Đề tài Bảo hiểm kết hợp con người - Thực trạng và giải pháp nhằm thúc đẩy sự phát triển của nghiệp vụ tại phòng bảo hiểm khu vực 6 - Chi nhánh Bảo Minh Hà Nội

Tài liệu Đề tài Bảo hiểm kết hợp con người - Thực trạng và giải pháp nhằm thúc đẩy sự phát triển của nghiệp vụ tại phòng bảo hiểm khu vực 6 - Chi nhánh Bảo Minh Hà Nội: lời nói đầu Khi nền kinh tế phát triển, đời sống con người ngày một nâng cao thì những rủi ro mà con người có nguy cơ gặp phải cũng ngày càng có xu hướng gia tăng. Đứng trước thực tế đó, con người cần có những biện pháp nhằm bảo vệ sự an toàn của chính bản thân mình và của cả cộng đồng. Nhiều biện pháp đã được áp dụng song hữu hiệu nhất vẫn là bảo hiểm với các loại hình như BHXH, BHYT. Tuy nhiên, bên cạnh những ưu điểm các loại hình này còn bộc lộ nhiều hạn chế về phạm vi, đối tượng. Bảo hiểm con người trong bảo hiểm thương mại ra đời đã phần nào khắc phục được những khiếm khuyết đó, đáp ứng nhu cầu đông đảo của người dân. Trong phạm vi bài viết này, tác giả chỉ đề cập đến bảo hiểm con người phi nhân thọ. Nhận thức rõ vấn đề trên, các Công ty bảo hiểm đã nghiên cứu và đưa ra thị trường nhiều sản phẩm bảo hiểm con người với các đặc điểm khác nhau. Trong số các Công ty đó, Bảo Minh cũng đã tiến hành triển khai và hoàn thiện nhiều nghiệp vụ bảo hiểm con người nhằm đa dạng hoá sản phẩm, ...

doc58 trang | Chia sẻ: hunglv | Lượt xem: 956 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem trước 20 trang mẫu tài liệu Đề tài Bảo hiểm kết hợp con người - Thực trạng và giải pháp nhằm thúc đẩy sự phát triển của nghiệp vụ tại phòng bảo hiểm khu vực 6 - Chi nhánh Bảo Minh Hà Nội, để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
lời nói đầu Khi nền kinh tế phát triển, đời sống con người ngày một nâng cao thì những rủi ro mà con người có nguy cơ gặp phải cũng ngày càng có xu hướng gia tăng. Đứng trước thực tế đó, con người cần có những biện pháp nhằm bảo vệ sự an toàn của chính bản thân mình và của cả cộng đồng. Nhiều biện pháp đã được áp dụng song hữu hiệu nhất vẫn là bảo hiểm với các loại hình như BHXH, BHYT. Tuy nhiên, bên cạnh những ưu điểm các loại hình này còn bộc lộ nhiều hạn chế về phạm vi, đối tượng. Bảo hiểm con người trong bảo hiểm thương mại ra đời đã phần nào khắc phục được những khiếm khuyết đó, đáp ứng nhu cầu đông đảo của người dân. Trong phạm vi bài viết này, tác giả chỉ đề cập đến bảo hiểm con người phi nhân thọ. Nhận thức rõ vấn đề trên, các Công ty bảo hiểm đã nghiên cứu và đưa ra thị trường nhiều sản phẩm bảo hiểm con người với các đặc điểm khác nhau. Trong số các Công ty đó, Bảo Minh cũng đã tiến hành triển khai và hoàn thiện nhiều nghiệp vụ bảo hiểm con người nhằm đa dạng hoá sản phẩm, tạo thế cạnh tranh trên thị trường góp phần vào mục đích nhân văn cao cả. Xuất phát từ những lý do trên, cùng với sự khuyến khích của các cô chú cán bộ trong phòng bảo hiểm khu vực 6 - Chi nhánh Bảo Minh Hà Nội, trong thời gian thực tập tại đây, em đã lựa chọn đề tài : “Bảo hiểm kết hợp con người - thực trạng và giải pháp nhằm thúc đẩy sự phát triển của nghiệp vụ tại phòng bảo hiểm khu vực 6 - Chi nhánh Bảo Minh Hà Nội” làm chuyên đề thực tập tốt nghiệp. Với phạm vi của đề tài, trên cơ sở nghiên cứu, phân tích, ngoài phần mở đầu và kết luận, đề tài được kết cấu như sau: Chương I: Tổng quan về nghiệp vụ bảo hiểm kết hợp con người . Chương II: Thực trạng triển khai nghiệp vụ bảo hiểm kết hợp con người tại văn phòng khu vực 6 - Chi nhánh Bảo Minh Hà Nội. Chương III: Một số kiến nghị, giải pháp nhằm thúc đẩy sự phát triển của nghiệp vụ bảo hiểm kết hợp con người tại phòng bảo hiểm khu vực 6 - Chi nhánh Bảo Minh Hà Nội. Mặc dù có nhiều cố gắng, song do thời gian và trình độ nghiên cứu còn hạn chế nên chuyên đề này không tránh khỏi những thiếu sót nhất định. Em rất mong nhận được sự góp ý của các thầy cô và các cô chú cán bộ trong phòng bảo hiểm khu vực 6 để em có thể hoàn thiện đề tài nghiên cứu tốt hơn. Em xin chân thành cảm ơn. chương I tổng quan về bảo hiểm con người và bảo hiểm kết hợp con người I. Khái quát chung về bảo hiểm con người. 1. Sự cần thiết khách quan và tác dụng của bảo hiểm con người. 1.1. Sự cần thiết khách quan của bảo hiểm con người. Tại mỗi quốc gia, trong mỗi thời kì, con người luôn được coi là lực lượng sản xuất chủ yếu, là nhân tố quyết định sự phát triển kinh tế xã hội. Song trong lao động sản xuất cũng như trong cuộc sống hàng ngày, những nguy cơ rủi ro bởi sự phát triển của lực lượng sản xuất, của tiến bộ khoa học kỹ thuật hay do môi trường xã hội như: ốm đau, bệnh tật, tử vong… vẫn luôn tồn tại và tác động đến nhiều mặt của cuộc sống con người. Mặc dù con người đã có nhiều biện pháp phòng tránh rủi ro (phòng bệnh, chữa bệnh, tiết kiệm, đi vay, đùm bọc tương trợ) nhưng rủi ro vẫn cứ xảy ra, và bảo hiểm luôn được coi là biện pháp hữu hiệu nhất để khắc phục hậu quả rủi ro nhằm đảm bảo cho cuộc sống của con người . BHXH, BHYT thực chất cũng là bảo hiểm con người và đã xuất hiện từ lâu, song phạm vi đảm bảo cho các rủi ro vẫn còn hạn hẹp. Con người vẫn luôn quan tâm đến những vấn đề khác nảy sinh trong cuộc sống, chẳng hạn như: - Việc mất hoặc giảm thu nhập của người trụ cột trong gia đình ảnh hưởng đến cuộc sống của con cái và người thân. Vấn đề lại càng tồi tệ hơn khi vẫn phải chi tiêu hàng ngày trong lúc nguồn thu khác không có. Có lẽ không một người trụ cột trong gia đình nào lại muốn những người đang sống nhờ vào thu nhập của họ phải chịu những khó khăn về tài chính hoặc bị khánh kiệt khi họ gặp phải rủi ro (tử vong, mất khả năng lao động) nhất là khi con cái chưa đến tuổi trưởng thành. Vì vậy, đối với mỗi cá nhân và gia đình, việc tiết kiệm chi tiêu hiện tại để chuẩn bị cho tương lai, cho việc giáo dục con cái, chuẩn bị hành trang cho con cái vào đời là một biện pháp hết sức thiết thực và có ý nghĩa. - Bên cạnh đó, việc lo cho tuổi già hoặc khi về hưu đang là vấn đề được xã hội quan tâm lo lắng và coi trọng. Một số người khi hết tuổi lao động có thu nhập từ lương hưu, nhưng thực tế khó có thể đáp ứng đủ các yêu cầu chi tiêu trong cuộc sống. Ngoài ra, phần lớn người già không có lương hưu phải sống nhờ vào con cái hay vẫn phải lao động vất vả để kiếm sống đang là vấn đề xã hội bức xúc. Đặc biệt tuổi thọ càng cao thì nguồn dự trữ tài chính lại dần bị cạn kiệt. Vấn đề là phải tạo ra công cụ để mọi người có thể đều đặn dành ra từ thu nhập và tiết kiệm chi tiêu hiện tại của mình những khoản tiền nhỏ mà vẫn đủ để đảm bảo cuộc sống khi về già. - Xã hội ngày càng phát triển, đời sống con người ngày càng được nâng cao thì người ta càng có điều kiện để chăm lo cho bản thân và gia đình. Ngoài BHXH và BHYT, các dịch vụ bảo hiểm con người trong bảo hiểm thương mại ra đời là hết sức cần thiết nhằm đáp ứng mọi nhu cầu của các tầng lớp dân cư trong xã hội . Bảo hiểm con người là một trong ba loại hình của BHTM, là hình thức bổ sung cho BHXH, BHYT, nhằm đảm bảo ổn định đời sống cho mọi thành viên trong xã hội trước những rủi ro tai nạn bất ngờ đối với thân thể, tính mạng, sự giảm sút hoặc mất thu nhập và đáp ứng một số nhu cầu khác của người tham gia. Bảo hiểm con người phản ánh mối quan hệ kinh tế giữa các bên thông qua hợp đồng bảo hiểm. So với BHXH, bảo hiểm con người trong BHTM có đối tượng tham gia rộng hơn, quỹ bảo hiểm được hình thành chủ yếu từ phí bảo hiểm mà người tham gia đóng góp, số tiền chi trả căn cứ vào sự thoả thuận và cam kết trong hợp đồng. Hình thức bảo hiểm chủ yếu ở đây là tự nguyện. Điểm khác nhau rõ nhất là phí bảo hiểm con người trong BHXH được xác định căn cứ vào tiền lương của người lao động do nhà nước quy định, còn trong BHTM phí bảo hiểm phụ thuộc vào nhiều yếu tố và việc tính toán mức phí hết sức phức tạp. Ngoài ra, sự khác nhau còn được thể hiện ở cơ sở pháp lý của sự cam kết, cơ quan tổ chức thực hiện. Tuy nhiên, sự khác nhau giữa hai hệ thống bảo hiểm này không tạo ra sự đối lập, mâu thuẫn, mà trái lại chúng bổ sung, hỗ trợ cho nhau. Các nghiệp vụ bảo hiểm con người trong BHTM có thể thay thế BHXH trong những trường hợp, những khu vực của nền kinh tế, những nơi mà BHXH chưa được thực hiện hoặc có nhưng không đủ bù đắp phần thu nhập bị giảm sút của người lao động. Mặc dù người lao động làm công ăn lương được hưởng trợ cấp BHXH, nhưng đôi khi có những rủi ro, những nhu cầu nằm ngoài phạm vi BHXH, hoặc các khoản trợ cấp BHXH không đáp ứng được những nhu cầu khắc phục hậu quả rủi ro. Phần chênh lệch và thiếu hụt về mặt tài chính sẽ được BHTM bù đắp. Như vậy, các nghiệp vụ bảo hiểm con người trong BHTM sẽ có vai trò hết sức quan trọng giúp mọi người chống lại những bấp bênh của cuộc sống trong sự đa dạng và phức tạp của rủi ro. 1.2. Tác dụng của bảo hiểm con người. Cũng như các loại hình bảo hiểm tài sản và bảo hiểm trách nhiệm dân sự, bảo hiểm con người trong BHTM ra đời có những tác dụng chủ yếu sau: * Đối với mỗi cá nhân: Bảo hiểm con người góp phần ổn định cuộc sống cho các cá nhân và gia đình, là chỗ dựa tinh thần cho người được bảo hiểm. Mặc dù trong thời đại hiện nay, khoa học kỹ thuật đã phát triển cao, nhưng rủi ro bất ngờ vẫn có thể xảy ra và thực tế đã chứng minh rằng nhiều cá nhân và gia đình trở nên túng quẫn khi có một thành viên trong gia đình, đặc biệt thành viên đó lại là người trụ cột bị chết, hoặc bị thương tật vĩnh viễn. Khi đó gia đình phải chi phí mai táng, chôn cất, chi phí nằm viện, thuốc men, chi phí phẫu thuật và bù đắp những khoản thu thường xuyên bị mất đi. Khó khăn hơn là một loạt các nghĩa vụ và trách nhiệm mà người chết chưa kịp hoàn thành như: trả nợ, phụng dưỡng bố mẹ già, nuôi dạy con cái. Dù rằng hệ hống bảo trợ xã hội và các tổ chức xã hội có thể trợ cấp khó khăn, nhưng cũng chỉ mang tính tạm thời trước mắt chưa đảm bảo được lâu dài về mặt tài chính. Tham gia bảo hiểm con người sẽ phần nào giải quyết được những khó khăn đó. * Đối với mỗi doanh nghiệp: Bảo hiểm con người trong BHTM ra đời góp phần ổn định tài chính và sản xuất kinh doanh cho các doanh nghiệp, tạo lập mối quan hệ gần gũi, gắn bó giữa người lao động và người sử dụng lao động. Tùy theo đặc điểm ngành nghề và lĩnh vực kinh doanh, các chủ doanh nghiệp thường mua bảo hiểm sinh mạng, bảo hiểm tai nạn cho người làm công và những người chủ chốt trong doanh nghiệp nhằm đảm bảo ổn định cuộc sống và tạo ra sự lôi cuốn, gắn bó ngay cả trong những lúc doanh nghiệp gặp khó khăn, tránh cho doanh nghiệp sự bất ổn về tài chính khi mất người làm công chủ chốt. Nếu doanh nghiệp bị mất họ thì khả năng thu lợi sẽ giảm và công cụ điều hành sẽ gặp nhiều khó khăn. Do vậy, mua Bảo hiểm cho họ, có thể đảm bảo cho doanh nghiệp tránh khỏi sự thua thiệt về tài chính vì những tai nạn rủi ro gây nên mà vẫn có được những chi phí bù đắp thay thế. * Đối với nền kinh tế và xã hội: - Thông qua dịch vụ bảo hiểm con người, một dịch vụ có đối tượng tham gia rất đông đảo, các nhà bảo hiểm thu được phí để hình thành quỹ bảo hiểm, quỹ này được sử dụng rất đông đảo, quỹ nà được sử dụng chủ yếu vào mục đích bồi thường, chi trả và dự phòng. Khi nhàn rỗi nó là nguồn vốn đầu tư hữu ích góp phần phát triển và tăng trưởng kinh tế. - Bảo hiểm con người còn là một công cụ hữu hiệu để huy động những nguồn tiền mặt nhàn rỗi nằm ở các tầng lớp dân cư trong xã hội để thực hành tiết kiệm, góp phần chống lạm phát. - Bảo hiểm con người còn góp phần giải quyết một số vấn đề về mặt xã hội như: tạo thêm công ăn việc làm cho người lao động, tăng vốn đầu tư cho việc giáo dục con cái, tạo ra một nếp sống đẹp, tiết kiệm có kế hoạch. 