Tài liệu Đề tài Chính sách tiền tệ- thực trạng và giải pháp hoàn thiện chính sách tiền tệ ở Việt Nam:  1 
…………..o0o………….. 
Đề tài : "Chính sách tiền tệ- thực trạng và giải 
pháp hoàn thiện chính sách tiền tệ ở Việt Nam" 
 2 
Mục lục 
Lời mở đầu ................................................................................................................... 2 
Phần I: Lư thuyết chung về chính sách tiền tệ ............................................................... 3 
I. Những lư luận cơ bản về chính sách tiền tệ 3 
1. Chính sách tiền tệ và vai tṛ của nó. 3 
2. Mục tiêu của chính sách tiền tệ 4 
3. Nội dung chính sách tiền tệ 7 
4. Các công cụ thực hiện chính sách tiền tệ 9 
Phần II: Thực trạng chính sách tiền tệ ở Việt Nam hiện nay. ....................................... 14 
I. Một số thành tựu đạt được, tồn tại và nguyên nhân. 14 
1. Những thành tựu đă đạt được trong thời gian qua. 14 
2. Những kết quả đạt được do sự xây dựng và thực thi chính sách tiền tệ đúng hướng 
phù hợp với diễn biến của nền kinh tế 16 
II. Tồn tại và nguyên nhân 20 
1. Những tồn tại tr...
                
              
                                            
                                
            
 
            
                
45 trang | 
Chia sẻ: haohao | Lượt xem: 1246 | Lượt tải: 0
              
            Bạn đang xem trước 20 trang mẫu tài liệu Đề tài Chính sách tiền tệ- thực trạng và giải pháp hoàn thiện chính sách tiền tệ ở Việt Nam, để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
 1 
…………..o0o………….. 
Đề tài : "Chính sách tiền tệ- thực trạng và giải 
pháp hoàn thiện chính sách tiền tệ ở Việt Nam" 
 2 
Mục lục 
Lời mở đầu ................................................................................................................... 2 
Phần I: Lư thuyết chung về chính sách tiền tệ ............................................................... 3 
I. Những lư luận cơ bản về chính sách tiền tệ 3 
1. Chính sách tiền tệ và vai tṛ của nó. 3 
2. Mục tiêu của chính sách tiền tệ 4 
3. Nội dung chính sách tiền tệ 7 
4. Các công cụ thực hiện chính sách tiền tệ 9 
Phần II: Thực trạng chính sách tiền tệ ở Việt Nam hiện nay. ....................................... 14 
I. Một số thành tựu đạt được, tồn tại và nguyên nhân. 14 
1. Những thành tựu đă đạt được trong thời gian qua. 14 
2. Những kết quả đạt được do sự xây dựng và thực thi chính sách tiền tệ đúng hướng 
phù hợp với diễn biến của nền kinh tế 16 
II. Tồn tại và nguyên nhân 20 
1. Những tồn tại trong cơ chế lăi suất hiện hành 21 
2. Tỷ lệ tín dụng chung, dài hạn tăng và không tuơng xứng với tốc độ tăng nguồn vốn 
huy động của các loại vốn này 23 
3. Tái cấp vốn và việc kiểm soát lượng tiền cung ứng 25 25 
4. Những tồn tại trong quy chế dự trữ bắt buộc 24 
5. Những tồn tại trong tổng nguồn vốn huy động và mức dư nợ cho vay trong nền kinh 
tế bị tăng chậm 24 
Phần III : Những giải pháp nhằm hoàn thiện chính sách tiền tệ trong giai đoạn hiện nay
................................................................................................................................... 26 
I. Tác động của cuộc khủng hoảng tài chính tiền tệ đến kinh tế thế giới và Việt Nam
 26 
 3 
II. Những định hướng cơ bản xây dựng và điều hành chính sách tiền tệ ở nước ta trong 
thời gian tới. 30 
1. Điều hành cung ứng tiền tệ 30 
2. Chính sách quản lư ngoại hối và điều hành tỷ giá 31 
3. Chính sách huy động vốn và tín dụng 33 
4. Điều hành chính sách tiền tệ với công cụ quản lư 34 
5. Các giải pháp hỗ trợ cho chính sách tiền tệ 37 
6. Phối hợp đồng bộ giữa chính sách tiền tệ với chính sách kinh tế vĩ mô khác. 38 
Kết kuận ..................................................................................................................... 39 
Danh mục tài liệu tham khảo ...................................................................................... 40 
 4 
LỜI MỞ ĐẦU: 
Việt Nam-Sau hơn 10 năm thực hiện chính sách đổi mới, đa dạng 
hoá quan hệ ngoại giao và kinh tế, từng bước hội nhập với khu vực và thế 
giới, chúng ta đã giành được những kết quả đáng khích lệ trong chương 
trình ổn định hoá nền kinh tế tạo tiền đề đẩy nhanh công cuộc phát triển 
kinh tế đất nước.Kết quả đó một phần nhờ nhà nước đã sử dụng một cách 
có hiệu quả các công cụ điều tiết vĩ mô, trong đó chính sách tiền tệ là một 
công cụ đặc biệt quan trọng.Bởi lẽ trong nền kinh tế thị trường, chính sách 
tiền tệ(CSTT) có ảnh hưởng lớn đến các biến số vĩ mô của nền kinh tế 
như:công ăn việc làm, tốc độ tăng trưởng, giá cả,lạm phát... 
Chúng ta phải thừa nhận rằng chính sách mở cửa và từng bước hội 
nhập đã tạo ra nhiều cơ hội để chính sách tiền tệ đổi mới, thích hợp với nền 
kinh tế đang chuyển dần sang kinh tế thị trường.Tuy nhiên, cùng với tiến 
trình hội nhập ngày một sâu rộng và trong bối cảnh toàn cầu hoá ngày một 
sâu sắc,CSTT của VN đang phải đối mặt với nhiều thách thức. 
Nói như vậy có nghĩa là ở VN, hệ thống NH nói chung và chính sách 
tiền tệ nói riêng vẫn là một lĩnh vực cần được quan tâm nghiên cứu một 
cách đầy đủ và có hệ thống. 
Vì vậy nghiên cứu CSTT và các công cụ điều hành CSTT ởVN là 
vấn đề mang ý nghĩa lý luận và thực tiễn cao, đặc biệt là trong bối cảnh 
hiện nay ở nước ta,khi nền KTTT đang được xác lập và phát triển. 
Trên cơ sở đó em đã quyết định chọn đề tài: 
“Chính sách tiền tệ- thực trạng và giải pháp hoàn thiện CSTT ở 
Việt Nam” 
Bài viết gồm 4 phần: 
Phần I: Vai trò của NHNN trong việc xây dựng và thực hiện các mục 
tiêu của chính sách tiền tệ. 
Phần II: Vận dụng hệ thống các công cụ điều hành chính sách tiền tệ 
hiện nay 
 5 
Phần III: Thực trạng và những tồn tại từ hoạt động của chính sách 
tiền tệ Việt Nam 
Phần IV: Giải pháp hoàn thiện CSTT ở Việt Nam 
PHẦN I: 
VAI TRÒ CỦA NHNN TRONG VIỆC XÂY DỰNG VÀ THỰC 
HIỆN CÁC MỤC TIÊU CỦA CHÍNH SÁCH TIỀN TỆ. 
Thế kỷ XX mở ra một bước ngoặt lớn trong lịch sử hình thành ngân 
hàng trung ương(NHTƯ). Năm 1920, hội nghị tài chính và tiền tệ quốc tế 
lần đầu tưiên được mở ra ởBrusel nhấn mạnh rằng: Những quốc gia nào 
chưa có một NHTƯ thì nên sớm có bởi vì một NHTƯ không những thực 
hiện tốt nhiệm vụ quản lý dự trữ quốc gia, cung ứng và điều tiết tiền tệ, bảo 
vệ giá trị đòng tiền quốc gia và quản lý hoạt động ngân hàng mà còn tạo 
nhiều thuận lợi trong quan hệ quốc tế về thương mại, tài chính và hợp tác 
kinh tế. 
Trong vòng 30 năm tiếp theo hàng loạt các NHTƯ khắp thế giới đã 
ra đời củng cố vai trò quan trọng của thiết NHTƯ trong điều tiết, vận hành 
và phát triển kinh tế. 
Cũng chính vì thế đã có người từng nói:Nếu như kinh thánh bắt đầu 
với sự sáng tạo ra Trời và Đất,thì CSTT cũng bắt đầu tưừ NHTƯ. 
Để hiểu rõ vai trò của NHTƯ trong việc thực hiện các mục tiêu của 
CSTT trước hết ta phải tìm hiểu về các mục tiêu của chính sách tiền tệ. 
I-Mục tiêu của chính sách tiền tệ: 
1/ Khái niệm: 
Chính sách tiền tệ nhìn một cách tổng quát là một trong những chính 
sách kinh tế vĩ mô của nhà nước do NHTƯ chịu trách nhiệm khởi thảo và 
thực thi thông qua các công cụ của mình thực hiện việc kiểm soát và điều 
tiết lượng tiền cung ứng nhằm đạt được các mục tiêu: ổn định giá trị đồng 
tiền, tạo công ăn việc làm, thúc đẩy phát triển kinh tế-xã hội. 
2/ Các mục tiêu của chính sách tiền tệ: 
Là công cụ điều tiết kinh tế vĩ mô của nhà nước, CSTT hướng tới các 
mục tiêu vĩ mô sau 
2.1:Mục tiêu cuối cùmg: 
 6 
2.1.1: ổn định giá cả: 
Ổn định giá cả là mục tiêu hàng đầu và dài hạn của CSTT.Trong quá 
trình thực nghiệm cho thấy để ổn định giá cả phải ổn định giá trị đồng 
tiền,ổn định giá trị đồng tiền là ổn định sức mua của tiền tệ.Để đạt được 
điều đó NHTƯ đã đề ra mục tiêu trong chính sách tiền tệ là ổn định chỉ số 
giá cả. 
Để thực hiện mục tiêu ổn định giá cả NHTƯ có nhiệm vụ ổn định giá 
trị đồng tiền bằng cách áp dụng nhiều biện pháp để điều chỉnh sự biến động 
giá cả trong phạm vi mong muốn cả về ngắn và dài hạn. 
Ổn định giá cả có ý nghĩa quan trọng trong kinh tế vĩ mô cũng như vi 
mô.Nó giúp cho nhà nước hoạch định được phương hướng phát triển kinh 
tế một cách có hiệu quả hơn vì loại trừ được sự biến động của giá cả.Mặt 
khác nó còn giúp cho môi trường đầu tưư ổn định góp phần thu hút vốn đầu 
tưư,khai thác mọi nguồn lực xã hội,thúc đẩy các DN cũng như các cá nhân 
phát triển sản xuất đem lại nguồn lợi cho mình cũng như cho xã hội 
2.1.2: Tăng trưởng kinh tế cao: 
Nền kinh tế với tốc độ tăng trưởng ổn định là yêu cầu phát triển kinh 
tế của mỗi quốc gia và là một trong những yếu tố quan trọng để đảm bảo 
cho sự ổn định của tiền tệ.Ngược lại tiền tệ ổn định thì tăng trưởng kinh tế 
mới bền vững 
Có thể nói, đây là một mục tiêu có ý nghĩa vô cùng quan trọng đối 
với các nước,đặc biệt là các nước đang phát triển.Bởi lẽ muốn phát triển 
kinh tế, giải quyết việc làm, tăng thu nhập để từ đó cải thiện đời sống con 
người thì trước hết nền kinh tế phải có tăng trưởng cao. 
Chính sách tiền tệ trong một khoảng thời gian nào đó của một quốc 
gia có thể được xác định theo một trong hai hướng:Chính sách tiền tệ mở 
rộng và CSTT thắt chặt 
Khi NHTƯ thi hành CSTT mở rộng trong điều kiện nền kinh tế có 
dư thừa nguồn lực, thì nó sẽ tác động đến tăng trưởng kinh tế theo 2 chiều 
hướng: 
-Khi khối tiền tệ gia tăng, tức là tiền tệ trỏ nên dồi dào hơn trước thì 
nhìn chung lãi suất hạ, cầu đầu tưư sẽ tăng lên nhanh chóng. 
-Do chi phí để có tiền giảm đồng thời việc giảm lãi suất làm cho chi 
phí cơ hội của việc giữ tiền giảm xuống đã khuyến khích dân chúng tiêu 
 7 
dùng nhiều hơn làm cho tổng cầu tăng lên.Khi đó hoạt động thương mại 
trên thị trường trở nên nhộn nhịp, hàng tồn đọng của các DN được giải 
quyết và các nhà DN quyết định mở rộng đầu tưư để tăng sản lượng. Như 
vậy việc tăng khối tiền tệ của NHTƯ không những làm tăng cầu tiêu dùng 
mà còn làm tăng câù tiêu đầu tưư, nhờ đó khuyến khích tăng sản lượng 
quốc gia hay là tăng trưởng kinh tế. 
Vì vậy tăng trưởng kinh tế cao chính là một mục tiêu quan trọng của 
CSTT 
Bên cạnh đó, trong quá trình phát triển kinh tế thường không tránh 
khỏi hiện tượng lạm phát.Khi nền kinh tế phát triển quá nóng,sản lượng 
thực tế vượt quá sản lượng tiềm năng,tỷ lệ lạm phát thường cao.Để chống 
lạm phát NHTƯ phải “thắt chặt”CSTT.Cũng vẫn bằng các công cụ điều tiết 
trong tay,NHTƯ đã làm cho lượng tiền cung ứng giảm xuống, lãi suất tăng, 
giá cả hàng hoá và dịch vụ giảm,lạm phát bị đẩy lùi. 
Như vậy về ngắn hạn giữa lạm phát và tăng trưởng, việc làm có quan 
nệ đánh đổi cho nhau.Cho nên việc tăng,giảm cung ứng tiền tệ ở mức độ 
nào có thể kiềm chế lạm phát, ổn định giá cả nhưng vẫn đảm bảo có tăng 
trưởng và công ăn việc làm cao là bài toán khó trong việc hoạch định và 
điều hành CSTT của các quốc gia 
2.1.3 Tạo công ăn việc làm: 
Việc làm cao cho người lao động là một mục tiêu kinhtế-xã hội của 
mọi quốc gia hiện nay.Nếu xã hội có ít công ăn việc làm,tỷ lệ thất nghiệp 
cao sẽ dẫn đến hậu quả là sự lãng phí về các nguồn lực làm giảm sản lượng 
quốc gia, hơn nữa còn làm giảm thu nhập trong dân chúng gây khó khăn 
cho đời sống của họ.Vì vậy việc làm cao là một trong những yêu cầu bức 
thiết của mọi quốc gia có nền kinh tế phát triển cũng như đang phát triển 
CSTT có vai trò to lớn trong việc tạo ra công ăn việc làm cho người 
lao động.Chẳng hạn khi nền kinh tế của một quốc gia đang ở trong tình 
trạng suy thoái.Tình hình lúc đó là sản xuất ở dưới mức tiềm năng, đầu tưư 
giảm, kéo theo tình trạng thất nghiệp gia tăng. 
Để thoát khỏi tình trạng đó, NHTƯ quyết định thi hành CSTT “mở rộng” 
Với các công cụ điều tiết trong tay trong tay, NHTƯ sẽ làm cho cung tiền 
tăng lên lãi xuất giảm xuống nhờ đó mà khuyến khích đầu tưư. Hơn nữa 
sau thời kỳ suy thoái tiền công thường giảm thấp dẫn đến thúc đẩy các 
 8 
doanh nghiệp mở rộng sản xuất tạo ra nhiều công ăn việc làm cho xã hội. 
