Luận văn Đầu tư trực tiếp nước ngoài phát triển nghành nông nghiệp Việt Nam: thực trạng và giải pháp

Tài liệu Luận văn Đầu tư trực tiếp nước ngoài phát triển nghành nông nghiệp Việt Nam: thực trạng và giải pháp: 1 Luận văn Đầu tư trực tiếp nước ngoài phát triển nghành nông nghiệp Việt Nam thực trạng và giải pháp 2 LỜI MỞ ĐẦU Hiện nay trên thế giới mọi người đều nhìn nhận rằng đầu tư trực tiếp nước ngoài đóng vai trò đặc biệt quan trọng đối với nền kinh tế của các nước và khu vực. Việc huy động vốn FDI để phát triển kinh tế xã hội là tận dụng điều kiện khách quan cực kỳ thuận lợi mà thế giới tạo ra thay vì phải bỏ ra hàng trăm năm để phát triển vượt qua thời kỳ tích luỹ ban đầu lâu dài và gian khổ như Anh, Pháp trước đây hay gần đây như Australia chẳng hạn, các nước đi sau có thể mượn sức những nước đi trước để thực hiện thành công chiến lược rượt đuổi. Rõ ràng có thể tồn tại khả năng đi xe miễn phí như nhau cho tất cả các nước đi sau. Song vốn đầu tư không bao giờ tự chảy vào các nước lạc hậu. Cơ may tận dụng khả năng đó chỉ thuộc về quốc gia nào có chiến lược khôn ngoan hơn, biết tận dụng hoàn cảnh thế giới tạo ra trong việc huy động nguồn lực phát triể...

pdf103 trang | Chia sẻ: haohao | Lượt xem: 1140 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem trước 20 trang mẫu tài liệu Luận văn Đầu tư trực tiếp nước ngoài phát triển nghành nông nghiệp Việt Nam: thực trạng và giải pháp, để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
1 Luận văn Đầu tư trực tiếp nước ngoài phát triển nghành nông nghiệp Việt Nam thực trạng và giải pháp 2 LỜI MỞ ĐẦU Hiện nay trên thế giới mọi người đều nhìn nhận rằng đầu tư trực tiếp nước ngoài đóng vai trò đặc biệt quan trọng đối với nền kinh tế của các nước và khu vực. Việc huy động vốn FDI để phát triển kinh tế xã hội là tận dụng điều kiện khách quan cực kỳ thuận lợi mà thế giới tạo ra thay vì phải bỏ ra hàng trăm năm để phát triển vượt qua thời kỳ tích luỹ ban đầu lâu dài và gian khổ như Anh, Pháp trước đây hay gần đây như Australia chẳng hạn, các nước đi sau có thể mượn sức những nước đi trước để thực hiện thành công chiến lược rượt đuổi. Rõ ràng có thể tồn tại khả năng đi xe miễn phí như nhau cho tất cả các nước đi sau. Song vốn đầu tư không bao giờ tự chảy vào các nước lạc hậu. Cơ may tận dụng khả năng đó chỉ thuộc về quốc gia nào có chiến lược khôn ngoan hơn, biết tận dụng hoàn cảnh thế giới tạo ra trong việc huy động nguồn lực phát triển to lớn nói trên. Bên cạnh đó, vấn đề phát triển nhanh và bền vững được đặt ra đối với tất cả các quốc gia. Đối với các nước đi sau có điểm xuất phát thấp về kinh tế, yêu cầu này đặt ra như một đòi hỏi sống còn hoặc là đuổi kịp vượt lên trước hoặc là tụt lại sau và ngày càng xa rời các cơ hội phát triển. Việt Nam cũng nằm trong tình huống của những nước đi sau như thế, khi so sánh các mục tiêu của sự phát triển theo định hướng xã hội chủ nghĩa mà chúng ta đang theo đuổi với trình độ thấp nhất thế giới như hiện nay thì yêu cầu nói trên càng trở nên cấp bách. Mục tiêu mà Đảng và chính phủ ta đã đề ra trong chiến lược phát triển kinh tế xã hội đến năm 2010 là: tăng trưởng kinh tế đạt 7,5 %, đến năm 2010 GDP tăng ít nhất gấp đôi năm 2000 và đến năm 2020 nước ta cơ bản trở thành một nước công nghiệp hoá. Để đạt được mục tiêu đó thì một trong những điều kiện tiên quyết là phải có vốn để thực hiện đồng bộ các vấn đề. Đây là một thách thức lớn đối với một nền kinh tế mà khả năng tích luỹ nội bộ thấp. Do vậy, chúng ta phải tính đến chuyện huy động các nguồn vốn từ bên ngoài mà trong đó vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài có vai trò hết sức quan trọng bổ sung cho vốn đầu tư phát triển, góp phần tạo công ăn việc làm, nâng cao thu nhập cho người dân và tạo nguồn thu cho ngân sách. 3 Nhận thức về tầm quan trọng của đầu tư trực tiếp nước ngoài trong thời kỳ đầu của sự nghiệp CNH,HĐH chính phủ Việt Nam đã liên tục ban hành những chính sách thu hút vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài. Những chính sách đó đã làm cho các nhà đầu tư nước ngoài rất chú ý. Đến nay, nguồn vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài được cam kết và đăng ký đạt hơn 40 tỷ USD, vốn thực hiện đạt trên 19 tỷ USD. Tuy nhiên, vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài mới chỉ tập trung chủ yếu đối với một số ngành công nghiệp và dịch vụ, còn đối với nông nghiệp vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài tuy có tăng lên trong mấy năm gần đây nhưng còn chiếm tỷ trọng rất nhỏ trong tổng vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài vào nền kinh tế chưa xứng với tiềm năng phát triển của ngành trong nền kinh tế. GDP do nông nghiệp tạo ta vẫn giữ vị trí hàng đầu, trên 50% giá trị xuất khẩu là nông sản, 80% dân số sống ở nông thôn, nguồn sống chính dựa vào nông nghiệp. Cho đến nay vốn đăng ký đầu tư trực tiếp nước ngoài vào nông nghiệp mới chỉ đạt 2620 triệu USD (bằng 6,5 % tổng vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài). Vốn thực hiện mới đạt 51,2% đối với vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài. Chính vì vậy làm thế nào để thu hút và sử dụng một cách có hiệu quả vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài trong nông nghiệp trở thành một vấn đề hết sức quan trọng. Xuất phát từ trực trạng đầu tư trực tiếp nước ngoài trong nông nghiệp Việt Nam và tính cấp thiết của vấn đề này, tôi chọn đề tài"Đầu tư trực tiếp nước ngoài phát triển nghành nông nghiệp Việt Nam thực trạng và giải pháp" cho chuyên đề tốt nghiệp. Chuyên đề gồm ba chương sau: Chương I: Những vấn đề lý luận chung Chương II: Thực trạng đầu tư trực tiếp nước ngoài trong nông nghiệp Chương III: Một số giải pháp thu hút và nâng cao hiệu vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài trong nông nghiệp Hoàn thành chuyên đề thực tập này ngoài sự nỗ lực của bản thân, em xin chân thành cảm ơn sâu sắc sự hướng dẫn tận tình của cô giáo T.s Nguyễn Bạch Nguyệt. Vì trình độ và kinh nghiệm còn có hạn, chuyên đề 4 của em không khỏi còn những thiếu sót, em mong cô cùng tất cả các bạn quan tâm góp ý kiến để hoàn thiện đề tài hơn. CHƯƠNG I:: NHỮNG VẪN ĐỀ LÍ LUẬN CHUNG I. MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÍ LUẬN CHUNG VỀ ĐẦU TƯ TRỰC TIẾP NƯỚC NGOÀI 1. Khái niệm, và đặc điểm đầu tư trực tiếp nước ngoài 1.1. Khái niệm, và bản chất của đầu tư trực tiếp nước ngoài a. Khái niệm: Đầu tư trực tiếp nước ngoài là phương thức đầu tư vốn, tài sản ở nước ngoài để tiến hành hoạt động sản xuất, kinh doanh, dịch vụ với mục đích tìm kiếm lợi nhuận và những mục tiêu kinh tế xã hội nhất định. b. Bản chất: Đầu tư trực tiếp nước ngoài là hình thức đầu tư quốc tế được đặc trưng bởi quá trình xuất khẩu tư bản từ nước này sang nước khác, một hình thức cao hơn của xuất khẩu hàng hoá. Đầu tư nước ngoài được hiểu là một dạng quan hệ kinh tế có nhân tố nước ngoài. Nhân tố nước ngoài ở đây không chỉ là sự khác biệt vế quốc tịch hoặc về lãnh thổ cư trú thường xuyên của các bên tham gia vào quan hệ đầu tư trực tiếp nước ngoài mà còn thể hiện ở việc tư bản bắt buộc phải vượt qua khỏi tầm kiểm soát của một quốc gia. Việc di chuyển tư bản này nhằm mục đích phục vụ kinh doanh tại các nước tiếp nhận đầu tư, đồng thời lại là điều kiện để xuất khẩu máy móc vật tư nguyên vật liệu và khai thác tài nguyên của nước chủ nhà. 1.2. Đặc điểm của đầu tư trực tiếp nước ngoài a. Về kinh tế:  Đầu tư trực tiếp nước ngoài đưa vốn cùng với kỹ thuật, công nghệ, bí quyết kinh doanh và năng lực Marketing vào nước tiếp nhận . Chủ đầu tư tiến hành công cuộc đầu tư, tổ chức sản xuất kinh doanh và sản phẩm làm ra được tiêu thụ ở thị trường nước tiếp nhận đầu tư hoặc thị trường quốc tế.  Chủ thể của đầu tư trực tiếp nước ngoài chủ yếu là các công ty xuyên quốc gia. Các công ty này chiếm 90% khối lượng vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài trên thế giới. 5  Việc tiếp nhận đầu tư trực tiếp nước ngoài không phát sinh nợ cho nước nhận đầu tư. Thay cho lãi suất, nước nhận đầu tư được phần lợi nhuận thích đáng khi công trình đầu tư hoạt động có hiệu quả, bên cạnh đó nước chủ nhà còn có điều kiện để phát triển tiềm năng trong nước. b. Về mặt pháp lý:  Đầu tư trực tiếp nước ngoài là hình thức đầu tư vốn của tư nhân do các chủ đầu tư tự quyết định đầu tư, quyết định sản xuất kinh doanh và tự chịu trách nhiệm về lỗ lãi. Hình thức này mang tính khả thi và hiệu quả kinh tế cao, không có những ràng buộc về chính trị.  Đầu tư trực tiếp nước ngoài có đặc điểm là: chủ đầu tư nước người phải đóng góp một số vốn tối thiểu vào vốn pháp định, tuỳ theo luật đầu tư của mỗi nước. Ví dụ: luật đầu tư nước ngoài tại Việt Nam quy định tỷ lệ góp vốn tối thiểu của nhà đầu tư nước ngoài là 30% vốn pháp định của dự án, ở các nước khác tỷ lệ này là 20%.  Lợi nhuận của các chủ đầu tư nước ngoài phụ thuộc vào kết quả hoạt động kinh doanh và được chia theo tỷ lệ góp vốn trong vốn pháp định.  Quyền quản lý xí nghiệp phụ thuộc vào mức độ góp vốn. Nếu chủ đầu tư nước ngoài góp 100% vốn thì chủ đầu tư nước ngoài điều hành quản lý toàn bộ mọi hoạt động đầu tư. Chủ đầu tư tham gia điều hành doanh nghiệp liên doanh tuỳ theo tỉ lệ góp vốn của mình theo luật đầu tư nước ngoài của Việt Nam. 1.3. Tính tất yếu khách quan của đầu tư trực tiếp nước ngoài Để trở thành một nước công nghiệp hùng mạnh, các nước như Anh và Australia đã phải mất hàng trăm năm. Trong thế giới hiện đại ngày nay, các nước đi sau nhất là các nước đang phát triển đã tận dụng ưu thế của đầu tư trực tiếp nước ngoài để đi tắt đón đầu, rút ngắn quá trình công nghiệp hoá hiện đại hoá . Chính vì vậy, đầu tư trực tiếp nước ngoài càng ngày càng trở thành xu hướng tất yếu trong thế giới hiện đại ngày nay. 6 a. Tính tất yếu của đầu tư trực tiếp nước ngoài trong thế giới hiện đại Trong thế kỷ XIX, do quá trình tích tụ và tập trung tư bản tăng lên mạnh mẽ, các nước tư bản lúc bấy giờ đã tích luỹ được những khoản tư bản khổng lồ. Khi mà quá trình tích tụ và tập trung đã đạt đến một mực độ nhất định sẽ xuất hiện nhu cầu đầu tư ra nước ngoài. Đó chính là quá trình phát triển của sức sản xuất xã hội đến độ đã vượt ra khỏi khuân khổ chật hẹp của một quốc gia, hình thành nên quy mô sản xuất trên toàn thế giới. Việc tích tụ, tập trung và xuất khẩu tư bản là một hiện tượng kinh tế mang tính tất yếu khách quan của nền kinh tế hiện đại. Sau mỗi chu kỳ kinh tế, nền kinh tế của các nước phát triển lại rơi vào một cuộc suy thoái kinh tế, chính lúc này để vượt qua giai đoạn khủng hoảng tạo ra những điều kiện phát triển đòi hỏi phải đổi mới tư bản cố định. Thông qua hoạt động đầu tư nước ngoài, các nước công nghiệp phát triển có thể chuyển máy móc thiết bị cần thay thế sang các nước kém phát triển hơn và thu hồi được một phần giá trị để bù đắp những khoản chi phí khổng lồ cho việc mua sắm máy móc thiết bị. Bên cạnh đó những thành tựu khoa học kỹ thuật ngày càng phát triển mạnh mẽ và nhanh chóng đi vào ứng dụng trong sản xuất và đời sống, các chu kỳ kinh tế ngày càng rút ngắn lại vì vậy yêu cầu đổi mới máy móc thiết bị ngày càng cấp bách hơn. Do đó các nước tiên tiến tất yếu phải tìm nơi tiêu thụ các công nghệ loại hai, có như vậy mới đảm bảo thường xuyên thay đổi công nghệ kỹ thuật mới. Nguyên tắc lợi thế so sánh mà P.Vernon đã chứng minh rằng không có nước nào mạnh toàn diện và cũng không có nước nào yếu toàn diện. Nếu chúng ta biết hợp tác thì sẽ phát huy được sức mạnh tổng hợp cho tất cả các nước. Qua hàm sản xuất: Y = f(K,L); Giáo sư P. Vernon gợi ý rằng với các nước tư bản phát triển nên tận dụng lợi thế so sánh sao cho tỷ lệ K/L ngày càng cao. Với các nước đang phát triển nên sử dụng lợi thế so sánh với những mặt hàng có hàm lượng lao động cao. Theo nguyên tắc này cho phép hoạt động đầu tư trực tiếp nước ngoài lợi dụng được những ưu thế tương đối của mỗi nước, đem lại lợi ích cho cả hai bên, bên đi đầu tư và bên nhận đầu tư. Các doanh nghiệp nước ngoài có 7 lợi thế so sánh về vốn và kỹ thuật, còn các nước nhận đầu tư có lợi thế về lao động dồi dào giá rẻ... Do đó để khai thác được lợi thế so sánh này tất yếu phải có quan hệ kinh tế quốc tế mà trong đó đầu tư trực tiếp nước ngoài là một nhân tố quan trọng. Nhà kinh tế học P. Samuelson cho rằng, để phát triển kinh tế các nước đang phát triển phải có biện pháp thu hút được FDI. Trong lý thuyết "cái vòng luẩn quẩn" và "cú hích" từ bên ngoài, Samuelson cho rằng: "Đa số các nước đang phát triển đều thiếu vốn, mức thu nhập thấp, chỉ đủ sống ở mức tối thiểu, do đó khả năng tích luỹ vốn hạn chế. Những nước dẫn đầu trong cuộc chạy đua tăng trưởng