2. Đặc điểm chung của nghiệp vụ bảo hiểm con người phi nhân thọ. * Các loại hình bảo hiểm con người. Căn cứ vào tính chất rủi ro, bảo hiểm con người được chia thành 2 loại: s Bảo hiểm nhân thọ. s Bảo hiểm con người phi nhân thọ. Đây là cách phân loại chủ yếu nhất mà nước nào cũng thực hiện. Trong đó bảo hiểm nhân thọ còn được đa dạng hoá theo các loại sản phẩm khác nhau. Còn bảo hiểm con người phi nhân thọ cũng được chia thành các nghiệp vụ bảo hiểm khác nhau. Hiện nay trên thế giới người ta thường chia bảo hiểm con người phi nhân thọ theo các nghiệp vụ sau: s Bảo hiểm sinh mạng cá nhân. s Bảo hiểm tai nạn con người 24/24. s Bảo hiểm tai nạn hành khách. s Bảo hiểm trợ cấp nằm viện phẫu thuật. s Bảo hiểm khách du lịch. s Bảo hiểm trẻ em (học sinh, sinh viên). s Bảo hiểm cưới hỏi… * Bảo hiểm con người phi nhân thọ là một trong các loại hình bảo hiểm con người và nó có những đặc điểm chủ yếu sau: Hậu quả của những rủi ro mang tính chất thiệt hại vì rủi ro bảo hiểm ở đây là tai nạn, bệnh tật, ốm đau, thai sản liên quan đến thân thể và sức khoẻ của con người. Những rủi ro ở đây khác với 2 sự kiện “sống” và “chết” trong bảo hiểm nhân thọ và vì thế tính chất rủi ro được bộc lộ rõ còn tính chất tiết kiệm không được thể hiện. So với bảo hiểm nhân thọ, thời hạn bảo hiểm con người phi nhân thọ ngắn hơn và thường là 1 năm như: bảo hiểm sinh mạng cá nhân, bảo hiểm tai nạn con người 24/24, bảo hiểm trợ cấp nằm viện - phẫu thuật… Thậm chí có nghiệp vụ, thời hạn bảo hiểm chỉ trong vòng vài ngày, vài giờ đồng hồ như: bảo hiểm tai nạn hành khách. Do đó, phí bảo hiểm thường được nộp 1 lần khi kí kết hợp đồng bảo hiểm. Người được bảo hiểm thường được quy định trong một khoảng tuổi nào đó, các Công ty bảo hiểm không chấp nhận bảo hiểm cho những người có độ tuổi quá thấp hoặc quá cao. Bởi vì ở độ tuổi quá thấp hoặc quá cao tình trạng rủi ro diễn biến phức tạp, xác suất rủi ro cao, việc kiểm soát và quản lý rủi ro rất khó thực hiện. Các nghiệp vụ bảo hiểm con người phi nhân thọ thường được triển khai kết hợp với các nghiệp vụ bảo hiểm khác trong cùng một hợp đồng bảo hiểm. Chẳng hạn: Bảo hiểm tai nạn được lồng ghép trong bảo hiểm nhân thọ hỗn hợp, bảo hiểm tai nạn lái phụ xe được triển khai kết hợp với bảo hiểm trách nhiệm dân sự và bảo hiểm vật chất thân xe trong hợp đồng bảo hiểm xe cơ giới. Việc triển khai kết hợp này sẽ làm cho chi phí khai thác, chi phí quản lý của Công ty bảo hiểm giảm đi, từ đó có điều kiện giảm phí bảo hiểm. ở hầu hết các nước trên thế giới, trong giai đoạn đầu của sự phát triển ngành bảo hiểm, bảo hiểm con người phi nhân thọ được triển khai sớm hơn bảo hiểm nhân thọ. Họ vừa triển khai, vừa rút kinh nghiệm, đến khi điều kiện kinh tế- xã hội đã chín muồi mới tổ chức triển khai bảo hiểm nhân thọ. Chính vì vậy, bảo hiểm con người phi nhân thọ được coi là loại hình bổ sung hữu hiệu nhất cho các loại BHXH, BHYT. ở Việt Nam, hầu hết các nghiệp vụ bảo hiểm con người phi nhân thọ đều ra đời trong những năm cuối thập kỷ 80 và đầu thậo kỷ 90, mãi đến năm 1996 mới tổ chức triển khai bảo hiểm nhân thọ. Bảo hiểm con người phi nhân thọ chỉ thuần tuý mang tính chất rủi ro. Có nghĩa là trong thời hạn bảo hiểm, rủi ro xảy ra, gây thiệt hại đối tượng bảo hiểm thì Công ty bảo hiểm mới phải bồi thường và chi trả. Còn rủi ro không xảy ra trong thời hạn bảo hiểm thì hết hạn hợp đồng bảo hiểm người bảo hiểm không phải chi trả gì cả. II. Bảo hiểm kết hợp con người . 1. Tiền đề của nghiệp vụ bảo hiểm kết hợp con người. Bảo hiểm kết hợp con người ra đời dựa trên 3 loại hình: Bảo hiểm sinh mạng cá nhân, bảo hiểm tai nạn con người 24/24, và bảo hiểm trợ cấp nằm viện- phẫu thuật nhằm mở rộng phạm vi và phát huy tối đa mục đích của 3 nghiệp vụ bảo hiểm trên. 1.1 Bảo hiểm sinh mạng cá nhân. Bảo hiểm sinh mạng cá nhân là một trong các hoạt động của BHTM, bảo hiểm sinh mạng cá nhân bảo hiểm cho trường hợp tử vong do mọi nguyên nhân: ốm đau, bệnh tật, tai nạn (trừ những trường hợp có bệnh trước khi mua bảo hiểm). Nghiệp vụ này ra đời thể hiện sự quan tâm của cộng đồng đối với những người lao động. 1.1.1. Mục đích: - Bảo hiểm sinh mạng cá nhân góp phần ổn định cuộc sống cho người được bảo hiểm và gia đình họ khi không may người được bảo hiểm bị chết do ốm đau, bệnh tật, đặc biệt họ là người có thu nhập chính trong gia đình. - Ngoài ra nó còn bổ sung hỗ trợ cho BHXH (chế độ tử tuất). 1.1.2. Đối tượng, phạm vi Bảo hiểm. * Đối tượng Bảo hiểm : - Các Công ty bảo hiểm nhận bảo hiểm cho mọi công dân Việt Nam. - Các Công ty bảo hiểm không chấp nhận bảo hiểm cho các đối tượng bị tàn phế hoặc thương tật vĩnh viễn từ 50% trở lên, những người bị bệnh tâm thần, phong, ung thư… * Phạm vi Bảo hiểm: - Các Công ty bảo hiểm trả tiền bảo hiểm cho người thừa kế hợp pháp khi người được Bảo hiểm bị chết do mọi nguyên nhân (ốm đau, bệnh tật, tai nạn). - Các Công ty bảo hiểm không trả tiền bảo hiểm nếu người được bảo hiểm bị chết do: + Hành động cố ý gây chết người. + Bị ảnh hưởng trực tiếp do sử dụng các chất kích thích. + Bị mắc bệnh trước ngày hiệu lực của hợp đồng bảo hiểm đầu tiên. + Điều trị hoặc sử dụng thuốc không theo hướng dẫn của cơ sở y tế. + Bị mắc các bệnh ung thư, giang mai, lậu, nhiễm virut HIV. + Điều trị chưa được khoa học công nhận hoặc điều trị thử nghiệm. + Người được bảo hiểm vi phạm pháp luật. + Động đất, chiến tranh… 1.1.3. Số tiền bảo hiểm và phí bảo hiểm. Người tham gia có thể lựa chọn số tiền bảo hiểm khác nhau, ở Việt Nam số tiền bảo hiểm thường được các Công ty bảo hiểm đưa ra từ 1.000.000đ đến 20.000.000đ để người tham gia bảo hiểm lựa chọn. Phí bảo hiểm được xác định dựa trên độ tuổi và ngành nghề, lĩnh vực công tác của người tham gia bảo hiểm. Các Công ty bảo hiểm thường chia thành 2 mức tỷ lệ phí bảo hiểm: tỷ lệ phí bảo hiểm đối với người từ 18 - 65 tuổi và tỷ lệ phí đối với người trên 65 tuổi. Tỷ lệ phí đối với người trên 65 tuổi thường cao hơn vì ở độ tuổi này xác suất rủi ro cao hơn độ tuổi 18 - 65. Ví dụ: Tuổi người được bảo hiểm Tỷ lệ phí bảo hiểm /năm 18 - 40 0.34% 41 - 60 1.30% 61 - 65 3.85% 66 - 75 6.82% 76 - 80 9.82% 81 - 85 14.04% Trên 85 22.93% 1.2 Bảo hiểm tai nạn con người 24/24. Cùng với bảo hiểm sinh mạng cá nhân, bảo hiểm tai nạn con người 24/24 là nghiệp vụ BHTM mà ở đây nhà bảo hiểm sẽ chi trả số tiền bảo hiểm cho người được bảo hiểm (hay người được hưởng quyền lợi bảo hiểm) khi người được bảo hiểm bị tai nạn thuộc phạm vi bảo hiểm. Đổi lại người được bảo hiểm (hay người tham gia bảo hiểm) phải nộp phí bảo hiểm khi họ ký kết hợp đồng. 1.2.1. Mục đích: - Nhằm góp phần ổn định cuộc sống cho người được bảo hiểm và gia đình họ. Đặc biệt đối với những người được bảo hiểm bị tai nạn mà trước đó họ chưa được tham gia loại hình bảo hiểm nào hoặc đã tham gia nhưng được chi trả trợ cấp thấp. - Bảo hiểm tai nạn con người 24/24 tạo điều kiện thuận lợi cho những người lao động làm việc trong những ngành nghề thường xảy ra tai nạn được bảo hiểm như: các ngành cơ khí, khai thác, xây dựng… 1.2.2. Đối tượng và phạm vi bảo hiểm. * Đối tượng bảo hiểm: s Thường bao gồm tất cả những người từ 18 tuổi đến 60 tuổi. s Trường hợp loại trừ: Những người bị bệnh thần kinh, tàn phế hoặc thương tật vĩnh viễn ở một mức độ nhất định (ví dụ: 50% trở lên). * Phạm vi bảo hiểm: s Bị tai nạn gây chết người hoặc thương tật, kể cả những trường hợp người được bảo hiểm tham gia cứu người, cứu tài sản của nhà nước và của nhân dân hoặc tham gia chống các hoạt động phạm pháp. s Tuy nhiên người được bảo hiểm bi tai nạn do các nguyên nhân sau không thuộc phạm vi bảo hiểm: + Người được bảo hiểm bị tai nạn do vi phạm pháp luật. + Hành động cố ý gây tai nạn, tử vong. + Bị ảnh hưởng của bia, rượu, ma tuý, các chất kích thích khác. + Bị ngộ độc thức ăn. + Sử dụng thuốc không đúng chỉ định của bác sỹ. + Bị trúng gió. + Do động đất, chiến tranh... 1.2.3. Số tiền bảo hiểm và phí bảo hiểm. Số tiền bảo hiểm trong nghiệp vụ này thường được quy định ở các mức khác nhau để người tham gia dễ dàng lựa chọn cho phù hợp với khả năng của chính mình. Phí bảo hiểm thường đóng một lần khi ký kết hợp đồng. Phí bảo hiểm phụ thuộc khá nhiều yếu tố, như: số tiền bảo hiểm, xác suất thống kê số vụ tai nạn, số bị chết và số người bị thương tật, ngành nghề và lĩnh vực công tác, chi phí quản lý… Căn cứ vào tài liệu thống kê này, các Công ty lập thành một biểu tỷ lệ phí tương ứng cho từng ngành nghề, từng hạn mức trách nhiệm bảo hiểm… Ví dụ: Số tiền bảo hiểm Triệu đồng 1 - 20 21 - 50 51 - 70 71-100 Tỷ lệ phí % 0.28 0.42 0.56 0.75 1.3 Bảo hiểm trợ cấp nằm viện- phẫu thuật. Bảo hiểm trợ cấp nằm viện - phẫu thuật là một trong các nghiệp vụ bảo hiểm con người, bảo hiểm trợ cấp nằm viện - phẫu thuật có mức phí phụ thuộc vào số tiền bảo hiểm và tuổi của người được bảo hiểm. Người được bảo hiểm có thể điều trị tại bất cứ bệnh viện nào. Thực chất đây là loại hình bảo hiểm sức khoẻ. 1.3.1. Mục đích: - Giúp mọi người khắc phục khó khăn khi không may họ bị ốm đau, bệnh tật phải nằm viện điều trị hoặc phẫu thuật. - Góp phần bổ sung cho các loại hình BHXH, BHYT. 1.3.2. Đối tượng và phạm vi bảo hiểm. * Đối tượng bảo hiểm: s Người được bảo hiểm thường bao gồm tất cả những người từ 1 tuổi đến 65 tuổi. s Trường hợp loại trừ: + Những người bị bệnh thần kinh, tâm thần, phong ung thư, sida. + Những người bị tàn phế hoặc bị thương tật vĩnh viễn. + Những người đang trong thời gian điều trị bệnh tật, thương tật. Khi tham gia bảo hiểm, nhà bảo hiểm yêu cầu phải làm rõ các vấn đề liên quan đến bệnh tật, thương tật, tiểu sử gia đình của người được bảo hiểm (chẳng hạn: có bị bệnh bẩm sinh không? có mắc các chứng bệnh hiểm nghèo không?...). Nếu người được bảo hiểm không trung thực, nhà bảo hiểm có thể khước từ bảo hiểm hoặc huỷ bỏ hợp đồng. * Phạm vi bảo hiểm: s ốm đau, bệnh tật, thương tật, thai sản phải nằm viện hoặc phẫu thuật, chết trong quá trình nằm viện - phẫu thuật. s Tuy nhiên, có một số trường hợp sau không thuộc phạm vi bảo hiểm: + Điều dưỡng, an dưỡng. + Nằm viện kiểm tra sức khoẻ hoặc giám định y khoa mà không liên quan đến điều trị bệnh tật thương tật. + Điều trị những bệnh bẩm sinh, bệnh nghề nghiệp. + Tạo hình thẩm mỹ, chỉnh hình, phục hồi chức năng, làm chân