Kết quả là tỷ lệ thất nghiệp giảm xuống 
Như vậy khi ngân hàng trung ương thực hiện CSTT mở rộng sẽ khuyến 
khích đầu tưư tạo nhiều công ăn việc làm với cái giá phải trả là lạm phát 
tăng. Ngược lại, khi NHTƯ thi hành CSTT thắt chặt thì đầu tưư giảm sút 
và thất nghiệp gia tăng. 
Rõ ràng trong quá trình điều tiết vĩ mô, khi NHTƯ quyết định thay đổi 
CSTT từ thắt chặt sang mở rộng thì một trong những mục tiêu phải đạt 
được của CSTT là tạo ra công ăn việc làm cao trong xã hội 
2.1.4) ổn định thị trường tài chính 
Theo Fried Man-Nhà kinh tế học người Mĩ thì tạo ra một nền tài 
chính ổn định để hệ thống NHTM và các TCTD khác có thể hoạt động một 
cách có hiệu quả là mục tiêu chủ đạo của CSTT ngoài các mục tiêu trên 
NHTƯ với các công cụ của CSTT có thể góp phần ổn định thị 
trường tài chính và làm lành mạnh hoá các quan hệ tiền tệ tín dụng trong 
nền kinh tế. Bởi lẽ hoạt động kinh doanh tiền tệ của các TCTD nói chung 
và ngân hàng thương mại nói riêng không phải lúc nào cũng thuận lợi. Đặc 
biệt có những lúc ngân hàng lâm vào cuộc khủng hoảng nào đó, dân chúng 
sẽ đổ xô tới các ngân hàng để rút tiền về. Sự rút tiền ồ ạt đó có thể dẫn đến 
các ngân hàng thiếu khả năng chi trả. Chính vào thời điểm khó khăn 
đó,NHTƯ sẽ thông qua việc cho vay chiết khấu để cung cấp các khoản tiền 
dự trữ cho các NHTM. Nhờ vậy mà các NHTM có đủ khả năng đối phó với 
các dòng tiền rút ra và tránh được nguy cơ phá sản. không những thế,khi 
cần thiết NHTƯ còn có thể ngăn chặn được khả năng phá sản của các tổ 
chức tài chính 
Như vậy, thông qua việc cho vay chiết khấu, NHTƯ thực hiện được 
vai trò “người cho vay cuối cùng” nhằm ngăn chặn những vụ hoảng loạn về 
ngân hàng hoặc tài chính, tránh được những tổn hại nghiêm trọng cho nền 
kinh tế, nhờ đó mà thị trường tài chính được ổn định 
Với những mục tiêu kinh tế vĩ mô kể trên,CSTT thực sự được coi là một 
công cụ đầy quyền uy của NHTƯ trong việc điều tiết kinh tế nhằm tạo ra 
môi trường kinh tế vĩ mô ổn định và lành mạnh 
.2) Mục tiêu trung gian: 
 9 
Thông qua mục tiêu trung gian NHTƯ ảnh hưởng đến tổng cầu, từ đó tác 
động vào mục tiêu cuối cùng. Để được chọn là mục tiêu trung gian thì phải 
thoả mãn một số yêu cầu: Mục tiêu đó phải đảm bảo tiêu chuẩn định lượng, 
có thể đưa ra dấu hiệu giúp ngân hàng trung ương biết được tác động của 
mình là đúng hay sai, NHTƯ phải kiểm soát và chi phối được mục tiêu này 
để đạt được mục tiêu cuối cùng. Và điều quan trọng là nó phải có khả năng 
ảnh hưởng trực tiếp đến mục tiêu cuối cùng của CSTT 
Các mục tiêu trung gian của CSTT bao gồm: Mức cung tiền tệ, lãi 
suất thị trường trung và dài hạn, tỷ giá, khối lượng tín dụng. 
Hiện nay các nước thường sử dụng mức cung tiền tệ hoặc lãi suất 
tiền tệ làm mục tiêu trung gian của CSTT 
 Với các mục tiêu trung gian NHTƯ không thể chủ đọng tác động 
một cách hoàn toàn vì vậy NHTƯ phải lựa chọn các mục tiêu hoạt động để 
chỉ đạo thường xuyên và trực tiếp 
2.3) Mục tiêu hoạt động 
Mục tiêu hoạt động là chỉ tiêu được NHTƯ lựa chọn để so cho khi 
NHTƯ sử dụng các công cụ điều tiết thì nó ảnh hưởng đến mục tiêu trung 
gian. Để được lựa chọn là mục tiêu hoạt động thì các mục tiêu đó phải 
mang tính định lượng, có thể đo lường được, chỉ tiêu đó phải hết sức nhạy 
cảm với sự biến động của CSTT và phải tác động đến mục tiêu trung gian. 
II- Vai trò của NHTƯ trong xây dựng và thực hiện CSTT: 
Trong 15 năm qua, thực hiện công cuộc đổi mới do Đảng lãnh đạo 
NHNN từng bước đổi mới vững chắc, góp phần xứng đáng trong những 
thành tựu của nền kinh tế đạt được: Mức tăng trưởng kinh tế cao và liên 
tục, ổn định và kiểm soát lạm phát, cải thiện và nâng cao đời sống nhân 
dân. 
Ngày nay CSTT ngày càng trở nên quan trọng, đối với hoạt động của 
các NHTƯ, không ít các quốc gia đã xác định mục tiêu hoạt động của 
NHTƯ cũng là mục tiêu của CSTT. Vì vậy,việc nâng cao vai trò của 
NHNN trong xây dựng và thực thi CSTT có ý nghĩa quan trọng để góp 
phần đổi mới, hoàn thiện NHNN trong thời gian tới 
Thực trạng vai trò của NHNN: 
- Thực hiện mục tiêu ổn định giá trị đồng tiền quốc gia. Theo quy 
định tại Điều 1 của Luật NHNN 12/1997 
 10 
“ Hoạt động NHNN nhằm ổn định giá trị đồng tiền, gốp phần bảo 
đảm an toàn hoạt động ngân hàng, thúc đẩy phát triển kinh tế xã hội theo 
định hướng xã hội chủ nghĩa” 
Như vậy mục tiêu đầu tưiên đặt ra đối với hoạt động của NHNN 
chính là ổn định giá trị đồng tiền quốc gia. 
 Trong những năm qua, với những nỗ lực mới, NHNN tiếp tục góp 
phần xứng đáng trong thành công ổn định giá trị đồng tiền quốc gia. Đặc 
biệt, trong điều kiện nền kinh tế bị tác động của nhiều khó khăn như ảnh 
hưởng của thiên tai, khủng hoảng tiền tệ châu á... 
- Xây dựng dự án CSTT quốc gia để chính phủ xem xét trình Quốc 
hội quyết định và tổ chức thực hiện chính sách này 
-NHNN là cơ quan của chính phủ và là NHTƯ của nước cộng hoà 
XHCN Việt nam. 
Trên thực tế, NHNN được coi như một bộ đặc thù trong chính phủ. 
Trong hoàn cảnh cụ thể của Việt nam, mô hình này có ưu điểm: 
+ Trong cơ chế Đảng lãnh đạo và chính phủ quản lý thống nhất toàn 
diện các 
mặt đời sống, kinh tế xã hội thì việc Thống đốc NHNN là thành viên của 
chính phủ và có sự quan tâm, hỗ trợ của chính phủ đối với các hoạt động 
của ngân hàng 
+ Trong khi nền kinh tế Việt nam vẫn còn trong giai đoạn chuyển 
đổi, chưa thể vận hành hoàn toàn và đầy đủ theo cơ chế kinh tế thị trường 
thì với vị trí là một Bộ trong chính phủ, NHNN có thể giúp việc đắc lực 
hơn cho chính phủ. Điều này có nghĩa là góp phần được nhiều hơn vào 
công cuộc đổi mới, phát triển kinh tế đất nước 
+ Trong bất cứ sự phát triển nào đều phải trải qua các giai đoạn, nếu 
chuyển ngay sang một mô hình tổ chức hoàn toàn khác thì chẳng những các 
cơ quan, đơn vị có liên quan chưa chấp nhận, gây ách tắc trong việc phối 
hợp lẫn nhau, mà bản thân NHNN cũng chưa chuẩn bị đầy đủ các điều kiện 
cần thiết để theo cơ chế hoạt động hoàn toàn mới 
 Một số vấn đề còn bất cập: 
-Vai trò tương đối hạn chế: 
 11 
Vì NHNN là thành viên của chính phủ nên NHNN không thể trực 
tiếp trình dự án CSTT quốc gia trước Quốc hội mà phải thông qua chính 
phủ. 
 - Chưa thực sự chủ động trong thực thi CSTT 
Định kỳ lượng tiền bổ sung cho lưu thông hàng năm đều đã được 
chính phủ chỉ định để chi cho các mục tiêu cụ thể vì vậy NHNN khó có thể 
chủ động trong việc sử dụng công cụ này để điều tiết lượng tiền trong lưu 
thông. 
Còn khá nhiều cơ quan, tổ chức tham gia chỉ đạo, giám sát xây 
dựng và thực hiện CSTT. 
ý kiến đề xuất: 
- Cho phép NHNN chủ động trong việc điều tiết lượng tiền cung 
ứng cho lưu thông tiền tệ. 
Hàng năm, chính phủ duyệt lượng tiền bổ xung cho lưu thông, 
nhưng không phải chỉ xuất phát từ nhu cầu cho chi tiêu ngân sách NN mà 
phải xuất phát từ nhu cầu phát triển của nền kinh tế, của điều hành CSTT 
để NHNN cố thể chủ 
động trong công tác phát hành tiền phục vụ thực hiện tốt CSTT. 
-Góp phần tăng cường khả năng điều hành các công cụ thực hiện CSTT của 
NHNN. 
Tập trung mọi nguồn vốn tín dụng, đặc biệt là các nguồn vốn tài trợ từ các 
tổ chức, cá nhân nước ngoài vào hệ thống ngân hàng không để tình trạng 
phân tán 
 các nguồn vốn tín dụng lamf cho NHNN không kiểm soát được nguồn vốn 
này và vì thế không thể điều tiết lượng tiền cung ứng tring lưu thông. 
-Hạn chế sự can thiệp quá sâu đói với NHNN của các cơ quan, tổ 
chức trong hoạt động và thực hiện CSTT. 
NHNN cần được chủ động và chịu trách nhiệm trước Quốc hội, 
Chính phủ về thực hiện CSTT. Các cơ quan, tổ chức không can thiệp quá 
sâu vào hoạt động của NHNN. 
- Hạn chế nhiệm vụ của NHNN với vai trò một bộ trong chính phủ 
và bộ chủ quản để NHNN tập trung thực hiện vai trò NHTW của đất nước 
nên giảm dần một số nhiệm vụ thuộc chức năng một bộ quản lý nhà nước 
thuần tuý, cũng như bộ chủ quản đói với các TCTD Nhà nước. 
 12 
III- Sự lựa chọn giải pháp chính sách tiền tệ: 
Trong những năm gần đây, các nhà kinh tế có chung một quan điểm 
rằng mục tiêu bao trùm và lâu dài của CSTT là ổn định giá cả. Tuy vậy, 
câu hỏi luôn được đặt ra là phải thức thi CSTT như thế nào để đạt được 
mục tiêu ổn định giá cả. 
Có 4 giải pháp CSTT đã được các quốc gia áp dụng là: 
Chính sách tiền tệ lấy tỉ giá hối đoái làm mục tiêu. 
CSTT lấy chỉ số lạm phát làm mục tiêu. 
CSTT lấy các đại lượng tiền tệ làm mục tiêu. 
CSTT sử dụng một “ mốc neo “ ẩn danh nghĩa. 
Mốc neo danh nghĩa: 
Là sự hạn chế đối với giá trị của đồng nội tệ và nó là một yếu tố cần 
thiết đói với sự thành công của việc thực thi các giải pháp CSTT khác 
nhau. 
1/ CSTT lấy tỉ giá hối đoái làm mục tiêu: 
CSTT lấy tỉ giá hối đoái làm mục tiêu là một giải pháp có lịch sử khá 
lâu dài. Chính sách này có thể được thực thi dưói dạng gắn giá trị của đồng 
nội tệ vào một loại hàng hoá như vàng. Đây là đặc điểm chủ yếu của chế 
độ bản vị vàng. 
Có đồng tiền được đồmg tiền của nước kia gắn vào. 
Hơn thế nữa, tỉ giá mục tiêu có nghĩa là các cú sốc đối với các nước 
có đồng tiền được đòng tiền nước khác gắn vào sẽ lan truyền sang nước ấy 
vì những thay đổi về laĩ xuất ở nước có đồng mạnh sẽ dẫn đến thay đổi về 
lãi xuất ở nước có đồng tiền yếu. 
Tỉ giá mục tiêu có bất lợi là nó xoá bỏ tín hiệu mà tiền tệ ngoại hối 
hàng ngày đưa ra về quan điêmr CSTT. Dưới chế độ tỉ giá mục tiêu, các 
NHTW thường thoe đuổi chính sách mở rộng quá mức mà không được 
phát hiện ra trước khi đã muộn khi các cuộc tấn công của các nhà đầu cơ 
đang diễn ra. Hơn nữa tỉ giá mục tiêu sẽ làm cho các nước áp dụng CSTT 
này dễ bị các cuộc đầu cơ đồng tiền của nước ngoài tấn công. 
Một bất lợi nữa của CSTT là do không biết chắc chắn về giá trị 
tương lai của đòng tiền bản tệ nên nhiều doanh nghiệp phi tài chính và 
 13 
chính phủ ở các nước tiên tiến mới nổi thích phát hành trái phiếu vay nợ 
nếu đó được định giá bằng ngoại tệ. 
2/ CSTT lấy các đại lượng tiền tệ làm mục tiêu: 
ở nhiều nước, do không thực thi đựoc CSTT lâý tỉ giá làm mục tiêu 
vì đất nước của họ quá lớn hoặc không xác định đước đồng tiền của nước 
nào mà đồng bản tệ của mình có thể gắn vào. 
Do vậy các nước này phải thực thi giải pháp CSTT lấy các đại lượng 
tiền tệ làm mục tiêu. 
Ưu điểm của chính sách tiền tệ này là nó cho phép NHTW điều 
chỉnh CSTT của mình đáp ứng vứi các chính sách trong nước khác nó có 
thể cho phép NHTW lựa chọn các mục tiêu lạm phát khác với mục tiêu 
lạm phát của các nước khác và cũng cho phép NHTW phản ứng lại với các 
biến động của sản lưọng. Việc lấy các đại lượng tiền tệ làm mục tiêu cũng 
có lợi thế là thúc đẩy lòng tin vào CSTT nhằm kìm hãm mức lạm phát 
thấp và giúp hạn chế các nhà hoạch định CSTT rơi vào cái bẫy của lạm 
phát tình thế. 
Tuy nhiên những lợi thế của CSTT này phụ thuộc vào mối quan hệ 
đáng tin cậy và mạnh mẽ giữa biến số mang tính mục tiêu và biến số mục 
tiêu. Nếu có sự bất ổn về vòng quay đồng tiền đến mức làm yếu đi mối 
quan hệ giữa đại lượng tiền tệ và biến số mục tiêu thì việc CSTT lấy đại 
tiền tệ làm mục tiêu sẽ không thực hiện được. 
