoài ra còn có nguyên nhân là lực lượng và phương tiện chống gian lận thương mại cũng còn nhiều thiếu thốn. III. Kinh nghiệm chống hàng giả và gian lận thương mại ở một số nước trên thế giới III.1. Những hình thức hàng giả và gian lận thương mại ở một số nước Về hàng giả, trên thế giới cũng có hai hình thức (dạng) hàng giả như ở nước ta: - Hàng giả về nhãn: gồm các loại hàng hoá mang nhãn giả mạo hoặc nhãn của một cơ sở sản xuất khác mà không được chủ nhân đồng ý. - Hàng giả về chất lượng: hàng hoá có mức chất lượng dưới mức chất lượng cho phép, hàng hoá có chất lượng không đúng với nguồn gốc, bản chất tự nhiên, tên gọi, công dụng của nó. Về gian lận thương mại, trên thế giới có đủ 16 loại hình gian lận thương mại mà trong hội nghị lần thứ 5 về chống gian lận thương mại tổ chức tại BRUSELS - Bỉ tổng kết. III.2. Một số biện pháp chống hàng giả và gian lận thương mại trên thế giới 1. Về hàng giả Hàng giả là một tệ nạn mang tính toàn cầu đe doạ không chỉ với những nước thuộc thế giới thứ ba mà còn tràn ngập cả các nước phát triển. Những con búp bê bốc cháy, máy xay thịt làm đứt cả bàn tay người sử dụng, những chai rượu cô nhắc giả sản xuất tại Nga có thể làm mù vĩnh viễn người uống. Những con rận tin học giả hiệu phá hoại máy móc trên các đài kiểm soát không lưu làm rối loạn cả sân bay. Hàng giả không chỉ tiêu thụ trong nước mà còn được xuất khẩu. Hai hãng chế tạo xe hơi lớn của Pháp, chỉ riêng năm 1995 đã bị thiệt hại hàng tỉ Franc. Theo tin từ Mỹ bọn buôn bán ma tuý đã chuyển sang kinh doanh linh kiện giả của máy bay để thu lợi nhuận cao, nhưng những kẻ làm hàng giả đã chẳng đếm xỉa gì đến tính mạng của hàng trăm hành khách. Để triệt tiêu thảm hoạ này, các nước tiên tiến phương Tây đang tăng cường kiểm soát cuộc sản xuất trong nước cũng như hàng nhập khẩu. Song vấn đề phức tạp hiện nay là từ những kẻ chuyên lừa đảo ra, những người đi mua hàng giả, tuy biết tác hại của nó nhưng vì tham rẻ, họ vẫn cứ mua. ở Pháp thuốc tây giả được những ngoại kiều cư trú bất hợp pháp mua bán và tiêm chích không qua đơn bác sĩ. ở Mỹ do sự cạnh tranh giá cả buộc các hãng sản xuất nhỏ phải giảm tối đa các phí tổn bảo dưỡng máy bay do đó, họ tiêu thụ khối lượng lớn phụ tùng giả. ở châu Phi ngành thuốc tây quả rất phát đạt, vì nhiều nước không đủ tiền nhập thuốc chính hiệu châu Âu. Trong khi chờ phối hợp toàn cầu, từng quốc gia cần có kế hoạch tiêu trừ hàng giả. Còn giáo dục cho mọi công dân biết rằng hàng chính hiệu tuy có đắt nhưng bảo đảm an toàn. 2. Về gian lận thương mại Trên thế giới, đặc biệt là ở những nước phát triển có nhiều biện pháp chống gian lận thương mại, nhưng quan trọng nhất và cơ bản nhất là một số biện pháp sau: a) Sử dụng các chuyên gia: Đây là phương pháp có hiệu quả nhất. Các chuyên gia có am hiểu sâu về tính chất kỹ thuật của hàng hoá và giá trị của nó do đó phát hiện các hành vi gian lận một cách dễ dàng. b) Kiểm toán Hải quan Kiểm toán Hải quan là việc kiểm tra thẩm định mức độ chính xác của tờ khai Hải quan, thông qua việc kiểm tra sổ sách, chứng từ, kế toán, hệ thống kinh doanh và toàn bộ tài liệu thương mại Hải quan do chủ hàng nắm giữ và từ đó phát hiện ra những hành vi gian lận thương mại. c) Kiểm tra thực tế hàng hoá xuất nhập khẩu: Phương pháp này nhằm phát hiện những hành vi gian lận thông qua mô tả hàng hoá trên hoá đơn không trung thực. Việc kiểm tra có thể