tay giả, răng giả. + Kế hoạch hoá gia đình. + Say rượu, sử dụng ma tuý. + Chiến tranh… Phạm vi bảo hiểm thường được quy định rất cụ thể, tuỳ điều kiện thực tế mà mỗi nước, mỗi Công ty bảo hiểm vận dụng khác nhau. 1.3.3. Số tiền bảo hiểm và phí bảo hiểm. Số tiền bảo hiểm được các Công ty bảo hiểm ấn định ở nhiều mức khác nhau, giúp người tham gia dễ dàng lựa chọn cho phù hợp với khả năng tài chính của mình. Tuy nhiên, sau khi triển khai được một số năm, họ sẽ xác định được số tiền bảo hiểm phổ cập phù hợp với nhu cầu của đại đa số dân chúng. Phí bảo hiểm trợ cấp nằm viện - phẫu thuật phụ thuộc vào độ tuổi, giới tính, số tiền bảo hiểm, thời gian bảo hiểm, tình trạng sức khoẻ và phạm vi bảo hiểm… 2. Sự cần thiết khách quan của bảo hiểm kết hợp con người . Mỗi nghiệp vụ bảo hiểm con người có đối tượng và phạm vi bảo hiểm khác nhau. Với mỗi cá nhân, khả năng xảy ra các loại rủi ro là có thể, do vậy nếu có nhu cầu tham gia bảo hiểm cho mọi sự cố rủi ro thì có thể tham gia đồng thời cả ba đơn bảo hiểm (bảo hiểm sinh mạng cá nhân, bảo hiểm tai nạn con người 24/24, bảo hiểm trợ cấp nằm viện - phẫu thuật). Việc tham gia này sẽ giúp khách hàng có thể yên tâm hơn rất nhiều. Đồng thời, các Công ty bảo hiểm cũng luôn hoan nghênh và sẵn sàng giảm phí trong những trường hợp đó. Tuy nhiên, việc tham gia đồng thời cả ba đơn bảo hiểm con người trên thường dẫn đến một số hạn chế nhất định trong việc tiến hành quản lý hồ sơ tài liệu, có sự trùng lặp không cần thiết về phạm vi và quyền lợi bảo hiểm, có thể dẫn đến ý đồ trục lợi của khách hàng. Cụ thể: khi tham gia ba nghiệp vụ riêng thì đòi hỏi mỗi khách hàng cần cá ba bộ hồ sơ khách nhau, nếu thử làm phép nhân đơn giản với số lượng người tham gia (mà nguyên tắc bảo hiểm phải đảm bảo quy luật số đông bù số ít) thì chi phí cho việc quản lý kinh doanh của các Công ty trội lên rất nhiều làm ảnh hưởng đến hiệu quả và kết quả kinh doanh, đồng thời dễ dẫn đến việc nhầm lẫn về phạm vi và quyền lợi bảo hiểm, gây tâm lý không thoải mái cho người tham gia. Hơn nữa, khi tham gia đồng thời các nghiệp vụ riêng lẻ thì nội dung của các quy tắc có điểm trùng lặp, gây khó khăn cho việc triển khai, khi có sự cố bảo hiểm liên quan đến trách nhiệm bảo hiểm của nhiều hợp đồng xảy ra thì việc thực hiện nghĩa vụ bồi thường là độc lập nhau. Từ những khó khăn trên, các Công ty bảo hiểm đã nghiên cứu nảy sinh ý tưởng và lập ra kế hoạch kết hợp ba nghiệp vụ bảo hiểm trên lại để cho ra đời một nghiệp vụ mới mang tính chất khoa học và tính khả thi hơn đó là Nghiệp vụ bảo hiểm kết hợp con người. Từ khi được triển khai đến nay nghiệp vụ bảo hiểm kết hợp con người đã chứng tỏ được vai trò của mình đối với người tham gia và đối với Công ty bảo hiểm, khẳng định sự tồn tại của mình trên thị trường bảo hiểm. Do đáp ứng được tốt hơn nhu cầu của người tham gia nên bảo hiểm kết hợp con người ngày càng trở nên gần gũi thân thiết với các tầng lớp nhân dân. Phạm vi bảo hiểm được bao trùm rộng rãi hơn từng bảo hiểm con người riêng lẻ trên nên nó tránh được việc gây ra cho khách hàng cảm giác hẫng hụt khi không may gặp phải rủi ro, giúp họ bù đắp, khắc phục những khó khăn về tài chính, sức khoẻ, tâm lý nhanh chóng gượng dậy sau những rủi ro xảy ra. Điều này mang ý nghĩa xã hội nhân văn cao cả. 3. Nội dung cơ bản của nghiệp vụ bảo hiểm kết hợp con người. Xuất phát từ nhu cầu thực tế của khách hàng khi tham gia bảo hiểm cũng như nhằm tránh những sự trùng lặp không cần thiết gây khó khăn cho việc triển khai, nghiệp vụ bảo hiểm kết hợp con người - một trong các nghiệp vụ BHTM về con người, cùng với sự đồng ý của Bộ Tài chính, các Công ty bảo hiểm đã ban hành: Quy tắc bảo hiểm sinh mạng cá nhân, quy tắc bảo hiểm tai nạn con người 24/24, quy tắc bảo hiểm trợ cấp nằm viện - phẫu thuật. Hay nói cách khác, nghiệp vụ bảo hiểm kết hợp con người trên cơ sở kết hợp ba nghiệp vụ bảo hiểm con người riêng lẻ: bảo hiểm sinh mạng cá nhân, bảo hiểm tai nạn con người 24/24, bảo hiểm trợ cấp nằm viện - phẫu thuật, có loại trừ những điểm trùng lặp. 3.1 Đối tượng và phạm vi bảo hiểm. 3.1.1. Đối tượng bảo hiểm. s Các Công ty bảo hiểm nhận bảo hiểm cho mọi công dân Việt Nam. s Trường hợp loại trừ: Những người bị bệnh tâm thần, phong, ung thư; những người bị tàn phế hoặc thương tật vĩnh viễn từ 50% trở lên… 3.1.2. Phạm vi bảo hiểm. s Những rủi ro thuộc phạm vi bảo hiểm của nghiệp vụ bảo hiểm kết hợp con người gồm có: + Trường hợp chết do mọi nguyên nhân ốm đau, bệnh tật, không phải do tai nạn. (Điều kiện bảo hiểm A). + Trường hợp chết hoặc thương tật thân thể do tai nạn (Điều kiện bảo hiểm B). + Trường hợp ốm đau, bệnh tật, thai sản phải nằm viện điều trị nội trú hoặc phẫu thuật (Điều kiện bảo hiểm C). s Trong mọi trường hợp, Công ty bảo hiểm không chịu trách nhiệm đối với những rủi ro xảy ra với đối tượng bảo hiểm do những nguyên nhân sau: + Hành động cố ý gây tai nạn hoặc tử vong. + Người được bảo hiểm vi phạm pháp luật. + Bị ảnh hưởng của rượu bia ma tuý và các chất kích thích tương tự khác. + Người được bảo hiểm điều trị hoặc sử dụng thuốc không theo hướng dẫn của cơ sở y tế. + Điều dưỡng, an dưỡng hoặc nằm viện để kiểm tra sức khoẻ hoặc giám định khoa mà không liên quan đến việc điều trị bệnh tật. + Điều trị hoặc phẫu thuật các bệnh tật bẩm sinh, bệnh nghề nghiệp. + Tạo hình thẩm mỹ, chỉnh hình, phục hồi chức năng, làm chân tay giả, mắt giả. + Điều trị chưa được khoa học công nhận hoặc điều trị thử nghiệm. + Kế hoạch hoá gia đình. + Động đất, núi lửa, nhiễm phóng xạ. + Chiến tranh, nội chiến, đình công, khủng bố. 3.2. Số tiền bảo hiểm và phí bảo hiểm. 3.2.1. Số tiền bảo hiểm. Số tiền bảo hiểm là giới hạn trách nhiệm tối đa của nhà bảo hiểm đối với người được bảo hiểm trong những điều kiện nhất định đã được thoả thuận trong hợp đồng bảo hiểm. Ví dụ: Theo điều khoản kết hợp về bảo hiểm con người, khách hàng có thể đăng ký tham gia với số tiền bảo hiểm ứng với các điều kiện bảo hiểm sau: - Điều kiện bảo hiểm C: Số tiền bảo hiểm từ 1.000.000đ/người/vụ đến 10.000.000đ/người/vụ. - Điều kiện bảo hiểm B: Số tiền bảo hiểm từ 1.000.000đ/người/vụ đến 20.000.000đ/người/vụ. - Điều kiện bảo hiểm A: Số tiền bảo hiểm từ 1.000.000đ/người/vụ đến 10.000.000đ/người/vụ. 3.2.2. Phí bảo hiểm. Phí bảo hiểm bao gồm hai phần cơ bản: phí thuần và phụ phí. - Phí thuần: Là khoản phí phải thu cho phép người bảo hiểm đảm bảo chi trả bồi thường cho các tổn thất được bảo hiểm có thể xảy ra phí thuần được xác định dựa trên cơ sở chính là tần suất xuất hiện rủi ro tổn thất và chi phí trung bình về bồi thường của người được bảo hiểm cho mỗi tổn thất qua việc thống kê một số lượng lớn các rủi ro cùng loại trong 1 khoảng thời gian xác định, phù hợp (thường là 5 năm trước đó). - Phụ phí: Là khoản phí cần thiết để người bảo hiểm đảm bảo cho các khoản chi trong hoạt động nghĩa vụ bảo hiểm như: chi trả hoa hồng, chi quản lý kinh doanh, chi đề phòng hạn chế tổn thất, chi thuế nhà nước. Tình trạng sức khoẻ và xác suất gặp rủi ro của con người ở các độ tuổi khác nhau là khác nhau. Không thể áp dụng một mức phí đóng chung cho mọi độ tuổi mà cần xây dựng một biểu phí với các tỷ lệ phù hợp với nhóm tuổi, từng điều kiện bảo hiểm. Đối với hợp đồng tập thể, nhóm tuổi dùng làm cơ sở tính phí được lấy theo tuổi bình quân của các thành viên trong tập thể đó. Tuy nhiên khi triển khai còn phải phụ thuộc vào kết quả hoạt động kinh doanh và quy tắc bảo hiểm mà mỗi Công ty bảo hiểm có cách tính tỷ lệ phí khác nhau cho phù hợp với khả năng chi trả, bồi thường của mình. Phí bảo hiểm được tính như sau: Phí bảo hiểm/người/năm = Số tiền bảo hiểm x Tỷ lệ phí bảo hiểm 3.3 Chi trả tiền bảo hiểm. Bảo hiểm kết hợp con người áp dụng nguyên tắc bồi thường. Số tiền chi trả được xây dựng trên cơ sở chi phí thực tế phát sinh, vì thế phần lớn các Công ty bảo hiểm đều chi trả tiền bảo hiểm theo định mức. Tất cả các định mức đều phải được ghi trong hợp đồng. chương II thực trạng triển khai nghiệp vụ bảo hiểm kết hợp con người tại phòng bảo hiểm khu vực 6 – chi nhánh bảo minh hà nội I. Sự hình thành và phát triển của phòng bảo hiểm khu vực 6 Chi nhánh Bảo Minh Hà Nội. 1. Sự hình thành và phát triển. Công ty bảo hiểm thành phố Hồ Chí Minh (gọi tắt là Bảo Minh) là một doanh nghiệp nhà nước, trực thuộc Bộ Tài chính, được thành lập theo quyết định số 1164/TC/QĐ/TCCB ngày 28/11/1994 của Bộ trưởng Bộ tài chính, được phép hoạt động kinh doanh mọi dịch vụ bảo hiểm trên phạm vi toàn lãnh thổ Việt Nam và quốc tế. Hoà chung với tiến trình hội nhập khu vực và tham gia tổ chức WTO, nhà nước đã cho phép các Công ty bảo hiểm có vốn đầu tư nước ngoài hoạt động kinh doanh tại Việt Nam. Việc cung cấp bảo hiểm của họ với trình độ kĩ thuật cao, công nghệ mới đã đặt các Công ty bảo hiểm Việt Nam trước những thách thức, cạnh tranh cao. Để tăng cường lợi thế cạnh tranh, giữ vững thị phần, đáp ứng nhanh chóng nhu cầu bảo hiểm của khách hàng, Bảo Minh tiếp tục phát triển mạng lưới cộng tác viên. Song song với việc củng cố và hoàn thiện các Chi nhánh, nâng cao năng suất lao động và trình độ quản lý, đồng thời học hỏi phát triển kĩ thuật công nghệ bảo hiểm nước ngoài. Đặc biệt, luôn quan tâm đến việc cải tiến và mở rộng các loại sản phẩm bảo hiểm, các điều khoản, quy tắc bảo hiểm được cập nhật, sửa đổi bổ sung theo nhu cầu và phù hợp với tình hình mới. Sau hơn 5 năm hoạt động, Bảo Minh đã thiết lập được mạng lưới phục vụ trải rộng khắp toàn quốc, bao gồm 22 Chi nhánh, 7 văn phòng đại diện, hơn 20 đại lý chuyên nghiệp tại các tỉnh, thành phố và hàng ngàn cộng tác viên chuyên nghiệp. Trong đó Chi nhánh Bảo Minh tại Hà Nội được thành lập năm 1995. Cho đến nay (2003) Bảo Minh có 37 Chi nhánh, 8 văn phòng đại diện tại các tỉnh thành phố. Trên thực tế, tiềm năng của thị trường bảo hiểm Việt Nam còn rất phong phú. Tỷ lệ khai thác các nghiệp vụ bảo hiểm của Bảo Minh so với tiềm năng là rất nhỏ. Đặc biệt là ở các trung tâm, các thành phố lớn như: Hà Nội, thành phố Hồ Chí Minh. Chính vì vậy, năm 1996 Chi nhánh Bảo Minh Hà Nội đã thành lập các văn phòng đại diện. Và văn phòng khu vực 6 được thành lập vào tháng 04 năm 1996 với đội ngũ nhân viên, cùng mạng lưới đại lý và cộng tác viên chuyên nghiệp có chuyên môn cao. Các văn phòng đại diện được thành lập đã giúp cho Công ty giảm bớt gánh nặng quản lý và làm cho công tác quản lý được sâu sát hơn. Nhờ vào công nghệ tin học, các công việc như: cập nhật giấy yêu cầu, hoá đơn thu phí, được thực hiện tại các văn phòng đại diện nói chung và văn phòng khu vực 6 nói riêng, đã làm giảm bớt gánh nặng cho Công ty. Văn phòng bảo hiểm khu vực 6 đã cung cấp dịch vụ tốt hơn đối với khách hàng tham gia bảo hiểm - đặc biệt là thông qua việc phục vụ khách hàng nhanh chóng, thuận tiện khi tham gia cũng như yêu cầu giải quyết quyền lợi bảo hiểm, nhận giá trị giải ước. Nhờ vậy văn phòng khu vực 6 đã khai thác được phần lớn thị trường bảo hiểm ở Hà Nội, đặc biệt là nghiệp vụ bảo hiểm kết hợp con người. * Các nghiệp vụ được triển khai tại văn phòng khu vực 6 - Chi nhánh Bảo Minh Hà Nội: s Bảo hiểm xe cơ giới. s Bảo hiểm tài sản. s Bảo hiểm du lịch. sBảo hiểm cháy nổ… s Bảo hiểm con người. 