Như vậy CSTT lấy đại lượng tiền tệ làm mục tiêu sẽ không giúp 
chấn chỉnh tâm lý lạm phát và nó sẽ là một thước đo đánh giá trách nhiệm 
của NHTW. 
3/ CSTT lấy lạm phát làm mục tiêu: 
Lạm phát nói chung tác động xấu đến nền kinh tế nên kiểm soát lạm 
phát là mục tiêu ưu tiên của chiónh phủ khi thi hành các CSTT. 
Trước đây, CSTT thường được điều khiển bởi việc dựa trên các 
mục tiêu trung gian như khối lượng tiền tệ hoặc ỉt giá hối đoái. Nhưng 
trong thập kỉ 80truyền thống đó đã bị phá vỡ khi có 7 nước công nghiệp 
vừa và nhỏ đã điều hành CSTT của mình bằng cách đặt trọng tâm vào 
chính mục tiêu lạm phát. 
Giải pháp CSTT lấy lạm phát làm mục tiêu có lợi thế quan trọng so 
với 2 giải pháp trên đó là nó giúp cho CSTT tập trung cào những cân nhắc 
 14 
về những chính sách trong nước khác và giúp cho việc đối phó với các cú 
sốc trong nước. 
Ngoài ra nó còn có một lợi thế nữa là công chúng rất dễ dàng hiểu 
được giải pháp CSTT của NHTW và giải pháp này có tính minh bạch cao. 
Do mục tiêu lạm phát bằng con số rõ ràng sẽ tăng tính trách nhiệm 
của NHTW, CSTT lấy lạm phát làm mục tiêu sẽ có khả năng tiềm tàng là 
làm giảm khả năng NHTW rơi vào cái bẫy của chính sách tình thế, các 
biện pháp chính sách không kịp thời nhằm cố tăng sản lượng và công ăn 
việc làm bằng cách buộc NHTW thực hiện các CSTT mở rộng quá mức. 
Một lợi thế then chốt của CSTT lấy lạm phát làm mục tiêu là nó có 
thể giúp tập trung cuộc tranh luận về chính sách vào cái mà về dài hạn 
NHTW phải làm đó là kiểm soát lạm phát chứ không phải thảo luận cái mà 
buộc NHTW không thể làm được đó là nâng tốc độ tăng trưởng kinh tế lên 
và tạo ra nhiều công ăn việc làm vinhx viễn thông qua CSTT bành trướng. 
Mặc dù người ta nói nhiều về việc theo đuổi mục tiêu “ ổn định giá 
cả “. Trong thực tế, tất cả các nước thực thi CSTT lấy lạm phát làm mục 
tiêu đều chọn mục tiêu là tỉ lệ lạm phát chứ không chọn mặt bằng giá làm 
mục tiêu. 
Tất cả các nnước thực thi giải pháp chính sách này đều muốn có 
những bước đi từ từ để xử lý vấn đề thiểu phát nhằm hạn chế đến mức thấp 
nhất sự suy giảm sản lượng bằng cách giảm thấp hơn từng bước mục tieeu 
lạm phát trung hạn để hướng vào mục tiêu dài hạn. 
Một yếu tố nữa của tính linh hoạt trong chính sách lấy lạm phát làm 
mục tiêu là việc người ta cho phép đi trệch mục tiêu lạm phát để đối phó 
với cú sốc về cung. 
Mặc dù chính sách tiền tệ lấy lạm phát làm mục tiêu tỏ thành công 
trong việc làm giảm và kiểm soát được lạm phát, chính sách này không 
phải là không có vấn đề khác với CSTT lấy tỉ giá và đại lượng tiền tệ làm 
mục tiêu NHTW không dễ gì kiểm soát được lạm phát. Đay có thể là một 
vấn đề nghiêm trọng đối với các nước có tiền tệ mới nổi, nơi NHTW cố 
gắng giảm lạm phát xụống mức thấp từ một mức rất cao trước đây. 
Dovậy những nước này đễ có những sai sót trong dự báo tỉ lệ lạm 
phát. Một vấn đề tiềm tàng nữa là: Do tác động của CSTT có độ trễ nên 
sau một khoảng thời gian nhất định, những thay đổi trong CSTT mới có 
 15 
ảnh hưởng đầy đủ đến lạm phát. Bởi vậy chính sách lấy lạm phát làm mục 
tiêu không lập tức đưa ra các tín hiệu về lập trường CSTT cho cả công 
chúng và thị trường. 
Một mối lo mgại về giải pháp chính sách này là nó có thể dẫn đến 
một mức tăng trưởng không bền vững của công ăn việc làm và sản lượng. 
Một số nhà kinh tế chỉ trích giải pháp này bởi vì họ tin rằng giải pháp chính 
sách áp đặt một quy tắc cứng nhắc lên các nhà hoạch định CSTT không cho 
phép họ có đủ sự tự do để đối phó với các tình huống không lường trứơc 
được . 
4/ Chính sách với một mốc neo danh nghĩa ẩn: 
Một số nước trong những năm gần đây đã đạt được sự tăng trưởng 
kinh tế tuyệt vời với mức lạm phát ổn định và thấp mà không phải sử dụng 
một mốc neo danh nghĩa rõ ràng như mục tiêu về tỉ giá, đại lượng tiền tệ 
lạm phát. 
Để ngăn chặn lạm phát khỏi bộc phát CSTT cần phải nhìn về phía 
trước và phải có biện pháp đói phó trước, tức là phụ thuộc vào tác động 
giữa CSTTvà lạm phát, CSTT cần hoạt động rất sớm trước khi áp lực lạm 
phát xuất hiện trong nền kinh tế. 
Qua xem xét kinh nghiệm thực thi CSTT theo 4 giải pháp trên chúng 
ta thấy rằng mỗi giải pháp CSTT có những điểm lợi và điểm bất lợi riêng 
của nó. Việc áp dụng giải pháp CSTT này hay giải pháp khác phụ thuộc 
vào điều kiện chính trị, văn hoá - lịch sử đặc biệt là cơ cấu kinh tế, cơ chế 
quản lý và khuôn khổ pháp lý theo đó NHTW vận hành. Một điểm rút ra từ 
các giải pháp này là phải nâng cao trách nhiệm và tính độc lập của NHTW 
hạn chế tối đa những biện pháp tình thế, tuỳ tiện để CSTT có thể đạt được 
mục tiêu dài hạn là lạm phát thấp, môi trường kinh tế ổn định và một nền 
kinh tế phát tiển bền vững và lành mạnh. /. 
 16 
PHẦN II 
VẬN DỤNG HỆ THỐNG CÁC CÔNG CỤ ĐIỀU HÀNH CHÍNH 
SÁCH TIỀN TỆ HIỆN NAY 
Đối với các nước đang phát triển nói chung và Việt Nam nói riêng, 
phát triển và tăng trưởng kinh tế luôn là mục tiêu của quốc gia.Trong khi 
nền kinh tế phát triển thấp, tích luỹ từ nội bộ không,các nguồn lực của nền 
kinh tế chưa có điều kiện khai thác thì việc hỗ trợ của dòng vốn từ bên 
ngoài là rất cần thiết và đóng vai trò quan trọng đối việc tăng trưởng kinh 
tế. 
Tuy nhiên để có thể thu hút dòng vốn từ bên ngoài đòi hỏi chúng ta 
phải thực thi hàng loạt các chính sách kinh tế có liên quan nhằm tạo môi 
trường cho dòng vốn được lưu chuyển dưới dạng tác động của cung cầu 
tiền tệ trên thị trường.Ta biết rằng tiền tệ là vấn đề rất nhạy cảm,việc thực 
thi chính sách tiền tệ không những tác động đến tình trạng của nền kinh tế 
quốc gia mà còn ảnh hưởng đến các nước khác do xu thế toàn cầu hoá, khu 
vực hoá nền kinh tế thế giới. 
Mặt khác, việc thực thi chính sách tiền tệ rất đa dạng, phần kớn tuỳ 
vào quan điểm nhận định của các nhà lãnh đạo,tuy nhiên, cho dù thế nào đi 
nữa thì những gì đúc kết từ thực tiễn điều hành chính sách vẫn là cơ sở 
quan trọng cho việc định hướng, hoàn thiện về sau.Trên tinh thần đó,việc 
nghiên cứu,tổng kết việc thực thi chính sách tiền tệ trong thời gian qua là 
điều đáng quan tâm. 
Theo điều 2 của Luật NHNN Việt nam thì: “chính sách tiền tệ là một 
bộ phận của chính sách kinh tế-tài chính của nhà nước nhằm ổn định giá trị 
đồng tiền, kiềm chế lạm phát, góp phần thúc đẩy phát triển kinh tế-xã hội, 
bảo đảm quốc phòng an ninh và nâng cao đời sống nhân dân”. Với chính 
sách này, Nhà nước thống nhất quản lý mọi hoạt động của ngân hàng, động 
viên các nguồn lực trong nước, đồng thời tranh thủ các nguồn lực từ bên 
ngoài, tạo nguồn vốn để phát triển kinh tế. Trên cơ sở đó, giữ vững định 
hướngXHCN, giữ vững chủ quyền quốc gia mở rộng hợp tác và hội nhập 
quốc tế, đáp ứng yêu cầu phát triển kinh tế xã hội,góp phần thực hiện công 
nghiệp hoá và hiện đại hoá 
Mục đích của chính sách tiền tệ là nhằm điều tiết lượng tiền trong 
lưu thông, sự điều tiết này thể hiện qua 2 hướng: mở rộng tiền tệ và thắt 
 17 
chặt tiền tệ. Việc điều tiết lượng cung tiền như thế nào để cho nền kinh tế 
phát triển một cách nhịp nhàng luôn là vấn đề nan giải của các quốc 
gia,thiếu hay thừa tiền luôn tác động tiêu cực đến nó. Tuy nhiên, trong thực 
tế điều hành chính sách tiền tệ, tuỳ vào từng thời kỳ phát triển kinh tế và 
hoàn cảnh cụ thể của kinh tế xã hội mà sử dụng chính sách thắt chặt hay 
mở rộng tiền tệ. Đây cũng là vấn đề mang tính nhạy cảm của các nhà điều 
hành CSTT 
Để làm được điều này NHTƯ phải sử dụng hàng loạt các công cụ 
Công cụ của CSTT là hệ thống các biện pháp mà NHTƯ có thể sử 
dụng để tác động vào mục tiêu của CSTT 
Mỗi loại công cụ đều có cơ chế tác động riêng và đem lại những kết 
quả trên những khía cạnh khác nhau. Tuy nhiên các công cụ này đều nhằm 
ảnh hưởng trực tiếp hay gián tiếp đến lượng tiền cung ứng và lãi suất để từ 
đó đạt được các mục tiêu của CSTT 
I/ Công cụ trực tiếp: 
Công cụ trực tiếp là công cụ có tác động về lượng và NHTƯ kiểm 
soát công cụ bằng biện pháp hành chính. Khi NHTƯ sử dụng công cụ trực 
tiếp nó tác động trực tiếp vào mục tiêu trung gian, từ mục tiêu trung gian đã 
tác động đến tổng cầu. 
1-Hạn mức tín dụng: 
Hạn mức tín dụng là công cụ trực tiếp của CSTT, đó chính là mức dư 
nợ tối đa mà NHTƯ buộc các TCTD phải tôn trọng khi cấp tín dụng cho 
nền kinh tế 
Khi sử dụng hạn mức tín dụng là khống chế dư nợ tín dụng của các 
NHTM, từ đó nó quyết định đến lượng tiền cung ứng trong nền kinh tế, vì 
mỗi khoản cho vay cấu thành dư nợ tín dụng của các NHTM thì tương 
đương với nó là một nguồn vốn tiền gửi huy động, từ đó ảnh hưởng đến tỷ 
trọng vốn tín dụng so với lượng tiền cung ứng 
Để cho hạn mức tín dụng có hiêu quả thì khi đưa ra hạn mức tín 
dụng bao giờ cũng phải nhỏ hơn nhu cầu vay của nền kinh tế dẫn đến khan 
hiếm tiền. Khi đó viêc thay đổi HMTD mới có ý nghĩa tác động vào hạn 
mức đồng thời tác động đến vốn trong nền kinh tế 
Tuy nhiên, hạn mức tín dụng nhỏ hơn nhu cầu vay của nền kinh tế là 
bao nhiêu còn là vấn đề cần xem xét. NHTƯ căn cứ vào mục tiêu của 
 18 
CSTT, vào lượng tiền cung ứng để xác định HMTD. Nếu HMTD quá nhỏ 
thì dẫn đến các NHTM sẽ độc quyền tín dụng và ảnh hưởng đến lãi suất 
cho vay. Nếu HMTD lớn hơn so với nhu cầu vay thì các NHTM sử dụng 
không hết hạn mức nên việc thay đổi hạn mức cũng không có hiệu quả 
*Ưu điểm: Hạn mức tín dụng là công cụ hành nên NHTƯ chủ động 
thay đổi quy định hạn mức theo mong muốn để đạt được các mục tiêu của 
CSTT. Khi các công cụ khác không có điều kiện áp dụng thì công cụ này 
có thể phát huy hiệu quả trong trường hợp lạm phát cao 
*Nhược điểm: Do đây là công cụ mang tính hành chính và do con 
người xác định nên không thể chính xác và sẽ không có hiệu quả khi 
HMTD quy định không phù hợp với nhu cầu tín dụng của nền kinh tế. Đây 
là công cụ kém linh hoạt, không thể thay đổi thường xuyên. Một khi 
HMTD xác định không chính xác thì NHTƯ không thể chủ động sử dụng 
hạn mức để điều tiết tiền cung ứng 
Ở Việt nam, NHNN bắt đầu sử dụng HMTD như một công cụ của 
CSTT từ tháng 6/1994. Thời kỳ đầu chỉ áp dụng cho 4NHTM quốc doanh 
là: NH ngoại thương, NH công thương, NH đầu tưư và phát triển. Nhưng 
sau vài năm đổi mới, quy mô mở rộng tín dụng của các NHTM quá nhanh, 
nên NHNN quyết định áp dụng HMTD cho hầu hết các NHTM 
Tính đến cuối năm 1997 có 26 NHTM trong nước phải áp dụng 
HMTD. Tuy nhiên ngay từ năm 1995, 1996 công cụ HMTD đã bộc lộ 
những hạn chế là mức tăng dư nợ tín dụng thực tế đã vượt quá HMTD cho 
phép và đến năm 1998 công cụ HMTD đã mất dần vai trò của nó trong việc 
hạn chế sự gia tăng của tổng phương tiện thanh toán 
Hơn nữa việc mở rộng tín dụng trong giai đoạn này là cần thiết để 
thúc đẩy tăng trưởng kinh tế, nếu tiếp tục thực hiện HMTD sẽ tạo thêm 
những nhân tố khó khăn cho các NHTM trong việc mở rộng tín dụng. Vì 
vậy từ quý II năm 1998, NHNN đã không áp dụng công cụ này như một 
công cụ thường xuyên để điều hành CSTT. 
Theo chiều hướng phát triển của nền kinh tế, những năm tiếp theo 
khi thị trường tiền tệ đã ổn định và thị trường vốn đã đi vào hoạt động thì 
công cụ HMTD sẽ được xoá bỏ 
2- Công cụ lãi suất: 
 19 
Bên cạnh HMTD, NHTƯ còn sử dụng công cụ lãi suất ấn định dưới 
các hình thức như: ấn định khung lãi suất, ấn định trần lãi suất cho vay, sàn 
lãi suất tiền gửi. 