là một bộ phận hàng hoá hay toàn bộ tuỳ thuộc vào mỗi loại hàng hoá và tất nhiên với sự giúp đỡ của các thiết bị kiểm tra hiện đại hoặc các chuyên gia mặt hàng. d) Kiểm tra các địa điểm mà hàng hoá đang được bán lại cho nhu cầu tiêu dùng nội địa, qua đó để xem xét, tính toán lại giá trị Hải quan mà chủ hàng đã khai báo. Chương III Giải pháp chống hàng giả và gian lận thương mại ở Việt Nam I. Biện pháp chống hàng giả ở Việt Nam I.1. Kiến nghị với Nhà nước Trong thực tiễn đấu tranh chống sản xuất và buôn bán hàng giả ở nước ta, Nhà nước đóng vai trò quan trọng và là nhân tố quyết định cho việc tồn tại hay không nạn sản xuất và buôn bán hàng giả. Với một loạt các văn bản pháp luật của mình, Nhà nước đã thể hiện chính kiến của mình là luôn luôn quyết tâm đấu tranh không khoan nhượng với nạn sản xuất và buôn bán hàng giả cho dù cuộc chiến này là hết sức cam go quyết liệt, lâu dài và tốn kém và điều đó đã đem lại những kết quả khả quan. Tuy nhiên, thực tế cũng cho thấy (bộc lộ) những thiếu sót mà hậu quả của nó không phải là nhỏ, đặc biệt là những thiếu sót trong pháp luật. Để loại bỏ những thiếu sót đó thiết nghĩ Nhà nước cần sớm hoàn thiện hệ thống pháp luật, có những quy định mức xử lý, xử phạt lỗi làm hàng giả nghiêm khắc hơn để người sản xuất, kinh doanh hàng giả không còn dám nghĩ đến chuyện tái phạm, cần có thêm hình phạt bổ sung cho án phạt về tội làm hàng giả như cấm những người có tiền án làm hàng giả làm những nghề có liên quan đến sản xuất, kinh doanh loại hàng hoá mà họ đã phạm tội. Và cũng là để không còn phải tái diễn cảnh lấy những điều luật đã hết hiệu lực thi hành làm căn cứ pháp lý điều chỉnh những hành vi vi phạm đang xảy ra trong thực tế. Nhà nước cũng cần phải nhận định rõ thẩm quyền của các Bộ, ngành, các cơ quan chức năng trong việc kiểm tra xử lý nạn sản xuất và buôn bán hàng giả tránh tình trạng có nhiều cơ quan có thẩm quyền kiểm tra, xử lý lại không có một nhạc trưởng chỉ huy dẫn dắt hay tình trạng trách nhiệm thuộc về tất cả "nghĩa là không có ai" và tình trạng có quá nhiều văn bản hướng dẫn thi hành nên vô hình chung "dẫm đạp" lên nhau trong một chừng mực nhất định đã vô hiệu hoá lẫn nhau. Các Bộ, ngành và các cơ quan chức năng cần phải phối hợp chặt chẽ với nhau, thực hiện triệt để chỉ thị 31/1999/CT/TTg trong công tác đấu tranh chống sản xuất kinh doanh hàng giả để tạo nên sức mạnh tổng hợp, sự thống nhất và hợp lý để nhiệm vụ chống hàng giả đạt được những kết quả như mong muốn. Ngoài ra Nhà nước cũng cần phải tạo lập ra một thông tin tổng hợp về chống hàng giả trên quy mô toàn quốc. Cần phối hợp chặt chẽ hơn nữa, tăng cường hơn nữa mối quan hệ hai chiều giữa Nhà nước với các doanh nghiệp và người tiêu dùng nhằm tạo ra thế bao vây cô lập hàng giả từ mọi phía và từ đó công tác đấu tranh chống sản xuất và buôn bán hàng giả mới có hiệu quả cao nhất. I.2. Kiến nghị với hội bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng: Hội bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng phải vận động quần chúng tự nguyện tham gia đấu tranh chống các hiện tượng tiêu cực, chống các hiện tượng sản xuất kinh doanh hàng giả, hàng kém chất lượng, gây thiệt hại cho người tiêu dùng, phổ biến rộng rãi "pháp lệnh bảo vệ người tiêu dùng", phối hợp với chi cục Tiêu chuẩn - Đo lường - Chất lượng tổ chức các cuộc toạ đàm, hội thảo, tuyên truyền phổ biến