2. Sơ đồ bộ máy tổ chức của Chi nhánh Bảo Minh Hà Nội- phòng bảo hiểm khu vực 6. Giám Đốc Phó Giám Đốc Phó Giám Đốc Phòng Hàng Hải Phòng Đ.tư Kỹ thuật Phòng Phi Hàng Hải Phòng Quản lý đại lý, CNV Phòng Kế toán- Tài vụ Phòng Tổng hợp, tổ chức cán bộ P. bảo hiểm khu vực 5 P. bảo hiểm khu vực 6 P. bảo hiểm khu vực 8 P. bảo hiểm khu vực 7 II. Quy tắc bảo hiểm kết hợp con người của Công ty Bảo Minh. 1. Đối tượng và phạm vi bảo hiểm . 1.1. Đối tượng bảo hiểm. s Công ty Bảo Minh nhận bảo hiểm cho mọi công dân Việt Nam và người nước ngoài đang sinh sống, làm việc tại Việt Nam từ 18 tuổi đến 65 tuổi. s Tuy nhiên Bảo Minh không nhận bảo hiểm cho các đối tượng: + Những người bị bệnh tâm thần, phong, ung thư. + Những người bị tàn phế hoặc thương tật vĩnh viễn từ 50% trở lên. + Những người đang trong thời gian điều trị bệnh tật, thương tật. 1.2. Phạm vi bảo hiểm. s Phạm vi địa lý được bảo hiểm của bảo hiểm này là lãnh thổ Việt Nam. s Bảo Minh chỉ bồi thường cho người được bảo hiểm trong những trường hợp sau: + Phạm vi bảo hiểm A: Chết do mọi nguyên nhân. + Phạm vi bảo hiểm B: Thương tật thân thể do tai nạn. + Phạm vi bảo hiểm C: ốm đau. s Các điểm loại trừ: Bảo Minh không trả tiền bảo hiểm trong những trường hợp sau hoặc gây ra bởi: + Hành động cố ý của người được bảo hiểm hoặc người thừa kế hợp pháp (Trừ trường hợp người thừa kế là trẻ em dưới 14 tuổi). + Người được bảo hiểm bị ảnh hưởng trực tiếp do sử dụng rượu, bia, ma tuý hoặc các chất kích thích tương tự khác. + Người được bảo hiểm vi phạm nghiêm trọng pháp luật, nội quy, quy định của chính quyền địa phương hoặc các tổ chức xã hội. + Điều trị hoặc sử dụng thuốc không theo hướng dẫn của cơ sở y tế. + Trường hợp điều dưỡng an dưỡng. + Nằm viện để kiểm tra sức khoẻ hoặc giám định y khoa mà không liên quan đến việc điều trị bệnh tật. + Điều trị hoặc phẫu thuật các bệnh tật bẩm sinh, những thương tật và chỉ định phẫu thuật có từ trước ngày bắt đầu bảo hiểm. + Điều trị chưa được công nhận hoặc điều trị thử nghiệm. + Tạo hình thẩm mỹ, chỉnh hình, phục hồi chức năng, làm chân tay giả, mắt giả, răng giả. + KHHGĐ. + Những bệnh đặc biệt (ung thư và u các loại, cao hay hạ huyết áp, tim mạch, viêm loét dạ dày, viêm đa khớp mãn tính, viêm màng trong dạ con, trĩ, sỏi các loại trong hệ thống bài tiết, lao phổi, đục nhân mắt, viêm xoang). + Những bệnh có sẵn (Tất cả những bệnh tật trên phương diện y học đã tồn tại hoặc có nguồn gốc từ trước ngày hiệu lực của hợp đồng bảo hiểm đầu tiên). Tuy nhiên những điểm loại trừ này chỉ được áp dụng trong năm đầu tiên kể từ ngày bắt đầu bảo hiểm đối với hợp đồng bảo hiểm nhóm dưới 50 thành viên và không áp dụng đối với hợp đồng bảo hiểm nhóm có từ 50 thành viên trở lên. + Người được bảo hiểm mắc các bệnh giang mai, lậu, nhiễm virut HIV, sốt rét, lao và bệnh nghề nghiệp. + Các hoạt động hàng không (Trừ khi với tư cách là khách có vé), các cuộc diễn tập, huấn luyện quân sự, tham gia chiến đấu của các lực lượng vũ trang. + Người được bảo hiểm tham gia đánh nhau trừ khi được xác nhận đó là hành động tự vệ. + Động đất, núi lửa, chiến tranh, nội chiến, đình công, khủng bố. 1.3. Lựa chọn phạm vi bảo hiểm: Người được bảo hiểm có quyền chọn tham gia các phạm vi bảo hiểm trên, tuy nhiên phải tham gia ít nhất hai trong ba phạm vi bảo hiểm. Trường hợp chỉ tham gia phạm vi bảo hiểm B và C, phạm vi bảo hiểm B sẽ tự động mở rộng bảo hiểm cho sự kiện bảo hiểm “Chết do tai nạn”. Trong trường hợp này, tỷ lệ phí của phạm vi bảo hiểm B tăng thêm 0.05%/năm. 2. Số tiền bảo hiểm và phí bảo hiểm. * Số tiền bảo hiểm: Người tham gia bảo hiểm có quyền lựa chọn số tiền bảo hiểm trong phạm vi từ 1000.000đ đến 20.000.000đ/người. * Phí bảo hiểm : Tình trạng sức khoẻ và xác suất gặp rủi ro của con người ở độ tuổi khác nhau là khác nhau. Bảo Minh không thể áp dụng một mức phí đóng chung cho mọi độ tuổi mà phải xây dựng một biểu phí với các tỷ lệ phù hợp với từng nhóm tuổi, từng phạm vi bảo hiểm. Phí bảo hiểm/người/năm = Số tiền bảo hiểm x Tỷ lệ phí bảo hiểm Bảng tỷ lệ phí bảo hiểm Tuổi Phạm vi 18-40 41-60 61-65 Phạm vi bảo hiểm A 0.34% 1.30% 1.58% Phạm vi bảo hiểm B 0.23% 0.23% 0.23% Phạm vi bảo hiểm C 0.40% 0.63% 1.00% Tỷ lệ phí ngắn hạn (áp dụng trong trường hợp tham gia dưới 01năm): Đến 03 tháng : 30% phí cả năm. Đến 06 tháng : 60% phí cả năm. Đến 09 tháng : 85% phí cả năm. Trên 09 tháng : 100% phí cả năm. Đối với hợp đồng bảo hiểm nhóm có từ 50 thành viên trở lên, tuổi trung bình của nhóm thuộc vào nhóm tuổi nào đó thì áp dụng tỷ lệ phí của nhóm tuổi đó cho tất cả các thành viên trong nhóm. 3. Hợp đồng bảo hiểm và hiệu lực bảo hiểm. 3.1. Hợp đồng bảo hiểm. Khi có yêu cầu tham gia bảo hiểm, Công ty Bảo Minh sẽ cấp hợp đồng bảo hiểm nhóm kèm theo danh sách các cá nhân được bảo hiểm. Trường hợp có yêu cầu, Công ty Bảo Minh cũng cấp giấy chứng nhận cho mỗi cá nhân tham gia trong hợp đồng bảo hiểm nhóm. Đối với hợp đồng bảo hiểm tái tục, hợp đồng bảo hiểm có hiệu lực ngay sau khi người được bảo hiểm đã đóng phí đầy đủ trừ khi có thoả thuận khác. Đối với hợp đồng bảo hiểm đầu tiên và hợp đồng bảo hiểm không liên tục, hiệu lực bảo hiểm tuân theo các quy định sau, trừ khi có thoả thuận khác: - Phạm vi bảo hiểm A (Chết do mọi nguyên nhân): chỉ có hiệu lực bảo hiểm sau 30 ngày kể từ ngày đóng phí bảo hiểm đối với từng trường hợp chết không do tai nạn. Trường hợp chết do tai nạn, bảo hiểm có hiệu lực ngay sau khi người được bảo hiểm đóng phí bảo hiểm đầy đủ. - Phạm vi bảo hiểm B (Thương tật thân thể do tai nạn): bảo hiểm có hiệu lực ngay sau khi người được bảo hiểm đóng phí bảo hiểm đầy đủ. - Phạm vi bảo hiểm C (ốm đau, bệnh tật, thai sản phải nằm viện hoặc phẫu thuật): + Trường hợp ốm đau bệnh tật (Không phải do tai nạn) bảo hiểm chỉ có hiệu lực sau 30 ngày kể từ ngày người được bảo hiểm đóng phí bảo hiểm đầy đủ. + Trường hợp sảy thai, nạo thai theo chỉ định của Bác sỹ, lấy u nang buồng trứng, điều trị thai sản: bảo hiểm chỉ có hiệu lực sau 90 ngày kể từ ngày người được bảo hiểm đóng phí bảo hiểm đầy đủ. + Trường hợp sinh đẻ: bảo hiểm chỉ có hiệu lực sau 270 ngày kể từ ngày người được bảo hiểm đóng phí bảo hiểm đầy đủ. Các quy định đối với phạm vi bảo hiểm C của điều này không áp dụng đối với hợp đồng bảo hiểm nhóm 50 thành viên trở lên. 3.2. Hiệu lực bảo hiểm. Trường hợp một trong hai bên đề nghị chấm dứt hợp đồng bảo hiểm, bên yêu cầu chấm dứt phải thông báo bằng văn bản cho bên kia trước 30 ngày kể từ ngày có ý định chấm dứt. Nếu hợp đồng được hai bên thoả thuận chấm dứt, Công ty Bảo Minh sẽ hoàn trả 80% phí bảo hiểm của thời gian hiệu lực còn lại, với điều kiện đến thời điểm đó hợp đồng bảo hiểm này chưa có lần nào được Công ty Bảo Minh chấp nhận trả tiền bồi thường. 4. Quyền lợi và trách nhiệm của người được bảo hiểm. 4.1. Quyền lợi của người được bảo hiểm. - Trường hợp có tham gia phạm vi bảo hiểm A, người được bảo hiểm chết thuộc phạm vi bảo hiểm, Công ty Bảo Minh trả toàn bộ số tiền bảo hiểm ghi trong phạm vi bảo hiểm A. Trường hợp không tham gia phạm vi bảo hiểm A, người được bảo hiểm chết do tai nạn, Công ty Bảo Minh trả toàn bộ số tiền ghi trong phạm vi bảo hiểm B. - Trường hợp người được bảo hiểm bị thương tật thân thể do tai nạn (Thương tật vĩnh viễn và thương tật tạm thời) thuộc phạm vi bảo hiểm: Công ty Bảo Minh trả tiền bảo hiểm theo tỷ lệ phần trăm của số tiền bảo hiểm thuộc phạm vi bảo hiểm B được quy định tại bảng tỷ lệ trả tiền bảo hiểm thương tật do Công ty Bảo Minh ban hành. - Trường hợp người được bảo hiểm bị ốm đau, bệnh tật, thai sản (Không phải do tai nạn) và phải: + Nằm viện thuộc phạm vi bảo hiểm, Công ty Bảo Minh trả mỗi ngày 0.5% số tiền bảo hiểm thuộc phạm vi bảo hiểm C nhưng không quá 60 ngày/năm bảo hiểm. Trường hợp nằm điều trị tại bệnh viện đông y, Công ty Bảo Minh trả mỗi ngày tối đa 0.2% số tiền bảo hiểm thuộc phạm vi bảo hiểm C nhưng không vượt quá 150 ngày/năm bảo hiểm. Quy định rằng tổng số tiền bảo hiểm được trả cho tất cả những ngày nằm viện trong năm trong mọi trường hợp không quá 30% số tiền bảo hiểm thuộc phạm vi bảo hiểm C. 4.2. Trách nhiệm của người được bảo hiểm. - Kê khai trung thực, đầy đủ các khoản mục quy định trong giấy yêu cầu bảo hiểm và nộp phí bảo hiểm. - Khi xảy ra sự kiện bảo hiểm, người được bảo hiểm hoặc thân nhân của họ phải áp dụng các biện pháp cần thiết và có thể thực hiện được để ngăn ngừa hạn chế tổn thất. - Trung thực trong việc khai báo và cung cấp đầy đủ các chứng từ liên quan đến sự kiện bảo hiểm. 5. Thủ tục trả tiền bảo hiểm. 5.1. Hồ sơ yêu cầu bảo hiểm. Khi yêu cầu Công ty Bảo Minh trả tiền bảo hiểm, người được bảo hiểm hoặc người thừa kế hợp pháp phải gửi cho Công ty Bảo Minh các chứng từ sau: - Giấy yêu cầu trả tiền bảo hiểm theo mẫu của Công ty Bảo Minh. - Giấy chứng nhận bảo hiểm hoặc hợp đồng bảo hiểm (Bản sao). - Biên bản tai nạn có xác nhận của cơ quan, chính quyền địa phương hoặc công an nơi người được bảo hiểm bị tai nạn. - Các chứng từ y tế, giấy ra viện, phiếu điều trị (Trường hợp điều trị nội trú), phiếu mổ (Trường hợp phẫu thuật) do người có thẩm quyền của cơ sở y tế ký đóng dấu. - Giấy chứng tử (Trường hợp người được bảo hiểm bị chết). Trường hợp người được bảo hiểm uỷ quyền cho người khác nhận tiền bảo hiểm, phải có giấy uỷ quyền hợp pháp. 5.2. Trả tiền bảo hiểm. Tiền bảo hiểm được trả cho người được bảo hiểm hoặc người được người bảo hiểm uỷ quyền. Trường hợp người được bảo hiểm bị chết thì người thừa kế hợp pháp được nhận số tiền đó. 5.3. Thời hạn thông báo sự kiện bảo hiểm và thời hạn yêu cầu trả tiền bảo hiểm. Trong vòng 30 ngày kể từ thời điểm xảy ra sự kiện bảo hiểm, người được bảo hiểm hoặc người thừa kế hợp pháp phải thông báo cho Công ty bảo hiểm bằng văn bản. Trong vòng 1 năm kể từ thời điểm xảy ra sự kiện bảo hiểm, người được bảo hiểm hoặc người thừa kế hợp pháp phải gửi đến Công ty Bảo Minh hồ sơ yêu cầu trả tiền bảo hiểm. Quá thời hạn trên, người được bảo hiểm hoặc người thừa kế hợp pháp sẽ mất quyền yêu cầu trả tiền bảo hiểm trừ trường hợp bất khả kháng. 