NHTƯ ấn định trực tiếp trần lãi suất cho vay để khống chế mức lãi 
suất mà các NHTM áp dụng cho vay với nền kinh tế 
Khi NHTƯ tăng, giảm trần lãi suất cho vay, NHTM cũng phải tăng, 
giảm lãi suất cho vay đối với nền kinh tế từ đó ảnh hưởng tới nhu cầu về 
vốn của các tổ chức kinh tế 
Công cụ này không phù hợp với cơ chế thị trường, hạn chế sự cạnh 
tranh của các NHTM. Đặc biệt trong trường hợp NHTƯ ấn định mức lãi 
suất không phù hợp như mức lãi suất quá thấp sẽ làm cho cầu tiền tăng 
nhanh hơn dự đoán, các ngân hàng gặp khó khăn về nguồn vốn để đáp ứng 
nhu cầu này, mặt khác nếu mức lãi suất quá cao sẽ làm cầu tiền giảm dẫn 
đến đầu tưư giảm, hệ thống NHTM sẽ không kịp điều chỉnh theo, bỏ lỡ cơ 
hội đầu tưư. Khi NHTƯ ấn định lãi suất buộc các NHTM phải chấp hành 
làm hạn chế tính linh hoạt của thị trường tiền tệ. 
II. Công cụ gián tiếp: 
Công cụ gián tiếp của chính sách tiền tệ là công cụ tác động vào mục 
tiêu trung gian qua việc điều chỉnh các mục tiêu hoạt động 
1-Dự trữ bắt buộc: 
Dự trữ bắt buộc là số tiền mà các TCTD phải gửi tại NHTƯ để thực 
hiện CSTT quốc gia. Nó được xác định bằng một tỷ lệ % nhất định trên 
tổng số dư tiền gửi tuỳ theo tính chất và thời hạn mà các TCTD huy động 
được. Tỷ lệ này gọi là tỷ lệ dự trữ bắt buộc. 
Từ năm1991, DTBB được áp dụng như là một công cụ chủ yếu để 
điều hành CSTT ở Việt nam. Theo pháp lệnh ngân hàng, tỉ lệ DTBB có thể 
ở mức từ 10% đến 30% tổng nguồn vốn huy động của các NHTM. Song 
xét hoàn cảnh thực tế lúc bấy giờ: Tiềm lực của các NHTM Việt nam còn 
nhỏ bé và lạm phát đã được kiềm chế ở mức đáng kể nên NHNN đã quy 
định tỉ lệ DTBB đối với các NHTM ở nước ta là mức 10%. 
Lúc đầu, kỷ luật chấp hành tỉ lệ DTBB của các NHTM chưa nghiêm, 
rất ít NHTM dự trữ đủ 10%, nhất là cácNHTM cổ phần. Để nâng cao tính 
hiệu lực của các công cụ này, tạo cơ sở cho việc quản lý cung tiền một cách 
gián tiếp, trong năm 1994, NHNN đã hai lần điều chỉnh tỉ lệ DTBB quy 
 20 
định mức DTBB thống nhất đối với tất cả các NHTM, đồng thời đẩy mạnh 
việc áp dụng qui chế phạt đối với những trường hợp không tuân thủ đúng 
quy định về DTBB. 
Vào tháng 10/1995, NHNN đã ban hành quy chế DTBB mới nhằm 
tăng thêm hiệu lực của công cụ này. 
Theo qui chế mới thì DTBB chỉ được tính đối với các loại tiền gửi có 
kỳ hạn từ 12 tháng trở xuống, tỉ lệ DTBB thống nhất ở mức 10% và được 
áp dụng cho tất cả các NHTM 
Đến 1/12/1997 Thống đốc NHNN tiếp tục ban hành quyết định về 
quy chế DTBB. Qui chếDTBB lần này đã được quy định cụ thể hơn, linh 
hoạt hơn thể hiện ở việc quy định tiền gửi DTBB tại NHNN được tính bình 
quân trong cả kỳ duy trì. Tỉ lệ DTBB được áp dụng chung cho các NHTM 
và các loại tiền gửi huy động có kỳ hạn dưới 12 tháng là 10%,NHNN 
không phải trả lãi cho tiền gửi DTBB. Những quy định mới đã khuyến 
khích các NHTM chủ động hơn trong điều hành nguòn vốn kinh doanh và 
thực hiện DTBB đúng như quy định phù hợp với mục tiêu điều hành CSTT 
trong giai đoạn này. 
Vào cuối năm 1998 đầu năm 1999, NHNN tiếp tục hạ thấp tỉ lệ 
DTBB đối với các NHTM nhằm mở rộng tín dụng và kích thích đầu tưư. 
Tuy nhiên, qua vài tháng sau nền kinh tế vẫn tiếp tục có những biểu 
hiện khác thường. Trước tình hình đó, NHNN ra quyết định giảm tỉ lệ 
DTBB đối với tiền gửi không kỳ hạn và có kỳ hạn dưới 12 tháng của các 
NHTM do lãi suất giảm tạo điều kiện để các NHTM giảm lãi suất cho 
vay,từ đó tăng khả năng cung ứng vốn cho nền kinh tế góp phần đưa nền 
kinh tế tăng trưởng trở lại 
Công cụ này có ưu, nhược điểm sau: 
*Ưu điểm: DTBB là công cụ chủ động của NHTƯ, NHTƯ có 
quyền quy định mà các NHTM không có quyền phản đối, sự thay đổi tỉ lệ 
DTBB là tuỳ thuộc vào ý muốn của NHTƯ. Thay đổi một tỉ lệ DTBB sẽ 
gây tác động mạnh tới thay đổi lượng tiền cung ứng vì NHTƯ chỉ cần thay 
đổi một tỉ lệ % nhỏ tỉ lệ DTBB thì sẽ dẫn đến thay đổi bội số của lượng tiền 
cung ứng vì nó tác động đến tát cả các TCTD 
*Nhược điểm: Tuy nhiên tăng, giảm DTBB không thể thay đổi 
thường xuyên vì nếu thay đổi thường xuyên sẽ gây xáo trộn hoạt động của 
 21 
các TCTD dẫn đến việc quản lý vốn khả dụng của các NHTM trở nên khó 
khăn. Tiền gửi DTBB không tính lãi nên sẽ ảnh hưởng đến chi phí của các 
TCTD, nếu DTBB cao dẫn đến chi phí lớn coi như một khoản thuế đánh 
vào các TCTD 
Vì vậy, sử dụng công cụ DTBB là giải pháp tình thế khi cần thiết 
phải thắt chặt tiền tệ. Hiện nay một số nước không còn chú ý đến công cụ 
này nữa và có thể quy định mức DTBB bằng 0 hoặc kết hợp với các công 
cụ khác để thực thi CSTT 
2-Công cụ cho vay chiết khấu: 
Cho vay chiết khấu được coi là một công cụ gián tiếp để giúp NHTƯ 
các nước thực hiện CSTT của mình. Tuy nhiên, việc áp dụng công cụ này ở 
Việt nam những năm vừa qua còn đang ở trạng thái giản đơn do các 
phương tiện làm căn cứ để NHNN thực hiện cho vay chiết khấu còn chơa 
phát triển đầy đủ. Tuy vậy ngay từ năm đầu của quá trình đổi mới để thực 
hiện CSTT, NHNN đã áp dụng hìmh thức cho vay chiết khấu đối với 
cácNHTM. Cơ sở để thực hiện chiết khấu là các khế ước tín dụng tức là các 
văn bản pháp lý ghi nhận một khoản vay với một mức lãi suất vàmột thời 
hạn nợ nhất định của một DN đối với một NHTM 
Thông qua việc thế chấp các khế ước tín dụng này, NHNN đã cho 
vay ngắn hạn đối với các NHTM, nhờ vậy mà các NHTM đã khắc phục 
được những khó khăn tạm thời trong thanh toán, lại có thể đáp ứng được 
nhu cầu tín dụng cho nền kinh tế. 
Bên cạnh đó, NHTƯ đã áp dụng lãi suất tái chiết khấu. Đây là loại 
lãi suất được NHTƯ áp dụng để chiết khấu lại các chứng từ có giá của các 
NHTM. Lãi suất tái chiết khấu tác động vào giá tín dụng nên khi lãi suất tái 
chiết khấu tăng sẽ tác đôngj vào mặt bằng giá vốn đầu vào của NHTM,gây 
áp lực và lãi suất nền kinh tế sẽ tăng theo dẫn đến thu hẹp khả năng cho vay 
của NHTM, làm cho hệ số tạo tiền giảm và ngược lại. 
Đi kèm với lãi suất tái chiết khấu, NHTƯ còn quy định hạn mức tái 
chiết khấu tức là quy định mức cho vay tối đa trên cơ sở lãi suất đã quy 
định để gây ảnh hưởng về lượng vốn mà các TCTD vay của NHTƯ 
Ưu, nhược điểm của công cụ này: 
*Ưu điểm: Chính sách tái chiết khấu là công cụ có khả năng tác 
động vào các mục tiêu trung gian của CSTT. NHTƯ chủ động sử dụng 
 22 
công cụ này thể hiện qua việc chủ động quy định lãi suất tái chiết khấu, hạn 
mức tái chiết khấu và các điều kiện chiết khấu cho từng đối tượng cụ thể. 
Chính sách tái chiết khấu là công cụ linh hoạt, sự nhạy cảm của 
CSTT với lãi suất sẽ ảnh hưởng đến toàn bộ cơ cấu cho vay của các TCTD 
với hiệu ứng thông báo mạnh có tác động đến nền kinh tế. NHTƯ có thể 
dùnh chính sách này để thực hiện vai trò người cho vay cuối cùng cung cấp 
dự trữ cho hệ thống NHTM khi nó thiếu vốn khả dụng, nhất là trong điều 
kiện xảy ra khủng hoảng ngân hàng, lúc này cửa sổ chiết khấu giống như 
cái van an toàn cho hệ thống tiền tệ của quốc gia. 
*Nhược điểm: Công cụ này không phát huy hiệu quả khi các điều 
kiện tái chiết khấu không đảm bảo. Nhiều khi NHTƯ không thể chủ động 
chi phối được số tiền tái chiết khấu vì nó còn phụ thuộc vào nhu cầu vốn 
của TCTD. Mặt khác, công cụ này còn có ý nghĩa tác động một chiều, khi 
cần tăng lượng tiền cung ứng thì NHTƯ sẽ điều chỉnh lãi suất thấp để các 
NHTM có nhu cầu vay và sẽ gặp khó khăn khi cần thu tiền về vì bị ràng 
buộc bởi thời gian. Hơn nữa, chính sách tái chiết khếu có thể làm lẫn lộn 
những ý định của NHTƯ do việc thay đổi lãi suất, vì thế để khắc phục phải 
biết kết hợp công cụ này với các công cụ khác như công cụ dự trữ bắt buộc. 
2- Công cụ nghiệp vụ thị trường mở: 
Thị trường mở là thị trường tiền tệ mà ở đó người ta thực hiện việc 
mua-bán các công cụ tài chính ngắn hạn. 
Nghiệp vụ thị trường mở là hoạt động mua- bán các chứng từ có giá 
ngắn hạn của NHTƯ trên thị trường mở. 
ởViệt nam, sau nhiều năm tích cực chuẩn bị triển khai, tới ngày 
12/7/2000, nghiệp vụ thị trường mở do NHNN chủ trì đã mở phiên giao 
dịch đầu tiên đánh dấu một bước phát triển quan trọng trong điều hành 
CSTT của NHTƯ theo phương pháp gián tiếp. 
ở đây ta trình bày vài nét về mục tiêu và nhiệm vụ của CSTT-Xuất 
phát điểm để NHTƯ đưa ra các công cụ điều hành. 
ỏ góc độ khái quát, CSTT là những mục tiêu và những giải pháp 
đồng bộ mà NHTƯ sử dụng trong điều hành nhằm tác động vào khả năng 
sẵn có và giá của vốn khả dụng, qua đó ảnh hưởng lên toàn bộ các hoạt 
động tiền tệ, tín dụng trong nền kinh tế. Nói cách khác, CSTT phải nhằm 
 23 
vào mục tiêu bảo đảm ổn định giá trị đồng tiền và an toàn hệ thống tín dụng 
bằng cách kiểm soát các kênh bơm và rút tiền NHTƯ trong lưu thông. 
Theo thuật ngữ tiền tệ, đây là nhiệm vụ kiểm soát lượng tiền cung 
ứng được điều tiêt qua hai kênh bao gồm kênh tín dụng và kênh mua bán. 
Các tăng hay giảm tiền cung ứng qua các kênh này đều có những ưu nhược 
điểm khác nhau phụ thuộc vào điều kiện khách quan của nền kinh tế và khả 
năng cho phép của NHTƯ. 
Theo đánh giá của các chuyên gia NHTƯ, điều tiết lượng tiền cung 
ứng qua nghiệp vụ thị trường mở có nhiều ưu thế hơn các kênh khác. Tại 
đây NHTƯ đóng vai trò người chủ trì có điều kiện thực hiện ý đồ kiểm soát 
của mình một cách chủ động. Thông qua việc mua bán các giấy tờ có giá 
trên thị trường thứ cấp giữa một bên là NHTƯ với một bênkhác là các 
TCTD, làm lượng tiền biến thiên chỉ theo một chiều hoặc tăng giảm phù 
hợp với yêu cầu can thiệp của NHTƯ. 
Hoạt động thị trường mở bao quát toàn bộ những nội dung quyết 
định tính hiệu quả của nó. 
Nội dung đầu tiên được đề cập đến hoạt động nghiệp vụ thị trường 
mở là phạm vi thành viên tham gia nghiệp vụ này. 
Có 3 điều kiện để xem xét phạm vi thành viên 
Thứ nhất: NHTƯ muốn can thiệp trực tiếp vào lượng tiền cung ứng 
bao gồm cả tiền mặt và tiền gửi, về lý thuyết thành viên tham gia mua bán 
trong trường hợp này được mở rộng không những chỉ gồm các TCTD mà 
còn các tổ chức khác, thậm chí cả các cá nhân miễn là họ có tiền mặt và 
tiền gửi 
Thứ hai: Nừu cơ sở pháp lý cho phép các TCTD hoạt động đa năng 
như hệ thống TCTD của VN hiện nay thì phạm vi thành viên tham gia mở 
rộng đến TCTD là đủ. 
Thứ ba: Theo quyết định số 85/2000 ban hành quy chế nghiệp vụ thị 
trường mở thì thành viên tham gia trước hết phải là TCTD có đủ các điều 
kiện mở tài khoản tiền gửi tại NHTƯ, có hệ thống mạng vi tính kết nối với 
NHTƯ vay phải được NHTƯ cáp giấy công nhận thành viên. 
Nội dung thứ hai: Là phạm vi hàng hoá được sử dụng giao dịch trên 
nghiệp vụ thị trường mở, về nguyên tắc mọi tài sản có thể mua bán trên 
nghiệp vụ này vì chúng đều là những tài sản thế chấp. Tuy nhiên khác với 
 24 
tái cấp vốn là thông qua hình thức cho vay có bảo đảm ở chỗ, tài sản thế 
chấp trên nghiệp vụ thị trường mở phải là tài sản có khả năng thanh khoản 
cao, đảm bảo quản lý dễ dàng đồng thời đáp ứng yêu cầu điều hành nghiệp 
vụ này nhanh nhạy, chính xác và đạt được ý mong muốn. Tài sản hội tụ đủ 
các điều kiện như vậy chỉ có thể là các giấy tờ có giá. Hiện nay các công cụ 
được sử dụng để giao dịch trên thị trường mở là các tín phiếu kho bạc nhà 
nước, tín phiếu NHNN, chứng chỉ tiền gửi và các giấy tờ có giá ngắn hạn 
khác. Về lâu dài, khi điều kiện pháp lý cho phép phạm vi giấy tờ có giá sẽ 
được mở rộng không chỉ bao gồm các loại ngắn hạn mà cả các loại trung, 
dài hạn có thể được xem xét làm công cụ giao dịch với điều kiện công cụ 
đó có khả năng thanh khoản cao. 
Nội dung thứ ba: Là vấn đề giá và lãi suất bao gồm giá mua, bán 
trên nghiệp vụ thị trường mở. Giá và lãi suất là hai đại lượng ngược chiều 
nhau. Khi mua giấy tờ có giá, người mua cần mua với loại có giá thấp tức 
lãi suât cao, còn khi bán người bán muốn bán với giá cao tức lãi suất thấp. 
Giá của giấy tờ có giá hay lãi suất giao dịch trên nghiệp vụ thị trường mở là 
yếu tố quan trọng ảnh hưởng đến mặt bằng lãi suất trên thị trường nói 
chung. Vì vậy lãi suất cũng là một mục tiêu mà NHTƯ cần quan tâm khi 
quyết định phương thức đấu thầu trên nghiệp vụ thị trường mở. 
Đấu thầu lãi suất hay đấu thầu khối lượng trên nghiệp vụ này tuỳ 
thuộc vào mục tiêu của NHTƯ. Muốn can thiệp trực tiếp vào lãi suất thì 
thực hiện đấu thầu khối lượng ở đó lãi suất cố định do NHTƯ chỉ đạo. Khi 
mục tiêu của CSTT nghiêng về giác độ bơm hoặc rút tiền ra theo một khối 
lượng mong muốn thì thực hiện theo phương thức đấu thầu lãi suất, ở đó lãi 
suất được thả nổi theo cung cầu của thị trường còn lãi suất trúng thầu sẽ 
được xác định tại điểm đạt được khối lượng tiền cần bơm vào hoặc rút bớt 
tiền khỏi lưu thông. 
Lãi suất chỉ đạo đối với đấu thầu khối lượng và lãi suất trúng thầu 
đối với đấu thầu lãi suất là cơ sở để tính giá của giấy tờ có giá. Giá của giấy 
tờ có giá. 
Có 3 khái niệm: Giá tại thời điểm mua bán gọi là giá hiện tại 
Giá sau một thời gian được bán/mua lại theo hợp đồng mua lại gọi là 
giá tương lai và mệnh giá của giấy tờ có giá đó. 
Giá của giấy tờ có giá được tính theo hình thức chiết khấu như sau: 
 25 
_GiáGiá hiện tại = Mệnh giá: ( 1+ thời gian còn lại x lãi suất) 
 365 
_Giá tương lai =Giá hiện tại x(1+ thời hạn hợp đồng x lãi suất) 
365 
Nội dung thứ tư: Là phương thức giao dịch thể hiện tính linh hoạt 
của công cụ nghiệp vụ thị trường mở mà các công cụ khác không thể có 
được. 
Nghiệp vụ thị trường mở cho phép mua hoặc bán với số lượng, thời 
gian giao dịch và một phương pháp giao dịch tuỳ ý, phù hợp với yêu cầu 
của CSTT.Khi dự báo cho thấy vốn khả dụng không thay đổi biểu hiện 
mộy sự trì trệ trong lưu thông tiền tệ thì sẽ áp dụng phương thức giao dịch 
là mua hoặc bán hẳn giấy tờ có giá nhằm tạo ra một sự chuyển ddộng tiền 
tệ ban đầu cần thiết. 
Khi dự báo cho thấy vốn khả dụng thay đổi thất thường do nhiều 
nguyên nhân để đảm bảo hạn chế sai sót trong việc cung ứng tiền, phương 
thức giao dịch được áp dụng trên nghiệp vụ thị trường mở sẽ là phương 
thức mua bán có kỳ hạn gọi là hợp đồng mua lại. 
Nội dung thứ năm: ảnh hưởng tới hiệu quả của nghiệp vụ thị trường 
mở đó là trình độ phối hợp giữa các công cụ trong điều hànhCSTT, đặc biệt 
là giữa nghiệp vụ thị trường mở và các công cụ cho vay tái cấp vốn không 
có bảo đảm bằng giấy tờ có giá hoặc giấy tờ có giá chất lượng thấp, thực 
chất là cho vay tái cấp vốn theo chỉ định của ta hiện nay là một loại tín 
dụng không phải ai cũng được quyền vay. Vì vậy TCTD được vay sẽ có 
nhiều lợi thế trong giao dịch trên nghiệp vụ thị trường mở một khi tổ chức 
đó tìm được nguồn vay với giá rẻ có thể sử dụng để mua giấy tờ có giá với 
lãi suất có lợi hơn trên nghiệp vụ thị trường mở. Điều này không những tạo 
ra một sân chơi thiếu bình đẳng giữa các thành viên mà còn làm cho mục 
tiêu kích cầu tín dụng không thực hiện được. Để chống sự lạm dụng này, 
NHTƯ các nước thường xét đơn xin vay rất nghiêm ngặt, mặt khác áp dụng 
cơ chế nâng lãi suất ở thị vay để kích thích các TCTD ơu tiên bán giấy tờ 
có giá trên nghiệp vụ thị trường mở. Khi lượng giấy tờ có giá không còn để 
bán lúc đó NHTƯ mới giảm dần lãi suất vay đến mức ngang băngf lãi suất 
trên thị trường mở. 
 26 
Nội dung cuối cùng góp phần không nhỏ để nghiệp vụ thị trường mở 
hoạt động có hiệu quả đó là công nghệ thông tin và hệ thống thanh toán. 
Việc kết nối theo một chương trình phần mềm hiện đại trong nội bộ 
NHTƯ với các ban điều hành, các uỷ viên và người trực tiếp điều hành sàn 
giao dịch để bảo đảm thực hiện các công đoạn giao dịch. 
Tóm lại, nghiệp vụ thị trường mở là công cụ gián tiếp của CSTT hoạt 
động thông qua việc mua hoặc bán các giấy tờ có giá trên thị trường thứ 
cấp giữa NHTƯ và các TCTD nhằm bơm vào hoặc rút tiền khỏi lưu thông 
theo mục tiêu mở rộng hay thu hẹp tín dụng, từ đó tác động gián tiếp lên 
mặt bằng lãi suất trên thị trường vốn ngắn hạn. 
II) Sự lựa chọn công cụ trong việc điều hànhCSTT: 
Đối với bất kỳ một NHTƯ nào, việc bảo đảm ổn định giá trị đồng 
tiền bao giờ cũng là chức năng quan trọng nhất.Muốn hoàn thành tốt trọng 
trách này, NHTƯ phải điều hành CSTT thông qua các chính sách và công 
cụ. Ngoài các chính sách vĩ mô, thông thường NHTƯ các nước thường sử 
dụng 3 công cụ quan trọng nhất đó là: Nghiệp vụ thị trường mở, tái chiết 
khấu và dự trữ bắt buộc, trong đó nghiệp vụ thị trường mở được coi là công 
cụ quan trọng nhất. 
Sở dĩ nghiệp vụ thị trường mở được coi là quan trọng nhất trong điều 
hành CSTT của NHTƯ bởi vì nó là nhân tố quyết định đầu tưiên có thể làm 
thay đổi lãi suất hoặc cơ sở của tiền tệ, ngoài ra nó còn thể hiện nhỡng ưu 
điểm nổi bật sau: 
-Nghiệp vụ thị trường mở phát sinh theo ý tưởng chú đạo của NHTƯ 
trong đó NHTƯ hoàn toàn chủ động kiểm soát được khối lượng giao dịch. 
Tuy nhiên việc kiểm soát này là gián tiếp không nhận thấy được. 
-Nghiệp vụ thị trường mở cũng có thể đạt được bằng cách mua hoặc 
bán một lượng nhỏ chứng khoán. Ngược lại, nếu có yêu cầu thay dổi dự trữ 
hoặc cơ sở tiền tệ ở quy mô lớn NHTƯ cũng có đủ khả năng đáp ứng được. 
-Nghiệp vụ thị trường mở dễ dàng đảo chiều: Nếu NHTƯ có mắc 
phải sai sót nào đó trong qua trình thực hiện nghiệp vụ thị trường mở thì có 
thể ngay tức khắc sữa chữa sai sót đó. 
-Nghiệp vụ thị trường mở có tính an toàn cao. Giao dịch trên thị 
trường mở hầu như khômg gặp rủi ro, xét trên góc độ của cả NHTƯ lẫn các 
 27 
NHTM bởi vì cơ sở bảo đảm cho các giao dịch trên thị trường mở đều là 
những giấy tờ có giá có tính thanh khoản cao, không có rủi ro tài chính. 
-Nghiệp vụ thị trường mở có thể thực hiện một cách nhanh chóng 
không vấp phải sự chậm trễ của các thủ tục tài chính. 
Hiện nay, ở VN nghiệp vụ thị trường mở mới đi vào hoạt động chưa 
lâu, hàng hoá trên thị trường này còn rất hạn chế. Tuy nhiên việc xuất hiện 
nghiệp vụ thị trường mở là một bước tiến quan trọng trong tiến trình tới tự 
do hoá lịch sử ở nước ta. Từ nay, NHNN Việt nam có thêm một công cụ 
mới-công cụ quan trọng nhất trong điều hành chính sách tiền tệ ở nước ta. 
IV-Vai trò của NHNN trong việc sử dụng các công cụ của CSTT: 
1-Về lãi suất: 
Thực trạng cơ chế điều hành lãi suất ở VN có thể chia thành các giai 
đoạn sau: 
Giai đoạn 1986-1990, 1991-1995, 1996-8/2000, 8/2000 trở đi: 
Đây là bước ngoặt trong cơ chế điều hành lãi suất theo hướng tiến tới 
tự do hoá lãi suất. Do trước đây chưa có mức lãi suất nào đóng vai trò chủ 
đạo, định hướng cho các TCTD ấn định mức lãi suất kinh doanh vì thế 
5/8/2000 theo QĐ 241 của Thống đốc NHNN đã chính thức thay đổi cơ chế 
điều hành trần lãi suất cho vay bằng cơ chế lãi suất cơ bản đối với cho vay 
bằng VND và cơ chế lãi suất thị trường có sự quản lý đối với cho vay bằng 
ngoại tệ. 
Với cơ chế điều hành lãi suất mới này, về mặt bản chất cũng giống 
như cơ chế lãi suất trần bởi vì lãi suất cho vay bị khống chế bởi lãi suất cơ 
bản cộng với biên độ. Chỉ khác là nó mang tính hướng dẫn, chỉ đạo cho 
cácTCTD hình thành lãi suất hoạt động cho mình một cách dễ dàng hơn. 
Ngày 29/5/2001 Thống đốc NHNN ra quyết định 718 về việc thay 
đổi cơ chế điều hành lãi suất cho vay bằng đô la Mỹ. Theo đó các TCTD 
được quyền chủ động ấn định lãi suất cho vay bằng đô la Mỹ trên cơ sở lãi 
suất thị trường quốc tế và cung cầu vốn tín dụng bằng ngoại tệ trong nước. 
Đây là một bước đi tự tin, táo bạo và sáng suốt-đặt tiền đề hết sức quan 
trọng cho quá trình tự do hoá lãi suất ở Việt nam. 
2-Về tỷ giá hối đoái: 
Giai đoạn: Trước 3/1989, 3/1989-8/1981, 8/1981-1994, 10/1994-
2/1999, từ 25/2/1999 đến nay. 
 28 
Về bản chất thì chính sách tỷ giá hối đoái giai đoạn này cũng giống 
nhơ giai đoạn trước 2/1999, tuy nhiên điểm khác biệt ở đây là biên độ được 
điều chỉnh giảm từ7% xuống còn 0,1% và hàng ngày NHNN sẽ công bố tỷ 
giá liên ngân hàng của ngày giao dịch trước đó làm cơ sở cho các TCTD 
quy định tỷ giá mua và bán. Tức là tỷ giá liên NH mà NHNN công bố vẫn 
là tỷ giá theo ý muốn chủ quan của NHNN. 
3-Về dự trữ bắt buộc: 
Giai đoạn 3/1991-9/1995 và từ 9/1995 trở đi. 
Kể từ khi ban hành QĐ240ngày19/9/1995 mức DTBB được tính 
chung cho tất cả các loại tiền gửi không phân biệt tiền gửi không kỳ hạn 
hay tiền gửi có kỳ hạn <12 tháng. Nếu so sánh các lần tăng giảm tỷ lệ 
DTBB với các mức lạm phát và lãi suất qua các năm ta thấy thời kỳ có lạm 
phát cao hay lãi suất cao cũng là lúc tỷ lệ DTBB được qua định ở mức 
cao,điều này cho thấy đã có sự phối hợp vận dụng công cụ tỷ lệ DTBB với 
các công cụ khác của CSTT trong điều hành kinh tế vĩ mô của nhà nước. 
4-Về tái cấp vốn: 
Trong giai đoạn trước 3/1997, NHNN quy định lãi suất tái cấp vốn 
theo lãi suất cho vay trên từng khế ước xin tái cấp vốn. Cính vì vậy mà lãi 
suất tái cấp vốn mang tính bị động và có sự phân biệt giữa các ngân hàng. 
Kể từ 3/1997 cùng với việc hoàn thiện cơ chế lãi suất, lãi suất tái cấp 
vốn đã được xác lập một cách độc lập và đã thực sự trở thành công cụ tiền 
tệ được NHNN quan tâm trong việc điều tiết cung ứng tiền. 
5-Về nghiệp vụ thị trường mở: 
Thị trường mở ở nước ta chính thức hoạt động từ ngày 12/7/2000, 
tham gia thị trường này là NHNN, các TCTD. Tuy nhiên đến nayNHNN 
chỉ cấp phép hoạt động cho 12 thành viên, hàng hoá cho nghiệp vụ này còn 
rất hạn chế chủ yếu là tín phiếu kho bạc và tín phiếu NHNN, tổng khối 
lượng của 2 loại tín phiếu này đang được các NHTM nắm giữ khoảng 3000 
tỷ đồng trong có 1000tỷ là tín phiếu của NHNN, trong phiên giao dịch đấu 
thầu đầu tưiên đã có 300 tỷ đồng tín phiếu được mua-bán. 
Trên thị trường mở, NHTƯ đặt ra yêu cầu mua-bán nên hoàn toàn 
chủ động tuỳ theo ý đồ can thiệp của họ. Ngoài ra thị trường mở còn cho 
phép không chỉ cung cấp vốn khả dụng cho giới NH mà còn rút ra khỏi thị 
 29 
trường tiền tệ. Điều đó cho phép NHTƯ kiểm soát tốt hơn lượng vốn khả 
dụng ngân hàng cũng như lãi suất trên thị trường. 