cho Hội viện và người tiêu dùng. Phối hợp với các cơ quan thông tin đại chúng hướng dẫn người tiêu dùng những kiến thức cơ bản về chất lượng hàng hoá, nhận biết hàng thật, hàng giả, hàng kém chất lượng... Trước mắt Hội thành lập Văn phòng tư vấn và tiếp nhận khiếu nại của người tiêu dùng; xây dựng quy chế giữa Hội với các cơ quan quản lý Nhà nước như chi cục Tiêu chuẩn - Đo lường - Chất lượng, quản lý thị trường, trung tâm y tế dự phòng... để kiểm tra đánh giá chất lượng sản phẩm. Ngoài ra Hội còn phải tổ chức các cuộc hội thảo về phương thức quản lý chất lượng, phòng chống hàng giả, tổ chức các lớp tập huấn để đảm bảo chất lượng hàng hoá, nhận thức pháp luật liên quan đến quyền lợi người tiêu dùng. Một biện pháp rất cần thiết góp phần tích cực vào việc đấu tranh chống sản xuất, kinh doanh hàng giả là sự tham gia tích cực của chính các nhà sản xuất kinh doanh với phương châm là "lấy thật chống giả" và "phòng hơn là chống". Trước hết, về trách nhiệm của các doanh nghiệp, cần tăng cường quản lý sản phẩm của mình, cải tiến dây truyền sản xuất, giữ kín bí mật công nghệ, bí quyết sản xuất, tạo ra những mẫu mã bao bì mang tính đặc trưng không để bọn xấu lợi dụng làm giả, có thể áp dụng các kỹ thuật tiên tiến như việc gắn mã số, mã vạch vào sản phẩm để quản lý hàng hoá của mình. Gần đây, một số cơ sở sản xuất thường áp dụng việc tiếp thị và bán sản phẩm qua các các nhân đi mời chào ở mọi nơi, điều này rất dễ để bọn xấu lợi dụng, đánh lừa người tiêu dùng. Nên chăng cần mở rộng mạng lưới tiêu thụ khép kín thông qua các đại lý chính. Về phía các tổ chức kinh doanh hàng hoá trên thị trường, các doanh nghiệp thương mại cũng cần kiên quyết không để hàng giả, hàng kém chất lượng lọt vào khâu lưu thông. Như vậy không những triệt phá được hàng giả mà còn bảo vệ được uy tín của mình với khách hàng. Cuối cùng, các doanh nghiệp cần tiếp tục mở hội chợ trưng bày hàng thật hàng giả, hướng dẫn khách hàng nhận biết đặc trưng cơ bản của hàng thật hàng giả để không bị nhầm lẫn nữa. I.4. Kiến nghị với người tiêu dùng Người tiêu dùng là một mắt xích hết sức quan trọng trong công tác đấu tranh chống sản xuất và buôn bán hàng giả. Một sự yếu kém trong mắt xích này ảnh hưởng đến toàn bộ những cố gắng và nỗ lực của các cơ quan chức năng và các doanh nghiệp. Nhận thức được vị trí quan trọng của người tiêu dùng trong công tác chống sản xuất, kinh doanh hàng giả như vậy, chúng ta cần phải tìm ra những biện pháp, những công cụ mà người tiêu dùng có thể sử dụng mà đấu tranh chống lại hàng giả bảo vệ quyền lợi chính đáng của mình. Tuy nhiên một thực tế hiện nay là khá đông người tiêu dùng chưa phân biệt được hàng thật hàng giả và chưa có thói quen khiếu nại, tố cáo khi mua phải hàng giả. Nói tóm lại là người tiêu dùng chưa thật sự cố gắng, họ chưa nhận thức được đầy đủ những quyền lợi và trách nhiệm của mình trong công tác đấu tranh chống sản xuất và buôn bán hàng giả. Nếu cứ để kéo dài tình trạng này khi có khác nào "trống đánh xuôi, kèn thổi ngược" do đó qua bài viết này tôi xin đưa ra một số kiến nghị với người tiêu dùng như sau: Người tiêu dùng khi đi mua hàng cần thận trọng xem kỹ nhãn hiệu hàng hoá. Nếu trên nhãn hiệu có tên cơ sở sản xuất, địa chỉ sản xuất, số đăng ký chất lượng, thời hạn sử dụng (đối với thực phẩm thì mới mua, khồng ghi hàng không nơi sản xuất, nhãn không rõ ràng. Hàng có giá trị