Đề tài Ảnh hưởng của lạm phát đến thị trường chứng khoán và các giải pháp khắc phục

Tài liệu Đề tài Ảnh hưởng của lạm phát đến thị trường chứng khoán và các giải pháp khắc phục: TÓM TẮT ĐỀ TÀI Chương 1 – Các vấn đề lý luận chung - Giới thiệu các khái niệm về chứng khoán, thị trường chứng khoán, lạm phát, các chỉ số đánh giá hiệu quả chứng khoán. - Giải thích tác động của lạm phát đến thị trường chứng khoán thông qua các nhân tố lãi suất, giá cả và các chính sách của nhà nước nhằm kiềm chế lạm phát như thay đổi mức lãi suất chiết khấu, quy định tỷ lệ dự trữ bắt buộc v.v… Chương 2 – Tình hình thực tế của Thị trường chứng khoán và các cổ phiếu cụ thể trước và sau lạm phát - Đánh giá sự phát triển của thị trường chứng khoán Việt Nam ở hai giai đoạn trước và trong thời kỳ lạm phát. - Phân tích sự thay đổi của 5 cổ phiếu tiêu biểu cho các ngành ở hai giai đoạn trước và sau thời kỳ lạm phát thông qua các số liệu cụ thể, các bảng, biểu đồ giá, khối lượng giao dịch của các loại cổ phiếu này. Chương 3 – Các giải pháp can thiệp vào Thị trường chứng khoán trong giai đoạn kiềm chế lạm phát - Định hướng phát triển thị trường chứng khoán ở Việt Nam trong thời gia...

doc49 trang | Chia sẻ: hunglv | Lượt xem: 970 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem trước 20 trang mẫu tài liệu Đề tài Ảnh hưởng của lạm phát đến thị trường chứng khoán và các giải pháp khắc phục, để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
TÓM TẮT ĐỀ TÀI Chương 1 – Các vấn đề lý luận chung - Giới thiệu các khái niệm về chứng khoán, thị trường chứng khoán, lạm phát, các chỉ số đánh giá hiệu quả chứng khoán. - Giải thích tác động của lạm phát đến thị trường chứng khoán thông qua các nhân tố lãi suất, giá cả và các chính sách của nhà nước nhằm kiềm chế lạm phát như thay đổi mức lãi suất chiết khấu, quy định tỷ lệ dự trữ bắt buộc v.v… Chương 2 – Tình hình thực tế của Thị trường chứng khoán và các cổ phiếu cụ thể trước và sau lạm phát - Đánh giá sự phát triển của thị trường chứng khoán Việt Nam ở hai giai đoạn trước và trong thời kỳ lạm phát. - Phân tích sự thay đổi của 5 cổ phiếu tiêu biểu cho các ngành ở hai giai đoạn trước và sau thời kỳ lạm phát thông qua các số liệu cụ thể, các bảng, biểu đồ giá, khối lượng giao dịch của các loại cổ phiếu này. Chương 3 – Các giải pháp can thiệp vào Thị trường chứng khoán trong giai đoạn kiềm chế lạm phát - Định hướng phát triển thị trường chứng khoán ở Việt Nam trong thời gian tới. - Hoạt động của sàn GDCK Tp.HCM - Các giải pháp can thiệp vào thị trường chứng khoán trong giai đoạn lạm từ góc độ quản lý của nhà nước, giải pháp dành cho các doanh nghiệp phát hành chứng khoán và các nhà đầu tư. PHẦN 1 – GIỚI THIỆU ĐỀ TÀI 1. Đặt vấn đề Có thể nói từ năm 2005 đến nay, Thị Trường Chứng Khoán ở Việt Nam đã có những bước phát triển nhanh chóng, là kênh huy động động vốn hiệu quả cho các doanh nghiệp và trở thành tâm điểm thu hút sự chú ý của rất nhiều người. Tuy nhiên từ giữa năm 2007, lạm phát đã tác động xấu đến toàn bộ nền kinh tế của nước ta nói chung cũng như góp phần tạo nên một bức tranh đỏ ảm đạm trên Thị Trường Chứng Khoán nói riêng. Chính vì thế, nhóm đã chọn nghiên cứu đề tài “Ảnh hưởng của lạm phát đến thị trường chứng khoán và các giải pháp khắc phục.” 2. Mục tiêu, phương pháp nghiên cứu Mục tiêu nghiên cứu của đề tài là làm rõ về những ảnh