phải đầu tư ít nhất 20% sản lượng vào việc tạo vốn. Trái lại, những nước nông nghiệp nghèo nhất thường chỉ có thể tiết kiệm được 5% thu nhập quốc dân. Hơn nữa, phần nhiều trong khoản tiết kiệm nhỏ bé này phải dùng để cung cấp nhà cửa và những công cụ giản đơn cho số dân đang tăng lên. Phần còn lại hầu như rất ít cho phát triển". Mặt khác, theo Samuelson, ở các nước đang phát triển, nguồn nhân lực bị hạn chế bởi tuổi thọ và dân trí thấp, tài nguyên thiên nhiên khan hiếm, kỹ thuật lạc hậu và gặp trở ngại trong việc kết hợp chúng. Do vậy, ở nhiều nước đang phát triển ngày càng khó khăn và càng tăng "cái vòng luẩn quẩn". Samuelson cho rằng: "Để phát triển kinh tế phải có "cú hích" từ bên ngoài nhằm phá vỡ cái vòng luẩn quẩn". Đó là phải có đầu tư của nước ngoài vào các nước đang phát triển. Theo ông, "nếu có quá nhiều trở ngại như vậy đối với việc đi tìm tiết kiệm trong nước để tạo vốn thì tại sao không dựa nhiều hơn vào các nguồn bên ngoài? Chẳng phải lý thuyết kinh tế đã từng nói với chúng ta rằng, một nước giàu sau khi đã hút hết những dự án đầu tư có lợi nhuận cao cho mình, cũng có thể làm lợi cho chính nó và nước nhận đầu tư bằng cách đầu tư những dự án lợi nhuận cao ra nước ngoài đó sao?... Ngày nay trên thế giới xu hướng quốc tế hoá đời sống kinh tế xã hội mở rộng trên phạm vi toàn thế giới, nó đã lôi kéo tất cả các nước và các vùng lãnh thổ từng bước hoà nhập vào nền kinh tế thế giới. Xu hướng này là một xu hướng tất yếu của lịch sử, nó là sản phẩm của quá trình 8 phân công lao động mở rộng trên phạm vi toàn thế giới. Trong xu thế này, chính sách biệt lập"đóng cửa"là không thể tồn tài và chính sách đó chỉ làm kìm hãm quá trình phát triển kinh tế-xã hội. Một quốc gia không thể tách biệt khỏi thế giới vì những thành tựu của khoa học kỹ thuật đã kéo con người ở khắp nơi trên thế giới xích lại gần nhau hơn và dưới những tác động quốc tế khác buộc các nước phải mở cửa với bên ngoài. b. Đầu tư trực tiếp nước ngoài xu thế tất yếu trong quá trình công nghiệp hoá hiện đại hoá nền kinh tế nước ta Việt Nam đã trải qua cuộc chiến tranh chống Pháp và chống Mỹ lâu dài, và cho đến khi thống nhất đất nước, nền kinh tế Việt Nam về cơ bản vẫn là một nền kinh tế nghèo nàn, lạc hậu, sản xuất nhỏ, đời sống nhân dân khó khăn, thu nhập bình quân đầu người vào loại thấp nhất thế giới. Chúng ta đang rất cần nhiều thứ cho việc khôi phục và phát triển kinh tế, cải thiện đời sống người lao động. Những năm đầu khi thống nhất đất nước viện trợ của Liên X"và xã hội chủ nghĩa là chủ yếu. Đầu những năm 90 phe xã hội chủ nghĩa tan rã, Việt Nam mất nguồn viện trợ lớn lao này. Nền kinh tế của chúng ta lâm vào tình trạng khủng hoảng, sản xuất đình trệ, hàng hoá khan hiếm lạm phát tăng mạnh đến 3 con số, tình trạng không có việc làm trở nên trầm trọng, đời sống nhân dân đã khó khăn lại càng khó khăn hơn. Để thoát khỏi tình trạng này việc tận dụng thế mạnh của hợp tác quốc tế đối với việc phát triển kinh tế-xã hội của đất nước là một yêu cầu tất yếu. Tận dụng lợi thế của đầu tư trực tiếp nước ngoài cho phép chúng ta đáp ứng được phần nào nhu cầu đầu tư và đáp ứng nhu cầu ngoại tệ của đất nước. Việc tăng cường mở rộng hợp tác quốc tế giúp chúng ta từng bước khôi phục và phát triển kinh tế, đưa đất nước tránh khỏi tình trạng nghèo nàn lạc hậu. Đồng thời đây cũng là cơ hội để các nhà đầu tư nước ngoài khai thác chiếm lĩnh lợi thế so sánh của nước ta và chuyển giao công nghệ hạng 2 từ nước họ sang. Đầu tư trực tiếp nước ngoài là một xu thế không thể chối cãi cũng là con đường ngắn nhất, dễ dàng nhất để nước ta có thể đẩy nhanh phát triển nền kinh tế của mình. Xu hướng quốc tế hoá đời sống xã hội, kết quả của quá trình phân công lao động trên phạm vi toàn thế giới đã lôi kéo tất cả các nước các vùng 9 lãnh thổ tững bước hoà nhập với nền kinh tế thế giới. Trong xu thế đó nếu chúng ta"đóng cửa"nền kinh tế thì chỉ kìm hãm sự phát triển kinh tế mà thôi. Việt Nam chúng ta không thể không hợp tác làm ăn, buôn bán với nước ngoài.Vì khoa học kỹ thuật ngày nay đã kéo loài người xích lại với nhau hơn buộc chúng ta phải mở cửa hợp tác với bên ngoài. 1.4. Các nhân tố ảnh hưởng đến đầu tư trực tiếp nước ngoài Đầu tư trực tiếp nước ngoài chịu ảnh hưởng bởi rất nhiều nhân tố từ bên trong nước chủ nhà cũng như các yếu tố từ bên ngoài: a. Các nhân tố bên trong Các nhân tố bên trong của nền kinh tế bao gồm tổng hoà các nhân tố chính trị, kinh tế-xã hội và điều kiện tự nhiên. Thứ nhất: Sự ổn định chính trị tạo môi trường thuận lợi cho sự phát triển kinh tế của đất nước. Nền chính trị ổn định sẽ tạo điều kiện để các nhà đầu tư mở rộng kinh doanh. Đây là cơ sở để phát triển mạnh các ngành trong nền kinh tế. đồng thời, trình độ của nền kinh tế đặc biệt là tốc độ tăng trưởng kinh tế quốc dân cao, thu nhập bình quân đầu người được cải thiện là yếu tố hấp dẫn các nhà đầu tư di chuyển vốn, công nghệ, kinh nghiệm quản lý vào các ngành có khả năng sinh lợi cao để thu lợi ích. Thứ hai: Nguồn nhân lực là nhân tố quan trọng trong sự phát triển và thu hút vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài. Với dân số trẻ và có học vấn khá, dễ tiếp thu khoa học công nghệ, lao động của Việt Nam, nhất là lao động đã qua đào tạo thực sự là một nguồn lực to lớn để phát triển và phát huy nguồn vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài. Thứ ba: Các nguồn tài nguyên thiên nhiên là những nhân tố quan trọng cho sự hấp dẫn của các nhà đầu tư nước ngoài. Nguồn tài nguyên phong phú với trữ lượng lớn, chất lượng cao sẽ là yếu tố thu hút mạnh mẽ nguồn vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài, ví dụ: (như dầu mỏ ở Iran, ả rập xê út, Cô-oet...). Thứ tư: Môi trường kinh tế vĩ mô ổn định như tốc độ tăng trưởng kinh tế cao và ổn định lâu bền, kiềm chế được lạm phát, ổn định giá trị nội tệ và tỷ giá hối đoái sẽ là nhân tố trực tiếp ảnh hưởng đến sản xuất kinh doanh và lợi nhuận của các nhà đầu tư nước ngoài. Chính vì vậy nó 10 ảnh hưởng rất lớn đến thu hút vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài của nước chủ nhà. Thứ năm: Khuân khổ thể chế và pháp lý thuận tiện như nền kinh tế mở, hướng xuất khẩu, đồng tiền có khả năng chuyển đổi dễ ràng, chương trình tư nhân hoá quy mô lớn, tham gia các khối thương mại khu vực và thế giới, cơ sở hạ tầng vật chất thuận lợi và hiện đại, hoàn thuế quan nhập khẩu, có các biện pháp khuyến khích đầu tư nước ngoài... là các yếu tố ảnh hưởng lớn đến thu hút và sử dụng đầu tư trực tiếp nước ngoài. Thứ sáu: Bên cạnh các yếu tố trên đây, chính sách bảo hộ của chính phủ, chính sách thay thế nhập khẩu, chính sách chống độc quyền, chính sách ngoại thương (thuế quan, hạn ngạch...) của nước chủ nhà đôi khi cũng khiến các nhà đầu tư nước ngoài tìm cách đặt cơ sở sản xuất kinh doanh ngay tại nước chủ nhà để tránh những chính sách này của nước chủ nhà. b. Các nhân tố bên ngoài Thứ nhất: Tình hình kinh tế xã hội, chính trị của nước đi đầu tư, chính sách đầu tư ra nước ngoài của nước đi đầu tư (như chính sách miễn thuế sản phẩm chế biến tại một số cơ sở chế biến của họ tại nước ngoài) ảnh hưởng rất lớn đến đầu tư trực tiếp nước ngoài. Kinh nghiệm của cuộc khủng hoảng tài chính tiền tệ khu vực vừa qua cho ta thấy rõ vấn đề này. Thứ hai: Quá trình tự do hoá thương mại và đầu tư làm cho các công ty xuyên quốc gia phải cạnh tranh gay gắt với nhau trong việc tìm kiếm thị trường mới. Do vậy đây chính là động lực để các nhà đầu tư nước ngoài đi đầu tư ở nước khác. Thứ ba: Bên cạnh những yếu tố trên việc các nhà đầu tư nước ngoài phân tán rủi ro bằng cách đầu tư tại nhiều địa điểm khác nhau ở nước ngoài cũng là yếu tố để các nhà đầu tư đầu tư ra nước ngoài. 2. Các hình thức đầu tư trực tiếp nước ngoài tại Việt Nam Trong thực tiễn và theo luật đầu tư trực tiếp nước ngoài của Việt Nam, đầu tư trực tiếp nước ngoài được thực hiện dưới các dạng sau: 11 2.1. Doanh nghiệp liên doanh. Đây là doanh nghiệp do các bên nước ngoài và nước chủ nhà cùng góp vốn, cùng kinh doanh, cùng hưởng lợi và chia sẻ rủi ro theo tỷ lệ góp vốn. Doanh nghiệp liên doanh được thành lập theo hình thức công ty trách nhiệm hữu hạn, có tư cách pháp nhân theo luật pháp nước nhận đầu tư. Mỗi bên liên doanh chịu trách nhiệm đối với bên kia và với doanh nghiệp liên doanh trong phạm vi phần vốn của mình trong vốn pháp định. Tỷ lệ góp vốn của bên nước ngoài hoặc của các bên nước ngoài do các bên liên doanh thoả thuận. Theo luật đầu tư nước ngoài của Việt Nam, vốn góp của bên nước ngoài không thấp hơn 30% vốn pháp định của doanh nghiệp liên doanh, và trong quá trình hoạt động không được giảm vốn pháp định. Đối với các dự án xây dựng kết cấu hạ tầng tại các vùng có điều kiện kinh tế, xã hội khó khăn, các dự án đầu tư vào miền núi, vùng sâu, vùng xa các dự án trồng rừng tỷ lệ này có thể thấp đến 20%. Nhưng phải được cơ quan cấp giấy phép đầu tư chấp thuận. 2.2. Doanh nghiệp 100% vốn nước ngoài. Doanh nghiệp này là doanh nghiệp sở hữu của nhà đầu tư nước ngoài (tổ chức hoặc cá nhân người nước ngoài) do nhà đầu tư nước ngoài thành lập tại nước chủ nhà, tự quản lý và tự chịu trách nhiệm với kết quả hoạt động sản xuất kinh doanh. Doanh nghiệp 100% vốn nước ngoài được thành lập theo luật pháp nước chủ nhà. Hình thức đầu tư 100% vốn nước ngoài có một vài dạng đặc biệt là:  Hình thức hợp đồng xây dựng-kinh doanh-chuyển giao (BOT) đây là hình thức chủ đầu tư tự chịu trách nhiệm tiến hành xây dựng kinh doanh công trình trong một thời gian dài đủ để thu hồi vốn đầu tư và có lợi nhuận hợp lý. Sau khi kết thúc dự án, toàn bộ công trình sẽ được chuyển giao cho nước chủ nhà và không thu bất cứ khoản tiền nào.  Hợp đồng xây dựng-chuyển giao-kinh doanh (BTO) với hình thức này sau khi xây dựng xong, nhà đầu tư chuyển giao công trình cao nước chủ nhà. Chính phủ nước chủ nhà giành cho nhà đầu tư quyền 12 kinh doanh công trình đó trong một thời gian nhất định để thu hồi đủ vốn đầu tư và có lợi nhuận hợp lý.  Hợp đồng xây dựng-chuyển giao (BT) Đối với hình thức này, sau khi xây dựng xong chủ đầu tư chuyển giao cho nước nhà, nước chủ nhà sẽ tạo điều kiện cho chủ đầu tư nước ngoài thực hiện dự án khác để thu hồi đủ vốn đầu tư và có lợi hợp lý. 2.3. Hợp tác kinh doanh trên cơ sở hợp đồng hợp tác kinh doanh. Đây là loại hình đầu tư trong đó các bên tham gia hợp đồng ký kết thoả thuận để tiến hành một hoặc nhiều hoạt động sản xuất kinh doanh ở nước nhận đầu tư, trên cơ sở quy định rõ đối tượng, nội dung kinh doanh, nghĩa vụ, trách nhiệm và phân chia kết quả kinh doanh cho các bên tham gia. Hợp đồng hợp tác kinh doanh do đại diện có thẩm quyền của các bên hợp doanh ký. Thời hạn có hiệu lực của hợp đồng do các bên thoả thuận và được cơ quan có thẩm quyền của nước nhận đầu tư phê chuẩn. 