5.4. Thời hạn giải quyết yêu cầu trả tiền bảo hiểm. Công ty Bảo Minh có trách nhiệm xem xét, giải quyết và thanh toán tiền bảo hiểm trong vòng 15 ngày kể từ khi nhận được đầy đủ hồ sơ hợp lệ, trừ khi có thoả thuận khác. 5.5. Thời hạn khiếu nại và thời hiệu khởi kiện. Thời hạn người được bảo hiểm hoặc người thừa kế hợp pháp khiếu nại Công ty bảo hiểm về quyết định trả tiền bảo hiểm là 06 tháng kể từ ngày người được bảo hiểm hoặc người thừa kế hợp pháp nhận được thông báo trả tiền bảo hiểm. Thời hiệu khởi kiện về hợp đồng bảo hiểm là 03 năm kể từ ngày phát sinh tranh chấp. 5.6. Giải quyết tranh chấp. Mọi tranh chấp có liên quan đến quy tắc bảo hiểm này, nếu các bên không thoả thuận được bằng thương lượng thì một trong hai bên được quyền đưa ra giải quyết tại cơ quan pháp luật Nhà nước, nơi người được bảo hiểm cư trú tại Việt Nam. III. Tình hình triển khai nghiệp vụ bảo hiểm kết hợp con người tại phòng bảo hiểm khu vực 6 - Chi nhánh Bảo Minh Hà Nội. 1. Công tác khai thác. Khai thác bảo hiểm là khâu đầu tiên trong quy trình triển khai một nghiệp vụ bảo hiểm cụ thể, là một trong ba công đoạn quan trọng trong khi thực hiện quá trình cung ứng sản phẩm bảo hiểm đến tay người tiêu dùng: khai thác, giám định, bồi thường. Nó quyết định đến doanh thu và hiệu quả kinh doanh của nghiệp vụ, do vậy đây là khâu mà bất kỳ Công ty bảo hiểm nào cũng phải quan tâm. Có thể thấy sản phẩm bảo hiểm vốn rất đặc biệt, tính hữu dụng của nó không thể thấy ngay khi khách hàng mua bảo hiểm, đó chỉ là lời hứa đảm bảo về mặt tài chính cho người tham gia khi có sự kiện bảo hiểm (rủi ro thuộc phạm vi bảo hiểm) xảy ra, do vậy nó đóng vai trò quan trọng rong công việc triển khai nghiệp vụ, lôi kéo khách hàng tham gia, từ đó đảm bảo được quy luật “số đông bù số ít”. Khi lượng khách hàng tham gia lớn thì doanh thu phí theo đó mà tăng lên, hiệu quả kinh doanh của nghiệp vụ được đảm bảo, góp phần tạo thế ổn định, an toàn cho toàn bộ hoạt động kinh doanh của Công ty. Nhờ đó có thể giảm phí cho người tham gia, thu hút sự tham gia ngày càng đông đảo của tầng lớp dân cư. Trong điều kiện hiện nay, để có thể tồn tại, phát triển, đòi hỏi phải có các chính sách tuyên truyền quảng cáo, dịch vụ khách hàng phù hợp để khách hàng có thể biết về sản phẩm bảo hiểm, về Công ty và có cơ hội lựa chọn sản phẩm, Công ty bảo hiểm khác nhau. Khi khách hàng chọn mua sản phẩm, thường đồng nghĩa với việc họ đã gửi gắm niềm tin vào Công ty. Cũng như nghiệp vụ bảo hiểm khác, khâu khai thác của bảo hiểm kết hợp con người bao gồm việc sử dụng các chính sách vận động tuyên truyền, quảng cáo, chính sách phân phối, chính sách giá cả. Trong đó được coi là quan trọng hơn cả vẫn là chính sách vận động tuyên truyền, quảng cáo. Nhận thức sâu sắc vấn đề trên, trong suốt những năm vừa qua cán bộ phòng bảo hiểm khu vực 6 cũng như toàn Công ty khá chú trọng thực hiện một cách thường xuyên, đều đặn công tác này. Công ty một mặt phối hợp với cơ quan thông tin đại chúng, tuyên truyền, quảng cáo ở khắp các khu vực, trên đài phát thanh, truyền hình, báo chí mặt khác tài trợ cho các hoạt động vui chơi thể thao, giải trí đồng thời dựng nhiều panô quảng cáo với các biểu tượng thống nhất, khẩu hiệu độc đáo, ấn tượng với người dân. Phòng bảo hiểm khu vực 6 còn kết hợp với các cán bộ ngành, các Công ty, xí nghiệp đóng trên địa bàn quận, thành phố tổ chức vận động tuyên truyền giúp các cán bộ công nhân viên hiểu rõ hơn về bảo hiểm với quyền lợi và trách nhiệm của mình đối với Công ty bảo hiểm. Có thể nói, các cán bộ của phòng đã có những đối sách hết sức khéo léo đối với khách hàng làm cho họ thực sự thấy được ý nghĩa của bảo hiểm, coi bảo hiểm là người bạn đồng hành của chính bản thân họ. Ngoài đội ngũ cán bộ chủ chốt, phòng bảo hiểm khu vực 6 còn có mạng lưới cộng tác viên, đại lý đông đảo, rộng khắp. Họ là những người am hiểu về hoạt động bảo hiểm nhiệt huyết và say mê công việc và quan trọng hơn nữa là sự gắn bó với Công ty, coi phòng, Công ty là bến đậu lâu dài của mình. Lực lượng đại lý, cộng tác viên góp phần vào việc thực hiện chính sách tuyên truyền, quảng cáo và phân phối sản phẩm bảo hiểm kết hợp con người cũng như các sản phẩm bảo hiểm khác. Họ cũng là người thay mặt Công ty đem sản phẩm đến tay người tiêu dùng, ấn tượng về họ cũng là ấn tượng đầu tiền về công ty. Nhờ có được sự quan tâm của Công ty, phòng đã xây dựng được hệ thống tổ chức phòng thống nhất. Các cán bộ bảo hiểm, đại lý, cộng tác viên nhiệt tình, có trình độ nghiệp vụ vững vàng để có thể tuyên truyền, giải thích, khuyến khích cho khách hàng tham gia. Công tác khai thác có ảnh hưởng đến các quá trình tiếp theo của nghiệp vụ, do vậy Công ty, văn phòng đã chú trọng thực hiện khâu này theo một quy trình thống nhất: + Lập kế hoạch khai thác cụ thể cho năm dựa trên cơ sở kết quả thực hiện của năm trước, nhận định về sự phát triển của nghiệp vụ trong thời gian tới và sự giao phó của Công ty. Thông qua việc thống kê các đơn vị tham gia bảo hiểm, phân tích các nhân tố ảnh hưởng đến kết quả đó, một số kế hoạch sát thực hơn với nhu cầu thị trường năm sau cũng như với tiềm lực của Công ty sẽ được xây dựng lên. + Sau khi đã kiểm tra, xem xét đối tượng tham gia bảo hiểm, nếu thấy có đầy đủ điều kiện, cán bộ bảo hiểm, cộng tác viên sẽ tiến hành cấp giấy chứng nhận bảo hiểm cho người tham gia bảo hiểm. Đối với một cơ quan hay một xí nghiệp có số lượng đáng kể người tham gia thì phòng sẽ dành cho họ một khoản hoa hồng nhất định cho người tham gia bảo hiểm ký kết hợp đồng và người đó sẽ có trách nhiệm với cả hai bên trong việc thông báo, giám sát hoạt động. Trong trường hợp người được bảo hiểm có yêu cầu điều chỉnh số lượng người tham gia bảo hiểm thì phải điều chỉnh số phí cho phù hợp và có thông báo người khách hàng, thanh toán dứt điểm số phí thu. Nếu khách hàng có yêu cầu hủy bỏ hợp đồng thì phải thông báo cho thủ trưởng cơ quan để kịp thời bãi bỏ hợp đồng và hoàn phí cho khách hàng theo quy định. Đối với nghiệp vụ bảo hiểm kết hợp con người, từ khi triển khai đến nay được sự hướng dẫn trực tiếp của ban lãnh đạo Công ty, sự giúp đỡ gián tiếp của Bộ tài chính, Tổng Công ty cũng như sự hưởng ứng nhiệt tình tham gia của các cơ quan, cá nhân, doanh nghiệp, phòng bảo hiểm khu vực 6 đã triển khai nghiệp vụ này như một ưu thế của phòng. Có thể thấy được điều đó qua bảng sau: Bảng2.1: Doanh thu nghiệp vụ bảo hiểm kết hợp con người so với tổng doanh thu nghiệp vụ của phòng bảo hiểm khu vực 6 giai đoạn 2000 - 2003. Năm Số người tham gia (người) Doanh thu phí n.vụ bhkhcn (1000 đ) Tổng doanh thu phí (1000 đ) Tỷ lệ phí bhkhcn/tổng phí (%) 2000 16.200 1.004.400 5.520.000 18,00 2001 16.347 1.001.879 5.200.000 19,27 2002 16.520 1.020.495 5.700.000 17,90 2003 16.752 1.023.651 6.150.000 16,65 (Nguồn: phòng bảo hiểm kv6) Theo bảng 2.1, có thể thấy doanh thu phí nghiệp vụ bảo hiểm kết hợp con người chiếm một tỷ lệ khá lớn và ổn định ở mức trung bình khoảng 18% so với tổng doanh thu phí của cả phòng trong khi số các nghiệp vụ mà phòng triển khai khá nhiều như: bảo hiểm tai nạn lái phụ xe, bảo hiểm xây dựng lắp đặt, bảo hiểm học sinh. Cùng với nghiệp vụ bảo hiểm học sinh, vốn cũng có tỷ trọng doanh thu cao (khoảng20% tổng doanh thu phí bảo hiểm), bảo hiểm kết hợp con người đã khẳng định ưu thế rõ rệt về nghiệp vụ bảo hiểm con người phi nhân thọ nói chung của phòng. Có được kết quả đó phải kể đến sự cố gắng phấn đấu của tất cả các cán bộ phòng cùng với các đại lý, cộng tác viên năng nổ nhiệt tình. Mỗi cán bộ bảo hiểm đều coi khách hàng là những người bạn có vai trò quan trọng tới sự thành bại của phòng, Công ty; bản thân mỗi cán bộ, nhân viên cũng có sự đổi mới phong cách phục vụ, làm cho khách hàng luôn tin tưởng và gắn bó với Công ty. Điều đó còn được thể hiện ở tỷ lệ lớn các hợp đồng bảo hiểm tái tục thường xuyên hàng năm. 2. Công tác giám định. Giám định là việc xác định thiệt hại thực tế của đối tượng bảo hiểm khi có rủi ro xảy ra nhằm mục đích giúp cho việc bồi thường được chính xác cả về mặt pháp lý lẫn nghiệp vụ bảo hiểm. Nói cách khác, đây là một trong những cơ sở quan trọng để thực hiện công tác bồi thường, có liên quan trực tiếp đến hoạt động của Công ty. Thực hiện tốt khâu này góp phần thể hiện rõ chất lượng của sản phẩm bảo hiểm mà Công ty, phòng triển khai. Nội dung giám định bao gồm các công việc sau: + Xác định tình hình rủi ro, tai nạn thực tế xảy ra. + Tìm nguyên nhân xảy ra tai nạn để làm rõ trách nhiệm của bảo hiểm. + Đánh giá mức độ thiệt hại của người được bảo hiểm. Có thể nói, đây là hoạt động khó khăn, phức tạp do phạm vi bảo hiểm rộng, rủi ro đa dạng. Với nghiệp vụ bảo hiểm kết hợp con người, đối tượng bảo hiểm đông và họ thường ký kết theo những hợp đồng lớn hoặc theo nhóm. Các cán bộ giám định không phải trực tiếp xuống hiện trường đối với tất cả các trường hợp mà có thể phối hợp với các đơn vị liên quan và pháp y để lập hồ sơ tai nạn, bệnh tật tại phòng cảnh sát giao thông, bệnh viện, cơ quan. Điều đó giúp cho Công ty giảm được phần nào sự phức tạp do đi lại, tiết kiệm được chi phí, thời gian liên lạc, nhưng đồng thời nó cũng dễ dẫn đến việc lập hồ sơ giả, không hợp thể lệ để đòi bồi thường. Do vậy, công tác xác minh hồ sơ cũng có những vị trí hết sức quan trọng. Chính công tác này đã sàng lọc được rất nhiều hồ sơ giả, không hợp lệ, loại trừ được khá nhiều cụ hồ sơ giả để trục lợi từ bảo hiểm. Xuất phát từ những đặc điểm đó, công tác giám định đòi hỏi sự chính xác cao, tính nhạy bén và trình độ nghiệp vụ, tinh thần trách nhiệm, đạo đức nghề nghiệp của các cán bộ cũng như sự đầu tư thích đáng nhằm củng cố và hoàn thiện quy trình. Được sự uỷ thác, giao phó của Công ty, cán bộ giám định của phòng luôn ý thức được trách nhiệm của mình, tự bản thân phải biết cách làm việc vừa phối hợp vừa độc lập, thu thập những thông tin cần thiết phục vụ cho công việc của mình, nâng cao tính độc lập, tự chịu trách nhiệm trong quá trình giám định. Với phòng bảo hiểm khu vực 6, tinh thần không ngại khó và tính chuyên môn cao trong công việc là điểm nổi bật. Khi nhận được thông báo có tai nạn xảy ra, cán bộ giám định không quản khó khăn để có mặt tại hiện trường, nắm bắt kịp thời vụ việc. Khi thiệt hại, số tiền bồi thường có thể lên tới 04 triệu đồng thì đòi hỏi phải giám định kỹ lưỡng, cẩn thận, cán bộ phòng và cán bộ Công ty sẽ phối hợp nhau cùng thực hiện công việc này, nếu số tiền nhỏ hơn 04 triệu thì cán bộ giám định của phòng phải trực tiếp thực hiện nhiệm vụ của giám định viên nhằm giúp cho công tác bồi thường của phòng được thực hiện một cách tốt nhất. Nhìn chung, trong thời gian vừa qua, phòng bảo hiểm đã chú trọng đến khâu này, thông qua đó phòng đã từ chối bồi thường nhiều vụ do phát hiện hành vi trục lợi của người tham gia, ngăn chặn được tình trạng thất thoát tài chính cho Công ty. Các vụ được phát hiện thường dừng lại ở mức độ từ chối bồi thường và việc từ chối cũng đòi hỏi sự tế nhị và khéo léo nhằm hạn chế dư luận và tạo điều kiện tái tục hợp đồng cho năm tiếp theo. Chính thái độ làm việc nghiêm túc, hợp lý hợp tình của cán bộ phòng đã gây được ấn tượng tốt cũng như tạo dựng niềm tin cho khách hàng. 3. Công tác bồi thường. Cùng với giám định, công tác bồi thường được tiến hành theo một quy trình (quy trình giám định bồi thường): Sau khi tổ chức giám định và lập biên bản giám định xong, giám định viên phải chuyển hồ sơ sang bộ phận bồi thường để tiến hành bồi thường trực tiếp cho