hưởng của lạm phát tới Thị Trường Chứng Khoán Việt Nam trong thời gian qua và tìm ra các giải pháp khắc phục các ảnh hưởng ấy đối với việc quản lý của nhà nước, các doanh nghiệp cũng như giải pháp dành cho các nhà đầu tư. Phương pháp nghiên cứu: đề tài phương pháp duy vật biện chứng dựa trên hai nguyên lý về mối liên hệ phổ biến và nguyên lý về sự phát triển xét theo các tính chất khách quan, tính phổ biến, tính đa dạng – phong phú của chúng với những số liệu thực tế, các bảng biểu cũng như các đồ thị minh hoạ. 3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu - Đối tượng nghiên cứu: ảnh hưởng của lạm phát đến thị trường chứng khoán nói chung và đến 5 loại cổ phiếu tiêu biểu của các ngành như Công ty cổ phần khoáng sản Bình Định (BMC), Công ty cổ phần sữa Việt Nam (VNM), Ngân hàng thương mại cổ phần Sài Gòn Thương Tín (STB), Công ty cổ phần cơ điện lạnh (REE), Công ty cổ phần phát triển đầu tư công nghệ (FPT) - Phạm vi nghiên cứu: các cổ phiếu được khảo sát trên sàn GDCK TP.HCM (HOSE); trong khoảng thời gian trước khi xảy ra lạm phát (năm 2006, đầu năm 2007) và trong thời gian xảy ra lạm phát (giữa năm 2007 đến tháng 10 năm 2008). PHẦN 2 – NỘI DUNG NGHIÊN CỨU Chương 1 – Các vấn đề lý luận chung Giới thiệu chung về chứng khoán Khái niệm chứng khoán Chứng khoán là bằng chứng xác nhận quyền và lợi ích hợp pháp của người sở hữu đối với tài sản hoặc phần vốn của tổ chức phát hành. Chứng khoán được thể hiện dưới hình thức chứng chỉ, bút toán ghi sổ hoặc dữ liệu điện tử, bao gồm các loại sau đây: a) Cổ phiếu, trái phiếu, chứng chỉ quỹ; b) Quyền mua cổ phần, chứng quyền, quyền chọn mua, quyền chọn bán, hợp đồng tương lai, nhóm chứng khoán hoặc chỉ số chứng khoán. Đặc điểm và vai trò của chứng khoán a) Đặc điểm: Chứng khoán là giá khoán động sản, tức là các công cụ vốn dài hạn. b) Vai trò của chứng khoán: Chứng khoán là công cụ rất hữu hiệu trong nền kinh tế thị trường để tạo nên một lượng vốn tiền tệ khổng tồ tài trợ dài hạn cho các mục đích mở rộng sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp hay các dự án đầu tư của Nhà Nước và tư nhân. Chứng khoán là giấy tờ có giá trị kinh tế hay nói cách khác đó là công cụ tài chính có giá trị tương ứng như tiền mặt và được mua bán hoặc chuyển nhượng. Chứng khoán là một loại hàng hóa rất tiêu biểu trong cơ chế kinh tế thị trường tự do. Phân loại chứng khoán a) Căn cứ vào nội dung chứng khoán - Chứng khoán nợ là loại chứng khoán do Nhà Nước hoặc các doanh nghiệp phát hành cần huy động vốn cho các mục đích tài trợ dài hạn. Ví dụ: trái phiếu. - Chứng khoán vốn là giấy tờ chứng nhận sự góp vốn kinh doanh vào công ty cổ phần. Ví dụ: các loại cổ phiếu. b) Căn cứ vào hình thức chứng khoán - Chứng khoán vô danh là loại chứng khoán không có gi tên người sở hữu trên các cổ phiếu, trái phiếu. Loại chứng khoán này có thể dễ dàng mua bán hay chuyển đổi trên thị trường chứng khoán. - Chứng khoán ký danh là loại chứng khoán mà tên người sở hữu lưu giữ trong hồ sơ của chủ thể phát hành trên chứng khoán. Việc chuyển tên người sở hữu chứng khoán này có phần khó khăn hơn và phải có sự đồng ý của cơ quan phát hành chứng khoán. c) Căn cứ vào lợi tức chứng khoán - Chứng khoán có lợi tức ổn định là loại chứng khoán mà người cầm giữ loại chứng khoán này được hưởng lợi tức ổn định theo tỷ lệ lãi suất tính trên mệnh giá chứng khoán điển