lớn thì phải yêu cầu người bán cho xem phiếu kiểm tra chất lượng, yêu cầu bảo hành và tốt nhất là nhờ chuyên gia hoặc những người có kinh nghiệm có am hiểu về hàng hoá mà mình cần mua. Với sản phẩm là thuốc chữa bệnh thì cần làm theo sự chỉ đẫn, kê đơn của bác sĩ, không mua thuốc theo kinh nghiệm, theo thói quen. Nên kiểm tra trước khi mua bằng cách xem hạn sử dụng, không được dùng thuốc đã quá hạn hoặc thuốc bắt đầu có hiện tượng đổi màu... Tự bản thân mỗi người tiêu dùng nên trau dồi kiến thức, nâng cao sự hiểu biết của mình qua các phương tiện thông tin đại chúng, qua văn phòng tư vấn tiêu dùng, hội bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng và các doanh nghiệp,cơ sở sản xuất... để tránh những trường hợp bị lừa đáng tiếc. Khi phát hiện cơ sở nào sản xuất, buôn bán hàng giả hàng kém chất lượng, hàng bị rút bớt khối lượng thì phải mạnh dạn tố cáo với chính quyền hoặc cơ quan chức năng để kiểm tra, xử lý. Tốt nhất là nên mua hàng tại các cửa hàng đại lý, các hợp tác xã mua bán, các siêu thị có uy tín để tránh bị nhầm, bị lừa. Cần tăng cường thông tin, hướng dẫn, giáo dục nâng cao hiểu biết của người tiêu dùng và giữa họ với nhau. II. Biện pháp chống gian lận thương mại ở Việt Nam hiện nay 1. Hoàn thiện hệ thống pháp luật: Hệ thống pháp luật của ta hiện nay vừa thiếu vừa không đầy đủ rõ ràng nên trong thực hiện thiếu cơ sở pháp lý dễ dàng dẫn đến tình trạng tuỳ tiện, chủ quan trong kiểm tra, giám sát và xử lý là nguyên nhân gây mất lòng tin của nhân dân đối với việc quản lý và điều hành của nhà nước và cũng là nguyên nhân cơ bản của tiêu cực tham nhũng và gian lận thương mại. Vì vậy, để chống gian lận thương mại có hiệu quả, thứ nhất, phải tập trung hoàn chỉnh hệ thống luật pháp có liên quan đến hoạt động xuất nhập khẩu và hoạt động hải quan bao gồm cả việc nghiên cứu xây dựng ban hành pháp luật mới và cả việc điều chỉnh sửa đổi bổ sung những văn bản pháp luật cũ không phù hợp mà trước hết là phải tập trung nghiên cứu, xây dựng một chính sách thuế hợp lý, dễ hiểu, không quá cao, khuyến khích được các nhà sản xuất, kinh doanh tự giác nộp thuế cho Nhà nước. Thứ hai, phải hoàn chỉnh pháp luật quy định rõ trách nhiệm của các tổ chức giám định, hạn chế tối đa sự trùng lắp trong xử lý vụ việc, nâng cao tinh thần trách nhiệm của cán bộ các ngành làm công tác chống gian lận thương mại, cụ thể: - Hàng qua cửa khẩu trách nhiệm chính là hải quan - Hàng kinh doanh trên thị trường nội địa trách nhiệm chính là quản lý thị trường (ngành thương mại). - Biên phòng làm nhiệm vụ an ninh cửa khẩu, bảo vệ đường biên, công tác chống gian lận thương mại có trách nhiệm phối hợp với chính quyền. - Cơ quan thuế vụ chịu trách nhiệm về chống thất thu thuế, giám sát hàng hoá trốn lậu thuế, kiểm tra các hoá đơn chứng từ theo quy định của ngành. - Chính quyền địa phương chịu trách nhiệm toàn diện quản lý hành chính kinh tế trên địa bàn, tổ chức phối hợp với tất cả các cơ quân quan làm nhiệm vụ chống buôn lậu, trực tiếp thụ lý các vụ việc vi phạm về gian lận thương mại, kiến nghị các cơ quan những vấn đề vướng mắc phát sinh trong công tác phòng chống gian lận thương mại. 2. Xây dựng lực lượng Hải quan trong sạch vững mạnh Hải quan là một lực lượng quan trọng nhất trong số các Bộ, ngành có nhiệm vụ chống gian lận thương mại. Nhưng trong điều kiện hiện nay của đất nước ta: trang thiết bị