PHẦN III 
THỰC TRẠNG VÀ NHỮNG TỒN TẠI TỪ HOẠT ĐỘNG CỦA 
 CHÍNH SÁCH TIỀN TỆ VIỆT NAM 
Kể từ thực hiện chính sách cải cách và mở cửa, chuyển nền kinh tế 
kế hoạch hoá tập trung sang hoạt động theo cơ chế thị trường, toàn bộ hệ 
thống tổ chức và hoạt động của NHNN đã được đổi mới sâu sắc và đã đạt 
được những kết quả bước đầu đáng khích lệ. Nhờ đổi mới toàn diện CSTT 
từ hoạch định đến chỉ đạo thực hiện, bằng việc sử dụng các giải pháp tình 
thế mạnh dạn lúc đầu, đến sử dụng từng bước có hiệu quả các công cụ của 
chính sách tiền tệ, lạm phát bị đẩy lùi và kiềm chế ở mức thấp, yêu cầu ổn 
định tiền tệ bước đầu được thực hiện góp phần thúc đẩy tăng trưởng kinh 
tế, phục vụ phát triển nền kinh tế nhiều thành phần theo định hướng 
XHCN. Để có được kết quả đó, bản thân công tác hoạch định cà điều hành 
CSTT cũng trải qua không ít khó khăn, không ngừng được đổi mới để hoàn 
thiện. 
I-Những thành quả đạt được từ hoạt động của chính sách tiền tệ: 
1-Góp phần tăng trưởng kinh tế: 
Để tăng trưởng kinh tế, tránh nguy cơ tụt hậu thì một trong những 
điều kiện cơ bản là các ngành kinh tế phải có vốn đầu tưư để phát triển sản 
xuất, kinh doanh. Kể từ khi có hai pháp lệnh ngân hàng cho đến nay, hệ 
thống ngân hàng đã không ngừng tăng cường và mở rộng nguồn vốn tín 
 30 
dụng để cung cấp vốn đầu tưư cho các DN và các hộ gia đình. Điều đó đã 
giúp nền kinh tế Việt nam nói chung cũng như từng ngành sản xuất nói 
riêng đạt được tốc độ tăng trưởng cao và tương đối ổn định trong nhiều 
năm. Xét trên giác độ vĩ mô thì thông qua việc thực thi chính sách tiền tệ, 
NHNN đã góp phần thúc đẩy tăng trưởng kinh tês ở hai khía cạnh: 
Thứ nhất: Chính sách tiền tệ đã góp phần tạo ra môi trường kinh tế vĩ 
mô ổ định để thu hút được nguồn vốn ddáng kể cho đầu tưư. 
Thứ hai: Gián tiếp tạo vốn và kích thích đầu tưư để phát triển kinh tế. 
Vai trò tạo vốn một cách gián tiếp của NHNN thể hiện như sau: 
Do nguồn vốn trong nước để cung cấp cho nền kinh tế của các tổ 
chức tín dụng lấy từ hai nguồn vốn: Nguồn vay từ NHNN và nguồn huy 
động từ nền kinh tế. 
Với mục tiêu điều hành chính sách tiền tệ của NHNN Việt nam 
những năm qua là “thắt chặt” cung tiền để chống lạm phát cho nên lãi suất 
cho vay chiết khấu thường ở mức cao buộc các TCTD phải có nhiều hình 
thức đa dạng và linh hoạt để huy động vốn nhàn rỗi trong nền kinh tế. Bên 
cạnh đó, với việc sử dụng linh hoạt và mềm dẻo chính sách lãi suất trong 
quá trình điều hành chính sách tiền tệ, NHNN thực sự đã thành công trong 
vai trò người “cầm chịch” để các tổ chức tín dụng điều chỉnh mức lãi suất 
huy động một cách hợp lý. Mức lãi suất huy động trong từng thời kỳ có thể 
tăng giảm tuỳ theo diễn biến của nền kinh tế, nhưng cũng vừa đủ cho các 
TCTD có lợi nhuận trong kinh doanh tiền tệ đồng thời vẫn đủ hấp dẫn đối 
với người gửi tiền trong nước. 
Nhờ những cố gắng đó của hệ thống ngân hàng mà nguồn vốn huy 
động từ trong nước đã tăng liên tục trong nhiều năm. Cùng với sự tăng lên 
của nguồn vốn huy động trong nước, nguồn vốn huy động từ nước ngoài 
cũng được hệ thống ngân hàng khai thác triệt để, nhằm đáp ứng chiến lược 
vốn phục vụ tăng trưởng kinh tế và CNH - HĐH đất nước. 
Sau khi nhà nước ban hành luật đầu tưư nước ngoài ( tháng 12 - 1987 
) đã mở ra một triển vọng mới trong việc thu hút nguồn vốn đầu tưư trực 
tiếp của nước ngoài. Đặc biệt từ năm 1993 đến nay, nhờ khai thông tín 
dụng với quỹ tiền tệ quốc tế và các tổ chức tài chính tiền tệ thế giới, NHNN 
Việt nam đã đàm phán, ký kết được nhiều hiệp định tín dụng quan trọng 
cho các dự án phát triển kinh tế. 
 31 
Có thể nói rằng: Những thành tựu đổi mới của nền kinh tế nói chung 
và của hệ thống ngân hàng nói riêng đã đủ sức thuyết phục các tổ chức tiền 
tệ ngân hàng thế giới mở rộng quan hệ hợp tác với Việt nam. Nhờ đó mà 
trong nhiều năm qua nền kinh tế Việt nam đã đạt được tốc độ tăng trưởng 
cao và tương đối ổn định. Riêng năm 1998, do nhiều nguyên nhân khác 
nhau mà nền kinh tế Việt nam đạt tỷ lệ tăng trưởng thấp nhất kể từ năm 
1992 đến nay, sau năm 1999 tốc độ tăng trưởng có xu hướng chậm lại ở 
một số ngành. Đặc biệt nền kinh tế có dấu hiệu giảm phát. Đây là một nguy 
cơ kìm hãm sản xuất và tăng trưởng kinh tế. Vì vậy liên tiếp trong những 
tháng gần đây, Thống đốc NHNN Việt nam đã ra các quyết định, chỉ thị 
nhằm hạ trần lãi suất, giảm lãi suất cho vay chiết khấu và tỷ lệ dự trữ bắt 
buộc đối với các TCTD. Mục đích của các biện pháp này là nhằm ‘ nới 
lỏng’ cung tiền để khuyến khích đầu tưư, từ đó thúc đẩy nền kinh tế tăng 
trưởng trở lại. 
2- Góp phần làm giảm lạm phát: 
Trước hết phải thừa nhận một sự thật là: trong nhiều năm qua 
NHNN Việt nam đã đóng vai trò chủ chốt trong việc ổn định sức mua đối 
nội và đối ngoại của đồng tiền Việt nam, góp phần ổn định giá cả và kiềm 
chế lạm phát, phục vụ sự tăng trưởng kinh tế. 
Trong thời kỳ 1986 - 1988, nền kinh tế Việt nam lâm vào tình trạng 
lạm phát phi mã, lòng tin của nhân dân vào đồng tiền - biểu tượng cho uy 
tín của chính phủ bị giảm sút. Nhưng cho đến nay, sau gần một thập kỷ tiến 
hành đổi mới bằng việc áp dụng một loạt các biện pháp tích cực ( thực hiện 
hai pháp lệnh ngân hàng, thực thi các công cụ của CSTT một cách linh 
hoạt, phù hợp với từng hoàn cảnh, điều kiện cụ thể ). NHNN đã dần dần lấy 
lại lòng tin của nhân dân vào đồng Việt nam, vào công cuộc đổi mới của 
Đảng. Có được lòng tin đó là nhờ nền kinh tế Việt nam đang đi dần vào thế 
ổn định. Tỷ lệ lạm phát trong nhiều năm liền được kiềm chế ở một con số ( 
từ năm 1992 - 1998: bình quân là 9,6%/năm ), giá trị của Việt nam đồng 
được coi là khá ổn định trong khu vực. Chính sự ổn định của môi trường 
kinh tế vĩ mô như trên, một mặt đã thu hút được nguồn vốn đáng kể từ 
trong nước và nước ngoài, mặt khác cũng khuyến khích các nhà đầu tưư 
mở rộng sản xuất kinh doanh ở tất cả các lĩnh vực của nền kinh tế. 
 32 
Như vậy việc đổi mới hệ thống ngân hàng đã tạo điều kiện cho ngân 
hàng nhà nước thông qua các công cụ của CSTT để chỉ đạo, hướng dẫn 
toàn bộ hệ thống ngân hàng thực hiện có hiệu quả chiến lược huy động vốn 
phục vụ cho quá trình phát triển nền kinh tế đất nước, góp phần quan trọng 
vào việc đưa nền kinh tế Việt nam cùng một lúc đạt được hai chỉ tiêu kinh 
tế vĩ mô lớn là đẩy lùi lạm phát mà vẫn đạt tỷ lệ tăng trưởng cao. Đây là 
một minh chứng cho sự đúng đắn của đường lối đổi mới kinh tế nói chung 
và vận hành có hiệu quả CSTT của hệ thống ngân hàng nói riêng. 
3-Góp phần thực hiện các mục tiêu kinh tế xã hội khác: 
Ngoài những thành tựu kể trên, quá trình thực thi CSTT của hệ thống 
ngân hàng Việt nam những năm qua còn góp phần đáng kể vào qúa trình 
thực hiện các mục tiêu kinh tế xã hội khác như: chuyển dịch cơ cấu kinh 
tế, tạo thêm công ăn việc làm... 
Trong những năm qua cơ cấu kinh tế Việt nam đã và đang chuyển 
dịch theo chiều hướng tiến bộ. Xét về cơ cấu kinh tế thì các thành phần 
kinh tế ngoài quốc doanh ngày càng mở rộng, trong khi thành phần kinh tế 
nhà nước vẫn giữ vị trí quan trọng ở các ngành, các khâu then chốt. Xét về 
cơ cấu ngành thì tỷ trọng ngành công nghiệp và dịch vụ ngày càng tăng 
trong tổng GDP của xã hội, trong khi tỷ trọng ngành nông nghiệp ngày 
càng giảm một cách tương đối. Quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế nói 
trên có sự đóng góp tích cực của hệ thống ngân hàng. Bởi vì ở thời kỳ bao 
cấp, nguồn vốn đầu tưư cho nền kinh tế của ngân hàng tập trung tới > 90% 
cho kinh tế quốc doanh, 10% cho kinh tế tập thể và hầu như không cho vay 
cá thể. Nhưng đến nay hoạt động tín dụngđã có sự thay đổi lớn. Bằng việc 
ban hành các văn bản pháp quy, NHNN đã hướng dẫn các TCTD thực hiện 
cho vay đối vơi mọi thành phần kinh tế không phân biệt đối xử. Tỷ trọng 
cho vay đối với các thành phần kinh tế ngoài quốc doanh đã tăng dần. Bên 
cạnh đó NHNN còn có văn bản hướng dẫn các TCTD ưu tiên đầu tưư tín 
dụng vào các ngành trọng điểm, mũi nhọn có lợi thế nhằm thúc đẩy chuyển 
dịch cơ cấu ngành. 
Việc mở rộng vốn đầu tưư cho mọi thành phần kinh tế không những 
thúc đẩy nền kinh tế đạt tốc độ tăng trưởng cao trong khoảng thời gian dài, 
mà còn tạo ra nhiều việc làm cho xã hội. Theo báo cáo thống kê thì những 
 33 
năm gần đây, Việt nam có tỷ lệ tạo việc làm nhanh hơn tốc độ tăng dân số, 
vì vậy tỷ lệ thất nghiệp có chiều hướng giảm đi. 
Rõ ràng, thông qua việc mở rộng đầu tưư tín dụng cho các thành 
phần kinh tế, tạo điều kiện để mở rộng sản xuất kinh doanh thì hệ thống 
ngân hàng đã gián tiếp tạo công ăn việc làm cho người lao động. 
II- Những khó khăn và tồn tại từ hoạt độngcủa chính sách tiền tệ: 
Chính sách tiền tệ giữ vai trò quan trọng trong việc quản lý, điều tiết 
nền kinh tế thị trường.Trong những năm qua,việc quản lý,điều hành CSTT 
có nhiều chuyển biến tích cực,góp phần quan trọng vào việc ổn định kinh tế 
vĩ mô, kiềm chế lạm phát, thúc đẩy kinh tế tăng trởng và phát triển nhất là 
trong điều kiện tác động nhiều mặt của cuộc khủng hoảng tài chính-tiền tệ 
khu vực vào nền kinh tế nước ta.Tuy nhiên, bên cạnh những mặt được việc 
quản lý, điều hành CSTT trong thời gian qua ở nước ta đang nổi lên một số 
vấn đề cần được quan tâm giải quyết. 
Mặc dù không nằm trong “tâm điểm” của cơn bão tiền tệ Đông Nam 
á, nhng thời gian gần đây diễn biến kinh tế phức tạp và ảm đảm của hàng 
loạt các nước trong và cận kề ngoài khu vực cho phép khẳng định Việt 
Nam cũng khó có thể thoát khỏi vòng xoáy tụt dốc “đô mi nô” về tăng tr-
ởng kinh tế đang diễn ra ít nhất là trong vòng 2-3 năm kể tờ cuối năm 1997 
1) Biểu hiện của sự khó khăn đó được thể hiện: 
Thứ nhất: Tổng nguồn vốn huy động và mức dư nợ cho vay nền 
kinh tế tăng chậm, tốc độ huy động vốn tăng nhanh hơn dư nợ 
Vốn giữ vai trò quan trọng trong việc thúc đẩy kinh tế tăng trưởng, 
đổi mới kỹ thuật và công nghệ, thực hiện công nghiệp hoá-hiện đại hoá đất 
nước.Có tới 70% sản lượng vốn đầu tưư nước ngoài và 60% kim ngạch 
thương mại của Việt nam là nhờ quan hệ với các quốc gia Châu á.Việt nam 
đang chịu ảnh hưởng chủ yếu bởi sự sụt giảm đáng kể trong đầu tưư nước 
ngoài trực tiếp và tụt giảm nhu cầu xuất khẩu chung 
Ngoài nguyên nhân do ảnh hưởng khủng hoảng tiền tệ, sự sụt giảm 
đầu tưư nước ngoài vào Việt nam còn bắt nguồn sâu xa từ môi trường đầu 
tư chưa đủ hấp dẫn, trong khi rủi ro đầu tư tiếp tục gia tăng cùng với mức 
độ khắc phục chậm về hiệu quả thấp và sức cạnh tranh yếu tố của sản xuất 
kinh doanh nội địa.Hiện tượng thiếu lành mạnh trong hệ thống tài chính-
tiền tệ nói chung và sự thiếu nhất quán về một số mặt chính sách vĩ mô 
 34 
trong đó CSTT cũng bộc lộ khá sớm, đe doạ sự ổn định kinh tế về trung,dài 
hạn ngay cả trước khi khủng hoảng tài chính-tiền tệ khu vực chưa nổ ra. 
Thứ hai: Tỷ lệ tín dụng trung,dài hạn tăng và không tương xứng với 
tốc độ tăng nguồn huy động các loại vốn này. 