hình là trái phiếu và cổ phiếu ưu đãi. - Chứng khoán có lợi tức không ổn định là loại chứng khoán mà các nhà đầu tư mong đợi 1 mức lợi tức cao hơn nhiều so với chứng khoán có lợi tức ổn định, lãi suất không được ghi trên chứng khoán. Các loại chứng khoán này thường mang tính chất rủi ro cao và không ổn định. Giới thiệu chung về Thị trường chứng khoán Khái niệm và bản chất của Thị trường chứng khoán a) Khái niệm: Thị trường giao dịch chứng khoán là địa điểm hoặc hình thức trao đổi thông tin để tập hợp lệnh mua, bán và giao dịch chứng khoán. b) Bản chất: Thị trường chứng khoán phản ánh các quan hệ trao đổi, mua bán quyền sở hữu tư liệu sản xuất và vốn bằng tiền, tức là mua bán quyền sở hữu vốn. Trong nền kinh tế thị trường, vốn được lưu thông như một loại hàng hóa có giá trị và giá trị sử dụng. Thị trường chứng khoán là hình thái phát triển cao của nền sản xuất hàng hóa. Đặc điểm và vai trò của Thị trường chứng khoán a) Đặc điểm: Thị trường chứng khoán là một bộ phận của thị trường tài chính, được chuyên môn hóa về mua bán các chứng khoán trung và dại hạn. Thị trường chứng khoán ra đời là một tất yếu khách quan. b) Vai trò: - Thị trường chứng khoán là phương tiện huy động vốn đầu tư sản xuất kinh doanh, thúc đẩy nền kinh tế phát triển. - Thị trường chứng khoán là công cụ khuyến khích dân cư tiết kiệm và sử dụng tiền tiết kiệm này vào đầu tư, từ đó xã hội hóa việc đầu tư. - Thị trường chứng khoán thúc đẩy các doanh nghiệp sử dụng vốn có hiệu quả. - Thị trường chứng khoán góp phần điều hòa vốn giữa các ngành trong nền kinh tế, tạo nên sự phát triển nhanh và đồng đều trong nền kinh tế. - Thị trường chứng khoán là công cụ thu hút và kiểm soát vốn đầu tư nước ngoài. Phân loại Thị trường chứng khoán a) Căn cứ vào phương diện pháp lý của hình thức tổ chức thị trường - Thị trường chứng khoán chính thức (The stock exchange) Hay còn gọi là thị trường chứng khoán tập trung, là thị trường hoạt động theo các qui định pháp luật, là nơi mua bán các loại chứng khoán đã được đăng ký và chứng khoán ngoại lệ. Thị trường chứng khoán chính thức có địa điểm và thời gian mua bán rõ rệt, giá cả được định theo thể thức đấu giá công khai, có sự kiểm soát của cơ quan quản lý Nhà nước về chứng khoán. Thị trường chứng khoán chính thức được thể hiện bằng các Sở giao dịch chứng khoán. - Thị trường chứng khoán phi chính thức (Over the counter market – OTC) Hay còn gọi là thị trường chứng khoán phi tập trung (còn gọi là Thị trường chứng khốn ngầm), là thị trường mua bán chứng khoán ngoài sở giao dịch, không có địa điểm tập trung những người môi giới, những người kinh doanh chứng khoán như ở sở giao dịch chứng khoán, không có sự kiểm soát của cơ quan quản lý Nhà nước về chứng khoán, không có ngày giờ hay thủ tục nhất định mà do sự thoả thuận của người mua và người bán được thực hiện bởi các công ty chứng khoán thành viên. Phương thức giao dịch thông qua mạng điện thoại và vi tính. Các chứng khoán giao dịch trên thị trường này thường là các loại chứng khoán không được đăng ký, ít người biết hay ít được mua bán. b) Căn cứ vào tính chất phát hành hay quá trình lưu hành của chứng khoán - Thị trường chứng khoán sơ cấp Thị trường chứng khoán sơ cấp còn gọi là thị trường cấp một hay thị trường phát hành là thị trường phát hành các loại chứng khoán. Đây là nơi diễn ra các hoạt động mua bán chứng