phục vụ cho công tác kiểm soát Hải quan còn thiếu thốn, trình độ cán bộ nhân viên Hải quan không đều, tỷ lệ công chức hải quan được đào tạo cơ bản còn thấp, trình độ văn hoá - chuyên môn nghiệp vụ, ngoại ngữ chưa đáp ứng được yêu cầu nhiệm vụ trong khi hoạt động gian lận thương mại ngày càng tinh vi, xảo quyệt hơn. Vì vậy, để chống gian lận thương mại có hiệu quả, Ban cán sự Đảng và lãnh đạo tổng cục Hải quan phải tăng cường củng cố lực lượng chống buôn lậu và gian lận thương mại từ Tổng cục đến các đơn vị cơ sở. Phải làm tốt hai chức năng là: Tham mưu cho các cấp chính quyền và phối hợp với các lực lượng chức năng trong hoạt động chống gian lận thương mại, tập trung thực hiện và nghiên cứu xây dựng mô hình tổ chức phù hợp với yêu cầu, nhiệm vụ trong giai đoạn hiện nay. Bên cạnh đó cần giáo dục, đào tạo đội ngũ cán bộ có phẩm chất đạo đức cách mạng tốt, trình độ kỹ thuật chuyên môn giỏi. Đẩy mạnh công tác nghiên cứu ứng dụng thành tựu khoa học kỹ thuật và công nghệ, góp phần hiện đại hoá nhanh các hoạt động nghiệp vụ hải quan. Hoàn chỉnh các quy chế quy trình nghiệp vụ hải quan, xử lý kỷ luật nghiêm những cán bộ nhân viên hải quan vi phạm pháp luật. 3. Phối hợp với các lực lượng chức năng trong hoạt động chống gian lận thương mại Lực lượng hải quan phải kết hợp chặt chẽ với các cơ quan chức năng khác như Bộ Công an, Bộ Thương mại lực lượng bộ đội biên phòng, lực lượng quản lý thị trường thì công tác đấu tranh chống gian lận thương mại mới phát huy hết sức mạnh tổng hợp và có hiệu quả. Vừa qua Chính phủ đã thành lập Ban chỉ đạo chống buôn lậu và gian lận thương mại (Ban 853) bao gồm các cơ quan kể trên do Tổng cục trưởng Tổng cục Hải quan chủ trì để phối hợp đấu tranh đạt kết quả cao. 4. Nâng cao giác ngộ cho cán bộ và nhân dân Nâng cao giác ngộ và đấu tranh chống lại gian lận thương mại cho cán bộ và nhân dân là một việc làm trong việc nâng cao hiệu lực và hiệu quả quản lý nhà nước về xuất nhập khẩu, về hoạt động hải quan qua việc tăng cường pháp chế xã hội chủ nghĩa trong đấu tranh chống gian lận thương mại. Đối với nhân dân, phải giáo dục tình cảm tôn trọng pháp luật, từng bước mở rộng trí thức pháp luật cho nhân dân bằng nhiều hình thức ví dụ như cán bộ và nhân dân trực tiếp tham gia thảo luận, đóng góp ý kiến của quần chúng nhân dân, tạo cho họ làm quen với pháp luật. Đối với các cơ quan quản lý nhà nước, phải giác ngộ lòng tin pháp luật cho các cán bộ đó là tình cảm công bằng trách nhiệm, tình cảm pháp chế. Phải giáo dục cho các cán bộ những kiến thức về nguyên nhân và điều kiện dẫn đến vi phạm pháp luật của bọn gian lận thương mại, phải làm cho mọi người thấy được hậu quả nghiêm trọng của gian lận thương mại đối với nền kinh tế, xã hội và đạo đức văn hoá đối với đất nước. 5. áp dụng các tiến bộ khoa học kỹ thuật công nghệ. Hải quan phải xây dựng những đội tàu cao tốc để quản lý biên giới biển, trong khi máy soi hành lý, hàng hoá tại các cửa khẩu quốc tế lớn, các máy soi container và các thiết bị cần thiết khác cho hoạt động kiểm tra kiểm soát hải quan, ứng dụng vi tính hoá các quy trình, thủ tục hải quan như: đăng ký tiếp nhận tờ khai, xác định giá tính thuế XNK, thông tin chống buôn lậu và gian lận thương mại. 6. Phải có chính sách đối với vùng biên giới: Nhà nước cần có chính sách khuyến khích phát triển kinh tế phù hợp, ưu đãi về các mặt (vay vốn, miễn giảm