khách hàng. Bồi thường là khâu cuối cùng của tất cả các nghiệp vụ bảo hiểm, là khâu thể hiện trách nhiệm lớn, rõ rệt nhất của Công ty bảo hiểm với người tham gia khi rủi ro xảy ra thuộc phạm vi bảo hiểm. Đây là công việc thuộc dịch vụ sau bán hàng, có tác động lớn đến uy tín của doanh nghiệp, do vậy nó giữ vai trò quan trọng không kém khâu khai thác. Công việc thiết thực nhất mà Công ty bảo hiểm dành cho khách hàng chính là bồi thường. Chỉ lúc này, người tham gia mới cảm nhận hết được tác dụng của sản phẩm bảo hiểm - loại sản phẩm dịch vụ vô hình. Căn cứ vào công tác này, khách hàng đánh giá được chất lượng dịch vụ của Công ty. Chính vì vậy mà Công ty Bảo Minh cũng như phòng bảo hiểm khu vực 6 rất chú trọng đến khâu này và coi đó như một công cụ cạnh tranh hữu hiệu. Trong quá trình hoạt động, phương châm “bồi thường nhanh chóng, chính xác kịp thời” luôn được cán bộ nhân viên của phòng áp dụng để giúp người tham gia khắc phục rủi ro, ổn định cuộc sống, tiếp tục tiến hành, phát triển sản xuất kinh doanh. Để đi đến việc chi trả bồi thường, phải có sự phối hợp với các khâu khác song việc chi trả bồi thường sẽ do một cán bộ bồi thường đảm nhiệm. Chính thái độ của nhân viên bồi thường này có ảnh hưởng trực tiếp đến sự nhìn nhận, đánh giá và tâm lý của người tham gia bảo hiểm. Trong điều kiện khó khăn về hoạt động khai thác, tình trạng cạnh tranh gay gắt giữa các Công ty bảo hiểm, thì việc mỗi Công ty tạo cho mình một ưu thế riêng là rất cần thiết. Từ đầu năm 1999 Bảo Minh đã có biện pháp nâng cao hiệu quả của công tác này, tăng cường phân cấp cho các đơn vị để giải quyết các sự kiện bảo hiểm. Cụ thể: nếu số tiền bồi thường thấp hơn hoặc bằng 04 triệu đồng thì phòng sẽ trực tiếp bồi thường cho khách hàng, nếu số tiền này vượt quá 04 triệu đồng thì sẽ chuyển lên Công ty để duyệt hồ sơ bồi thường nhưng vẫn là cán bộ bồi thường của phòng trực tiếp chi trả. Các sự kiện bảo hiểm xảy ra, khách hàng luôn được cán bộ phòng hướng dẫn tỉ mỉ để làm các thủ tục cần thiết ban đầu một cách nhanh chóng, được phân tích cặn kẽ mức độ thiệt hại, nhằm giải quyết sớm, thoả đáng việc bồi thường cũng như giảm bớt phiền hà cho khách hàng, nhờ vậy mà các mối quan hệ tốt đẹp giữa Công ty mà đại diện cụ thể là phòng bảo hiểm khu vực 6 và phía người tham gia được duy trì và tăng cường. Nhờ thực hiện tốt công tác này mà nghiệp vụ bảo hiểm kết hợp con người cũng như các nghiệp vụ bảo hiểm khác của phòng đã được sự hưởng ứng nhiệt tình của khách hàng, nhờ đó hoạt động của phòng được duy trì triển khai một cách tốt đẹp. Tình trạng khiếu nại, kiện tụng hầu như không xảy ra. Thời gian giải quyết bồi thường khá nhanh chóng và ngày càng được rút ngắn. không đến 15 ngày sau khi hoàn tất đầy đủ hồ sơ, phòng và Công ty đã giải quyết cho người tham gia. Có những trường hợp khách hàng gặp khó khăn về tài chính, được tạm ứng hoặc giải quyết ngay trong ngày giúp họ nhanh chóng khắc phục khó khăn, giảm bớt việc đi lại phiền hà cho khách hàng. Công tác bồi thường cũng là khâu mà tỷ lệ chi bồi thường và tỷ lệ bồi thường cao nhất. Để thấy rõ điều này, ta xem xét bảng sau: Bảng 2.2: Tình hình bồi thường nghiệp vụ bảo hiểm kết hợp con người ở VPKV6 Chỉ tiêu Năm Số người tham gia (Người) Xác suất rủi ro (%) Số vụ bồi thường (Vụ) Số tiền bồi thường (1000 đ) STBT bình quân (1000 đ) Doanh thu phí nghiệp vụ (1000 đ) Tỷ lệ chi bồi thường (%) 2000 16.200 11,29 1.572 671.299 427.035 1.004.400 66,84 2001 16.347 11,67 1.608 664.428 413.202 1.001.879 66,32 2002 16.457 11,37 1.665 716.451 430.301 1.020.495 70,21 2003 16.752 11,49 1.664 681.110 409.321 1.023.561 66,54 (Nguồn:PhòngbảohiểmKV6) Như vậy, từ năm 2000 đến nay, số vụ bồi thường của nghiệp vụ bảo hiểm kết hợp con người ngày một tăng, năm sau cao hơn năm trước, tổng số tiền bồi thường cũng có xu hướng tăng lên. Nếu như năm 2000, số vụ bồi thường là 1.572 vụ thì sang năm 2001 con số đó đã lên tới 1.608 vụ. Tuy nhiên, số tiền bồi thường bình quân một vụ lại có xu hướng giảm đi. So sánh giữa năm 2000 và 2001 ta thấy: tuy số vụ bồi thường tăng 136 vụ nhưng tổng số tiền bồi thường lại giảm 6.871 triệu đồng, số tiền bồi thường bình quân/vụ giảm từ 427.035 đ/vụ xuống còn 413.202 đ/vụ. Sang các năm 2002, 2003 số vụ bồi thường vẫn tiếp tục tăng lên và số tiền bồi thường bình quân/vụ cũng theo xu hướng giảm. Có ý kiến cho rằng phải chăng phòng đã mất dần những khách hàng có thu nhập cao, tham gia bảo hiểm với mức trách nhiệm cao mà thay vào đó là những khách hàng mua bảo hiểm với mức trách nhiệm thấp? Thực tế không hẳn là như vậy, việc khách hàng tham gia bảo hiểm với mức trách nhiệm cao hay thấp không ảnh hưởng xác suất và mức độ nghiêm trọng của rủi ro xảy ra, nó chỉ ảnh hưởng đến việc chi trả tiền bồi thường trong trường hợp người tham gia gặp rủi ro về tính mạng phải nằm viện. Qua phân tích tình hình bồi thường của nghiệp vụ này cho thấy, sự hiểu biết của người dân về loại hình bảo hiểm này ngày càng cao, họ đã biết nhiều hơn về quyền lợi mà mình được hưởng khi tham gia bảo hiểm. Do vậy, khi có tai nạn, rủi ro xảy ra, số khách hàng đến đòi quyền lợi bảo hiểm ngày càng tăng dần dẫn đến số vụ bồi thường mà phòng giải quyết nhiều hơn trước. Bên cạnh đó, do Công ty làm tốt công tác đề phòng hạn chế tổn thất nên mức độ nghiêm trọng của các vụ tai nạn đã được giảm đi rất nhiều. Điều đó không những đem lại hiệu quả cho Công ty bảo hiểm do giảm được chi phí bồi thường mà còn có một ý nghĩa sâu xa hơn, thể hiện thái độ tôn trọng đề cao con người hơn. 4. Kết quả và hiệu quả kinh doanh của nghiệp vụ. Kết quả hoạt động kinh doanh bảo hiểm được phản ánh qua chỉ tiêu doanh thu và lợi nhuận. ở cấp độ phòng, doanh thu của phòng bảo hiểm khu vực 6 bao gồm các khoản thu từ phí bảo hiểm do người tham gia đóng góp, việc đầu tư nhằm tăng thu nhập được thực hiện tại Công ty. Phần doanh thu này dược sử dụng vào mục đích chi trả bồi thường, chi hoa hồng và có xu hướng ngày càng tăng qua các năm. Lợi nhuận kinh doanh bảo hiểm chính là phần chênh lệch giữa tổng doanh thu và tổng chi phí của phòng. Tuy nhiên, mỗi nghiệp vụ thường chỉ hạch toán riêng giữa phần doanh thu và chi bồi thường của nghiệp vụ còn về tổng thể thực tế các nghiệp vụ thì hạch toán phụ thuộc, một số khoản chi không tính riêng cho từng nghiệp vụ mà chi chung cho các hoạt động như chi quản lý… và những khoản chi này cũng tuỳ thuộc vào thực tế tổng doanh thu của phòng. Để cho đơn giản và thuận tiện cho việc tính toán với nghiệp vụ bảo hiểm kết hợp con người, ta tính các khoản chi đó với tỷ lệ chung theo doanh thu của nghiệp vụ này và coi phần chênh lệch thu - chi đó là lợi nhuận. Trước hết, hãy xét những khoản chi và cơ cấu những khoản chi của nghiệp vụ bảo hiểm kết hợp con người diễn ra tại phòng bảo hiểm khu vực 6 trong 4 năm từ 2000 đến 2003. Bảng 2.3: Tình hình chi nghiệp vụ bảo hiểm kết hợp con người tại phòng bảo hiểm khu vực 6 giai đoạn 2000-03 Chỉ tiêu Năm Tổng chi (1000 đ) Chi bồi thường (1000 đ) Chi hoa hồng (1000 đ) Chi quản lý (1000 đ) Doanh thu (1000 đ) BT/TC (%) TC/DT (%) BT/DT (%) 2000 821.959 638.330 100.440 50.220 1.004.400 77,66 81,84 63,55 2001 814710 629.770 100.188 50.094 1.001.879 77,30 81,32 62,86 2002 869.526 684.316 102.050 51.025 1.020.495 78,70 85,21 67,06 2003 834.658 649.280 102.365 51.183 1.023.651 77,79 81,54 63,42 (Nguồn: phòng bảo hiểm khu vực 6) Nhìn bao quát, có thể thấy các khoản chi nghiệp vụ bảo hiểm kết hợp con người ở phòng bảo hiểm khu vực 6 thời gian qua ít biến động và có xu hướng tăng lên theo sự tăng trưởng của nghiệp vụ. Trong các khoản chi thì chi bồi thường vẫn chiếm tỷ lệ cao, chủ yếu dao động ở mức 77,8% tổng mức chi nghiệp vụ. Khoản chi hoa hồng cũng là một trong các khoản chi cao của nghiệp vụ. Theo sự cho phép của Công ty thì tỷ lệ hoa hồng cho các nghiệp vụ bảo hiểm con người là 12% tổng doanh thu phí nghiệp vụ. Tuy nhiên, trong điều kiện hiện nay khi mà tỷ lệ hoa hồng trong bảo hiểm nhân thọ rất cao thì việc quy định như trên là chưa linh động còn cứng nhắc. Điều đó có thể dẫn đến khả năng giảm sức thu hút của Công ty, phòng với các cộng tác viên. Do vậy, việc điều chỉnh, linh động tỷ lệ này sẽ góp phần vào việc nứu giữ, kích thích sự nhiệt tình, tính năng động của đội ngũ đại lý cộng tác viên, tránh tình trạng mạng lưới này chuyển sang làm việc cho các Công ty khác hoặc lĩnh vực bảo hiểm khác có tỷ lệ hoa hồng cao hơn. So với toàn Công ty, thì nghiệp vụ bảo hiểm kết hợp con người có chi phí quản lý nhỏ hơn, chiếm khoảng 5% doanh thu phí nghiệp vụ trong khi mức bình quân của Công ty là 14%. Trong đó, khoản chi quản lý ngoài lương được Công ty giao cho là 2,51% doanh thu, bao gồm các khoản chi khấu hao, văn phòng phẩm. Việc chi phí quản lý được giữ ở mức thấp là một điểm đáng mừng bởi nó chứng tỏ tính hiệu quả, tiết kiệm của công tác quản lý này, đồng thời cũng nâng cao hiệu quả lao động của cán bộ nghiệp vụ. Tuy nhiên lật lại vấn đề, chúng ta có suy nghĩ rằng với tỷ lệ chi như vậy, phải chăng Công ty chưa dám mạnh dạn đầu tư nhằm trang bị thêm thiết bị công cụ phục vụ hoạt động chung, nâng cao điều kiện làm việc, cải thiện thu nhập cho cán bộ nhân viên? Để thấy được mức độ hiệu quả của công tác triển khai nghiệp vụ bảo hiểm kết hợp con người của phòng, ta theo dõi bảng sau: Chỉ tiêu Năm DT phí (1000đ) Tổng chi NV (1000đ) Lợi nhuận (1000đ) Tốc độ tăng DT (%) Tốc độ tăng CP (%) Tốc độ tăng LN (%) DT/CP (đ/đ) LN/CP (đ/đ) STBTBQ/Vụ (1000đ/vụ) 2000 1.004.400 821.959 182.441 - - - 1,221 0,221 406,062 2001 1.001.879 814.710 187.169 -2,51 -8,53 +3,39 1,229 0,229 391,648 2002 1.020.495 869.526 150.969 +1,86 +6,50 -25,12 1,173 0,173 411,000 2003 1.023.651 834.658 188.993 +0,31 -3,82 +34,41 1,226 0,226 390,192 Bảng 2.4: Kết quả - hiệu quả kinh doanh nghiệp vụ bảo hiểm kết hợp con người tại phòng bảo hiểm khu vực 6 giai đoạn 2000 - 2003 (nguồn: phòng bảo hiểm khu vực 6) Theo số liệu tổng hợp trong bảng 2.4 cho thấy doanh thu phí hàng năm có xu hướng tăng lên thể hiện ở con số dương của tốc độ tăng doanh thu. Duy chỉ có năm 2001 có sự giảm sút do những nguyên nhân khách quan mà ta đã nêu ở phần trước. Cùng với đó là sự tăng lên của các khoản chi phí. Tuy nhiên hàng năm, nghiệp vụ bảo hiểm kết hợp con người vẫn mang lại cho phòng một khoản lợi nhuận trung bình là 176 triệu đồng. Tuy chỉ ở con số hạn chế nhưng đã thể hiện sự cố gắng nỗ lực của các cán bộ nhân viên. Đây cũng là tình hình chung của Công ty khi triển khai nghiệp vụ này. Nhìn tổng thể tốc độ tăng doanh thu, lợi nhuận và chi phí của phòng có sự biến động nhiều qua các năm nhưng trong tình hình chung của Công ty và điều kiện thị trường hiện nay thì việc kinh doanh của phòng gặp phải những thăng trầm là điều dễ hiểu. Điều cốt lõi là vẫn đảm bảo được doanh thu và có lợi nhuận. Hơn nữa đây thể hiện chính sách của Công ty trong sự tồn tại chung, vẫn đảm bảo nguyên tắc chung