khoán mới phát hành lần đầu cho phép các chủ thể cần nguồn tài chính tiếp nhận được các nguồn tài chính bằng việc phát hành các chứng khoán mới, những chứng khoán bán cho người đầu tiên mua nó nhằm thu hút vốn đầu tư. Thị trường sơ cấp là thị trường tạo vốn cho đơn vị phát hành. Thị trường này tập trung các nguồn vốn nhà rỗi của các nhà đầu tư về phía các đơn vị phát hành, đồng thời các chứng khoán được chuyển đến tay các nhà đầu tư lần đầu. Thị trường sơ cấp làm tăng vốn cho nền kinh tế đồng thời tạo ra hàng hoá chứng khoán cho thị trường thứ cấp. Việc phát hành chứng khoán ở thị trường sơ cấp nhằm thu hút mọi nguồn vốn đầu tư, tiết kiệm vào phát triển kinh tế. Đối tượng mua bán trên thị trường chứng khoán sơ cấp là quyền sử dụng các nguồn tài chính. Thị trường này chỉ được tổ chức một lần, việc phát hành chứng khoán được bắt đầu kể từ khi đơn vị phát hành chứng khoán chào bán chứng khoán ra công chúng và chấm dứt khi toàn bộ số chứng khoán của đợt phát hành đến tay các nhà đầu tư thứ nhất. - Thị trường chứng khoán thứ cấp Thị trường chứng khoán thứ cấp là thị trường cấp hai hay thị trường lưu thông, thị trường mua đi bán lại các chứng khoán đã được phát hành trên Thị trường chứng khốn sơ cấp, làm thay đổi quyền sở hữu chứng khoán. Đây là nơi diễn ra các hoạt động mua bán chứng khoán đến tay người thứ hai, tức là thị trường diễn ra việc mua bán lại các chứng khoán đã được phát hành trên thị trường chứng khoán sơ cấp. Thị trường chứng khoán thứ cấp là một thị trường cạnh tranh tự do. Trên thị trường này, các nhà đầu tư, các nhà môi giới, các nhà kinh doanh chứng khoán được tự do tham gia. Mặt khác, giá cả của chứng khoán phản ảnh nguyên tắc cạnh tranh và kết quả của quan hệ cung cầu chứng khoán. Thị trường thứ cấp là một thị trường hoạt động liên tục không ngừng nghỉ. Các nhà đầu tư có thể mua bán chứng khoán nhiều lần trên thị trường này. c) Căn cứ vào phương thức giao dịch - Thị trường giao ngay (Spot market) còn gọi là thị trường thời điểm, tức là thị trường thực hiện việc giao dịch mua bán chứng khoán theo giá thỏa thuận của ngày giao dịch nhưng việc thanh toán và giao hoán sẽ diễn ra tiếp sau đó hai ngày. - Thị trường tương lai (Future market) l thị trường mua bán chứng khoán theo một hợp đồng định sẵn, giá cả được thoả thuận trong ngày giao dịch nhưng việc thanh toán và giao hoán sẽ diễn ra trong một kỳ hạn nhất định trong tương lai. d) Căn cứ vào đặc điểm các loại hàng hoá lưu hành trên thị trường chứng khoán Theo căn cứ này, thị trường chứng khoán được chia ra thành ba loại thị trường: - Thị trường cổ phiếu -Thị trường trái phiếu - Thị trường các công cụ có nguồn gốc chứng khoán Lạm phát và các nguyên nhân gây ra lạm phát Khái niệm và bản chất của lạm phát a) Khái niệm: Lạm phát là hiện tượng cung tiền tệ kéo dài làm cho mức giá cả chung của nền kinh tế tăng lên liên tục trong một thời gian nhất định. b) Bản chất: Lạm phát là một hiện tượng tiền tệ khi những biến động tăng lên của giá cả diễn ra trong một thời gian dài. Phân loại lạm phát Dựa vào tỷ lệ lạm phát, các nhà kinh té chia làm 3 loại: - Lạm phát vừa phải: là loại lạm phát một số, tỷ lệ tăng giá thấp dưới 10%/năm Đồng tiền mất giá không lớn, chưa ảnh hưởng nhiều đến sản xuất kinh doanh. Mọi người vẫn sẵn sàng giữ tiền để thực hiện giao dịch. - Lạm phát phi mã: là loại lạm phát 2 hay 3 só, tức