Vốn trung, dài hạn giữ vị trí đặc biệt quan trọng trong việc gia tăng 
đầu tư, tăng năng lực sản xuất-kinh doanh trong nền kinh tế.Năm 1998,tỷ lệ 
cho vay trung, dài hạn của hệ thống ngân hàng nước ta tăng nhanh, chiếm 
42% tổng dư nợ cho vay nền kinh tế, chủ yếu tập trung đầu tư cho các công 
trình thực hiện theo kế hoạch nhà nước. Việc sử dụng một phần vốn vay 
ngắn hạn để cho vay trung,dài hạn là cần thiết, đáp ứng một phần nhu cầu 
vốn đầu tư trong nền kinh tế nhưng tỷ lệ sử dụng vốn ngắn hạn để cho vay 
trung dài hạn phải được tính toán cân nhắc thận trọng, bảo đảm khả năng 
thanh toán,an toàn hoạt động của từng ngân hàng cũng như của toàn hệ 
thống 
Thứ ba: Việc xử lý mối quan hệ giữa lãi suất và tỷ giá hối đoái 
Các công cụ điều hành CSTT chưa được hoàn chỉnh theo cơ chế thị 
trường và còn ở dạng sơ khai, yêu cầu kiện toàn chính sách lãi suất trong 
mối tương quan chế độ tỷ giá hối đoái thích hợp vẫn chưa được xử lý tốt. 
Việc quy định “trần” lãi suất đã và đang gây trở ngại cho mở rộng tín 
dụng một cách tích cực.Vẫn còn nhiều mức lãi suất “trần” và mặt bằng lãi 
suất chung chưa phản ánh linh hoạt quan hệ cung cầu vốn của nền kinh 
tế,chưa bao quát đủ mức rủi ro tiền tệ thông thường. Lãi suất cho vay cuối 
cùng còn cao,kinh doanh của hầu hết các NHTM bị gò bó, thiếu chủ động 
tự chủ. Nguồn vốn tín dụng còn hạn hẹp,mất cân đối cơ cấu với việc sử 
dụng,cho vay còn rải mảnh,phân tán dẫn đến hiệu quả thấp. 
Hoạt động của thị trường tiền tệ liên ngân hàng chưa phát triển sôi 
động, chưa trở thành giao điểm hội đủ và định hướng chuyển dịch các dòng 
vốn nhàn rỗi giữa các NHTM. Chưa có những điều kiện căn bản để từng b-
ước tự do hoá lãi suất và thả nổi tỷ giá hối đoái. NHNN chưa thực sự là 
người cho vay cuối cùng của nền kinh tế,các giao dịch ngoại tệ chính thức 
bị gò bó,chi phối chưa mạnh và kịp thời với biến động tỷ giá hối đoái thị 
trường. 
 35 
Thứ tư: Mặc dù chính phủ đã thực hiện nhiều giải pháp để tăng cư-
ờng quản lý,kiểm soát hoạt động ngân hàng,xử lý nợ quá hạn nhưng chất l-
ượng tín dụng vẫn ở mức thấp. 
Việc nâng cao chất lượng và hiệu quả tín dụng có ý nghĩa sống còn 
trong cạnh tranh,trong việc củng cố và phát triển hệ thống ngân hàng,không 
ngừng nâng cao vai trò của nó trong việc góp phần thực hiện các mục tiêu 
kinh tế-xã hội. 
Đến ngày 31/12/1998, tổng dư nợ quá hạn chiếm 12,5% tổng dư nợ 
cho vay, trong đó nợ quá hạn của một số NHTM cổ phần chiếm tỷ lệ cao có 
nguy cơ gây mất an toàn trong hệ thống ngân hàng và tác động xấu đến đời 
sống kinh tế-xã hội. 
Mặt khác,sự thâm hụt lớn của cán cân vãng lai do nhập siêu triền 
miên và gánh nặng nợ nước ngoài chồng chất như:bội chi ngân sách còn 
cao luôn tạo ra những áp lực từ nhiều phía đe doạ tính ổn định,độc lập tư-
ơng đối của CSTT mà bước đầu đã tạo dựng được ở giai đoạn chống lạm 
phát trước đây. 
Thâm hụt cán cân vãng lai chủ yếu phải bù đắp bằng “nhập khẩu” 
vốn là nguyên nhân chính gây ra nạn “đô la hoá” khiến VND bị định giá 
quá cao,kích thích tâm lý tích trữ giá trị dưới dạng ngoại tệ,không gian tiền 
tệ bị méo mó. 
Trong khi đó,sự nôn nóng uốn nắn một cách cứng nhắc hoạt động 
tiền tệ, tín dụng và ngân hàng sau một số vụ đổ vỡ tài chính làm tái phát xu 
hướng bao cấp tràn lan qua hạn mức tín dụng,qua lãi suất ưu đãi. Đó là 
những trở ngại không dễ dỡ bỏ trong quá ttrình hoàn thành CSTT hiện nay. 
Thứ năm: Quá ttrình thực thi CSTT còn thiếu sự kết hợp giữa hệ 
thống ngân hàng và các cơ quan hữu quan khác. 
Là một bộ phận quan trọng của hệ thống chính sách kinh tế vĩ 
mô,CSTT có liên quan trực tiếp tới nhiều biến số kinh tế thuộc nhiều lĩnh 
vực khác nhau.Điều đó đòi hỏi phải có sự kết hợp chặt chẽ giữa hệ thống 
ngân hàng với cơ quan hữu quan khác trong quá trình hoạch định và thực 
thi CSTT 
Ở Việt nam,quá trình thực thi CSTT những năm vừa qua của hệ 
thống ngân hàng vẫn còn thiếu sự hợp tác của các cơ quan hữu quan hay 
 36 
các bộ, ngành liên quan. Chính điều này đã phần nào hạn chế hiệu lực của 
CSTT đối với quá trình điều tiết kinh tế vĩ mô. 
Để có thể thiết kế CSTT một cách khoa học và phù hợp với điều kiện 
thực tế, trước hết các số liệu thông tin về tình hình kinh tế của đất nước 
phải được cung cấp đầy đủ,kịp thời và chính xác. Ở Việt nam,các số liệu 
mà các ngành, các cơ quan cung cấp thiếu thống nhất và nhiều khi chưa 
chính xác, đặc biệt là những số liệu phục vụ cho việc lập và dự báo cán cân 
thanh toán quốc tế. 
Những năm vừa qua, nguồn vốn tín dụng cung cấp cho nền kinh tế 
của hệ thống ngân hàng còn bị thất thoát nhiều. Một phần do thiếu sót chủ 
quan của ngành ngân hàng, mặt khác do các bộ, ngành liên quan còn buông 
lỏng vai trò quản lý nhà nước đối với hoạt động sản xuất kinh doanh cuả 
ngành mình.Ngoài ra,cũng có trường hợp những văn bản điều hành hoạt 
động tiền tệ tín dụng của ngân hàng và những văn bản khác của các bộ, 
ngành có liên quan có những sự chồng chéo,mâu thuẫn tạo ra những lực 
cản vô hình đối với quá trình thực thi CSTT những năm vừa qua. 
2) Những tồn tại khác trong quá trình điều hành chính sách tiền tệ: 
Trong quá trình đổi mới kinh tế nói chung và chính sách tài chính-
tiền tệ nói riêng,thu chi ngân sách của chính phủ Việt nam đã có những cải 
thiện đáng kể.Tuy nhiên,thâm hụt ngân sách vẫn triền miên và ở mức 
cao.Nguồn bù đắp thiếu hụt ngân sách từ việc vay dân rất hạn chế.Phần còn 
lại, chính phủ phải vay từ nước ngoài và vay từ NHNN Việt nam. 
Trong những năm qua,căn bệnh giảm phát đã tăng mạnh.Từ đầu 
năm1999 với triệu chứng rõ nhất là sức mua nội địa giảm sút, hàng hoá tồn 
đọng lớn, xuất khẩu tăng chậm lại,chỉ số giá cả xuống rất thấp(suốt 9 tháng 
đầu năm 1999 chỉ tăng 0,2%) trong lúc tăng trởng kinh tế giảm mạnh, đang 
đặt ra những thử thách lớn cho việc tìm đối sách đồng bộ, hữu hiệu để khắc 
phục những khó khăn nội tại và đối phó với ảnh hưởng khủng hoảng từ bên 
ngoài dội vào. 
Ngoài ra quá ttrình thực thi CSTT của hệ thống ngân hàng đôi khi 
còn thiếu tính tự chủ. Là cơ quan của chính phủ đóng tại các địa ph-
ương,các ngân hàng phần nào đó phải chịu sự giám sát của cơ quan chính 
quyền địa phương.Cũng có nhiều trường hợp,vì lợi ích của địa phương nên 
chính quyền sở tại có thể can thiệp vào hoạt động của ngành ngân hàng,đặc 
 37 
biệt là trong công tác thẩm định dự án đầu tư tại địa phương, chính sự “nh-
ợng bộ ngầm” này nhiều khi làm cho ngân hàng đầu tư vào các dự án 
không có hiệu quả làm hạn chế phần nào hiệu lực điều hành CSTT của 
NHNN 
Những hạn chế trên đây chứng tỏ quá trình thựcthi CSTT của Việt 
nam trong quá trình chuyển sang nền kinh tế thị trường vẫn cần phải tiếp 
tục bổ sung và hoàn thiện.Có như vậy thì CSTT mới thực sự phát huy được 
vai trò điều tiết vĩ mô trong nền kinh tế thị trường. 
- 
PHẦN IV 
GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN CHÍNH SÁCH TIỀN TỆ Ở VIỆT NAM 
I- Những quan điểm định hớng hoàn thiện: 
Là một trong những chính sách kinh tế vĩ mô của nhà nước,là linh 
hồn của hoạt động NHNN,mục tiêu lâu dài của CSTT là duy trì sự ổn định 
và nâng cao dần giá trị đối nội và đối ngoại của đồng Việt nam,tiến tới đa 
đồng Việt nam trở thành đồng tiền có khả năng chuyển đổi,từ đó tạo sự ổn 
định trong hệ thống tài chính của việt nam. 
Để khắc phục những khó khăn tồn tại nhằm thực hiện được các mục 
tiêu trớc mắt cũng nh lâu dài, việc hoàn thiện CSTT cần đi theo các định h-
ớng sau: 
 38 
  Việc hoạch định và thực thi CSTT một mặt phải hoà nhập và 
thích nghi nhanh với cơ chế thị trường,đồng thời phải nhanh chóng hội 
nhập với cộng đồng tài chính quốc tế,với những thông lệ chung của thế 
giới.Mặt khác,quá trình hoạch định và thực thi CSTT vẫn phải giữ gìn tính 
độc lập,tính đặc thù của Việt nam là vận động theo định hớng XHCN, theo 
đờng lối đổi mới mà Đảng và nhà nước đã vạch ra. 
  Chủ động hoạch định và thực thi CSTT trong mối quan hệ chặt 
chẽ với các chính sách kinh tế vĩ mô khác nh: chính sách tài chính,chính 
sách thu nhập,chính sách thơng mại…để các chính sách này thực sự bổ 
sung,hỗ trợ lẫn nhau tạo thành sức mạnh tổng hợp trong quá trình thực hiện 
các mục tiêu kinh tế vĩ mô 
Đặc biệt,trong hệ thống chính sách kinh tế vĩ mô,phải đảm bảo 
CSTT và chính sách tài chính luôn thống nhất với nhau về mục tiêu và 
đồng bộ với nhau về phơng pháp điều hành.Có nh vậy thì các chính sách 
này mới thực sự trở thành công cụ điều tiết kinh tế vĩ mô hữu hiệu. 
  Điều tiết và kiểm soát có hiệu quả khối lợng tiền cung ứng,đảm 
bảo cung cấp đầy ẩu phơng tiện thanh toán cho nền kinh tế tức là đảm bảo 
sự thích ứng giữa tổng cung và tổng cầu về tiền tệ. 
  Tại hội nghị TƯ làn thứ nhất,Ban chấp hành TƯ Đảng CSVN 
đã có sự điều chỉnh nhất quán về sách lợc, biện pháp chỉ đạo nền kinh tế 
với nhiệm vụ xuyên suốt là phát triển nông nghiệp-nông thôn,coi đây là bệ 
phóng để đẩy tới một bớc CNH-HĐH nền kinh tế ở thập niên 2000-2010 
với tầm nhìn 2020.Theo đó sẽ có sự chuyển dịch căn bản về cơ cấu đầu tư-
,dành vốn u tiên đầu tư nhiều hơn vào những lĩnh vực then chốt,mũi nhọn 
của nền kinh tế. 
  Để tiếp tục ổn định tiền tệ trong điều kiện lạm phát thấp,trớc hết 
cần có sự tập trung cải thiện cơ bản NSNN, giảm thiểu mức thâm hụt, tiết 
kiệm triệt để tiêu dùng phi sản xuất để tăng tỷ phần tích luỹ, dành vốn đầu 
tư phát triển kinh tế ở tát cả các khu vực nhà nước,doanh nghiệp và dân c. 
  Khẩn trơng chấn chỉnh hệ thống ngân hàng,nâng cao chất lượng 
và đảm bảo an toàn hoạt động tín dụng.Chủ động hoàn thiện tiếp chế độ tỷ 
giá hối đoái và lãi suất ngân hàng thao hớng từng bớc thả nôỉ có điều tiết và 
tự do hoá có chọn lọc.Có phơng án bảo toàn giá trị tiền gửi gắn liền với 
kiện toàn hệ thống thanh toán qua ngân hàng.Hoàn thành dứt điểm xở lý nợ 
 39 
nần dây da khu vực tài chính công,giải toả tài sản thế chấp vay ngân hàng 
đóng băng,đẩy mạnh cơ cấu vốn, tài sản ngân hàng.Bên cạnh đó nhà nước 
sẽ hỗ trợ vốn ban đầu tưhành lập quỹ bảo lãnh tín dụng và các hình thức 
bảo đảm đầu tư khác để tạo thuận lợi cho mọi DN vừa và nhỏ,các hộ nông 
dân dễ dàng tiếp cận các nguồn vay và sử dụng vốn một cách an toàn, hiệu 
quả. 
  Thờng thì các vấn đề liên quan đến CSTT hiếm khi giải quyết 
được triệt để,đặc biệt đối với nền kinh tế đang trong quá trình chuyển đổi 
nh Việt nam.Sự đan xen phức tạp của CSTT với các chính sách kinh tế vĩ 
mô khác trong bối cảnh nền kinh tế khó khăn hơn trớc có thể đa đến những 
thay đổi về ngắn hạn,kèm theo những thoả hiệp, nhân nhợng tình thế trong 
điều hành chính sách.Tuy nhiên về trung-dài hạn,mục tiêu cuối cùng và 
mục tiêu trung gian vẫn phải được tuân thủ nghiêm ngặt.Đặc biệt là việc 
hoàn thiện chính sách tiến tệ sẽ lệ thuộc nhiều vào khả năng tiếp cận và vận 
dụng hế thống các công cụ thực thi CSTT của NHNN, gắn liền với quá 
trình tiếp tục đẩy mạnh,đổi mới,hiện đại hoá công nghệ ngân hàng hiện 
nay. 
II- Giải pháp hoàn thiện chính sách tiền tệ: 
Để hoàn thiện chính sách tiền tệ theo các định hướng đã đề ra phải 
thực hiện đồng thời nhiều giải pháp và ta có thể chia thành hai nhóm sau: 
1- Nhóm giải pháp liên quan đến thể chế: 
- Tiếp tục hoàn thiện hệ thống ngân hàng: 
Việc hoàn thiện chính sách tiền tệ ở Việt nam trong thời gian tới 
không thể tách rời quá trình hoàn thiện hệ thống ngân hàng nói chung và bộ 
máy tổ chức, điều hành của ngânhàng nhà nước nói riêng. Bởi lẽ, hệ thống 
ngân hàng- trước hết là bộ máy tổ chức ngân hàng trung ương tương đối 
độc lập, lành mạnh và vững chắc- là yếu tố đầu tưiên đảm bảo tính hiệu lực 
của chính sách tiền tệ. 