của hoạt động kinh doanh bảo hiểm là số đông bù số ít, lấy khoẻ nuôi yếu mà nghiệp vụ này lại mang tính nhân văn sâu sắc. Hy vọng trong những năm tới nghiệp vụ bảo hiểm kết hợp con người sẽ phát triển hơn, xứng đáng là một trong các nghiệp vụ có doanh thu chủ yếu của phòng. IV. đánh giá chung. Nằm trên địa bàn có mặt nhiều Công ty bảo hiểm được Nhà nước cấp giấy phép hoạt động kể cả các doanh nghiệp trong và ngoài nước, Bảo Minh Hà Nội cũng như phòng bảo hiểm khu vực 6 phải đương đầu với sự cạnh tranh gay gắt của các Công ty này. Mỗi Công ty đều có những đối sách thủ thuật cạnh tranh riêng, tích cực có mà tiêu cực cũng rất nhiều nhằm giành giật khách hàng. Trong điều kiện đó, nghiệp vụ bảo hiểm kết hợp con người đã được Bảo Minh Hà Nội cùng phòng bảo hiểm khu vực 6 xếp vào loại khá của chi nhánh, triển khai khá thành công. Sự kết hợp 3 loại hình: bảo hiểm sinh mạng cá nhân, bảo hiểm tai nạn con người 24/24, bảo hiểm trợ cấp nằm viện - phẫu thuật đã đưa lại tính ưu việt riêng có của nghiệp vụ này. Do phạm vi bảo hiểm cho những rủi ro mà người dân dễ gặp phải nên tính thường nhật của nó khá cao, đó là điểm thu hút một số lượng lớn khách hàng tham gia. Với nghiệp vụ này, uy tín của Công ty ngày càng được nâng cao trên thị trường bảo hiểm khu vực cũng như trong cả nước. Vượt qua mọi khó khăn, các cán bộ phòng bảo hiểm khu vực 6 đã không ngừng học hỏi, rèn rũa bản thân, phối hợp chỉ bảo lẫn nhau nhằm hoàn thiện trình độ nghiệp vụ, nâng cao khả năng của mỗi người để có thể đưa nghiệp vụ bảo hiểm kết hợp con người cũng như nhóm nghiệp vụ bảo hiểm con người phát triển hơn nữa, đáp ứng được mọi nhu cầu của các thành viên trong xã hội, đảm bảo sự tồn tại, phát triển của phòng bảo hiểm khu vực 6, Chi nhánh Bảo Minh Hà Nội cũng như Công ty bảo hiểm thành phố Hồ Chí Minh, đưa thị trường bảo hiểm Việt Nam bước lên tầm cao mới. chương III một số kiến nghị và giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động của nghiệp vụ bảo hiểm kết hợp con người tại phòng bảo hiểm khu vực 6 - Chi nhánh Bảo Minh Hà Nội I. Phương hướng phát triển trong năm 2004 của Công ty Bảo Minh. Để có thể hoạch định ra một hướng đi đúng đắn, đòi hỏi lãnh đạo cơ quan, doanh nghiệp phải có những cơ sở đáng tin cậy, cơ sở đó được tạo dựng nên từ việc phân tích hiện trạng đến những dự đoán về xu hướng xảy ra. Đối với một doanh nghiệp kinh doanh công việc đó có ảnh hưởng lớn đến sự sống còn của chính bản thân nó và có tác động đến lĩnh vực mà doanh nghiệp kinh doanh. Với ngành bảo hiểm, điều đó có liên quan đến hàng loạt các vấn đề khác như: Ngân hàng, tài chính cũng như những vấn đề xã hội khác: việc làm, đảm bảo xã hội. Đặc biệt là với Bảo Minh doanh nghiệp nhà nước được xếp hạng đặc biệt mà cụ thể hơn là Bảo Minh Hà Nội với các phòng ban hoạt động trên địa bàn thủ đô (Trong đó có văn phòng khu vực 6) nó không chỉ bó hẹp ở tầm vi mô mà nó còn được xét ở tầm vĩ mô. Trong những năm vừa qua, hoạt động bảo hiểm nói chung cũng như bảo hiểm con người nói riêng đã khẳng định được tính thiết thực, ưu việt của nó. Tuy nhiên, đã là kinh doanh thì việc thăng trầm là điều không tránh khỏi. Từ năm 2001 đến năm 2003 là giai đoạn đã đánh dấu thêm những bước phát triển của thị trường bảo hiểm Việt Nam vốn đang trong giai đoạn đầu phát triển. Đây là những năm bắt đầu thực hiện việc thi hành luật kinh doanh bảo hiểm cho nên thị trường bảo hiểm Việt Nam chịu nhiều tác động và ảnh hưởng của thị trường toàn cầu. Năm 2002, mục tiêu tăng trưởng của nền kinh tế là chỉ tiêu GDP tăng 7% - 7.3%, giá trị sản xuất công nghiệp tăng 14%, nông nghiệp tăng 4.2%, kim ngạch xuất nhập khẩu tăng 10% - 13%, tổng vốn đầu tư toàn xã hội chiếm 32% GDP. Đây là năm thứ 2 thực hiện kế hoạch 5 năm phát triển kinh tế xã hội và cũng là năm Luật kinh doanh bảo hiểm cùng các văn bản pháp quy hướng dẫn đi vào thực hiện 1 cách đồng bộ và hoàn chỉnh. Bên cạnh đó, Hiệp định thương mại Việt - Mỹ chính thức có hiệu lực, thị trường bảo hiểm sẽ bước sang một thời kỳ mới trong xu thế hội nhập có lộ trình để phát triển. Nền kinh tế thế giới và thị trường bảo hiểm toàn cầu vẫn đang trong giai đoạn gay go, đang cố gắng vượt qua thời kỳ khó khăn nghiêm trọng này. Những thuận lợi cơ bản và những cơ hội đồng thời cũng là những thách thức cạnh tranh khó khăn đan xen sẽ tác động lớn tới các doanh nghiệp bảo hiểm Việt Nam, các doanh nghiệp Nhà nước sẽ cần tăng cường năng lực cạnh tranh để giữ vai trò chủ đạo. Tình trạng trên báo hiệu hoạt động kinh doanh bảo hiểm tại thị trường bảo hiểm Việt Nam ngày càng sôi động hơn, một số doanh nghiệp mới sẽ xuất hiện. Sản phẩm sẽ được cung cấp ngày càng đa dạng, cạnh tranh sẽ đưa tới khách hàng sự phục vụ tận tình hơn nhằm góp phần tạo lập môi trường đầu tư hấp dẫn và hoàn hảo, phục vụ phát triển nền kinh tế, xã hội. Xuất phát từ những nhận thức đó, công ty Bảo Minh đề ra phương hướng chung, quán triệt tới các Chi nhánh, các phòng khu vực: Chủ trương: Chuyển hẳn sang quản lý theo hiệu quả kinh doanh, tăng cường chất lượng dịch vụ và phục vụ khách hàng. Biện pháp thực hiện: - Giữ vững việc giao định mức lương theo hiệu quả. - Thực hiện đánh giá đơn vị, đánh giá cán bộ hàng năm. - Nâng cao chất lượng hoạt động của các phòng thuộc văn phòng chính, thành lập phòng thị trường và quản lý đại lý. - Thực hiện luân chuyển và bồi dưỡng cán bộ kế cận. - Hoàn thành chương trình phần mềm kế toán SAP và phát triển các phần mềm khác. - Tiếp tục hoàn chỉnh chương trình giáo án và chuẩn bị cho việc xây dựng cơ sở vật chất Trung tâm bồi dưỡng nghiệp vụ. - Đẩy mạnh công tác chuyển Bảo Minh thành Công ty cổ phần bảo hiểm vốn nhà nước là chủ yếu. Với phòng bảo hiểm khu vực 6, một thành viên tiên tiến của Bảo Minh Hà Nội, phương thức của Công ty đã được cán bộ nhân viên trong phòng quán triệt. Những nghiệp vụ truyền thống và có tỷ trọng doanh thu cao như: bảo hiểm kết hợp con người, bảo hiểm học sinh, bảo hiểm trách nhiệm dân sự của chủ xe cơ giới đối với người thứ ba… được tập trung chú ý nhằm duy trì phát triển. Bên cạnh đó, phòng cũng cố gắng nhằm mở thêm nghiệp vụ khác như: bảo hiểm du lịch, bảo hiểm cháy nổ, bảo hiểm hàng hoá vận chuyển nội địa, bảo hiểm xây dựng lắp đặt… II. Thuận lợi và khó khăn của phòng bảo hiểm khu vực 6 - Chi nhánh Bảo Minh Hà Nội. 1. Thuận lợi. Từ năm 2000 đến nay nền kinh tế Việt Nam đã bắt đầu tăng trưởng trở lại và đã đạt được nhiều thành tựu đáng kể. Đời sống người dân cũng được ổn định và nâng cao làm xuất hiện nhu cầu cần được bảo hiểm - một nhu cầu mới và có khả năng đáp ứng của mỗi người dân. Cùng với sự phát triển, mở rộng của thị trường bảo hiểm Việt Nam, thị phần của Bảo Minh luôn tăng trưởng đều và ổn định từ năm 1995 đến nay. Năm 1995: 15.54%, năm 1996: 20.28%, năm 1997: 21.15%, năm 1998: 24%, năm 1999: 24.5%, năm 2000: 25.1%, năm 2001: 25.9%, năm 2002: 28.08%. Trong quá trình hợp tác mở rộng hoạt động kinh doanh Bảo Minh đã liên doanh bảo hiểm trong cả hai lĩnh vực nhân thọ, phi nhân thọ và đầu tư tài chính. Đây là điều kiện thuận lợi cho các văn phòng đại diện dễ dàng hơn và có uy tín hơn trong việc khai thác thị trường bảo hiểm. * Đối với nghiệp vụ bảo hiểm kết hợp con người: s Với gần 80 triệu dân, Việt Nam là nước đông dân thứ 13 trên thế giới, với cơ cấu dân số trẻ, nguồn lao động dồi dào, là một thế mạnh về nguồn lực, góp phần thúc đẩy sự tăng trưởng của cả nước. Thu nhập bình quân đầu người/năm tuy mới hơn 400 USD nhưng với tốc độ tăng trưởng GDP hàng năm khoảng 6.8% đã hứa hẹn nhiều khởi sắc. Với những điều kiện thị trường tiềm năng dồi dào như vậy bảo hiểm con người phi nhân thọ nhanh chóng được Bảo Minh triển khai, tổng phí thu được từ nghiệp vụ này tăng lên rõ rệt. s Do được sự hỗ trợ của Bộ Tài chính cho nên tỷ lệ chi bồi thường nghiệp vụ bảo hiểm kết hợp con người (phạm vi bảo hiểm C - trợ cấp nằm viện phẫu thuật) của Bảo Minh đối với trường hợp nằm viện Tây y: 0.5% số tiền bảo hiểm/ngày, đối với trường hợp nằm viện Đông y: 0.2% số tiền bảo hiểm/ngày, số ngày nằm viện tối đa trong một năm bảo hiểm là 60 ngày. Đây là điểm thuận lợi hơn hẳn so với Bảo Việt (tỷ lệ chi trả của Bảo Việt đối với trường hợp nằm viện Tây y là: 10 ngày đầu: 0.3%/ngày, 10 ngày sau: 0.2%/ngày, 40 ngày cuối: 0.15%/ngày so với số tiền bảo hiểm; đối với trường hợp nằm viện Đông y thì chỉ được chi trả 0.1% số tiền bảo hiểm /ngày). 2. Khó khăn- tồn tại. Sự ra đời ngày càng nhiều của các Công ty bảo hiểm liên doanh và 100% vốn nước ngoài làm thị trường bảo hiểm bị chia sẻ nhỏ. Hiện nay đã có 16 Công ty hoạt động kinh doanh bảo hiểm ở Việt Nam, gồm 4 Công ty bảo hiểm Nhà nước (trong đó có 1 Công ty tái bảo hiểm), 3 Công ty bảo hiểm nước ngoài, và 5 Công ty bảo hiểm liên doanh. Bên cạnh đó Công ty Bảo Việt ra đời và hoạt động mấy chục năm qua nên họ đã có uy tín lớn trên thị trường và có một lượng khách đông đảo, quen thuộc. Bảo Việt cũng không ngừng mở rộng các văn phòng đại diện, mạng lưới đại lý và cộng tác viên chuyên nghiệp giàu kinh nghiệm. Vì vậy Bảo Minh phải chịu sức cạnh tranh rất lớn trên thị trường bảo hiểm. Trước năm 2001 chưa có luật kinh doanh bảo hiểm cho nên Bảo Minh cũng như các doanh nghiệp bảo hiểm khác rất khó triển khai nghiệp vụ bảo hiểm này. Về phía người tham gia bảo hiểm: nhận thức của người dân về vai trò và tác dụng của bảo hiểm chưa cao do đó nghiệp vụ này hiện nay chỉ triển khai được ở một số cơ quan, doanh nghiệp. Một phần cũng là do lợi ích của sản phẩm bảo hiểm chưa được bộc lộ ngay khi họ tham gia. Vì vậy thị tường bảo hiểm con người phi nhân thọ rất lớn nhưng mới chỉ khai thác được một phần nhỏ. Do quy tắc bảo hiểm của Công ty loại trừ nhều bệnh đặc biệt như: ung thư và u các loại, cao hay hạ huyết áp,tim mạch, viêm loét dạ dày, viêm đa khớp mãn tính, viêm xoang… trong khi đó đây là những bệnh phổ biến người dân mắc phải hiện nay, vì vậy mà phạm vi bảo hiểm bị thu hẹp. III. Một số kiến nghị và giải pháp. Trước bối cảnh thị trường bảo hiểm hiện nay, bên cạnh việc đặt ra phương châm. Mục tiêu hoạt động thì việc thực thi phương châm, mục tiêu đó là vấn đề quan trọng, cốt lõi cần giải quyết. Từ phân tích thực trạng những ưu điểm kết hợp con người ở phòng bảo hiểm khu vực 6 giai đoạn 1999 - 2003, với mong muốn xây dựng và hoàn thiện nghiệp vụ trên em xin mạnh dạn có một số kiến nghị và giải pháp sau: 1. Kiến nghị. 1.1 Về phía Nhà nước. - Nghiệp vụ bảo hiểm con người cũng như các nghiệp vụ bảo hiểm khác (bảo hiểm tài sản, bảo hiểm trách nhiệm) tuy đã ra đời và được triển khai trong suốt thời gian khá dài song một thực tế là việc điều chỉnh hoạt động kinh doanh đó vẫn còn nhiều điểm chưa hoàn thiện. Thị trường bảo hiểm Việt Nam ngày càng sôi động hơn bởi sự ra đời và du nhập của nhiều Công ty bảo hiểm khác nhau. Đó vừa là yếu tố động lực thúc đẩy thị trường bảo hiểm song cũng đặt ra những thách thức mới đặc biệt là với doanh nghiệp bảo