trong khoảng hơn 10%. Lạm phát phi mã trong 1 thời gian dài sẽ gây ra những biến dạng kinh tế nghiem trọng, đồng tiền bị mất giá nhanh. - Siêu lạm phát: là loại lạm phát trên 4 số, tức tỷ lẹ lạm phát lên đến hàng ngàn phần trăm, người ta ví nó như căn bệnh ung thư gây chết người, có tác động rất lớn đến nền kinh tế, người ta bị chìm trong khối tiền tẹ khi hàng hóa đều khan hiếm. Tiền tệ không thực hiện chức năng phương tiện trao đổi vì không ai muốn bán hàng để lấy những đồng tiền vô giá trị. Nguyên nhân gây ra lạm phát a) Xét theo nguồn gốc: - Nguyên nhân cơ bản và sâu xa: nền kinh tế quốc dân bị mất cân đối, sản xuất sút kém, ngân sách quốc gia bị thâm hụt dẫn đến lạm phát. - Nguyên nhan trực tiếp: cung cấp tiền tệ tăng trưởng quá mức cần thiết. - Nguyên nhân quan trọng: hệ thống chính trị bị khủng hoảng do những tác động bên trong hoặc bên ngoài làm cho lòng tin của dân chúng vào chế độ của Nhà Nước bị xói mòn, từ dó làm cho uy tín và sức mua của đồng tiền bị giảm sút, họ không tiêu xài hoặc đánh giá thấp giấy bạc mà Nhà Nước phát hành. b) Xét theo chủ quan – khách quan - Nguyên nhân chủ quan: những chính sách quản lý kinh tế không phù hợp của Nhà Nước như chính sách cơ cấu kinh tế, chính sách lãi suất, chính sách thuế … làm cho nền kinh tế bị mất cân đối, hiệu quả sản xuất bị sút kém, ảnh hưởng đến nền tài chính quốc gia.. - Nguyên nhân khách quan: thiên tai, động đất, sóng thần … là những nguyên nhân bất kahr kháng hoặc nền kinh tế sau chiến tranh bị tàn phá, tình hình biến động của thị trường nhiên liệu, vàng, ngoại tệ thế giới … dẫn tới thiếu hàng hóa, đồng tiền mất giá. c) Xét theo lý thuyết cung – cầu - Lạm phát cầu kéo (Demand-pull inflation) xảy ra khi tổng cầu tăng trong khi tổng cung không tăng hoặc tăng chậm hơn tổng cầu. Lúc đó, một lượng tiền lớn dùng để mua hàng hóa ít ỏi sẽ làm tăng giá. - Lạm phát chi phí đẩy (Cost-push inflation) xảy ra khi chi phí sản xuất gia tăng hoặc khi năng lực sản xuất của quốc gia giảm sút. Các nhân tố của lạm phát ảnh hưởng tới Thị trường chứng khoán Nhân tố giá cả Bình thường, lãi suất thực chất không là gì khác hơn ngoài chi phí mà một ngưòi phải trả cho việc sử dụng tiền của người khác. Thế nhưng câu chuyện về lãi suất khi nó chạy sang thị trường chứng khoán lại không dừng lại ở đó. Lạm phát gia tăng thì giá phải trả để sử dụng vốn của người khác sẽ tăng lên để tương xứng với mức độ gia tăng của giá cả. Chính vì vậy, lãi suất huy động của ngân hàng phải tăng lên dẫn tới lãi suất cho vay của các ngân hàng cũng tăng lên, nó tác động đến hành vi tiêu dùng của các cá nhân và chiến lược kinh doanh của các doanh nghiệp, gia tăng chi phí cho các doanh nghiệp, khiến cho thu nhập thấp hơn và cuối cùng là nó có khuynh hướng làm cho thị trường chứng khoán trở nên kém hấp dẫn hơn đối với các nhà đầu tư. Dễ thấy, chính bản thân các doanh nghiệp cũng cần vay tiền từ ngân hàng thương mại để duy trì hoạt động và mở rộng sản xuất.  