3. Vai trò của đầu tư trực tiếp nước ngoài đối với nền kinh tế Việt Nam 3.1. Vai trò tích cực của đầu tư trực tiếp nước ngoài với Việt Nam Tác dụng của đầu tư trực tiếp nước ngoài đối với các nước đang phát triển nói chung và với nước ta nói riêng là rất to lớn, nó vừa có tính tích cực vừa có tính tiêu cực. Vấn đề là ở chỗ các nước đang phát triển phải biết tận dụng những điểm tích cực để phục vụ cho công cuộc công nghiệp hoá của đất nước mình, đồng thời chủ động tỉnh táo phòng ngừa để hạn chế đến mức tối đa những tác động tiêu cực. a. Đầu tư trực tiếp nước ngoài là nguồn vốn quan trọng bổ sung cho vốn đầu tư phát triển Đầu tư trực tiếp nước ngoài chiếm 26,5% tổng vốn đầu tư xây dựng côư bản toàn xã hội, là nguồn vốn bổ sung quan trọng để Việt Nam thực hiện công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước, bù đắp cho sự thiếu hụt của nguốn vốn trong nước. Hầu hết các nước đang phát triển như nước ta 13 đều có nhu cầu về vốn để thực hiện công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước. Tuy nhiên, các nước đang phát triển có tỉ lệ vốn tích luỹ trong nước còn ở mức thấp là một trở ngại lớn cho sự phát triển nền kinh tế-xã hội. Đầu tư trực tiếp nước ngoài góp phần huy động vốn để hỗ trợ cho nhu cầu đầu tư của nền kinh tế. Bên cạnh đó đầu tư trực tiếp nước ngoài còn có những ưu thế hơn hẳn so với các hình thức huy động vốn khác như việc vay vốn nước ngoài đôi khi trở thành gánh nặng cho nền kinh tế. Hoặc như các khoản viện trợ thường đi kèm với các điều kiện về chính trị, can thiệp vào công việc nội bộ của một quốc gia. Điều này ít xảy ra với đầu tư trực tiếp nước ngoài. Đầu tư trực tiếp nước ngoài của các công ty vào nước chủ nhà tạo ra tác động tích cực đối với việc huy động các nguồn vốn khác của nước chủ nhà. Thông thường một nước mà tiếp nhận được nhiều đầu tư trực tiếp nước ngoài sẽ tác động tích cực đối với việc huy động các nguồn vốn khác như ODA NGO... Tạo được lòng tin của chủ nợ ngân hàng, chính phủ các nước khác. Bên cạnh đó đầu tư trực tiếp nước ngoài góp phần ảnh hưởng tích cực đối với lòng tin của người dân và góp phần vào việc huy động vốn trong dân. b. Đầu tư trực tiếp nước ngoài tạo khối lượng lớn công ăn việc làm , tham gia phát triển nguồn nhân lực Đầu tư trực tiếp nước ngoài cũng thu hút một lượng lớn lao động, góp phần giải quyết tình trạng thất nghiệp của nước ta., tham gia phát triển nguồn nhân lực Các dự án đầu tư trực tiếp nước ngoài ảnh hưởng trực tiếp đến cơ hội tạo công ăn việc làm thông qua việc cung cấp việc làm trong các công ty có vốn nước ngoài. Đầu tư trực tiếp nước ngoài còn gián tiếp tạo ra cơ hội việc làm trong các tổ chức khác của nước sở tại khi mà các nhà đầu tư nước ngoài mua hàng hoá, dịch vụ từ các nhà sản xuất trong nước, hoặc thuê họ thông qua những hợp đồng gia công chế biến. Thường đầu tư trực tiếp nước ngoài góp phần tích cực tạo việc làm trong các ngành sử dụng nhiều lao động như ngành may mặc, công nghiệp chế biến... tính đến nay, lượng làm việc trực tiếp trong các dự án có vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài ở Việt Nam là 33 vạn người. Việc tạo công ăn 14 việc làm cũng có nghĩa là tăng thêm thu nhập cho người lao động và từ đó là điều kiện tăng tích luỹ trong nước. Đầu tư trực tiếp nước ngoài tham gia phát triển nguồn nhân lực nâng cao kỹ năng quản lý kinh doanh cho Việt Nam . Chính các chủ đầu tư nước ngoài tổ chức mở các lớp đào tạo về quản lý kỹ năng làm việc đã góp phần tích cực vào việc bồi dưỡng đào tạo đội ngũ lao động ở nước ta. Để cán bộ và công nhân của nước ta có khả năng quản lý và sử dụng các công nghệ tiên tiến và yêu cầu của công việc. Cùng với nó các nhân viên người bản xứ có thể tiếp cận được kho thông tin khổng lồ và kỹ năng quản lý của công ty mẹ. Mặt khác các dự án đầu tư trực tiếp nước ngoài có yêu cầu cao về chất lượng nguồn lao động và trả lương với mức cao, quản lý tiên tiến, sử dụng công nghệ hiện đại...Điều đó đã kích thích và đặt ra yêu cầu khách quan cho nhiều người lao động phải tự học tập nâng cao năng lực lao động, trình độ chuyên môn, ngoại ngữ... để có thể tham gia làm việc tại các công ty có vốn đầu tư nước ngoài. c. Nâng cao năng lực công nghệ Song song với việc tạo nguồn vốn bổ sung, đầu tư trực tiếp nước ngoài còn là một kênh quan trọng để đưa kỹ thuật mới kỹ năng quản lý mới vào các nước đang phát triển. Thông qua đầu tư trực tiếp nước ngoài chúng ta có thể tiếp nhận được những công nghệ này. Qua đó đầu tư trực tiếp nước ngoài có thể thúc đẩy sự đổi mới kỹ thuật của nước nhận đầu tư như góp phần tăng năng suất của các yếu tố sản xuất, thay đổi cấu thành sản phẩm, và xuất khẩu. Thúc đẩy phát triển các nghề mới đặc biệt là những nghề đòi hỏi hàm lượng công nghệ cao. Vì thế nó có tác dụng to lớn đối với quá trình công nghiệp hoặc hiện đại hoá chuyển dịch cơ cấu, tăng trưởng nhanh ở nước ta. Cùng với việc chuyển giao các công nghệ phần "cứng"tiên tiến, đầu tư trực tiếp nước ngoài còn chuyển giao các công nghệ"phần mềm"như kỹ năng quản lý, bí quyết công nghệ... cho Việt Nam. Qua chuyển giao công nghệ làm trình độ công nghệ của nước chủ nhà ngày một cao hơn, từ đó nâng cao dần năng lực của nước chủ nhà. Đến một mức độ nào đó nước chủ nhà không những chỉ tiếp thu công nghệ mà còn"làm chủ"công nghệ và phát minh, cải tiến công nghệ 15 mới điển hình về lĩnh vực này là các nước công nghiệp mới, nổi bật là Hàn Quốc. Đứng về lâu về dài thì đây chính là lợi ích căn bản nhất đối với các nước đang phát triển. d. Góp phần chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng công nghiệp hoá, hiện đại hoá. Trong điều kiện nền kinh tế mở, các quan hệ kinh tế quốc tế tạo ra động lực và điều kiện cho sự chuyển dịch nhanh cơ cấu kinh tế của các quốc gia. Trong đó đầu tư trực tiếp nước ngoài là một động lực mạnh mẽ có ý nghĩa to lớn đến sự chuyển dịch nhanh cơ cấu kinh tế. Thông qua hoạt động đầu tư trực tiếp nước ngoài chúng ta sẽ tham gia ngày càng nhiều vào quá trình phân công lao động quốc tế. Để hội nhập vào nền kinh tế thế giới, tham gia vào quá trình liên kết giữa các nước đòi hỏi Việt Nam phải thay đổi cơ cấu kinh tế của nước mình cho phù hợp với sự phân công lao động quốc tế. Sự chuyển dịch cơ cấu ở Việt Nam sẽ ngày càng tiến bộ hơn phù hợp với trình độ phát triển kinh tế của thế giới. Bên cạnh đó đầu tư trực tiếp nước ngoài lại trực tiếp thúc đẩy nhanh quá trình chuyển dịch cơ cấu của Việt Nam. Đầu tư trực tiếp nước ngoài tạo ra động lực và điều kiện để chuyển dịch nhanh cơ cấu kinh tế của nước nhận đầu tư theo hướng tiến bộ.Thông qua đầu tư trực tiếp nước ngoài đã làm xuất hiện nhiều lĩnh vực, ngành nghề mới ở Việt Nam. Cùng với nó đầu tư trực tiếp nước ngoài giúp chúng ta sẽ phát triển nhanh chóng trình độ kỹ thuật công nghệ ở nhiều ngành kinh tế, góp phần thúc đẩy tăng năng suất lao động ở các ngành này và làm tăng tỷ phần của nó trong nền kinh tế. Một tác động khác là đầu tư trực tiếp nước ngoài kích thích phát triển một số ngành và đồng thời một số ngành bị mai một và đi đến chỗ xóa sổ. Ngoài ra đầu tư trực tiếp nước ngoài còn làm phát triển một số vùng nhất định nhất là những vùng có nhiều lợi thế và nhiều năng lực phát triển và được khuyến khích nhiều. Những tác động này đã làm cho cơ cấu nền kinh tế của nước đầu tư thay đổi một cách mạnh mẽ. e. Một số lợi ích khác của đầu tư trực tiếp nước ngoài 16 Đầu tư trực tiếp nước ngoài góp phần cải thiện căn bản cán cân thanh toán quốc tế. Bởi vì hầu hết các dự án đầu tư trực tiếp nước ngoài là sản xuất sản phẩm"hướng vào xuất khẩu". Đầu tư trực tiếp nước ngoài đã và đang góp vào việc xuất khẩu hàng hoá là khá lớn cho nền kinh tế Việt Nam. Đầu tư trực tiếp nước ngoài góp phần quan trọng vào tổng giá trị sản phẩm quốc nội, tạo nguồn thu ngân sách lớn cho đất nước. Thông qua hoạt động đầu tư trực tiếp nước ngoài chúng tư có thể tiếp cận với thị trường thế giới. Bởi vì hầu hết các hoạt động đầu tư trực tiếp nước ngoài đều do các công ty đa quốc gia thực hiện mà các quốc gia này có lợi thế trong việc tiếp cận với khách hàng bằng những hoạt động dài hạn dựa trên cơ sở thanh thế, uy tín của họ về chất lượng kiểu dáng của sản phẩm... Với Việt Nam sử dụng đầu tư trực tiếp nước ngoài như một công cụ để hợp tác quốc tế và "kích thích" liên kết kinh tế với các cơ sở kinh tế trong nước. Thông qua tiếp xúc với các doanh nghiệp có vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài các doanh nghiệp trong nước mở rộng được quy môvà năng lực kinh doanh của mình. Đầu tư trực tiếp nước ngoài là một trong những hình thức hợp tác đầu tư quốc tế. Thông qua hình thức đầu tư trực tiếp nước ngoài, chúng ta có thêm điều kiện mở rộng quan hệ kinh tế quốc tế, tăng cường hoạt động ngoại thương. 3.2. Những tác động tiêu cực của đầu tư trực tiếp nước ngoài a. Về kinh tế Hoạt động đầu tư trực tiếp nước ngoài nhiều khi làm lợi ích của nhà đầu tư nước ngoài vượt qua lợi ích của nước chủ nhà nhận được. Vì để thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài, nước nhận đầu tư phải áp dụng một số ưu đãi cho các nhà đầu tư như: giảm thuế, miễn thuế trong một thời gian khá dài cho phần lớn các dự án đầu tư nước ngoài. Hoặc việc trả tiền của họ cho việc thuê đất, nhà xưởng và một số dịch vụ trong nước thấp, nhiều trường hợp còn thấp hơn so với nhà đầu tư trong nước. Hay trong một số trường hợp được nhà nước bảo đảm thuế quan. 17 Trong nhiều trường hợp, các nhà đầu tư thường tính giá cao cho những nguyên vật liệu, bán thành phẩm, máy móc thiết bị mà họ nhập gây ra chi phí sản xuất cao ở nước chủ nhà và nước chủ nhà phải mua hàng hoá với giá cao do nhà đầu tư nước ngoài sản xuất. Việc làm này đã mang lại nhiều lợi ích cho chủ đầu tư, chẳng hạn như trốn được thuế của nước chủ nhà đánh vào lợi nhuận cao của chủ đầu tư, hoặc để giấu giếm số lợi nhuận thực tế mà họ kiếm được từ đó sẽ hạn chế đối thủ cạnh tranh khác xâm nhập vào thị trường. Ngoài ra, họ còn lợi dụng chỗ sơ hở của pháp luật và thiếu kinh nghiệm trong quản lý của nước chủ nhà để trốn thuế gian lận và vi phạm những quy định về bảo vệ môi trường sinh thái và những lợi ích khác của nước chủ nhà. b. Về chuyển giao công nghệ Bên cạnh tác động tích cực của chuyển giao công nghệ còn tồn tại nhiều hạn chế và tiêu cực, không chuyển giao đúng quy định như (chuyển giao còn nhỏ giọt, từng phần và thông thường là công nghệ lạc hậu, gây ô nhiễm... với giá cao hơn giá mặt bằng quốc tế). Nguyên nhân này là do: - Vào giai đoạn đầu của sự phát triển, hầu hết các nước đều sử dụng công nghệ sử dụng nhiều lao động. Tuy nhiên sau một thời gian phát triển giá lao động sẽ tăng lên, kết quả là giá thành sản phẩm cao. Vì vậy họ muốn thay thế công nghệ này bằng những công nghệ sử dụng ít lao động, có hàm lượng chất xám cao để hạ giá thành sản phẩm. - Dưới sự tác động của cách mạng khoa học kỹ thuật, máy móc công nghệ nhanh chóng trở thành lạc hậu, vì vậy họ thường chuyển giao những máy móc đã lạc hậu cho các nước nhận đầu tư để đổi mới công nghệ đổi mới sản phẩm nâng cao chất lượng sản phẩm ở chính nước họ. Việc chuyển giao công nghệ lac hậu đã gây ra nhiều thiệt hại cho nước nhận đầu tư như là: - Chi phí sản xuất cao, chất lượng sản phẩm thấp, do đó sản phẩm trong nước khó có thể cạnh tranh trên thị trường quốc tế. - Các nhà đầu tư thường khai tăng giá trị máy móc, rất khó tính được giá trị thực của những máy móc chuyển giao đó, do đó nước đầu tư 18 thường bị thiệt hại trong việc tính tỷ lệ góp trong xí nghiệp liên doanh, và hậu quả bị thua thiệt trong việc chia lợi nhuận. c. Về cơ cấu Các nhà đầu tư trực tiếp nước ngoài nhiều khi sản xuất và bán những hàng hoá không thích hợp cho các nước đang phát triển thậm chí đôi khi còn có hại cho sức khoẻ con người và gây ô nhiễm môi trường như khuyến khích sử dụng thuốc lá, thuốc trừ sâu, nước ngọt có ga thay vì sử dụng nước hoa quả, chất tẩy thay thế xà phòng.... Đầu tư trực tiếp nước ngoài làm cơ cấu đầu tư theo ngành và theo lãnh thổ của nước chủ nhà bất hợp lý, gây ra tình trạng đầu tư tràn lan kém hiệu quả và tài nguyên thiên nhiên bị khai thác quá mức. Vì mục đích của nhà đầu tư là kiếm lợi nhuận nên họ đầu tư vào những nơi có lợi nhất, do đó nhiều khi lượng vốn nước ngoài đã làm tăng thêm sự mất cân đối giữa các vùng, giữa nông thôn và thành thị. Sự mất cân đối này có thể gây lên bất ổn về chính trị. d. Các vấn đề khác Đầu tư trực tiếp nước ngoài gây ra tình trạng phân phối không đều ở nước chủ nhà. Khi các công ty nước ngoài vào nước chủ nhà họ tuyển dụng người lao động địa phương và thường họ tiền lương cao hơn mức trung bình của địa phương. Điều này gây ra sự bất bình đẳng về thu nhập giữa các tầng lớp dân cư và các vùng, đồng thời tạo ra nạn chảy máu chất xám ở nước chủ nhà. Đầu tư trực tiếp nước ngoài thường đẩy các công ty nước chủ nhà đi đến phá sản do các công ty có vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài có thế mạnh về tài chính kỹ thuật và có khi còn được hưởng nhiều ưu đãi hơn các công ty bản địa. Trong số các nhà đầy tư trực tiếp của nước ngoài cũng có trường hợp vào để hoạt động tình báo gây rối trật tự trị an, an ninh chính trị. Như trường hợp của chính phủ Xanvado Agiende ở Chi Lê bị lật đổ năm 1973 là một ví dụ về sự can thiệp của công ty xuyên quốc gia (ITT)và chính phủ Mỹ can thiệp vào công việc nội bộ của Chi Lê. 19 Đầu tư trực tiếp nước ngoài cũng có thể ảnh hưởng xấu về mặt xã hội. Những người dân bản xứ làm thuê cho nhà đầu tư có thể bị mua chuộc, biến chất, thay đổi quan điểm, lối sống và nguy hiểm hơn họ có thể phản bội tổ quốc. Các tệ nạn xã hội có thể gia tăng cùng với đầu tư trực tiếp nước ngoài như nạm mại dâm, nghiện hút... II. MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÍ LUẬN CHUNG VỀ NGÀNH NÔNG NGHIỆP 1. Vị trí, vai trò của ngành nông nghiệp trong nền kinh tế quốc dân Việt Nam Ngành nông nghiệp là một ngành sản xuất vật chất quan trọng trong nền kinh tế quốc dân của mỗi nước. Nó không phải là một hệ thống kinh tế đơn thuần, mà là hệ thống sinh vật-kỹ thuật, bởi vì một mặt là cơ sở để phát triển nông thôn và mặt khác là việc sử dụng những tiềm năng sinh vật, cây trồng, vật nuôi. Chúng phát triển theo quy luật sinh vật nhất định, con người không thể ngăn cản quá trình phát sinh, phát triển, phát dục và diệt vong của chúng mà phải trên cơ sở nhận thức đúng đắn các quy luật, để có những giải pháp tác động, nhằm thích nghi với chúng. Mặt khác quan trọng hơn là phải làm cho người sản xuất có sự quan tâm