thuế, đầu tư hạ tầng...) để giúp nhân dân vùng này phát triển sản xuất, nâng cao đời sống. Coi trọng công tác giáo dục, động viên nhân dân hiểu biết pháp luật, không tham gia trực tiếp hoặc tiếp tay cho bọn buôn lậu và gian lận thương mại. 7. Tăng cường hợp tác quốc tế với các cơ quan Hải quan của các nước trong việc đấu tranh chống gian lận thương mại. Tăng cường hợp tá nhằm tăng cường thông tin tình báo, lựa chọn mục tiêu, lập hồ sơ và quản lý, định giá rủi ro thông qua đó có thể phát hiện các trường hợp có nguy cơ gian lận thương mại cao, phối hợp với các nước trong việc kiểm soát hải quan, tranh thủ sự hợp tác, giúp đỡ của các nước phát triển trong việc đào tạo cho cán bộ hải quan Việt Nam về các kỹ thuật và phương pháp đấu tranh chống gian lận thương mại tiên tiến. Kết luận Hàng giả và gian lận thương mại là hai mối hiểm hoạ cho toàn xã hội, Hàng giả ảnh hưởng không nhỏ đến sức khoẻ, tiền bạc của người tiêu dùng, làm thiệt hại về uy tín, vật chất cho các doanh nghiệp. Hơn nữa, hàng giả còn ảnh hưởng đến uy tín quốc gia, vi phạm các điều quy ước quốc tế mà ta ký kết, nó không chỉ đánh vào nền kinh tế của đất nước mà còn kìm hãm sự tăng trưởng, phát triển kinh tế, xã hội. Vì vậy, chống hàng giả có hiệu quả là góp phần tăng trưởng phát triển kinh tế, giữ vững an ninh thị trường và bảo vệ lợi ích chính đáng của nhà sản xuất, kinh doanh và người tiêu dùng. Gian lận thương mại đem đến những hậu quả rất nghiêm trọng không chỉ đối với nền kinh tế, sản xuất - tiêu dùng, văn hoá - xã hội... mà còn tác động tiêu cực đến hoạt động thương mại chân chính, đến quyền lợi chính đáng của thương mại quốc tế. Vì vậy, chống gian lận thương mại có hiệu quả là góp phần phát triển kinh tế - xã hội, chống được thất thu thuế, tạo thuận lợi cho các doanh nghiệp kinh doanh chân chính phát triển. Đối với chúng ta, trong điều kiện hiện nay đang tập trung thực hiện thắng lợi công cuộc đối mới đất nước từng bước đưa đất nước vào thời kỳ công nghiệp hoá, hiện đại hoá thì nhiệm vụ chống hàng giả và gian lận thương mại càng quan trọng và có ý nghĩa thiết thực. Trong những năm vừa qua, công tác đấu tranh chống hàng giả và gian lận thương mại đã đạt được một số kết quả khả quan, đã kiểm tra, phát hiện và xử lý nhiều vụ vi phạm thu về cho ngân sách hàng triệu USD. Tuy nhiên trên thực tế hàng giả và gian lận thương mại vẫn chưa giảm và hành vi thủ đoạn ngày càng tinh vi, xảo quyệt hơn. Để lý giải cho thực trạng này có rất nhiều nguyên nhân, song nguyên nhân chủ yếu là do luật pháp của ta chưa nghiêm, còn thiếu thốn, chưa đồng bộ và thiếu tính thống nhất. Ngoài ra còn một số nguyên nhân khác như: Công tác giáo dục, tuyên truyền về hàng giả và gian lận thương mại chưa được coi trọng nên trình độ nhận thức của các tầng lớp nhân dân về tác hại của hàng giả và gian lận thương mại chưa đầy đủ. Trang thiết bị phục vụ cho công tác kiểm tra kiểm soát còn thiếu thốn, thô sơ... Vì vậy để công tác chống hàng giả và gian lận thương mại có hiệu quả, đòi hỏi phải có sự nỗ lực cố gắng và phối hợp thống nhất của các Bộ, ngành có liên quan, của các nhà sản xuất kinh doanh và của người tiêu dùng. Cần tranh thủ sự đồng tình ủng hộ của các tầng lớp nhân dân và sự hợp tác quốc tế trong công tác đấu tranh chống hàng giả và gian lận thương mại.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc74547.DOC
Tài liệu liên quan