Một khi các khoản vay từ ngân hàng trở nên đắt hơn thì các doanh nghiệp sẽ có tâm lý ngại vay tiền và thực tế thì họ phải trả lãi suất cao hơn cho các khoản vay. Với một doanh nghiệp trong thời kỳ tăng trưởng thì điều này có thể tác động nghiêm trọng, doanh nghiệp phải thu hẹp phạm vi hoạt động và kết quả là lợi nhuận bị giảm sút. Như chúng ta đã biết, một trong những cách để định giá một doanh nghiệp chính là đưa tất cả các dòng tiền kỳ vọng trong tương lai chiết khấu về hiện tại. Lấy giá trị của doanh nghiệp chia cho số lượng cố phần đang lưu hành ta có giá trị một cổ phần. Gía chứng khoán thay đổi tuỳ theo các kỳ vọng khác nhau của nhà đầu tư về công ty ở các thời điểm khác nhau. Do đó mà nhà đầu tư sẵn sàng mua hoặc bán cổ phần ở các mức giá khác nhau. Một khi doanh nghiệp bị thị trường nhìn thấy là sẽ cắt giảm các chi phí đầu tư tăng trưởng hoặc là doanh nghiệp đang tạo ra lợi nhuận ít hơn vì chi phí vay nợ tăng cao hoặc là doanh thu sụp giảm do người tiêu dùng thì dòng tiền tương lai được dự đoán sẽ giảm đi.  Và hệ quả là giá cổ phần của doanh nghiệp sẽ thấp xuống. Nếu số lượng doanh nghiệp trên thị trường chứng khoán có sự sụp giảm này đủ lớn thì xét toàn bộ thị trường, chỉ số thị trường chứng khoán sẽ giảm. Nhân tố lãi suất Mối quan hệ giữa lãi suất và giá trái phiếu là mối quan hệ trực tiếp và ngược chiều nhau. Giá của trái phiếu là giá trị hiện tại của các dòng tiền. Khi lãi suất thị trường càng cao thì các dòng tiền bị chiết khấu với lãi suất càng lớn, do vậy dẫn đến giá trái phiếu càng nhỏ. Do đó, giữa lãi suất thị trường và lãi suất trái phiếu có quan hệ tỷ lệ nghịch: khi lãi suất ngân hàng tăng cao hơn lãi suất trái phiếu, giá trái phiếu sẽ sụt giảm. Lãi suất của chứng khoán sẽ ảnh hưởng đến giá của chứng khoán. Ảnh hưởng này càng lớn nếu kỳ hạn của chứng khoán càng dài. Vì các chứng khoán dài hạn rủi ro cao hơn các chứng khoán ngắn hạn. Nếu những nhà đầu tư muốn mua chứng khoán dài hạn thì họ sẽ đòi hỏi một lãi suất chứng khoán cao hơn nhiều để bù đắp các rủi ro đó. Các chính sách của nhà nước trong việc kiềm chế lạm phát a) Thay đổi lãi suất chiết khấu: Lãi suất chiết khấu là  chi phí mà các ngân hàng thuơng mại phải trả cho việc vay tiền từ ngân hàng trung ương. Nói rõ ràng hơn thì khi các ngân hàng thương mại cần tiền, họ có thể vay ở ngân hàng trung ương bằng cách mang chiết khấu các giấy tờ có giá với một lãi suất do ngân hàng trung ương công bố từ trước, gọi là lãi suất chiết khấu. Bởi đó là một trong những cách hữu hiệu nhất mà ngân hàng trung ương nỗ lực để kiểm soát lạm phát. Không một quốc gia nào muốn để lạm phát ở mức cao. Việt Nam cũng không nằm ngoài mục tiêu đó, chúng ta đang cố gắng khống chế tỷ lệ lạm phát ở mức 8%. Bằng việc thay đổi lãi suất chiết khấu, ảnh hưởng đến lượng cung tiền trong xã hội, ngân hàng trung ương hy vọng có thể kiểm soát lạm phát. Đây cũng là cách làm phổ biến của hầu hết các quốc gia. Hiểu một cách cơ bản nhất thì khi ngân hàng trung ương gia tăng lãi suất chiết khấu tức là họ đang nỗ lực làm cho lượng cung tiền trong xã hội giảm bằng cách tạo chi phí vay tiền đắt hơn. Nó khiến cho việc vay tiền của ngân hàng thương mại từ ngân hàng trung ương trở nên đắt hơn. Người chơi chứng khoán sẽ không thể vay của ngân hàng để đầu tư vào Thị trường chứng khoán như trước đây, do đó, lượng người và lượng vốn tham gia Thị trường chứng khoán sẽ ít đi. b) Quy định mức dự trữ bắt buộc Khi lượng dự trữ tiền cơ sở của các ngân hàng thương mại thay đổi vì chính sách tiền tệ thắt chặt của Nhà Nước sẽ dẫn đến ngân hàng thương mại phải điều chỉnh tương ứng các mức hạn cho vay tương ứng trên tổng dư nợ của ngân hàng, lượng tiền cung từ ngân hàng ít đi, số tiền vay được để chơi chứng khoán ít hơn, dân tự huy động tiền nhàn