thoả đáng, gắn lợi ích của họ với sử dụng các quá trình sinh vật đó, nhằm tạo ra nhiều sản phẩm cuối cùng hơn. Nông nghiệp giữ vai trò rất to lớn trong việc phát triển kinh tế Việt Nam với xuất phát điểm thấp, đại bộ phận dân cư chung sống bằng nghề nông. Tuy nhiên, ngay cả những nước có nền công nghiệp phát triển cao, mặc dù giá trị sản phẩm nông nghiệp không lớn, nhưng khối lượng sản phẩm nông nghiệp vẫn không ngừng tăng lên và giữ vai trò quan trọng trong nền kinh tế quốc dân. Nông nghiệp có vai trò quan trọng trong việc cung cấp các yếu tố đầu vào cho công nghiệp và cho khu vực thành thị. Trong giai đoạn đầu của công nghiệp hoá ở nước ta, phần lớn lao động sống bằng nông nghiệp, khu vực nông thôn thực sự là nguồn nhân lực dự trữ dồi dào cho khu vực công nghiệp và thành thị. Nhà kinh tế học Lewis đã xây dựng một mô hình chuyển dịch lao động từ khu vực nông thôn sang công nghiệp, ông coi đó là quá trình tạo ra tiết kiệm, thúc đẩy đầu tư và tăng 20 trưởng kinh tế. Mô hình Lewis dựa trên giả thuyết một mặt nguồn cung cấp lao động từ cận biên của khu vực nông nghiệp rất thấp, nên việc chuyển dịnh lao động diễn ra trong một thời kỳ dài với tiền công không thay đổi, sang khu vực công nghiệp với tiền công cao hơn, đời sống tốt hơn. Việc chuyển dịch từ nông nghiệp sang công nghiệp để khắc phục tình trạng lạc hậu về kinh tế. Khu vực nông nghiệp còn cung cấp nguồn nguyên liệu quý cho công nghiệp, chủ yếu là công nghiệp chế biến nông sản, nhằm tạo ra nguồn thu nhập lớn. Song việc cung cấp các yếu tố đầu vào cho công nghiệp là đại lượng biến thiên, ở giai đoạn đầu của quá trình công nghiệp hoá, các yếu tố đầu vào chiếm tỷ trọng lớn và sẽ giảm xuống ở giai đoạn sau nhất là khi công nghiệp (đặc biệt là công nghiệp nặng) đã phát triển ở trình độ cao. Khu vực nông nghiệp là nguồn cung cấp vốn cho sự phát triển kinh tế, nhất là ở giai đoạn đầu của công nghiệp hoá, bởi vì đây là khu vực lớn nhất xét cả về lao động và tổng sản phẩm quốc dân. Nguồn vốn từ nông nghiệp có thể được tạo ta bằng nhiều cách, như: tiết kiệm của nông dân để đầu tư vào các hoạt đông phi nông nghiệp, thuế nông nghiệp... Việc huy động vốn từ nông nghiệp để đầu tư phát triển công nghiệp là cần thiết và đúng đắn. Những điển hình của sự thành công và phát triển ở nhiều nước đều khẳng định việc sử dụng vốn tích luỹ từ nông nghiệp để đầu tư cho công nghiệp là cần thiết và đúng đắn. Nông nghiệp và nông thôn là thị trường tiêu thụ rộng lớn của công nghiệp, bao gồm tư liệu tiêu dùng và tư liệu sản xuất, chủ yếu dựa vào thị trường trong nước, mà trước hết là khu vực nông nghiệp và nông thôn. Sự thay đổi về cầu trong khu vực nông nghiệp và nông thôn, sẽ có tác động trực tiếp đến sản lượng ở khu vực phi nông nghiệp. Phát triển mạnh nông nghiệp, tăng sức mua từ khu vực nông thôn, sẽ làm cho cầu về các sản phẩm công nghiệp tăng, từng bước nâng cao chất lượng để có thể cạnh tranh trên thị trường thế giới. Nông nghiệp được coi là ngành đem lại nguồn thu nhập ngoại tệ lớn. Các loại nông, lâm sản dễ dàng gia nhập thị trường quốc tế hơn so với các hàng hoá công nghiệp. Trong những năm vừa qua nguồn xuất khẩu để có ngoại tệ của Việt Nam chủ yếu dựa vào các loại sản phẩm nông, lâm nghiệp. Xu hướng chung của các nước trong quá trình CNH ở 21 giai đoạn đầu; giá trị xuất khẩu nông, lâm sản chiếm tỷ trọng cao trong tổng kim ngạch xuất khẩu và tỷ lệ đó sẽ giảm dần cùng với sự phát triển cao của nền kinh tế. Tuy nhiên, xuất khẩu nông, lâm sản thường bất lợi do giá cả nông, lâm sản trên thị trường thế giới có xu hướng giảm xuống, trong lúc đó giá cả sản phẩm công nghiệp tăng lên, tỷ giá cánh kéo giữa hàng nông, lâm sản và hàng công nghiệp ngày càng mở rộng, nông nghiệp sẽ bị thua thiệt. Nông nghiệp có vai trò to lớn và là cơ sở trong sự phát triển bền vững của môi trường. Nông nghiệp sử dụng nhiều hoá chất như: phân hoá học, thuốc trừ sâu bệnh.. làm ô nhiễm đất và nguồn nước. Khi canh tác dễ gây ra sói mòn ở vùng đấu dốc, phá rừng, tạo ra một số yếu tố làm nóng bầu khí quyển... Vì thế trong quá trình phát triển sản xuất nông nghiệp, cần tìm những giải pháp để duy trì và tạo ra sự phát triển bền vững của môi trường (như sử dụng công nghệ sạch, công nghệ sinh học trong nông nghiệp, trồng và bảo vệ rừng...). 2. Đặc điểm của sản xuất nông nghiệp a. Đặc điểm chung Là một ngành sản xuất vật chất chủ yếu của xã hội. Khác với công nghiệp, sản xuất nông nghiệp có những đặc điểm riêng bởi sự chi phối của điều kiện tự nhiên, kinh tế-xã hội. Thứ nhất: Ruộng đất là tư liệu sản xuất không thể thay thế được trong sản xuất nông nghiệp. Đất đai là yếu tố cần thiết cho tất cả các ngành sản xuất, nhưng với mỗi ngành nội dung kinh tế của nó lại rất khác nhau. Trong nông nghiệp đất đai là tư liệu sản xuất không thể thiếu được.Tuy nhiên, ruộng đất bị giới hạn về mặt diện tích, con người không thể tăng thêm theo ý muốn chủ quan, nhưng sức sản xuất của ruộng đất, độ phì nhiêu để tăng sản phẩm trên mỗi đơn vị diện tích là vô hạn. Nghĩa là con người có thể khai thác chiều sâu của ruộng đất, nhằm thoả mãn nhu cầu tăng lên của mình về nông sản phẩm. Chính vì thế, trong quá trình sử dụng phải biết tiết kiệm, tìm mọi biện pháp để cải tạo và bồi dưỡng đất, làm cho ruộng đất ngày càng mầu mỡ hơn, sản xuất ra nhiều sản phẩm trên mỗi đơn vị diện 22 tích, với chi phí thấp nhất, hạn chế việc chuyển ruộng đất sang xây dựng cơ bản Thứ hai: Sản xuất nông nghiệp mang tính thời vụ cao Đây là nét đặc thù mang tính thời vụ cao sản xuất nông nghiệp, bởi vì mỗi loại cây trồng có sự thích ứng nhất định với sự biến thiên về điều kiện khí hậu-thời tiết dẫn đến những mùa vụ khác nhau, Đối tượng của sản xuất nông nghiệp là những loại cây trồng, vật nuôi có vai trò cực kỳ to lớn, là những sinh vật có khả năng hấp thụ và tàng trữ nguồn năng lượng của mặt trời để biến chất vô cơ thành chất hữu cơ, tạo nguồn thức ăn cho con người và vật nuôi. Mặt khác, thời gian lao động tách rời thời gian sản xuất của các loại cây trồng trong nông nghiệp. Như vậy tính thời vụ rất quan trọng đối với người sản xuất nông nghiệp. Tạo hoá đã cung cấp nhiều yếu tố đầu vào thiết yếu cho nông nghiệp như ánh sáng, độ ẩm, lượng mưa, không khí... Lợi thế tự nhiên đã ưu ái rất lớn cho con người, nếu biết lợi dụng hợp lý có thể sản xuất ra những nông sản với chi phí thấp. Để khai thác và lợi dụng nhiều nhất tặng vật của thiên nhiên đối với nông nghiệp đòi hỏi phải khắt khe trong việc thực hiện những khâu công việc trong thời vụ tốt nhất, như thời vụ làm đất, gieo cấy phân bón, làm cỏ tưới tiêu, thu hoạch... Việc thực hiện kịp thời vụ cũng dẫn đến tình trạng căng thẳng về lao động, Đòi hỏi phải có giải pháp tổ chức lao động hợp lý. cung ứng vật tư kỹ thuật kịp thời, trang bị công cụ và máy móc thích hợp, đồng thời phải coi trọng việc bố trí cây trồng hợp lý phát triển ngành nghề dịch vụ, tạo thêm việc làm ở những thời kỳ nông nhàn. Thứ ba: Sản xuất nông nghiệp gắn với cơ thể sống (cây trồng, vật nuôi).Cây trồng, vật nuôi phát triển theo quy luật sinh học nhất định (sinh trưởng, phát triển, phát dục và diệt vọng). Chúng rất nhậy cảm với yếu tố ngoại cảnh, mọi sự thay đổi về thời tiết khí hậu, đều tác động trực tiếp đến sự phát triển và phát dục của cây trồng, vật nuôi, đến kết quả thu hoạch sản phẩm cuối cùng. Cây trồng, vật nuôi với tư cách là một tư liệu sản xuất đặc biệt, được sản xuất trong bản thân nông nghiệp bằng cách sử dụng trực tiếp sản phẩm thu được ở chu trình sản xuất trước làm tư liệu sản xuất cho chu trình sản xuất sau. Để chất lượng giống cây trồng và vật 23 nuôi tốt hơn, đòi hỏi phải thường xuyên chọn lọc, bồi dục, lai tạo để ra những giống mới có năng suất cao, chất lượng tốt. Thứ tư: Sản xuất nông nghiệp mang tính khu vực rõ nét do được tiến hành trên địa bàn rộng lớn, phức tạp còn lệ thuộc nhiều vào điều kiện tự nhiên.Ở đâu có đất đai và lao động thì ở đó có thể tiến hành sản xuất nông nghiệp. Song ở mỗi vùng, mỗi quốc gia có điều kiện đất đai và thời tiết khí hậu khác nhau. Lịch sử các loại đất, quá trình khai phá, và sử dụng các loại đất trên các địa bàn có địa hình khác nhau, ở đó cũng diễn ra các hoạt động nông nghiệp cũng không giống nhau. Điều kiện thời tiết khí hậu với lượng mưa, độ ẩm, độ ánh sáng... trên các địa bàn gắn rất chặt chẽ với các điều kiện hình thành và sử dụng đất. Vì vậy, việc lựa chọn và bố trí cây trồng, vật nuôi ứng dụng kỹ thuật canh tác phải phù hợp với điều kiện từng vùng, nhằm tạo điều kiện cho cây trồng, vật nuôi phát triển tốt, đem lại năng suất cao. b. Một số đặc điểm cơ bản của ngành nông nghiệp Việt Nam Thứ nhất: Điều kiện tự nhiên Việt Nam nằm trong vành đai nhiệt đới Châu á, nhiệt đới ẩm thuộc khu vực gió mùa Đông Nam á, được trải rộng trên 4 vùng lớn phức tạp: trung du, đồng bằng, miền núi, ven biển. Đất đai nông nghiệp, địa bàn nông thôn trải trên nhiều vĩ độ, nhiều độ cao, nhiều vùng khí hậu khác nhau, gắn liền với sự hình thành và cấu tạo của đất. Vì vậy trong quá trình xây dựng và phát triển ngành nông nghiệp chúng ta có nhiều thuận lợi cơ bản đồng thời có những khó khăn lớn. Thời tiết, khí hậu Việt Nam có những thuận lợi rất cơ bản, đó là hàng năm có lượng mưa bình quân theo mùa, cường độ ánh sáng lớn, nhiệt độ trung bình 23oc, hệ sinh thái phong phú và đa rạng. Nhờ những thuận lợi cơ bản đó mà nước ta có thể gieo trồng và thu hoạch quanh năm với nhiều giống cây trồng vật nuôi phong phú có giá trị kinh tế cao như: cây công nghiệp lâu năm (Cao su, cà phê, chè, điều...) cây công nghiệp ngắn ngày (lạc, đậu tương, đay, mía...) cây ăn quả (dừa, cam, bưởi, chuối...). Không những Việt Nam có thể sản xuất những loại cây trồng 24 vật nuôi nhiệt đới gió mùa mà còn có thể nuôi trồng những giống ở xứ lạnh như: xúp lơ, cải bắp, xu hào, cà rốt... Bên cạnh những thuận lợi nêu trên, điều kiện tự nhiên Việt Nam cũng gây nhiều khó khăn lớn như: lượng mưa lớn, mưa nhiều tập trung vào một vài tháng (tuỳ theo vùng) trong năm, gây lũ lụt, ngập úng. Mùa khô thường gây khô hạn thiếu nước không chỉ cho nông nghiệp mà còn ảnh hưởng đến đời sống sinh hoạt của người nhất là các tỉnh ở miền trung Việt Nam. Khí hậu ấm, ẩm ướt dễ phát sinh và lây lan sâu bệnh, dịch bệnh gây ra tổn thất lớn với mùa màng và vật nuôi. Ngoài ra do 3/4 nước ta là đồi núi nên diện tích đất nông nghiệp thấp ít có khả năng mở rộng và đang là những trở ngại lớn trong quá trình phát triển của ngành nông nghiệp. Thứ hai: Nền nông nghiệp Việt Nam chịu nhiều hậu quả do chiến tranh gây ra. Trong nhiều thập kỷ qua, nền nông nghiệp nước ta chịu sự tàn phá nặng nề của chiến tranh.. Nhiều vùng đất, cây cối bị tàn phá bởi chất độc hoá học, nhiều công trình cơ sở vật chất kỹ thuật trong nông nghiệp bị bom đạn tàn phá cần được phục hồi và nâng cấp. Đó là một hạn chế lớn dẫn đến sự phát triển của nông nghiệp. Do đó nông nghiệp cần một lượng vốn lớn để đầu tư khắc phục hậu qủa của chiến tranh. Mặt khác nề nếp quản lý thời chiến cũng ảnh hưởng không nhỏ đến việc quyết định lựa chọn sử dụng các nguồn lực phù hợp với cơ chế thị trường. Thứ ba: Trình độ phát triển nông nghiệp Việt Nam còn lạc hậu. Phần lớn các vùng sản xuất nông nghiệp của Việt Nam chủ yếu độc canh cây lúa, sản phẩm hàng tiêu dùng mới chỉ ở mức sản phẩm thô không qua chế biến. Sản xuất nông nghiệp ở nông thôn còn lạc hậu, manh mún nhất là ở những vùng sâu, vùng xa, điều kiện khó khăn, thị trường còn bấp bênh và không ổn định. Đời sống nông dân còn nghèo, cơ sở hạ tầng thấp, sự hỗ trợ cho nông nghiệp của ngành công nghiệp chế biến chưa cao. Sự hoà nhập và tham gia thị trường quốc tế của nông nghiệp Việt Nam còn chưa cao và không bền vững. Tuy đã có sản phẩm dư thừa để xuất khẩu nhưng hiện nay còn khó khăn trong việc tìm thị trường tiêu thụ. Đây chính là những yếu tố cơ bản làm cho sự phát triển nông nghiệp Việt Nam còn thấp. 25 Thứ tư: Nền nông nghiệp Việt Nam đang trong quá trình chuyển đổi sang nền nông nghiệp theo cơ chế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Từ những năm cuối của thập kỷ 80 dưới ánh sáng của chính sách đổi mới của Đảng và nhà nước nền nông nghiệp Việt Nam được chuyển từ sản xuất tập trung bao cấp sang cơ chế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Hiện nay nền nông nghiệp nước ta bao gồm nhiều thành phần kinh tế như tham gia như: kinh tế quốc doanh, kinh tế tư nhân, kinh tế hợp tác với các nhà đầu tư nước ngoài.... Các thành phần kinh tế được bình đẳng, được khuyến khích phát triển theo luật định. Sự chuyển đổi này đã tạo cho người dân có quyền ra quyết định về sản xuất nông nghiệp phù hợp với mục tiêu, lợi ích của mình. Cơ cấu sản xuất nông nghiệp đang được chuyển dịch theo chiều hướng phù hợp với cơ chế thị trường đồng thời lại chịu sự chi phối riêng do các đặc điểm xã hội, chính trị của Việt Nam. 3. Vai trò của đầu tư trực tiếp nước ngoài đối với sự phát triển ngành nông nghiệp Việt Nam 3.1. Đầu tư trực tiếp nước ngoài góp phần vào sự phát triển của ngành nông nghiệp Việt Nam. Đầu tư trực tiếp nước ngoài vào nền kinh tế nói chung, vào nông nghiệp nói riêng là một hoạt động kinh tế đối ngoại có vai trò ngày càng to lớn .