Mục tiêu xuyên suốt trong chiến lược đổi mới và hòan thiện hệ thống 
ngân hàng những năm cuối thế kỷ XX đầu tưhế kỷ XXI là “phải tạo lập 
được một hệ thống ngân hàng đủ mạnh cả về năng lực hoạch định và thực 
thi chính sách, năng lực quản lý, năng lực điều hành kinh doanh,đủ mạnh 
về trình độ công nghệ và kỹ thuật hiện đại để thích ứng với cơ chế thị 
 40 
trường, trở thành công cụ phục vụ đắc lực cho mục tiêu phát triển kinh tế 
của đất nước và sớm hội nhập vào cộng đồng tài chính quốc tế. 
- Trong quá trình điều hành chính sách tiền tệ, ngân hàng nhà 
nước cần tìm ra điểm dung hoà giữa các mục tiêu của chính sách tiền tệ,để 
đi đến chỗ kết hợp hài hoà các mục tiêu kinh tế vĩ mô. 
Do giữa các mục tiêu kinh tế vĩ mô như: Tăng trưởng, lạm phát và 
công ăn việc làm đôi khi có mâu thuẫn với nhau. Vì vậy trong quá trình 
điều hành kinh tế vĩ mô nói chung và chính sách tiền tệ nói riêng, không 
nên cực đoan một phía, nhấn mạnh một chiều. Nếu có sự ổn định giá cả, ổn 
định tiền tệ mà nền kinh tế chỉ dậm chân tại chỗ, không phát triển được thì 
sự ổn định đó coi như vô nghĩa, lại rất mong manh và sẽ mất đi nhanh 
chóng. 
Ngược lại, nếu tăng trưởng mà không ổn định thì sẽ mất đi điều kiện 
để phát triển, sẽ dẫn đến tình trạng kinh tế hỗn loạn và thậm chí còn thụt 
lùi. Vì vậy tìm ra điểm dung hoà giữa các mục tiêu không chỉ là kỹ thuật, 
mà còn là nghệ thuật điều hành chính sách tiền tệ của ngân hàng nhà nước. 
Việt nam là một nước nghèo quá độ lên sản xuất lớn. Tăng trưởng 
nhanh và bền vững là lối thoát duy nhất để tránh nguy cơ tụt hậu, nhưng 
bên cạnh đó nền kinh tế Việt nam vừa đi qua cuộc khủng hoảng, còn nhiều 
bất ổn và tiềm ẩn lạm phát cao, thì ổn định cũng là mục tiêu rất quan trọng. 
Vấn đề đặt ra là trong quá trình thực hiện mục tiêu chính sách tiền tệ, 
ngânhàng nhà nước phải tìm ra điểm dung hoà để vừa đảm bảo kiềm chế 
lạm phát, vừa đưa nền kinh tế Việt nam tiếp tục tăng trưởng với nhịp độ 
cao. 
Để tìm được điểm dung hoà thì cần phải có sự điều chỉnh của ngân 
hàng nhà nước ở bình diện vĩ mô. Tuỳ từng thời gian, hoàn cảnh cụ thể mà 
sự điều chỉnh từng mục tiêu là cần thiết và không đồng đều như 
nhau.Nhưng phải quán triệt nguyên tắc: Các mục tiêu ngắn hạn phải phục 
vụ cho mục tiêu dài hạn, còn mục tiêu dài hạn phải chi phối các mục tiêu 
ngắn hạn. Ngân hàng nhà nước phải tập trung vào việc nhấn mạnh tăng 
trưởng kinh tế và toàn dụng nhân công, tuy nhiên vẫn chú ý đến việc kiềm 
chế lạm phát. Đây chính là điểm dung hoà giữa các mục tiêu kinh tế vĩ mô. 
Điều này chứng tỏ nghệ thuật điều hành chính sách tiền tệ là làm sao tạo ra 
 41 
sức tác động tối đa ddến mục tiêu chủ yếu nhất, trong khi không làm tổn 
hại quá mức đến mục tiêu khác của toàn bộ hệ thống kinh tế vĩ mô. 
- Sử dụng linh hoạt và mềm dẻo các công cụ điều tiết của chính 
sách tiền tệ. Nói đến công cụ của chính sách tiền tệ thì dù ở nước nào cũng 
đều có các công cụ giống nhau, cũng là: Lãi suất, cho vay chiết khấu, dự 
trữ bắt buộc và nghiệp vụ thị trường mở…Sự khác nhau chỉ là ở cách sử 
dụng các công cụ linh hoạt và mềm dẻo ở mức độ nào để đối phó với 
những biến động bất thường của nền kinh tế. Mục đích chủ đạo, lâu dài của 
Việt nam trong kinh tế vĩ mô là hướng tới sự tăng trưởng cao và bền vững. 
Các công cụ của chính sách tiền tệ thường được sử dụng là: Duy trì 
nguyên tắc lãi suất thực dương, quy định tỷ lệ dự trữ bắt buộc phù hợp đối 
với các tổ chức tín dụng, duy trì chế độ tỷ giá hối đoái ổn định…Tuy nhiên 
nếu những công cụ trên được sử dụng một cách cứng nhắc sẽ gây tác động 
xấu đối với những mục tiêu ngắn hạn và những biến động bất thường có thể 
xảy ra. Vì vậy, lãi suất dương đến mức độ nào để hiệu quả chống lạm phát 
không ảnh hưởng đến đầu tưư của đất nước hoặc tỷ giá hối đoái ổn định 
nhưng khi cần thiết thì phải phá giá để tạo động lực kích thích xuất 
khẩu…Là thể hiện sự mềm dẻo, linh hoạt trong việc sử dụng các công cụ 
của chính sách tiền tệ. Làm được như vậy, ngân hàng nhà nước sẽ thực sự 
thành công trong vai trò người điều tiết kinh tế vĩ mô. 
- Nâng cao hơn nữa tính độc lập tương đối của ngân hàng nhà 
nước Việt nam trong việc họach định và thực thi chính sách tiền tệ. 
- Thể hiện ở sự thống nhất và đồng bộ của các bộ luật, văn bản 
pháp quy có liên quan mà chính phủ đã ban hành, từ đó đảm bảo tính hiệu 
lực của hai Bộ luật ngân hàng cũng như toàn bộ hệ thống văn bản pháp quy 
của ngành. 
- Việc xây dựng và ban hành các văn bản dưới luật bổ sung cho 
hai luật cần được thực hiện nhanh chóng và kịp thời. Điều này cũng không 
kém phần quan trọng, bởi lẽ sau khi hai Bộ luật ngân hàngcó hiệu lực thì 
không những hai pháp lệnh ngân hàng mà cả một số văn bản pháp luật kèm 
theo cũng hết hiệu lực. Tuy ngân hàng đã có nhiều văn pháp quy mới ban 
hành nhưng chưa đầy đủ. Vì vậy, hiện nay trong hệ thống văn bản pháp 
luật ngân hàng vẫn có nhiều chỗ bị “bỏ ngỏ” bởi chưa có văn bản thay thé 
hoặc nếu có thì cũng chưa có nghị định, hướng dẫn cụ thể. 
 42 
Khi hành lang pháp lý chưa đầy đủ thì hoạt động tiền tệ- ngân hàng 
nói chung và quá trình thực thi chính sách tiền tệ nói riêng vẫn nằm trong 
thế bất ổn. Vì vậy, trong những năm trước mắt, việc hoàn thiện bổ sung 
triển khai có hiệu quả hệ thống văn bản pháp luật của ngành ngân hàng là 
những việc cần làm ngay, góp phần nâng cao hiệu lực điều tiết vĩ mô của 
chính sách tiền tệ quốc gia. 
2- Nhóm giải pháp liên quan đến việc hoàn thiện các công cụ của 
chính sách tiền tệ: 
Yêu cầu nâng cao hiệu lực và chất lượng của quá trình thực thi chính 
sách tiền tệ đòi hỏi phải nhanh chóng hoàn thiện và tiếp tục phát triển hệ 
thống các công cụ của chính sách tiền tệ. Những năm trước mắt, phải tạo ra 
được hệ thống công cụ bám sát và phục vụ đắc lực cho quá trình đổi mới 
chính sách tiền tệ. 
Để thực hiện được việc này,nhà nước cần kiên trì với chủ trương sử 
dụng các công cụ chính sách tiền tệ theo định hướng thị trường, tức điều 
tiết các hoạt động kinh tế qua thị trường hay nói cách khác là nhà nước can 
thiệp thị trường đẻ thị trường điều tiết các hoạt động kinh tế, Muốn vậy: 
+ Cần theo dõi, bám sát diễn biến thị trường để có sự điều chỉnh lãi 
suất cơ bản và biên độ phù hợp làm cho lãi suất cơ bản thực sự đóng vai trò 
là tín hiệu để điều tiết lãi suất thị trường. Chuẩn bị các điều kiện cần thiết 
để bỏ biên độ của lãi suất cơ bản, tiến tới tự do hoá lãi suất đồng Việt nam. 
+ Thực hiện điều chỉnh lãi suất tái chiết khấu và tái cấp vốn phù hợp 
với diễn biến thị trường. Về nguyên tắc lãi suất tái cấp vốn phải là lãi suất 
cao nhất và lãi suất tiền gửi của các ngân hàng thương mại phải là lãi suất 
thấp nhất. Bên cạnh đó cần sử dụng linh hoạt lãi suất cho vay qua đêm và 
lãi suất đấu thầu trái phiếu và tín phiếu. 
+ Cần sử dụng một cách linh hoạt tỷ lệ dự trữ bắt buộc theo tín hiệu 
thị trường nhằm tác động tới việc gia tăng tổng phương tiện thanh toán và 
kích thích tăng trưởng tín dụng tác động tới diễn biêns lãi suất thị trường 
theo định hướng điều hành chính sách tiền tệ. Thời gian tới ngân hàng nhà 
nước cần giảm tỷ lệ dự trữ bắt buộc đối với đồng ngoại tệ để tăng nguồn 
huy động ngoại tệ đối với các ngân hàng thương mại, nhằm giảm tình trạng 
găm giữ ngoại tệ trong dân và các tổ chức kinh tế. 
 43 
+ Cần hoàn thiện nghiệp vụ thị trường mở bằng việc rà soát lại quy 
chế về nghiệp vụ thị trường mở nhằm mở rộng thời hạn còn lại của các 
chứng từ có giá, từ đó tạo điều kiện để cung ứng vốn cho các tổ chức tín 
dụng, qua đó các tổ chức tín dụng có điều kiện can thiệp tốt hơn vào thị 
trường để ổn định tỷ giá. 
Mặt khác, ngân hàng nhà nước cũng cần thay đổi quy chế đẻ mở 
rộng đối tượng nhằm tăng số lượng thành viên tham gia, đa dạng hoá hàng 
hoá được mua-bán trên thị trường để nghiệp vụ thị trường mở hoạt động sôi 
động hơn. 
+ Theo dõi sát các diễn biến trên thị trường tiền tệ để có biện pháp 
xử lý kịp thời. Các công cụ điều hành chính sách tiền tệ cần hướng tới: 
“phối hợp hài hoà các công cụ trực tiếp và gián tiếp theo hướng thúc đẩy 
tăng trưởng kinh tế, có tác động tích cực tới thị trường nhằm hạn chế những 
tác động tiêu cực do ảnh hưởng của thị trường tài chính quốc tế”. 
Như vậy, từ thực tế hoạt động của chính sách tiền tệ Việt nam, với 
những định hướng và giải pháp đồng bộ, có hiệu quả nhằm giúp ngân hàng 
nhà nước điều hành, thực thi các công cụ của chính sách tiền tệ nhằm đạt 
được mục tiêu ổn định kinh tế vĩ mô, kiểm soát lạm phát, thúc đẩy sản xuất 
và tiêu dùng, kích thích đầu tưư phát triển. Từ đó bảo đảm cho sự phát triển 
an toàn, lành mạnh của thị trường tài chính- tiền tệ trong toàn bộ nền kinh 
tế. 
KẾT LUẬN: 
Chính sách tiền tệ có vai trò đặc biệt quan trọng trong nền kinh tế thị 
trường nói chung và nền kinh tế Việt nam nói riêng.Nó được Chính phủ mà 
trước hết là ngân hàng trung ương các nước sử dụng làm công cụ tác động 
vào các biến số kinh tế vĩ mô nhằm đạt được những mục tiêu nhất định. 
 44 
Bước sang thế kỷ XXI-Mở ra một kỷ nguyên mới trong tiến trình 
khu vực hoá và toàn cầu hoá nền kinh tế. Yêu cầu đặt ra là phải hoàn thiện 
và thực thi chính sách tiền tệ một cách có hiệu quả nhất. 
Để hoàn thiện chính sách tiền tệ, trước hết phải xác định đúng mục 
tiêu và định hướng của nó trong thời gian trước mắt cũng như lâu dài. Từ 
đó có những giải pháp đồng bộ vừa cải tiến, hoàn thiện những yếu tố sẵn 
có, vừa phát triển bổ sung những yếu tố mới, chấn chỉnh, loại bỏ những yếu 
tố cũ, lạc hậu. Quá trình này đòi hỏi sự nỗ lực, phấn đấu kiên trì không 
những của ngân hàng nhà nước mà của cả hệ thống ngân hàng. 
Đồng thời đòi hỏi phải có sự kết hợp chặt chẽ của các Bộ, ngành có 
liên quan trong quá trình thực hiện những mục tiêu vĩ mô của nền kinh tế. 
Đặc biệt việc hoàn thiện chính sách tiền tệ sẽ lệ thuộc nhiều vào khả năng 
tiếp cận và vận dụng hệ thống các công cụ thực thi chính sách tiền tệ của 
ngân hàng nhà nước, gắn liền với quá trình tiếp tục đẩy mạnh, đổi mới, 
hiện đại hoá công nghệ ngân hàng hiện nay. 
Có thể nói nghiên cứu đề tài về chính sách tiền tệ là một vấn đề rất 
rộng lớn và nó liên quan đến nhiều khía cạnh của các chính sách kinh tế vĩ 
mô khác. Vì vậy, trong phạm vi bài viết này em không thể chi tiết hết được 
các nội dung của CSTT mà chỉ nêu lên moọt số hiểu biết của mình và ý 
kiến đề xuất về việc hoàn thiện chính sách tiền tệ 
 45 
TÀI LIỆU THAM KHẢO: 
Giáo trình môn học Ngân hàng trung ương 
( Học viện ngân hàng ) 
Tạp chí tài chính số 2, 4 năm 2000 
Tạp chí ngân hàng số 9, 14 năm 1999 
số 9 năm 2000 
số 4, 5, 6, 8 năm 2001 
Chính sách tiền tệ và sự điều tiết vĩ mô của Ngân hàng trung ương ở 
các nước đang phát triển 
( Lê Vinh Danh) 
            Các file đính kèm theo tài liệu này:
Đề tài - Chính sách tiền tệ- thực trạng và giải pháp hoàn thiện chính sách tiền tệ ở Việt Nam.pdf