rỗi của mình nhiều hơn c) Chỉ thị 03 về thắt chặt cho vay chứng khoán Sau nhiều đánh giá của các chuyên gia về tình trạng bong bóng của thị trường, chính phủ đã quyết định ban hành chỉ thị 03 về thắt chặt cho vay chứng khoán. Chỉ thị này ngay khi mới ra đời đã làm cho thị trường chứng khoán chấn động. Trên sàn giao dịch CK TPHCM, chỉ số VN - Index trong thời điểm đó cũng chỉ xoay quanh ngưỡng trên 1.000 điểm. So với xu thế tăng, VN - Index nghiêng về chiều hướng điều chỉnh giảm nhiều hơn. Giám đốc điều hành một quỹ đầu tư nước ngoài đang hoạt động tại VN nhận định, nguyên nhân khiến TTCK đi đến kết quả trên là tác động bởi Chỉ thị 03 của NHNN vừa mới ban hành. Mặc dù đến thời điểm đó, NHNN vẫn chưa có động thái nào trước sự phản ứng quyết liệt của các NH cổ phần và NĐT. Nhưng trên thực tế, các NH cổ phần đã và đang dần tạm ngừng cho vay cầm cố CP. Chính vì vậy, tâm lý của NĐT rất hoang mang trong việc quan sát tình hình để kiếm cơ hội đẩy hàng thu hồi vốn trả nợ cho nhà băng. Theo vị giám đốc trên, nhiều khả năng CK sẽ bị ảnh hưởng mạnh trong thời gian tới khi các NH cổ phần mạnh tay siết chặt cho vay cầm cố hơn so với hiện nay. Trên thực tế, lượng tiền NĐT đổ vào thị trường đang dần bị thu hẹp. Điều này được chứng minh qua hiện tượng bỏ cọc mua CP của Tập đoàn Bảo Việt trong đợt đấu giá vừa qua, khiến giá CP của tập đoàn này đang trong trạng thái điều chỉnh. Không chỉ có CP của Bảo Việt, mà theo vị GĐ điều hành trên, nếu hạn chế mức cho vay cầm cố dưới 3% trên tổng dư nợ thì chắc chắn luồng tiền NĐT bỏ mua các CP khác sẽ bị hạn chế lại, vì lượng tiền NĐT đang bỏ vào trên thị trường phần lớn vay mượn từ NH. Theo ông, nếu NHNN cương quyết khống chế hạn mức cho vay cầm cố dưới hạn mức 3% trên tổng dư nợ thì không còn cách nào khác là NH phải thu hồi nợ. Tuy nhiên, ông cho rằng, như vậy NHNN đã vô tình hạn chế sự phát triển dịch vụ tín dụng và tính tự chủ của các NH cổ phần. Vì trên thực tế, nếu NĐT muốn tham gia mua cổ phần của một DN nào đó để trở thành đối tác chiến lược thì không lý do gì các NH lại từ chối. Vả lại, trước khi quyết định cho vay, các NH đều có sự phân chia danh mục, khoản vay để đảm bảo nguồn vốn và hạn chế rủi ro. Như vậy, theo ông này nếu hạn chế cho vay cầm cố CK, NHNN chỉ nên kiểm soát chặt NH khi cho các nhà đầu cơ vay kinh doanh CP. Không chỉ có NĐT cá nhân mà ngay cả những NĐT có tổ chức cũng luôn cần đến nguồn vốn của NH. Duy chỉ có các NĐT nước ngoài mới có sẵn nguồn tiền lớn đầu tư. Do vậy, việc NHNN hạn chế cho vay cầm cố sẽ ảnh hưởng nhất định đến NĐT trong nước, nhưng đồng thời lại là cơ hội cho NĐT nước ngoài. Vì thông thường, NĐT ngoại vẫn luôn có xu hướng mua vào khi giá CP trên thị trường có dấu hiệu sụt giảm. Tuy nhiên không thể đổ lỗi cho quyết định này hoàn toàn, mà nguyên nhân chính là do tâm lý bất ổn của nhà đầu tư. Phó Tổng giám đốc một ngân hàng thương mại cho biết: “Theo tôi, Chỉ thị 03 sẽ không gây tác hại quá lớn như một số thông tin thổi phồng lên đâu. Những người chơi chứng khoán phần lớn bằng vốn vay mượn NH chiếm tỷ lệ bao nhiêu chưa ai biết được mà đã vội cho rằng thị trường đã bị cho uống thuốc quá liều”. Tuy nhiên nói gì thì nói, sau thời điểm đó, TTCK Việt bắt đầu chuỗi mất điểm và trở lại vị trí thực của nó Các nhóm chỉ số dùng để đánh giá hiệu quả của chứng khoán Chỉ số thanh khoản Chỉ ra khả năng của