Đặc biệt là ở những nước nông nghiệp có xuất phát điểm như nước ta thì đầu tư trực tiếp nước ngoài có ý nghĩa to lớn trong việc tạo nguồn vốn đầu tư, tiếp thu khoa học công nghệ tiến bộ vào sản xuất nông nghiệp và là một giải pháp tạo việc làm có hiệu quả trong nông nghiệp nông thôn. Trải qua một thời kỳ dài, nền kinh tế nước ta năm trong cơ chế quản lý kế hoạch hóa tập trung gần như là một nền kinh tế đóng đã làm cho lực lượng sản xuất trong nông nghiệp bị kìm hãm, các hoạt động đối ngoại trong đầu tư chưa có điều kiện mở rộng. Từ sau đại hội Đảng VI và nhất là từ sau năm 1988, thực hiện nghị quyết 10 của Bộ chính trị Ban chấp hành Trung ương Đảng, nông nghiệp Việt Nam đã có những bước phát triển vượt bậc. Cho đến nay nước ta đã là một trong những cường 26 quốc xuất khẩu một số lượng nông sản chủ lực như gạo, cà phê... Tuy nhiên hiện nay nông nghiệp Việt Nam hiện nay vẫn còn trong tình trạng sản xuất manh mún, nhiều tiềm năng phát triển vẫn chưa được khai thác và có hiệu qủa do thiếu vốn đầu tư, trình độ sản xuất còn thấp và chênh lệch khá xa so với các nước trong khu vực bên cạnh đó cơ sở vật chất kỹ thuật và kết cấu hạ tầng nông thôn còn thấp kém. Chính vì vậy việc thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài là rất cần thiết và đóng vai trò quan trọng trong việc phát triển nông nghiệp nước nhà. 3.2. Đầu tư trực tiếp nước ngoài có vai trò quan trọng trong việc tạo nguồn vốn đầu tư cho sản xuất nông nghiệp. Hiện nay, 80% lực lượng lao động nước ta tham gia sản xuất nông nghiệp. Song đa số nông dân nước ta đều trong tình trạng thiếu vốn sản xuất. Do thiếu vốn nên nhiều tiềm năng phát triển nông nghiệp, đặc biệt là ở vùng miền núi, trung du chưa có điều kiện khai thác để sản xuất ra của cải. Mặc dù những năm gần đây Đảng và Chính phủ ta đã có nhiều chủ trương quan trọng ưu tiên đầu tư cho phát triển nông nghiệp song nguồn vốn đầu tư của chính phủ còn hạn hẹp, chưa thể đáp ứng được nhu cầu phát triển của ngành nông nghiệp trong tình hình mới. Chính vì vậy việc tìm đến các đối tác đầu tư nước ngoài để thu hút vốn đầu tư cho nông nghiệp là một biện pháp quan trọng để tạo nguồn vốn đầu tư cho nông nghiệp trong những năm vừa qua và trong những năm tới. 3.3. Đầu tư trực tiếp nước ngoài là một biện pháp nâng cao trình độ công nghệ sản xuất và chất lượng nguồn nhân lực trong nông nghiệp Mặc dù trong những năm gần đây nông nghiệp nước ta đã đạt được những thành tựu quan trọng, song so với các nước có nền nông nghiệp phát triển trên thế giới và trong khu vực thì nông nghiệp nước ta vẫn còn một khoảng cách khá xa. Năng suất cây trồng, vật nuôi; chất lượng nông sản phẩm của chúng ta đều kém nên sức cạnh tranh của nông sản Việt Nam trên thị trường quốc tế còn thấp. Nguyên nhân của tình trạng này là do công nghệ sản xuất của ta vẫn còn quá thấp kém. 27 Việc thu hút vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài vào nông nghiệp thông qua trang bị công nghệ khoa học kỹ thuật tiến bộ vào sản xuất sẽ góp phần to lớn trong việc nâng cao năng suất, chất lượng sản phẩm và sức cạnh tranh của hàng nông sản Việt Nam trên thị trường quốc tế và góp phần đào tạo nâng cao chất lượng nguồn nhân lực trong nông nghiệp. Bởi vì, đầu tư trang thiết bị hiện đại cho sản xuất nông nghiệp cần phải có lực lượng lao động có chuyên môn kỹ thuật cao để vận hành nó. Mặt khác khoa học công nghệ ngày càng hiện đại đòi hỏi phải nâng cao năng lực lãnh đạo, quản lý của đội ngũ cán bộ quản lý trong nông nghiệp. Thông qua hợp tác sản xuất kinh doanh với nước ngoài chúng ta có điều kiện thuận lợi để đào tạo nâng cao năng lực, chất lượng một bộ phận lao động kỹ thuật và lao động quản lý trong nông nghiệp. Chính vì vậy thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài là cần thiết để phát triển nền nông nghiệp nước ta cả về chiều sâu lẫn chiều rộng. 3.4. Đầu tư trực tiếp nước ngoài vào nông nghiệp tạo điều kiện khai phá thị trường tiêu thụ nông sản phẩm của nước ta Các nhà đầu tư lớn thường có các thị trường truyền thống để tiêu thụ sản phẩm. Do vậy, bằng các hình thức liên doanh liên kết với nước ngoài trong sản xuất nông nghiệp sẽ tạo ra những điều kiện thuận lợi để tìm kiếm thị trường tiêu thụ nông sản phẩm của nước ta trên trường quốc tế. Vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài vào nông nghiệp nước ta có thể đầu tư trực tiếp sản xuất thông qua các hợp đồng liên doanh với nước ngoài, có thể đầu tư vào công nghệ chế biến hoặc công nghệ sau thu hoạch bằng các hình thức liên doanh với nước ngoài, các đối tác nước ngoài phải góp phần trách nhiệm trong việc tìm kiếm thị trường tiêu thụ sản phẩm của liên doanh. Có thể nói rằng việc thu hút vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài trong nông nghiệp là cần thiết cho sự phát triển ngành nông nghiệp Việt Nam, là hướng đi đúng đắn và phù hợp với một đất nước có truyền thống nông nghiệp lâu đời như Việt Nam. 28 III. KINH NGHIỆM CỦA MỘT SỐ NƯỚC TRONG KHU VỰC VỀ THU HÚT ĐẦU TƯ TRỰC TIẾP NƯỚC NGOÀI NÓI CHUNG VÀ PHÁT TRIỂN NGÀNH NÔNG NGHIỆP NÓI RIÊNG 1. Kinh nghiệm của Philipin Chính sách thuế : Các quy định về thuế luôn là mối quan tâm hàng đầu của các nhà đầu tư vì nó quyết định trực tiếp đến lợi nhuận mà họ sẽ thu được. để thu hút FDI, nhà nước Philipin đã đưa ra chính sách thuế ưu đãi. Đặc biệt từ năm 1991, luật đầu tư mới đã quy định: miễn thuế thu nhập công ty 6 năm kể từ khi có lãi đối với các công ty tiên phong, 4 năm đối với các công ty không tiên phong. Miễn thuế nhập khẩu phụ ting, thiết bị bộ phận rời đi theo cùng với việc miễn thuế nhập khẩu máy móc , thiết bị mua bằng vốn đầu tư. Ngay cả chi phí lao động cũng có thể khấu trừ vào lợi nhuận chịu thuế cuả xí nghiệp. Đặc biệt, chương trình cải cách thuế quan năm 1994 nhằm thúc đẩy sản xuất thông qua tăng cường tính cạnh tranh quốc tế. Hàng loạt những quy định và điều luật được hình thành nhằm giảm thuế quan. Trước tiên thuế quan sẽ được giảm với tư liệu sản xuất, tiếp đến các sản phẩm hóa học và dệt may, cuối cùng là các sản phẩm chế tạo. Đến năm 2004 sẽ thống nhất một loại thuế quan duy nhất 5% đối với tất cả các sản phẩm chế tạo. Các khu vực kinh tế chủ quyền philipin và các xí nghiệp phân bổ trong khu chế biến xuất khẩu còn được hưởng quyền lợi ưu đãi về thuế sau :  Miễn thuế giấy phép kinh doanh địa phương.  Miễn đánh thuế chuyển lợi nhuận giữa các chi nhánh.  Miễn thuế nhập khẩu, phí hải quan, thuế VAT . 29  Bảo đảm chính sách cho các công dân nước ngoài, được phép hồi hương vốn đầu tư và lợi nhuận kiếm được. Các xí nghiệp hoạt động trong vùng vịnh Subic thay vì phải trả tất cả các loại thuế nay họ chỉ phải trả một loại thuế 5% tổng thu nhập từ bán sản phẩm phi xuất khẩu tại địa phương và khoản thuế này sẽ không vượt quá 30% tổng thu nhập của họ từ tất cả các nguồn. Ban hành các luật thu hút FDI: Nhằm khuyến khích các nhà đầu tư nước ngoài, chính phủ ban hành hàng loạt các bộ luật ưu đãi đầu tư nước ngoài như: Luật khuyến khích đầu tư RA 5186; luật điều chỉnh các công việc kinh doanh nước ngoài RA 5455; luật khuyến khích xuất khẩu RA 6135; luật khuyến khích đầu tư phát triển nông nghiệp RA 1159; trong đó luật đầu tư nước ngoài cho phép các nhà đầu tư nước ngoài được đầu tư 100% vốn vào tất cả các ngành kinh tế, trừ một số ngành đã được liệt kê vào danh mục cấm đầu tư nước ngoài. Để tạo ra một môi trường kinh doanh thu hút các nhà đầu tư nước ngoài, tổng thống Phiden Ramos đã thực hiện hàng loạt các biện pháp theo đuổi luật đầu tư nước ngoài mà chính quyền Aquino đã ban hành từ năm 1987, bao gồm tự do hoá ĐTTTNN, loại bỏ tất cả những hạn chế về tham gia vốn nước ngoài. Luật tự do hoá ngoại hối năm 1992 cho phép các nhà xuất khẩu được giữ đồng tiền nước ngoài, tự do hoá giao dịch tiền tệ và mở rộng thời hạn cho thuê đất đai từ 50 năm đến 70 năm đối với các nhà ĐTNN. Chính phủ còn tiến hành cải cách hệ thống tài chính bao gồm cải tổ lại ngân hàng trung ương vốn bị mắc nợ, sáp nhập hai thị trường chứng khoán thành thị trường chứng khoán Philipin. Năm 1994, chính phủ ban hành luật tự do hoá gia nhập thị trường của các ngân hàng nước ngoài. Với luật tự do hoá này, các hoạt động thương mại và đầu tư với các nước mà ngân hàng đặt trụ sở chính tăng đạt tới 57,3 tỷ pêso từ 1995 đến tháng 6 năm 1996. Ngoài ra chính phủ còn chú trọng nâng cấp cơ sở hạ tầng, đào tạo nhân lực và tạo lập các điều kiện hỗ trợ như lựa chọn đối tác và hình thức đầu tư. Kết Quả 30 Với các chính sách thu hút vốn nước ngoài trên đây , Philipin đã thu hút được khối lượng vốn đầu tư ngày càng nhiều, đặc biệt từ thập kỷ 90 trở lại đây. ĐTTTNN đã đóng góp vào sự tăng trưởng kinh tế, FDI đóng góp vào nguồn lực tạo vốn bao gồm xây dựng các nhà máy, mua máy móc mới và nâng cấp CSHT. ĐTTTNN góp phần giảm bớt tình trạng khó khăn trong cán cân thanh toán, trong việc khai thác nguồn tài nguyên thiên nhiên giàu có của philipin. FDI cũng gián tiếp đóng góp vào sự tăng trưởng, nó tác động tích cực đến hoạt động kinh tế vĩ mô, ví dụ như việc làm, xuất khẩu, tiêu dùng. Các hoạt động này đến lượt mình lại thúc đẩy tăng trưởng. 2. Kinh nghiệm Malaysia Sau khi giành được độc lập năm 1957 Malaixia đã tiến hành nhiều biện pháp phát triển nền kinh tế đất nước. Trong đó có các giải pháp thu hút vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài được thể hiện qua 2 giai đoạn. Giai đoạn 1957-1970: Với chủ trương đa dạng hoá cơ cấu sản xuất Nông nghiệp khuyến khích sản xuất thay thế nhập khẩu, chính phủ Malaixia đã đưa ra một loạt thể chế, luật lệ để điều chỉnh phương hướng đầu tư. Theo các luật này, nhà nước ưu đãi về thuế cho các doanh nghiệp ở các ngành sản xuất: (1) hiện kém phát triển nhưng đáp ứng được nhu cầu phát triển của nền kinh tế, (2) có tiềm năng và triển vọng phát triển, (3) sản xuất có sử dụng nhiều lao động. Thời gian miễn thuế tuỳ thuộc vào quy mô đầu tư của các dự án. Đầu tư càng lớn càng được ưu đãi và trước hết ưu đãi cho các dự án sản xuất thay thế nhập khẩu, hàng nhập khẩu sử dụng nhiều lao động tại chỗ. Nhờ vậy lượng vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài vào Malaixia thời kỳ này được tăng lên đáng kể (năm 1967 đạt 3645 triệu Ringgit) Trong đó tập trung chủ yếu vào ngành Nông nghiệp và khai khoáng. Giai đoạn 1970 đến nay: là giai đoạn công nghiệp hoá dựa hơn vào tài nguyên trong nước và khuyến khích xuất khẩu. ở giai đoạn này Malaixia đã dùng rất nhiều biện pháp để điều chỉnh nền kinh tế trong đó đặc biệt quan trọng là thu hút vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài. Nhà nước khuyến khích tất cả các hoạt động đầu tư mới hoặc mở rộng quy mô sản xuất thuộc lĩnh vực xuất khẩu, nông nghiệp, chế tạo và du lịch. Các biện 31 pháp khuyến khích đầu tư trực tiếp nước ngoài của Malaixia rất phong phú như: Miễn giảm thuế các loại, khấu trừ khỏi căn cứ tính thuế các chi phí đầu tư, cho thành lập thêm các quỹ phát triển sản xuất, quỹ dự phòng; nhà nước tăng cường đầu tư phát triển cơ sở hạ tầng kinh tế. Kết qủa của những biện pháp này là đầu tư trực tiếp nước ngoài vào Malaixia ngày càng tăng mạnh qua các năm (1994 thu hút gấp 6,41 lần năm 1986) Bảng 1: Đầu tư trực tiếp nước ngoài trong nông nghiệp Malaixia Đơn vị: triệu Ringgit Năm 1986 1987 1988 1989 1990 1991 1992 1993 1994 Tổng vốn FDI 3105 3778 3999 6108 7966 12738 15570 17884 19879 Nông nghiệp 100 100 104 124 284 453 662 287 197 Tỷ trọng (%) 3,23 2,65 2,61 2,03 3,56 3,56 4,25 1,61 1,0 Nguồn: Viện kinh tế nông nghiệp Qua biểu 1 cho ta thấy vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài vào nông nghiệp tỷ lệ còn rất thấp, năm cao nhất mới đạt 4,25% so với tổng số, tốc độ tăng thu hút vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài vào nông nghiệp qua các năm không đều, điều này thể hiện môi trường đầu tư vào nông nghiệp chưa thật sự hấp dẫn. 32 CHƯƠNG II:: THỰC TRẠNG ĐẦU TƯ TRỰC TIẾP NƯỚC NGOÀI TRONG NÔNG NGHIỆP Ở VIỆT NAM THỜI KỲ 1988--2001 I. TÌNH HÌNH ĐẦU TƯ TRỰC TIẾP NƯỚC NGOÀI Ở VIỆT NAM 1. Khái quát tình hình đầu tư trực tiếp nước ngoài ở Việt Nam trong thời gian qua. 1.1. Số lượng quy mô, tốc độ tăng của vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài Kể từ khi ban hành Luật đầu tư nước ngoài tại Việt Nam đến tháng 6 năm 2001 cả nước đã thu hút được 3592 dự án FDI với tổng vốn đăng ký 41,448 tỷ USD, vốn thực hiện 19,939 tỷ USD. Tính bình quân, mỗi năm chúng ta cấp giấy phép cho 239 dự án với số vốn đăng ký là 41,45 tỷ USD. Bảng2: Tình hình đầu tư trực tiếp nước ngoài tại Việt Nam theo hai giai đoạn 92-96 và 97-01 92-96 97-01 1997 1998 1999 2000 2001 DAĐK 1505 1724 345 275 312 332 460 VĐK (tr USD) 23861 14476 4649 3897 1568 1926 2436 QM(tr USD) 15,854 8,397 13,48 14,1 5,03 5,8 5,9 Tốc độ tăng giảm Liên hoàn _ -16,17 -59,76 22,8 26,48 Định gốc _ -16,17 -66,3 -58,6 -47,6 33 VĐK Trung bình 40,7% -15% Nguồn: Bộ Kế hoạch và đầu tư Nhịp độ thu hút FDI tăng mạnh từ 1988 đến 1995 cả về số dự án lẫn số vốn, đặc biệt là lượng vốn FDI năm 1995 tăng gấp đôi năm 1994. Năm 1996 là đỉnh cao về số lượng FDI thu hút được. Điều này có được là do có 2 dự án với qui mô lớn (hơn 3 tỷ USD/năm) đầu tư vào đô thị ở Hà nội & TPHCM được phê duyệt. Tuy nhiên bắt đầu từ 1997; FDI vào Việt Nam có xu hướng giảm, nhất là trong 2 năm 1998,1999. Nếu như giai đoạn 92-96, tổng vốn đăng ký là 23,861 tỷ USD thì đến giai đoạn 97-01 giảm gần một nửa xuống còn 14,48 tỷ.USD. Nhìn vào bảng ta thấy lượng vốn FDI năm 1997 là 4649,1 triệu USD giảm xuống còn 3897,4 triệu năm 1998 và 1534,76 triệu USD năm 1999. Có thể nói năm 1999 giảm hơn 1/2 so với 1998. Từ 92-96, tốc độ tăng trưởng vốn bình quân hàng năm là 40,7 %, và giai đoạn 97-01 hàng năm lượng vốn thu hút giảm trung bình là 15 %. Sự chững lại và suy giảm này là do ảnh hưởng của cuộc khủng hoảng tài chính tiền tệ Đông Nam á và suy thoái kinh tế ở Nhật & các nước khác, do cạnh tranh thu hút đầu tư nước ngoài và những hạn chế của môi trường đầu tư. Từ năm 2000 ĐTTTNN đã có dấu hiệu phục hồi khi có 2 dự án thuộc công trình khí Nam Côn Sơn khoảng gần 1tỷ USD. Đến hết năm 2001 đã có 460 dự án được cấp giấy phép. Như vậy cho thấy đã có dấu hiệu của tăng trưởng ĐTNN vào Việt Nam. Tuy nhiên so với những năm đỉnh cao thì lượng vốn FDI còn khiêm tốn. 1.2. Các hình thức đầu tư trực tiếp nước ngoài ở Việt Nam. Cho đến nay ở VN tồn tại 3 hình thức ĐTTTNN là: liên doanh, 100% vốn nước ngoài, hợp đồng hợp tác kinh doanh và phương thức BOT. Cụ thể như sau: Bảng3: Đầu tư trực tiếp nước ngoài phân theo hình thức đầu tư giai đoạn 1988-2001 34 Hình thức đầu tư DAcòn hiệu lực VĐK còn hiệulực (tr USD) VTH(tr USD) Tỷ trọng % Liên doanh 1042 21192 11134,7 55,84 100% vốn nước ngoài 1560 11193 5795,4 29 HĐHTKD 130 3796 2965,6 14,87 BOT 4 415 41 0,29 2736 36596 19939 100 Nguồn: Bộ kế hoạch và đầu tư. Qua bảng ta thấy DN liên doanh vẫn là hình thức phổ biến nhất của FDI với tỷ trọng vốn thực hiện là 55,84 %. Đứng thứ hai là hình thức DN 100% vốn nước ngoài chiếm 29 % vốn đăng ký. Thứ ba là hợp đồng hợp tác kinh doanh 14,87 % và cuối cùng là phương thức BOT 0,24%. Sở dĩ hình thức liên doanh là phổ biến vì khi các nhà đầu tư bắt đầu xâm nhập vào Việt Nam, họ còn bỡ ngỡ về điều kiện KT-XH và pháp luật của VN, họ chưa thông đường ngang ngõ tắt trong khi đó các thủ tục hành chính để triển khai dự án thì rườm rà, nhiều khâu nhiều nấc, phải giao dịch với nhiều cơ quan chức năng để hoàn thành các đIều kiện triển khai công tác xây dựng cơ bản cũng như thực hiện dự án đầu tư. Chính vì vậy, các nhà đầu tư lúc đầu thường lựa chọn hình thức liên doanh để phía đối tác VN sẽ đứng ra phụ trách các thủ tục về mặt hành chính, pháp lý một cách nhanh chóng và hiệu quả cao. Tuy nhiên càng ngày hình thức DNLD ngày càng có xu hướng chuyển sang hình thức 100% vốn nước ngoài. Nguyên nhân là vì sau một thời gian hợp tác, các nhà đầu tư đã thông thạo hơn về chính sách, pháp luật, cách thức hoạt động kinh doanh. Mặt khác Nhà nước ta đang từng bước cải thiện bộ máy hành chính theo hướng ngày càng đơn giản, giảm thiểu các khâu rườm rà, nhiều tổ chức tư vấn đầu tư ra đời hỗ trợ các nhà đầu tư thực hiện các thủ tục triển khai, hoạt động sản xuất kinh doanh. Chính vì vậy, vai trò của đối tác VN trong việc phụ trách các thủ tục hành chính bị giảm một cách đáng kể. Mặt khác trong quá trình phát triển các DNLD ở VN đã xuất hiện tình trạng không tương xứng về mặt tiềm lực tài chính, công nghệ, trình độ quản lý. Xu hướng giảm về số lượng dự án và vốn đăng ký đầu tư theo hình thức này chứng tỏ sự hợp tác yếu kém 35 của Việt Nam. Do đó nhà đầu tư nước ngoài muốn nhanh chóng thoát khỏi sự tham gia quản lý của phía VN. Do đó số dự án ĐTTTNN theo hình thức 100% vốn nước ngoài ngày càng tăng. Nếu thời kỳ đầu chỉ có 10% số dự án đăng ký hoạt động theo hình thức 100% vốn nước ngoài thì nay đã tăng lên đến 73% số dự án trong khi tỷ trọng của liên doanh giảm liên tục từ 72.5% (1990) xuống còn 20.6% (1999). Cũng trong thời gian trên 73 trong số 94 dự án chuyển đổi hình thức là từ liên doanh sang hình thức 100% vốn. 1.3. Các quốc gia và lãnh thổ đầu tư ở Việt Nam. Xét theo quốc gia đầu tư, trong giai đoạn 1988-2001, 15 quốc gia sau dẫn đầu về đầu tư trực tiếp nước ngoài vào Việt Nam Bảng4 : Các quốc gia dẫn đầu về đầu tư trực tiếp nước ngoài vào Việt Nam giai đoạn 1988-2001 Quốc gia DAĐK VĐK Tỷ trọng DAĐK Tỷ trọng VĐK Singapore 237 6.606 6,6 15,94 Đài Loan 676 4.806 18,82 11,6 Nhật 312 3.984 8,7 9,6 Hàn Quốc 297 3.205 8,3 7,73 Hồng Kông 214 2.854 5,96 6,9 BV Island 115 1.800 3,2 4,34 Hà Lan 41 1.676 1,14 4,04 Pháp 111 1.659 3 4 Nga 37 1.486 1 3,6 Anh 35 1.163 0,98 2,8 ểc 72 772 2 1,86 Thuỵ Sĩ 21 527 0,58 1,3 36 (Nguồn: Bộ kế hoạch và đầu tư) 15 nước trên đã chiếm 78.57% tổng vốn ĐTTT nước ngoài tại Việt Nam. Singapo là quốc gia dẫn đầu về đầu tư tại Việt Nam với nhóm dự án là lớn nhất với 237 dự án (6.606 tr USD)Trong tổng vốn đầu tư này thì có tới 53.53% đến từ các quốc gia Châu á. Điều đó cho thấy môi trường đầu tư và khả năng sinh lợi của Việt Nam phù hợp với trình độ, đIều kiện của các nước Châu á. Các nhà đầu tư Châu Âu và Mĩ còn chiếm tỷ lệ rất khiêm tốn. Mỹ là nước đầu tư lớn nhất thế giới nhưng tỷ phần đầu tư của Mỹ vào Việt Nam còn chưa cao, số lượng các tập đoàn lớn đầu tư tại Việt Nam còn chưa nhiều. Thực trạng trên phản ánh tính hạn chế của môi trường đầu tư tại Việt Nam. 1.4. Tình hình đầu tư trực tiếp nước ngoài theo cơ cấu ngành Xét về cơ cấu vốn: vốn FDI chủ yếu tập chung vào lĩnh vực công nghiệp và xây dựng với 1704 dự án, tổng vốn đầu tư là 22.050 triệu USD chiếm tỷ trọng 53.2% tổng vốn đầu tư. Kế đến là thương mại dịch vụ có 649 dự án, với tổng vốn đầu tư là 16786 triệu USD chiếm 40.5% tổng vốn đầu tư. Riêng với lĩnh vực nông-lâm-ngư nghiệp có số dự án là 439 với tổng số vốn đầu tư là 2.620 triệu USD chiếm 6.3%. Qua thực trạng trên ta thấy lượng FDI biểu hiện cơ cấu kinh tế của đất nước ta là công nghiệp-dịch vụ-nông nghiệp. Đây cũng là cơ cấu phù hợp với giai đoạn công nghiệp hoá hiện đại hoá đất nước. Việt Nam đang có nhu cầu xây dựng kết cấu cơ sở hạ tầng rất lớn. Mặt khác vốn FDI chảy vào ngành công nghịêp xây dựng nhiều vì tỷ suất lợi nhuận cao, độ rủi ro thấp. Tuy là một đất nước có truyền thống nông nghiệp –một ngành tiềm năng của đất nước ta. Và 80% lao động trong ngành nhưng hiện nay nông nghiệp thu hút được lượng vốn FDI rất khiêm tốn so với tiềm năng của mình (chỉ chiếm có 6.5% vốn đầu tư). Các nhà đầu tư hiện nay còn dè dặt đầu tư vào lĩnh vực này vì tỷ suất lợi nhuận thấp. Sản xuất nông nghiệp phụ thộc vào điều kiện tự nhiên nên độ rủi ro cao, mặt khác lại đòi hỏi diện tích đất lớn, cơ sở hạ tầng nông thôn còn lạc hậu gây khó khăn cho quá trình đầu tư. 37 1.5. Tình hình đầu tư trực tiếp nước ngoài theo cơ cấu vùng kinh tế Mặc dù nhà nước ta đã đề ra những chính sách khuyến khích những dự án đầu tư vào vùng sâu, vùng xa, hải đảo, vùng có điều kiện kinh tế xã hội khó khăn với mục tiêu làm chuyển dịch cơ cấu vùng kinh tế, thu hẹp khoảng cách giữa miền xuôi và miền ngược thông qua hoạt động đầu tư trực tiếp nước ngoài, tuy nhiên FDI vẫn chỉ chảy vào những vùng thuận lợi về cơ sở hạ tầng kỹ thuật, về điều kiện kinh tế xã hội như: Đông Nam Bộ (56,82%), ĐB Sông Hồng (26,47% ), DH Nam Trung Bộ (7.24%), Đông Bắc (4,2%), ĐB Sông Cửu Long (2.66%), Bắc Trung Bộ (2.3%), Tây Nguyên (0.16%) và Tây Bắc (0.15%). Bảng 5: Tình hình đầu tư trực tiếp nước ngoài theo cơ cấu vùng kinh tế giai đoạn 1988-2001 Đơn vị: Triệu USD Vùng DAĐK VĐK Số dự án Tỷ trọng (%) Số vốn Tỷ trọng (%) 1. Đông Bắc Bắc Bộ 173 4,83 1740,8 4,2 2. Vùng Tây Bắc 12 0,31 62,172 0,15 3. ĐB Sông Hồng 695 19,61 10971,3 26,47 4. Bắc Trung Bộ 53 1,49 953,304 2,3 5. DH Nam Trung Bộ 172 4,8 3000,8 7,24 6. Tây Nguyên 10 0,26 66,31 0,16 7. Đông Nam Bộ 2299 64,01 23550,7 56,82 8. ĐB Sông Cửu Long 169 4,69 1102,5 2,66 Nguồn : Bộ kế hoạch và đầu tư Trong 8 vùng kinh tế này, FDI tập trung chủ yếu vào một số địa bàn thuận lợi. Ta thấy TPHCM và Hà Nội là 2 địa bàn thu hút vốn FDI lớn nhất: TP HCM (24.6%) tổng vốn đầu tư FDI của cả nước. Hà Nội chiếm 19.33%, và só liệu tương ứng với các địa phương khác như sau: 38 Đồng Nai: 9,77%; Bà Rỵa Vũng Tàu: 8,8%; Bình Dương: 5,72%; Hải Phòng: 3,6%; Quảng Ngãi: 3,47%; Quảng Ninh: 2,29%; Lâm Đồng: 2,26%; 15 địa phương dẫn đầu đã chiếm hơn 80% tổng vốn FDI của cả nước. Trong đó, lượng vốn này lại tập trung chủ yếu vào các tỉnh phía nam nơi có cơ sở hạ tầng tốt hơn, tập quán kinh doanh phù hợp với kinh tế thị trường và bộ máy hành chính giản tiện, bớt rườm rà hơn ngoài bắc. Qua đó cho ta thấy vấn đề thu hút FDI theo lãnh thổ kết hợp giữa mục tiêu của Nhà nước và tiềm năng kinh tế vùng đạt kết quả như mong muốn. Đây là vấn đề mà chúng ta cần phải lưu ý điều chỉnh Qua các số liệu thực tế về hoạt động FDI cho thấy dòng vốn đầu tư vào Việt Nam trong những năm qua chủ yếu tập trung vào những ngành dễ thu lợi nhuận, thời gian thu hồi vốn nhanh, có thị trường tiêu thụ trong nước, lớn, những ngành trong nước có tiềm năng như ngành sản xuất chất tẩy rửa, ngành giày da, may mặc, ngành lắp ráp ô tô xe máy, thiết bị đIện tử viễn thông, sắt thép, xi măng, văn phòng cho thuê. Bên cạnh đó cũng có những nhà đầu tư công nghệ cao, nhà đầu tư lớn với mục tiêu vừa chiếm lĩnh thị trường trong nước vừa thâm nhập thị trường trong khu vực nên giai đoạn đầu họ kinh doanh thăm dò để chờ nắm bắt cơ hội trong tương lai. Nhìn chung, khu vực có vốn đầu tư nước ngoài có nhiều tiềm năng trong các ngành khai thác sản xuất hàng tiêu dùng có chất lượng cao và làm hàng xuất khẩu. Đến nay có thể đánh giá là khu vực đầu tư nước ngoài đã tăng lên đáng kể cả về số lượng lẫn vốn đầu tư và thực sự trở thành một bộ phận cấu thành của nền kinh tế Việt Nam, vốn FDI chiếm từ 20-30 % tổng vốn đầu tư toàn xã hội 2. Kết quả Hoạt động Đầu tư trực tiếp nước ngoài ở Việt Nam đã có những đóng góp tích cực trong phát triển kinh tế xã hội và dựa vào kết quả sản xuất kinh doanh đã khẳng định rõ nét vai trò vị trí của FDI trong nền kinh tế Việt Nam. Vốn FDI là một trong những nguồn lực quan trọng đóng góp đáng kể vào tăng trưởng kinh tế của nước ta. Tỷ lệ đóng góp của khu vực có 39 vốn FDI vào GDP tăng nhanh qua các năm từ 2% năm 1992 lên 6,3 % năm 1995 và 12,7 % năm 2000. Giá trị sản xuất của khu vực FDI trong tổng giá trị sản xuât công nghiệp chiếm trên 96 % năm 1990, lên 25,1 % năm 1995 và 35,3 % năm 2000. Về kết quả xuất khẩu đạt được trong 10 năm qua phải kể đến sự đóng góp có hiệu quả của các doanh nghiệp có vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài. Khu vực này không những đã góp phần thúc đẩy các doanh nghiệp trong nước phát triển về công nghệ, chất lượng, quản lý sản xuất, cạnh tranh trong kinh doanh mà còn đóng góp tích cực vào tăng trưởng kim ngạch xuất khẩu chiếm 2,5 % năm 1991 lên 6,1 % năm 1995 và 23,2 % năm 2000. Khu vực đầu tư trực tiếp nước ngoài cũng đang tạo việc làm cho 349.000 lao động Trong đó gồm khoảng 6000 cán bộ quản lý và 25000 cán bộ kỹ thuật và số lượng đáng kể là công nhân lành nghề, góp phần thúc đẩy sự nghiệp đào tạo, nâng cao năng lực quản lý, trình độ khoa học công nghệ cho người lao động đồng thời tăng sức mua cho thị trường tiêu dùng trong nước. 3. Tồn tại 1. Nguồn vốn FDI vào Việt Nam khá lớn, nhưng hình thức thu hút vốn chưa phong phú, tỷ lệ thực hiện vốn chưa cao, khả năng góp vốn của Việt Nam còn nhiều hạn chế 2. Hiện tại đã xuất hiện những bất hợp lý về cơ cấu đầu tư từ nguồn vốn FDI, chủ yếu bắt nguồn từ sự yếu kém trong công tác quy hoạch. Vốn FDI tập trung vào lĩnh vực dịch vụ nhưng lại chủ yếu là bất động sản trong khi đó các dịch vụ về tài chính ngân hàng, tư vấn, chuyển giao công nghệ còn chưa thực sự mở với đầu tư nước ngoài, vốn trong lĩnh vực thuỷ sản và lâm sản còn quá bé so với tiềm năng. Còn mất cân đối về vốn giữa các vùng và địa phương, chủ yếu tập trung vào các vùng trọng điểm 3. Việc tiếp thu và sử dụng công nghệ, thiết bị máy móc nước ngoài còn nhiều hạn chế, chưa góp phần vào hiện đại hoá nền kinh tế. Phần lớn các thiết bị trong các dự án FDI thuộc loại trung bình hay trung bình tiên tiến trong khu vực, nhưng ít thiết bị hiện đại, công nghệ chủ yếu là công nghệ sử dụng nhiều lao động thủ công. 40 4. Khu vực có vốn FDI chưa phát huy được tiềm năng và thế mạnh về xuất khẩu, tỷ lệ đóng góp vào ngân sách còn hạn chế, cơ cấu xuất khẩu chưa đa dạng, chủ yếu tập trung vào ngành may mặc, giày dép, chế biến nông sản thực phẩm. 5. Tuy khu vực có vốn FDI giải quyết một cho người lao động, chật lượng của đội ngũ lao động còn hạn chế, quan hệ lao động - tiền lương trong khu vực FDI còn nẩy sinh một số hiện tượng phức tạp cần sớm xử lý lượng đáng kể chỗ làm việc II. ĐẦU TƯ TRỰC TIẾP NƯỚC NGOÀI TRONG NÔNG NGHIỆP 1. Tình hình tiếp nhận, cấp phép và thực hiện đầu tư trực tiếp nước ngoài 1.1. Số lượng, quy mô. tốc độ tăng của đầu tư trực tiếp nước ngoài vào nông nghiệp Tính từ năm 1988 đến hết tháng 12 năm 2001, tổng số dự án đăng ký trong toàn ngành có 439 dự án với tổng số vốn đăng ký là 2620 triệu USD so với 3592 dự án và 41,448 tỷ USD vốn đầu tư của cả nước. Số dự án thực hiện khoảng 321 với số vốn thực hiện là 1200 triệu USD. Bình quân hàng năm ngành nông nghiệp nhận được 26 dự án với số vốn thực hiện khoảng 99 triệu USD. Số liệu cụ thể cho ở bảng sau: Bảng 6 : Tình hình đầu tư trực tiếp nước ngoài trong nông nghiệp qua các giai đoạn 91-95 và 96-00 41 91-95 96-00 1996 1997 1998 1999 2000 2001 DAĐK 167 185 35 29 35 44 42 57 DATH 174 95 28 21 14 17 15 25 VĐK(tr USD) 1412,9 932,5 325,6 292,6 114,5 104,3 95,5 114,3 VTH(tr USD) 865,7 261,5 92,5 91,5 25,7 33,5 18,3 48,4 QM(tr USD) 4,975 2,75 3,3 4,36 1,84 1,97 1,22 1,936 Tốc độ tăng giảm VTH (%) Liên hoàn _ -1 -71,9 30,35 -45,4 164 Định gốc _ -1 -72,2 -63,8 -80,2 -47,7 Trung bình 43,6 -33 ( Nguồn: Bộ NN & PTNT ) Như vậy, so với toàn bộ các lĩnh vực có vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài thì nông nghiệp chiếm khoảng 12,22% số dự án và 6,32% tổng vốn đăng ký. Đây là một tỷ lệ rất khiêm tốn chưa tương xứng với tiềm nămg và tầm quan trọng của ngành trong nền kinh tế quốc dân. Tuy nhiên đây cũng là một tất yếu của nền kinh tế thị trường. Khi tiến hành hoạt động đầu tư các nhà đầu tư thường quan tâm đến mục tiêu tài chính. Trong khi đó nông nghiệp đòi hỏi lượng vốn lớn, tính rủi ro cao, lợi nhuận thu được thấp. Do đó, đầu tư trực tiếp nước ngoài vào ngành nông nghiệp không thể mạnh mẽ như các ngành Công nghiệp, dịch vụ. Qua bảng : cho ta thấy nhịp độ thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài của ta có xu hướng tăng dần tù 1988 đến 1996. Giai đoạn 88-90 được coi là giai đoạn khởi động thu hút FDI. Cả nước có 30 dự án được cấp giấy phép với tổng vốn đăng ký là 160,3 triệu USD (chiếm 6,1%) vốn đăng ký cả thời kỳ 1988- 2001). Quy mô vốn đăng ký bình quân giai đoạn này đạt 5,343 triệu USD/dự án. Đây là giai đoạn mà luật đầu tư nước ngoài tại Việt Nam mới ban hành còn chưa được hoàn thiện và đồng bộ. Hơn nữa, cơ sở hạ tầng còn lạc hậu, sự hiểu biết về Việt Nam của các nhà đầu tư nước ngoài còn ít, chính sách cấm vận của Mỹ đối với Việt Nam từ năm 1975 vẫn tiếp tục, 42 tất cả đã hạn chế các nhà đầu tư lớn và khiến cho các nhà đầu tư nước ngoài còn băn khoăn, lo lắng khi đầu tư vào Việt Nam ở giai đoạn này, các nhà đầu tư tiếnhành hoạt động theo kiểu thăm dò. Vì vậy số dự án đầu tư chưa nhiều, vốn đầu tư đăng ký còn ít, phần lớn chưa được triển khai thực hiện, lượng vốn thực hiện mới chỉ đạt 24,4 triệu USD( khoảng 15% vốn đăng ký) Đến giai đoạn 91-95 nhịp độ thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài ngày càng tăng nhanh qua các năm , tổng vốn đầu tư thực hiện giai đoạn này là 865,7 triệu USD trung bình 173,14 triệu USD/năm; dòng FDI đạt đỉnh cao trong năm 1995 cả về số lượng dự án lẫn số vốn với tổng giải ngân khoảng 627 triệu USD. Tốc độ tăng vốn đầu tư bình quân hàng năm trong giai đoạn 91-95 tương đối cao (khoảng 43%) thể hiện mức độ hấp dẫn của môi trường thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài của Việt Nam và ngành nông nghiệp ngày càng được cải thiện. Tuy nhiên trong những năm gần đây, sau cuộc khủng hoảng châu á, dòng đầu tư FDI vào nông nghiệp Việt Nam bị giảm sút mạnh với sự sụt giảm lớn của đầu tư từ các quốc gia ASEAN nói riêng và các nước châu á nói chung. Nếu như tổng vốn thực hiện giai đoạn 91-95 là 865,7 tr USD thì đến giai đoạn 96-2000 giảm xuống chỉ còn 261,7 triệu USD( bằng 1/3 tổng vốn giai đoạn trước) trung bình 52,3 triệu USD/năm ; lượng vốn thực hiện hàng năm giảm bình quân là 33 % và từ năm 1997 đến nay số lượng vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài càng giảm mạnh, năm 1997 so với năm 1996 giảm 1 %; năm 1998 giảm đáng kể 71,9% năm 1999 tăng 30,3% năm 2000 giảm 45% . Nếu lấy năm 1996 là năm định gốc thì các năm sau vốn đầu tư giảm một cách đáng kể: giảm 72,2% năm1998, giảm 63,8% năm 1999 , giảm 80,2% năm 2000 và 47,7% năm 2001. Tình trạng này có nhiều nguyên nhân: Nguyên nhân chủ yếu là do tác động của cuộc khủng hoảng tài chính tiền tệ châu á (khoảng 52,79% vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài vào nông nghiệp là từ các nước ASEAN, Nhật, Hàn quốc, Hồng kông) và sự cạnh tranh ngày càng quyết liệt trong thu hút đầu tư nước ngoài giữa các quốc gia. Năm 2001, đầu tư trực tiếp nước ngoài vào ngành nông nghiệp có khởi sắc với 25 dự án và 48,4 triệu USD vốn thực hiện, tăng 164 % so với năm 2000. Sở dĩ là vì, môi trường đầu tư của ta cũng đã thông thoáng, hấp dẫn hơn và các nước châu á cũng dần thoát ra khỏi khủng hoảng, hồi phục kinh tế. 43 Tuy nhiên so với những năm đỉnh cao trong thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài thì con số trên vẫn còn là khiêm tốn, đòi hỏi chúng ta phải có chiến lược thu hút vốn hiệu quả hơn nữa. Biểu đồ: Dòng vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài trong nông nghiệp qua các năm giai đoạn 1988-2001 Vèn §T/N¨m 0 100 200 300 400 500 600 700 N¨m 89 N¨m 90 N¨m 91 N¨m 92 N¨m 93 N¨m 94 N¨m 95 N¨m 96 N¨m 97 N¨m 98 N¨m 99 N¨m 00 N¨m 01 Vèn(tr $) Sè VTH Sè V§K Nguồn:Bộ NN&PTNT. Quy mô bình quân của một dự án đầu tư trực tiếp nước ngoài trong nông nghiệp tăng dần qua các năm, từ 1,3 triệu USD/dự án giai đoạn 1988-1990 lên 4,97 triệu USD/dự án giai đoạn 1991-1995 và đặc biệt là năm 1995 quy mô bình quân một dự án là 8,24 triệu USD/dự án. Giai đoạn từ 1996-2000 quy mô bình quân một dự án giảm dần do chủ yếu bị tác động của cuộc khủng hoảng tài chính tiền tệ khu vực và sự cạnh tranh ngày càng quyết liệt trong thu hút vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài, quy mô bình quân trong giai đoạn này là 2,75 triệu USD/ dự án. Năm 2001, quy mô mỗi dự án 2.87 triệu USD/dự án. Quy mô vốn đầu tư của mỗi dự án trong ngành nông nghiệp thường không lớn: các dự án có số vốn dưới 1 triệu USD có tới 80 dự án thực hiện (chiếm 25 %); dự án có số vốn từ 1-5 triệu USD có 171 dự án thực hiện (chiếm 53 %); số dự án có số vốn từ 5-10 triệu USD có 25 dự án chiếm 8 %; số dự án có số vốn trên 10 triệu USD chỉ có 29 dự án (chiếm 9 %). Đến nay lượng vốn trung bình của một dự án đầu tư trực tiếp nước ngoài trong ngành nông nghiệp khoảng 3,97 triệu USD/dự án. Trong khi 44 đó mức vốn bình quân của một dự án đầu tư trực tiếp nước ngoài chung là 8,62 triệu USD/dự án gấp 2,17 lần so với nông nghiệp. Biểu đồ: Quy mô dự án đầu tư trực tiếp nước ngoài trong nông nghiệp giai đoạn 1988-2001 Qui m« dù ¸n 0 50 100 150 200 250 DA (>100 triÖu$) DA (30-40 triÖu$) DA (10-20 triÖu$) DA (1-5 triÖu$) Qui m« vèn Sã dù ¸n sè DA§K sè DATH ( Nguồn :Bộ NN&PTNT ). Quy mô một dự án trong nông nghiệp nhỏ, điều này phản ánh đặc điểm riêng của ngành nông nghiệp và phù hợp với điều kiện Việt Nam về khả năng góp vốn, năng lực tiếp thu công nghệ, kinh nghiệm, tổ chức quản lý. Mặt khác việc phát triển các hàng loạt các doanh nghiệp vừa và nhỏ là hướng đi thích hợp với điều kiện sản xuất nông nghiệp trong tình trạng cơ sở vật chất-kỹ thuật và tổ chức quản lý thấp, cho phép sử dụng có hiệu quả các cơ sở sản xuất hiện có và tận dụng được nguồn lao động dồi dào trong nông nghiệp và nông thôn nước ta. Các doanh nghiệp vừa và nhỏ cũng có ưu thế là năng động, dễ đổi mới các thiết bị, công nghệ và phương án sản xuất, dễ thích nghi với thị trường tiêu thụ sản phẩm. Một nguyên nhân khác là các nhà đầu tư nước ngoài e ngại về môi trương đầu tư của nông nghiệp Việt Nam, thị trường Việt Nam nên họ mới chỉ đầu tư vào ngành nghề ít vốn khả năng sinh lợi nhanh, không cần công nghệ cao, phức tạp và chủ yếu là các nhà đầu tư nhỏ. 45 1.2. Tình hình đầu tư theo tiểu ngành trong ngành nông ngiệp. Trong ngành nông nghiệp phân thành 9 tiểu ngành. Qua bảng ta thấy các dự án FDI tập trung nhiều vào công nghiệp chế biến nông sản thực phẩm với 25,5 % số dự án và 29 % số vốn; tiếp đến là chế biến gỗ và lâm sản chiếm 25,23 % số dự án nhưng tỷ trọng của ngành này lại là 9,42% do quy mô mỗi dự án nhỏ( 1,39 tr USD ) thấp hơn so với quy mô bình quân của ngành ( 3,97 tr USD ). Ngành mía đường tuy có ít dự án nhưng do quy mô đầu tư mỗi dự án lớn nên tổng vốn đầu tư vào ngành này cũng chiếm một tỷ trọng đáng kể( chiếm 2,5 % tỷ trọng dự án nhưng chiếm 17,67 % tổng vốn). Quy mô đầu tư mỗi dự án ngành mía đường là 26,5 triệu, gấp gần 7 lần quy mô bình quân của toàn ngành. Những năm trước vốn đầu tư chủ yếu tập trung vào ngành chế biến gỗ và lâm sản(chiếm 63% tổng vốn), đến năm 2001 vốn đầu tư đã phân bổ đều ra các ngành khác: chế biến nông sản thực phẩm (29 % tổng vốn đầu tư) mía đường ( 17,76 % ),chế biến thức ăn gia súc( 14,24 % ) chế biến lâm sản ( 9,4 %). Điều này cho thấy sự thay đổi về cơ cấu trong ngành nông nghiệp. Sự chuyển dịch này là do chính sách khuyến khích đầu tư theo lĩnh vực (đặc biệt là các dự án chế biến nông lâm sản để xuất khẩu). Về tình hình thực hiện, qua bảng ta thấy hầu hết vốn thực hiện bằng 50% vốn đăng ký. Đối với từng phân ngành cụ thể thì: a. Tiểu ngành trồng trọt và tiểu ngành chế biến nông sản Đây là lĩnh vực chiếm tỷ trọng cao nhất về số lượng án ( 129dự án ) và mức vốn thực hiện (439.023 triệu USD). Từ trước1997, hình thức liên doanh chiếm ưu thế, bằng121% về số lượng dự án và gấp hơn hai lần vốn đầu tư dưới hình thức 100% vốn nước ngoài. Năm 1998, một mặt do 5 liên doanh giải thể trước thời hạn, mặt khác có đến 15 dự án 100% vốn 46 nước ngoài mới được cấp giấy phép nên tình hình phát triển theo chiều hướng ngược lại. Đặc điểm chung trong lĩnh vực này là phần lớn các dự án có qui mô nhỏ (4.81 triệu USD/dự án) và phân bố tương đối rộng rãi, rộng khắp các vùng miền trong cả nước. Các dự án đầu tư vào lĩnh vực này chủ yếu tập trung vốn vào trồng và chế biến rau quả, góp phần rất đáng kể trong đáp ứng nhu cầu trong nước và xuất khẩu (28 dự án) và 12 dự án lai tạo giống cây cho năng suất chất lượng cao, 7 dự án trồng hoa cây cảnh xuất khẩu , 9 dự án chế biến chè, 9 dự án chế biến cà phê. Đầu tư vào lĩnh vực này có hiệu quả do sử dụng được nhân công giả rẻ và thu hồi vốn nhanh. Nhà đầu tư hiện nay chưa mặn mà với cây dàI ngày vì đòi hỏi vốn lớn, thu hồi vốn chậm, diện tích đất tập trung lớn dẫn đến khó khăn trong giảI quyết tranh chấp, giải toả. Một số dự án có qui mô tương đối lớn như: liên doanh sản xuất bột mì Vinfood-GCR (BV Island) 41 triệu USD; công ty sữa Việt Nam-Foremost (Hà Lan): 34.5 triệu USD. Khoảng 2/3 số dự án được coi là hoạt động bình thường và hơn 1/3 trong số này hoạt động có hiệu quả. Điển hình như công ty KenKen Việt Nam (100% vốn của Singapo) có doanh thu từ xuất khẩu là 10.5 triệu USD. Các dự án liên doanh sản xuất chế biến rau quả hoạt động khá tốt, nổi bật nhất là công ty & nước giải khát Dona New Tower: hoàn thành góp vốn đầu tư ngay khi có giấy phép đầu tư, mọi doanh thu trong 5 năm hoạt động là 15.3% USD. Tuy nhiên, cũng còn khoảng 1/3 số dự án hoạt động chưa có hiệu quả, nhất là các dự án liên doanh. Hầu hết các dự án trồng và chế biến chè triển khai chậm và gặp nhiều khó khăn: 6/10 doanh nghiệp đã đI vào hoạt động nhưng chưa có lợi nhuận; Công ty chè Nghiã Đức Sơn đến năm 2001 vẫn chưa giải quyết xong đất đai cho công ty; 6 dự án sản xuất và chế biến gạo xuất khẩu thì 3 doanh nghiệp liên doanh không đạt hiệu quả; Công ty gạo sấy Agripesco (Singapo) lỗ 836000 USD bị giải thể trước thời hạn. Nói chung, lĩnh vực trồng trọt và chế biến nông sản mới chỉ thu