hiểm Nhà nước trước kia được độc quyền. Cạnh tranh giành giật thị trường sẽ trở nên khốc liệt hơn đòi hỏi phải có sự can thiệp của Nhà nước nhằm tạo ra một môi trường cạnh tranh lành mạnh giữa các Công ty bảo hiểm. - Tính đến thời điểm hiện tại mới chỉ có “Luật kinh doanh bảo hiểm” ra đời và dần đi vào thực tiễn hoạt động, nhiều văn bản hướng dẫn thi hành còn chậm được phát hành hoặc nội dung chưa được cụ thể, dẫn đến những kẽ hở cho việc lợi dụng của một số Công ty khác. Do vậy, Nhà nước cần sớm ban hành các văn bản pháp quy có liên quan đến hoạt động kinh doanh bảo hiểm. - Mặc dù Bộ tài chính đã ban hành bảng tỷ lệ thương tật phê duyệt biểu phí bảo hiểm kết hợp con người, song với tình hình hiện nay khi mà môi trường không thuận lợi cho sức khoẻ con người, nhiều căn bệnh mới xuất hiện, số lượng bệnh hiểm nghèo thường tăng lên, nên chăng Bộ có thể bổ xung thêm các điều khoản mới trong các văn bản pháp lý điều chỉnh hoạt động kinh doanh bảo hiểm này, giúp công tác bảo hiểm có thể thực thi việc mở rộng phạm vi bảo hiểm, thúc đẩy hoạt động đầu tư vào các lĩnh vực khác nhau… nhằm tăng số vốn điều lệ, nâng cao hiệu quả kinh doanh của Công ty. 1.2. Về phía doanh nghiệp. Công ty cần đánh giá cán bộ trên cơ sở năng lực làm việc để đưa ra các chính sách, nhiệm vụ sát thực, phù hợp. Cần xem xét một cách thận trọng giữa phân cấp quản lý và việc theo dõi quản lý phân cấp này, giảm thiểu những khâu trung gian không cần thiết giao chỉ tiêu cụ thể cho các phòng và các cán bộ lãnh đạo phòng tiếp tục căn cứ vào khả năng điều kiện của mỗi người để giao chỉ tiêu doanh thu phù hợp. Với những cán bộ có nhiều thành tích, nên có những chính sách khen thưởng, đãi ngộ nhăm khuyến khích động viên họ. Với những cán bộ chưa thực sự giỏi cần có sự bổ xung kiến thức nghề nghiệp kịp thời. Công ty nên thường xuyên mở các khoá đào tạo lại cho các cán bộ bảo hiểm, đặc biệt là trong xu hướng cạnh tranh, hội nhập hiện nay, việc nâng cao trình độ ngoại ngữ cũng như khả năng giao tiếp của người được bảo hiểm là hết sức cần thiết. Song song với công việc nâng cao chất lượng nhân sự, Công ty cũng nên đầu tư áp dụng công nghệ mới trong hoạt động kinh doanh bảo hiểm để theo kịp với sự phát triển của thị trường và khu vực. 2. Một số giải pháp. 2.1 Đối với khâu khai thác. Như đã nêu ở trên, hoạt động khai thác đóng một vai trò quan trọng trong việc triển khai nghiệp vụ bảo hiểm. Trong điều kiện giảm chi khó khăn như hiện nay thì việc tăng doanh thu bằng cách tăng số lượng người tham gia bảo hiểm là giải pháp hữu hiệu nhất. Để có thể thu hút số lượng lớn khách hàng tham gia bảo hiểm, hoạt động tuyên truyền quảng cáo của Công ty là không thể thiếu được. Tuy nhiên, thời gian vừa qua, các hoạt động tuyên truyền quảng cáo thông qua các phương tiện thông tin đại chúng hoặc qua tài trợ cho các hoạt động xã hội mà Công ty áp dụng hầu như chưa mang lại kết quả cao trong việc khai thác nghiệp vụ bảo hiểm kết hợp con người. Trong các phương tiện quảng cáo hữu hiệu nhất phải kể đến tác dụng của vô tuyến truyền hình và mạng internet. Quảng cáo qua Tivi cần chọn thời điểm thích hợp, nhất là giữa các chương trình mà người xem ưa thích. Với mạng internet, việc truy cập nên đảm bảo tính thuận tiện, dễ dàng, người sử dụng mạng có thể nhanh chóng tiếp cận truy cập vào địa chỉ giới thiệu về sản phẩm, Công ty. Ngoài ra Công ty nên sử dụng các phương tiện quảng cáo khác như: in trên panô, áp phích đặt ở các cửa ngõ vào thành phố, những địa điểm dễ nhìn, dễ thấy với khẩu hiệu thống nhất có sức hấp dẫn cao. Do nhận thức của mỗi người dân về bảo hiểm kết hợp con người chưa cao cho nên khi đơn vị nào muốn tham gia nghiệp vụ bảo hiểm này và họ đang có sự lựa chọn thì cán bộ bảo hiểm nên bám sát khách hàng, thuyết phục họ tham gia. Ngoài bản chào phí gửi đến cho đơn vị đó, cán bộ bảo hiểm nên có bản phân tích những rủi ro mà đơn vị đó dễ gặp phải. Có như vậy người tham gia bảo hiểm mới nhận thấy rõ lợi ích của nghiệp vụ bảo hiểm kết hợp con người và họ cảm thấy nhà bảo hiểm quan tâm đến quyền lợi của họ. Hiện nay các Công ty bảo hiểm mới chỉ triển khai nghiệp vụ này ở các doanh nghiệp, các cơ quan chứ chưa được triển khai rộng rãi tới từng người dân từng hộ gia đình. Đây là một tiềm năng rất lớn của thị trường bảo hiểm con người phi nhân thọ, Bảo Minh nên mở rộng đối tượng bảo hiểm tới từng hộ gia đình. Từ đó sẽ làm tăng thị phần và tăng doanh thu bảo hiểm cho Công ty. Bên cạnh đó phòng, Công ty nên tăng cường mở rộng các mối quan hệ với các tổ chức, cơ quan, doanh nghiệp các cấp… bởi đây cũng là một thị trường tiềm năng lớn đối với phòng, Công ty đồng thời cũng tranh thủ sự ủng hộ từ phía này trong công tác khai thác bảo hiểm. 2.2 Đối với khâu giám định. Thời gian vừa qua Bảo Minh đã có những đổi mới đáng kể trong công tác giám định. Việc giám định cũng có sự phân cấp. Theo sự phân cấp của Công ty, phòng bảo hiểm khu vực 6 có một giám định viên thực hiện việc giám định tổn thất khi có rủi ro xảy ra với người được bảo hiểm. Khi rủi ro xảy ra chứa đựng yếu tố phức tạp thì cán bộ giám định chuyên môn của Công ty sẽ được cử xuống phối hợp cùng cán bộ phòng nhằm tiến hành tốt hơn công tác này. Giám định là khâu có liên quan trực tiếp đến số tiền chi trả bồi thường, do vậy cần phải hết sức chú ý đến khâu này. Thực tế cho thấy công tác này đôi khi vẫn còn gặp phải những sai lầm nhất định gây thiệt hại cho Công ty. Vì vậy, để thực hiện tốt công tác này đòi hỏi giám định viên phải giỏi cả về nghiệp vụ và khả năng giao tiếp cũng như ý thức trách nhiệm và tính công minh trong công việc, không làm tổn hại đến lợi ích của người được bảo hiểm cũng như của Công ty. Để công tác giám định đạt chất lượng cao đòi hỏi nhân viên giám định ngoài sự tháo vát, trình độ nghiệp vụ còn cần phải có những kiến thức nhất định về lĩnh vực y học, luật pháp… có khả năng tổng quát nội dung các văn bản pháp lý… theo một trật tự nhất định để dễ dàng vận dụng, giải quyết nhanh gọn các thủ tục giấy tờ cho khách hàng. 2.3 Đối với khâu bồi thường. Bảo hiểm được coi là sản phẩm dịch vụ đặc biệt hay đó là lời hứa của nhà bảo hiểm đối với người tham gia, do vậy nó khá trừu tượng. Sản phẩm bảo hiểm chỉ thể hiện tác dụng của nó khi người tham gia nhận được khoản bồi thường trong trường hợp họ gặp rủi ro. Do vậy Công ty, phòng luôn phải chú ý đến công tác bồi thường để giữ chữ tín với khách hàng, tạo điều kiện thuận lợi cho khách hàng tham gia chính xác kịp thời khiến họ thấy được bảo hiểm thực sự là người bạn tin cậy luôn ở bên cạnh giúp đỡ họ trong lúc khó khăn nhất, từ đó có thể tuyên truyền cho bạn bè, người thân tham gia. Tiếp tục cải tiến quy trình trong khâu giám định bồi thường để giảm bớt những thủ tục hành chính gây phiền hà cho khách hàng, tạo sự thông thoáng nhanh chóng trong việc bồi thường. Việc làm đó cũng tiết kiệm được nhiều thời gian cho cán bộ phòng, Công ty. Để hạn chế tối đa sự hiểu lầm và nghi ngờ của người được bảo hiểm cũng như những khiếu nại không cần thiết, các căn cứ để xác định số tiền bồi thường cần liệt kê đầy đủ trong hồ sơ trả tiền bảo hiểm. Trong quá trình thanh toán tiền bảo hiểm cho khách hàng, cán bộ bồi thường cần giữ thái độ nhiệt tình hoà nhã với khách hàng để họ hiểu rằng Công ty luôn ở bên họ, thực sự muốn bù đắp những mất mát mà họ gặp phải, gợi ý để họ tiếp tục tái tục hợp đồng. Là một trong các khâu của quá trình triển khai nghiệp vụ bảo hiểm kết hợp con người đòi hỏi giữa công tác bồi thường phải có sự liên kết chặt chẽ với các công tác khác, đặc biệt là khâu giám định nhằm đảm bảo tính chính xác, nhanh chóng trong việc chi trả đồng thời phát hiện ra những trường hợp gian lận, trục lợi bảo hiểm, hạn chế được sự thất thoát tài chính cho Công ty. Kết luận Nghiệp vụ bảo hiểm kết hợp con người đã được Công ty Bảo Minh triển khai từ năm 1994. Cho đến nay nhiều nghiệp vụ bảo hiểm con người mới ra đời nhưng bảo hiểm kết hợp con người vẫn giữ được chỗ đứng và thị phần của mình. Doanh thu nghiệp vụ vẫn thường xuyên tăng trưởng qua các năm và vẫn chiếm tỷ trọng nhỏ trong tổng doanh thu của phòng. Sau gần 10 năm triển khai, bảo hiểm kết hợp con người đã mang lại những kết quả to lớn về mặt kinh tế cũng như về mặt xã hội, xứng đáng là chỗ dựa tin cậy của người dân trong việc tài trợ rủi ro. Những thành công mà nghiệp vụ đem lại đã chứng tỏ tính ưu việt trong việc kết hợp 3 điều khoản, quy tắc bảo hiểm riêng lẻ (bảo hiểm sinh mạng cá nhân, bảo hiểm tai nạn con người 24/24, bảo hiểm trợ cấp nằm viện - phẫu thuật). Giảm thiểu sự trùng lặp (hay hạn chế) khi tham gia đồng thời (hoặc riêng lẻ) các đơn bảo hiểm này cho người tham gia, giúp Công ty tiết kiệm được nhiều khoản chi phí nhằm nâng cao hiệu quả cho hoạt động kinh doanh. Có được những thành công đó, ngoài sự nỗ lực của cán bộ nhân viên chi nhánh, phải kể đến sự quan tâm, giúp đỡ của các cấp lãnh đạo và sự đồng tình hưởng ứng của đông đảo tầng lớp nhân dân Thủ đô. Tuy nhiên, tỷ lệ người dân tham gia nghiệp vụ này trên tổng dân số trên địa bàn chưa cao do vậy để có thể khai thác hết tiềm năng của nghiệp vụ này văn phòng cần tiến hành thường xuyên các biện pháp cần thiết để nghiệp vụ kết hợp con người tiếp tục phát triển, trở thành thế mạnh của công ty, là ưu thế của phòng. Thời gian thực tập ở phòng bảo hiểm khu vực 6 - Chi nhánh Bảo Minh Hà Nội không dài nhưng đã giúp ích cho em rất nhiều. Nó giúp em có thêm những kiến thức thức thực tế về hoạt động kinh doanh bảo hiểm vốn liên quan đến ngành học của mình dựa trên cơ sở những vấn đề lý luận chung về bảo hiểm để có cái nhìn đúng đắn, đầy đủ hơn về loại hình bảo hiểm con người nói chung và bảo hiểm kết hợp con người nói riêng. Từ đó có thể mạnh dạn đề xuất những ý kiến của bản thân nhằm góp phần thúc đẩy sự phát triển của nghiệp vụ tại phòng bảo hiểm khu vực 6 - Chi nhánh Bảo Minh Hà Nội. Cuối cùng em xin chân thành cảm ơn cô giáo: Nguyễn Thị Chính, các cô chú cán bộ phòng bảo hiểm khu vực 6, Chi nhánh Bảo Minh Hà Nội đã giúp đỡ em hoàn thành chuyên đề thực tập tốt nghiệp này. Hà Nội, tháng 5 năm 2004 Sinh viên thực hiện: Nguyễn Thị Hằng Liễu Tài liệu tham khảo PGS. TS. Hồ Sĩ Sà, Giáo trình Bảo hiểm. Nhà xuất bản thống kê 2000. TS. Nguyễn Văn Định, Giáo trình Quản trị kinh doanh bảo hiểm. Nhà xuất bản thống kê Hà Nội 2003. Thông tin thị trường bảo hiểm, tái bảo hiểm - Công ty tái bảo hiểm Quốc gia Việt Nam. Số 1/2002. Quy tắc bảo hiểm sinh mạng cá nhân - Bộ Tài chính - Công ty Bảo Minh . Quy tắc bảo hiểm tai nạn con người 24/24 - Bộ Tài chính - Công ty Bảo Minh. Quy tắc bảo hiểm trợ cấp nằm viện - phẫu thuật - Bộ Tài chính - Công ty Bảo Minh. Quy tắc bảo hiểm kết hợp con người - Bộ Tài chính - Công ty Bảo Minh. Báo cáo tài chính - Công ty Bảo Minh 2000, 2001, 2002, 2003. Các tài liệu tham khảo khác.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc13014.DOC
Tài liệu liên quan