hút một số lượng dự án và mức đầu tư còn hạn chế so với tiềm năng rất lớn trong cả nước. Sản phẩm mới chỉ là sơ chế xuất khẩu hoặc tiêu thụ nội địa, chưa có công nghệ chế biến cao. Hoạt động của các dự án này đã đạt 47 kết quả bước đầuvà góp phần đáng kể trong việc thực hiện chủ trương chuyển dịc cơ cấu kinh tế Ngành, đa dạng hoá sản phẩm, nâng cao giá trị hàng nông sản xuất khẩu của nước ta, tạo thêm nhiều việc làm mới và cơ hội nâng cao thu nhập cho dân cư các địa phương. Bên cạnh những thành công cũng đã phát sinh nhiều khó khăn, phức tạp, những thách thức mới cần được xem xét, tìm biện pháp tích cực nhằm sớm cải thiện tình hình. b. Tiểu ngành chăn nuôi và tiểu ngành chế biến thức ăn gia súc Tính đến 31/12/2001 có 38 dự án được thực hiện với tổng số vốn là 255.781 triệu USD. Các dự án đầu tư vào lĩnh vực này có quy mô tương đối ( bình quân: 6,834 triệu USD ) chủ yếu tập trung vào chế biến thức ăn gia súc. Số vốn gấp hơn 2 lần số vốn đầu tư vào chăn nuôi. Các dự án sản xuất thức ăn chăn nuôi phân bố chủ yếu ở vùng Đông Nam Bộ. Riêng tỉnh Đồng Nai đã có đến 8 doanh nghiệp thuộc loại này. Trong lĩnh vực chăn nuôi, một số dự án có quy mô vốn đầu tư khá lớn như: Công ty chăn nuôi CP Việt Nam (Thái Lan): 67 triệu USD, Taiwan Tea Corp (ĐàI Loan): 38 triệu USD. Trong đó 2 doanh nghiệp hoạt động có hiệu quả nổi bật là: XNLD nuôi gia cầm MEKO, công ty chăn nuôi CP Việt Nam: doanh thu đạt 148,7 triệu USD trong đó giá trị xuất khẩu là 1.5 triệu USD, nộp ngân sách 3.3 triệu USD. Công ty phát triển chăn nuôi PeterHand Việt Nam (đối tác Trung Quốc) với quy mô vốn 760000 USD cũng được đánh giá là hoạt động kinh doanh có lãi. Tuy vậy, trong lĩnh vực chăn nuôi còn nhiều doanh nghiệp gặp khó khăn, hiệu quả kinh doanh thấp, thua lỗ trong nhiều năm. CTLD Thanh Sơn( nuôi bò sữa- Lâm đồng), doanh thu hàng năm chỉ đạt 25 % kế hoạch của dự án, sau 3 năm hoạt động bị lỗ trên 3 triệu USD, bằng 80 % tổng vốn đầu tư; CTLD jafavina (sản xuất con giống gia cầm , sản xuất thức ăn chăn nuôi gia súc) do phía nước ngoài ( indonnesia) gặp khó khăn trong tài chính nên chỉ góp được 42 % trên tổng vốn pháp định đã cam kết. Sau 3 năm hoạt động, doanh thu mỗi năm chỉ đạt 20% so với kế hoạch dự án, lỗ phát sinh gần 1 triệu USD. c. Tiểu ngành trồng rừng 48 Trong lĩnh vực này có 8 dự án được thực hiện với 51.146 triệu USD. Hai dự án có quy mô lớn đáng kể là CTLD trồng rừng và chế biến nguyên liệu ViTAICO (TPHCM) gần 30 triệu USD vốn đầu tư; công ty quốc tế Kiên Tài (Kiên Giang) 27 triệu USD. Tuy nhiên các dự án trồng rừng còn triển khai chậm do phía đối tác Việt Nam gặp khó khăn trong việc giao đất trồng rừng cho dự án. Điển hình là công ty Haitaico, công suất dự án ghi 16.200 ha, thực tế từ 1991-1998 chỉ trồng được 637 ha đã phải tạm ngừng hoạt động, và phải theo giải pháp hoặc tìm thêm đối tác Việt Nam (trong ngành sản xuất giấy) để liên doanh hoặc nhập thêm nguyên liệu để sản xuất giấy trong 5 năm trước mắt để duy trì hoạt động trước khi có thể tự sản xuất bột giấy nguyên liệu. Có 3 liên doanh hoạt động tương đối tốt là công ty quốc tế Kiên Tài (góp xong vốn pháp định); công ty liên doanh trồng rừng và cắt dăm mảnh gỗ xuất khẩu Wochimex (góp 50% vốn pháp định, năm 1995 đIều chỉnh tăng vốn pháp định), công ty sản xuất nguyên liệu giấy Việt-Nhật. Các dự án trên nếu được triển khai và thực hiện thành công mục tiêu kinh doanh sẽ là lực lượng đáng kể góp phần thực hiện chương trình trồng 5 triệu ha rừng vào năm 2010 ở nước ta. Vì vậy, trong khả năng có thể, cần tạo đIều kiện thuận lợi nhất là bố trí đủ diện tích đất cho các dự án trồng rừng. d. Tiểu ngành chế biến gỗ và các loại lâm sản Thuộc lĩnh vực này, toàn ngành có 81 dự án thực hiện với 113.044 triệu USD vốn thực hiện. Đây là lĩnh vực thu hút nhiều dự án FDI, chỉ sau lĩnh vực trồng trọt và chế biến nông sản. Phần lớn các dự án có quy mô vốn dưới 3 triệu USD/dự án. Một số dự án có mức vốn khá lớn như CTLD Wet Xenr Sin Industrial (sản xuất tăm, mành tre): 7 triệu USD; XNLD sản xuất ván ép xuất khẩu Luks-Tie (100% vốn nước ngoàI): 10.4 triệu USD. Trong số các dự án thì khoảng 60% hoạt động bình thường, lãI suất không lớn; 11 % hoạt động có hiệu quả khá. Điển hình như CTLD Scangiaviet (Malaysia) sản xuất hàng từ mây tre, tuy mức vốn đầu tư chỉ 350 ngàn USD nhưng doanh thu đạt 10.4 triệu USD, xuất khẩu 100 % sản 49 phẩm; CTLD Scanvifood (Na uy), chế biến gỗ, đạt doanh thu 16 triệu USD, thu hút 650 lao động. Tuy vậy có đến 25 % trên tổng doanh nghiệp hoạt động khó khăn do không đủ nguyên liệu, kinh doanh thua lỗ, có doanh nghiệp phải ngừng hoạt động: XNLD chế biến gỗ Nghệ An do thiếu nguyên liệu chuyển sang làm gia công cho nhà máy gỗ Vinh, CTLD Viko Thai (Thái Bình) sản xuất đồ gỗ cao cấp, sản xuất thua lỗ, đối tác nước ngoài (Hàn Quốc) bỏ về nước. e. Tiểu Ngành Mía đường Toàn ngành có 8 dự án với 212.086 triệu vốn thực hiện. Các dự án sản xuất đường đều có mức vốn đầu tư lớn, bình quân 26,51 triệu USD/dự án. Điển hình là công ty đường Bourbon-Tây Ninh( CH pháp ): 111 triệu USD, công ty mía đường Việt Nam-ĐàI Loan 66 triệu USD, công suất 6000 TMN. Sự phân bố của các dự án sản xuất đường tương đối hợp lý, rải đều Bắc-Trung-Nam của cả nước. Tuy vậy, để đạt được hiệu quả như mục tiêu dự án đề ra, các doanh nghiệp phải vượt qua nhiều thách thức, phải đối mặt với nhiều khó khăn trong tìm thị trường tiêu thụ và đảm bào nhu cầu nguyên liệu mía cho nhà máy hoạt động. Năm vừa qua, nhiều công ty sản xuất đường mía lao đao vì giá đường hạ .Đã phát sinh phức tạp và tiêu cực đối với công ty Nagarjuna Việt Nam: Nông dân và các lái mía nhận 14 tỷ VNĐ vốn ứng trước để đầu tư trồng, chăm sóc và thu gom mía giao cho nhà máy nhưng đã không thực hiện hợp đồng giao mía cho nhà máy; Công ty TNHH đường mía Việt Nam-Đài Loan cũng gặp khó khăn về nguyên liệu. Một số dự án bị rút giấy phép như: công ty TNHH đường Ninh Bình (đối tác Philipines), công ty đường Dhampur (Ấn độ); công ty công nghiệp đường Hay (BV Island). Cơ cấu đầu tư là quan hệ giữa lượng vốn đầu tư vào các ngành, vùng, khu vực kinh tế khác nhau. Cơ cấu cân đối sẽ tạo ra tỷ lệ sản lượng hợp lý giữa các ngành, khu vực, giúp cho quá trình tái sản xuất đạt hiệu quả cao. 50 1.3. Địa phương nhận đầu tư Cho đến nay, phần lớn các tỉnh và thành phố đã có các dự án đầu tư trực tiếp nước ngoài vào lĩnh vực nông nghiệp. Tuy vậy vốn đầu tư trực tiếp nước trong nông nghiệp chỉ tập trung vào một số vùng kinh tế có điều kiện thuận lợi về kết cấu hạ tầng và môi trường kinh tế- xã hội. Trong 7 vùng kinh tế, nguồn vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài vào ngành nông nghiệp nước ta có sự phân bố không đều giữa các vùng, tập trung phần lớn ở vùng miền đông Nam Bộ, Tây Nguyên . Riêng 2 vùng này đã chiếm tới 63,73 % tổng vốn đầu tư của cả nước và 62,92% số dự án vào ngành nông nghiệp. Chỉ riêng Đông Nam Bộ đã chiếm 41.8 % tổng vốn dầu tư toàn ngành và 29,9% số dự án. ĐIều này chứng tỏ qui mô dự án cũng tương đối ( 5,22 triệu USD/dự án ). Sở dĩ là vì các vùng này có cơ sở hạ tầng kinh tế phát triển và tương đối đồng bộ, là vùng có kinh tế phát triển cao và ổn định, vị trí địa lý thuận lợi, giao thông phát triển, tập quán kinh doanh năng động, lao động dồi dào và có tay nghề cao hơn các vùng khác. Mặt khác, bộ máy hành chính cũng thông thoáng hơn nhiều. Khu 4 là vùng có qui mô dự án lớn nhất ( 10,58 triệu USD/dự án ) tuy là có ít dự án nhất nhưng lại đứng thứ tư về số vốn đầu tư do vùng có nhiều dự án mía đường có qui mô lớn. Về tình hình thực hiện, hầu như các vùng có tỷ trọng vốn thực hiện dao động từ 40-50% so với vốn đăng ký. Điều đáng ngạc nhiên là vùng ĐBSH thu hút được đã ít vốn đầu tư lại có tỷ trọng vốn thực hiện rất thấp (31.24%). Điều này là do mặc dù ĐBSH có điều kiện KTXH phát triển và cơ sở hạ tầng giao thông thuận tiện, đất đai phì nhiêu nhưng do là nơi tập trung đông dân cư nên diện tích đất trở nên hạn hẹp, khan hiếm, giá đắt. Trong khi đó sản xuất nông nghiệp đòi hỏi quĩ đất lớn. Do đó các nhà đầu tư gặp khó khăn trong vấn đề đất đai, khó khăn trong khâu giải toả... Cho đến nay phần lớn các tỉnh và thành phố đã có các dự án đầu tư trực tiếp nước ngoài vào lĩnh vực nông nghiệp. Tuy vậy vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài trong nông nghiệp chỉ tập trung vào một số vùng kinh tế 51 có điều kiện thuận lợi về kết cấu hạ tầng và môi trường kinh tế-xã hội. Vốn đầu tư vào các vùng được biểu hiện cụ thể qua biểu đồ sau: Biểu đồ : Vốn đầu tư trong nông nghiệp vào các vùng giai đoạn 1988-2001 Nguồn : Bộ NN&PTNT 1.4. Các quốc gia và lãnh thổ đầu tư trong nông nghiệp a. Về phía nước chủ nhà Theo quy định của luật đầu tư nước ngoài tại Việt Nam thì mọi tổ chức kinh tế có pháp nhân trong nước đều được hợp tác trực tiếp với nước ngoài. Nhưng thực tế thời gian qua chỉ có các doanh nghiệp Nhà nước tham gia hợp tác kinh doanh với nước ngoài trong các hợp đồng hợp tác kinh doanh và các xí nghiệp liên doanh đang hoạt động. Doanh nghiệp Nhà nước tham gia 95,0% số dự án và 96,5% số vốn đầu tư, các doanh nghiệp ngoài quốc doanh chiếm tỷ lệ không đáng kể so với tổng số vốn đầu tư vào nông nghiệp. Tình hình này phản ánh thực tế của các doanh nghiệp ngoài quốc doanh hiện nay còn rất nhỏ bé, trình độ sản xuất và năng lực quản lý kinh doanh còn yếu kém chưa đủ khả năng tham gia hợp tác kinh doanh với nước ngoài. Vấn đề đặt ra là phải có chính sách thích hợp để khuyến khích phát triển doanh nghiệp ngoài quốc doanh và đòi hỏi phải có sự hỗ trợ của Nhà nước. Bởi các doanh nghiệp ngoài quốc doanh là một bộ phận quan trọng của nền kinh tế, ngày càng đóng vai trò to lớn trong quá trình phát triển kinh tế đất nước và chính họ sẽ là đối tượng được các nhà đầu tư nước ngoài quan tâm để hợp tác kinh doanh. Vïng nhËn ®Çu t­ 0 200000 400000 600000 800000 1000000 1200000 vïng 1 vïng 2 vïng 3 vïng 4 vïng 5 vïng 6 vïng 7 Sè vèn §K Sè vèn TH 52 b. Đối tác nước ngoài Trong giai đoạn 1988-2001, đã có trên 30 quốc gia, vùng, lãnh thổ tham gia đầu tư vào ngành nông nghiệp dưới hình thức đầu tư trực tiếp nước ngoài, dẫn đầu là các quốc gia như ở bảng bên Cho đến nay, Đài Loan là quốc gia đứng đầu trong số các đối tác đầu tư vào nông nghiệp Việt Nam về vốn cũng như số dự án với 111 dự án( chiếm 34,58 % tổng số dự án) và 246,14 triệu USD ( chiếm 20,5 %). Đứng thứ hai là Pháp với 19 dự án ( chiếm 5.9 % số dự án) và 123,68 triệu USD ( chiếm 10.3 % số vốn). Tiếp đến là Singapore có 23 dự án ( 7,16 % số dự án ) và 121,47 triệu USD ( 10.12 % tổng số vốn). Qua đây, có thể thấy rằng Đài Loan tuy dẫn đầu về số dự án và tổng vốn đầu tư nhưng quy mô mỗi dự án lại nhỏ ( chỉ ở mức 2.21 triệu USD/ dự án) thấp hơn cả quy mô dự án của toàn ngành( 3.74 triệu USD/ dự án); tương quan về tỷ trọng giữa số dự án và số vốn cũng phản ánh điều đó( số dự án chiếm 34.5 % trong khi đó số vốn chỉ chiếm 20.5 %). Trong các quốc gia trên, BV Island là nước có quy mô bình quân mỗi dự án lớn nhất ( 8.87 triệu USD ). Tuy BV Island là nước có quy mô bình quân mỗi dự án lớn nhất nhưng tổng số vốn lại đứng thứ 4. Tiếp theo là Thái với quy mô mỗi dự án là 8,07 triệu USD tuy số dự án vẫn còn khiêm tốn (13 dự án,chiếm 4,05 % toàn ngành). Một điểm đáng lưu ý là Nhật là nước đứng thứ hai về đầu tư trên thế giới, số dự án đầu tư của Nhật vào ngành nông nghiệp Việt Nam đứng thứ 4 ( 19 dự án ) nhưng quy mô của mỗi dự án lại quá nhỏ so với tiềm lực về tài chính của Nhật ( 2.15 triệu USD/ dự án) thấp hơn nhiều so với quy mô bình quân của toàn ngành. Có thể nói rằng phần đông các nhà đầu tư vào ngành nông ngiệp Việt Nam là người Trung Quốc. Họ là những đối tác tuy dẫn đầu về số dự án nhưng quy mô đầu tư còn thấp. Đó là do tiềm lực tài chính của các nhà đầu tư này còn hạn chế. Các nước như Mỹ, Pháp...năng lực tài chính mạnh nên quy mô dự án lớn tuy số dự án còn ở mức độ thấp . Đây cũng là một đặc điểm của các đối tác đầu tư mà chúng ta cần phải căn cứ để có 53 chiến lược thu hút họ vào những lĩnh vực phù hợp về kỹ thuật công nghệ cũng như tiềm lực tài chính. 55 Về tình hình thực hiện, qua bảng ta thấy Hoa Kỳ, Pháp, BV Island có tỷ lệ thực hiện vốn đầu tư thấp: Mỹ có vốn thực hiện 26.22 % vốn đăng ký và tỷ lệ này của Pháp là 35.35 %; BV Island là 33.2 %. Sở dĩ là do: Đối với Mỹ vì chưa có hiệp định đầu tư với Việt Nam nên các ngân hàng Mỹ chưa đứng ra bảo lãnh cho rủi ro đầu tư đối với các dự án đầu tư vào Việt Nam. Còn đối v

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • pdfLuận văn- Đầu tư trực tiếp nước ngoài phát triển nghành nông nghiệp Việt Nam thực trạng và giải pháp.pdf
Tài liệu liên quan