công ty đáp ứng nợ ngắn hạn cũng như chuyển tài sản hiện thời thành tiền mặt để trả nợ a) Chỉ tiêu vốn hoạt động thuần Chỉ tiêu vốn hoạt động thuần là chênh lệch giữa tài sản lưu động và nợ ngắn hạn, là số vốn mà công ty cần để đưa vào các hoạt động hàng ngày. Số tiền này nhằm duy trì mức độ hữu hiệu của vốn hoạt động. Đảm bảo điều này cho phép công ty nâng cao khả năng thanh toán những món nợ đến hạn. b) Chỉ tiêu khả năng thanh toán hiện hành (Rc) Chỉ tiêu khả năng thanh toán hiện hành cho thấy doanh nghiệp có bao nhiêu tài sản có thể chuyển đổi thành tiền mặt để đảm bảo thanh toán cho các khoản nợ ngắn hạn. Chỉ tiêu này đo lường khả năng trả nợ của doanh nghiệp. Chỉ tiêu này được chấp nhận hay không tuỳ thuộc vào sự so sánh với tỷ số thanh toán trung bình ngành mà doanh nghiệp đang kinh doanh hoặc so sánh với các năm trước để thấy sự tiến bộ hoặc giảm sút. Nếu chỉ tiêu Rc giảm cho thấy khả năng thanh toán giảm và cũng là dấu hiệu báo trước những khó khăn về tài chính sẽ xảy ra. Nếu chỉ tiêu Rc khá cao và có1u hướng tăng nghĩa là công ty luôn sẵn sàng thanh toán các khoản nợ. Tuy nhiên nếu Rc quá cao sẽ làm giảm hiệu quả sử dụng vốn vì công ty đầu tư quá nhiều vào tài sản ngắn hạn, tức là công ty quản lý tài sản ngắn hạn chưa có hiệu quả. Theo quan điểm của nhiều nhà phân tích, xu hướng của phân tích chỉ số Rc ở mức độ an toàn trong khoảng 2,0 c) Chỉ số khả năng thanh toán nhanh (Rq) Chỉ số khả năng thanh toán nhanh (Rq) là chỉ tiêu được tính toán dựa trên những tài sản lưu động có thể nhanh chóng được chuyển đổi thành tiền, bao gồm tất cả các tài sản lưu động trừ hàng tồn kho d) Chỉ số thanh khoản (k) Chỉ số thanh khoản là chỉ tiêu đánh giá chính xác nhất khả năng thanh toán nợ đến hạn của công ty, đánh giá ngân quỹ mà công ty có thể sử dụng tức thời Nếu k >1: tốt k=1: bình thường k<1: có khó khăn e) Lưu chuyển tiền tệ (dòng lưu kim) Dòng lưu kim phản ánh số tiền phát sinh từ hoạt động của công ty. Chỉ tiêu này đánh giá khả năng thanh toán những chi phí hiện hành của công ty như việc thanh toán cổ tức Nếu lưu chuyển tiền tệ dương cho thấy công ty có thu nhập đầy đủ để chi trả các chi phí và phân chia cổ tức Nếu lưu chuyển tiền tệ âm có nghĩa rằng công ty bị thua lỗ và có thể gặp khó khăn trong thanh toán nợ ngắn hạn. Chỉ số về khả năng tái tạo vốn a) Chỉ số trái phiếu Chỉ số trái phiếu chỉ ra số vốn huy động là trái phiếu chiếm bao nhiêu phần trăm trong toàn bộ vốn dài hạn b) Chỉ số cổ phiếu ưu đãi Chỉ số cổ phiếu ưu đãi chỉ ra số vốn huy động từ cổ phiếu ưu đãi chiếm bao nhiêu phần trăm trong toàn bộ vốn dài hạn c) Chỉ số cổ phiếu thường Chỉ số cổ phiếu thường cho biết số vốn dài hạn huy động được từ cổ phiếu thường chiếm bao nhiêu phần trăm trong toàn bộ vốn dài hạn Nếu chỉ số trái phiếu chiếm tỷ trọng lớn chứng tỏ trái phiếu đang lưu hành cao, được xem như cán cân nợ của công ty lớn. Điều này ảnh hưởng đến khả năng sinh lợi của công ty bị ảnh hưởng lớn vào sự thay đổi của lãi suất. d) Chỉ số nợ trên vốn cổ phần Chỉ số nợ trên vốn cổ phần là tỷ lệ giữa trái phiếu và cổ phiếu ưu đãi trên cổ phiếu thường Chỉ số bảo chứng Chỉ số bảo chứng còn gọi là chỉ số trang trải, nhằm đo lường khả năng của công ty để đáp ứng việc trả lãi cho các trái chủ và trả cổ tức cho các cổ đông ưu đãi a) Hệ số thanh toán lãi trái phiếu Hệ số thanh toán lãi trái phiếu là tỷ lệ giữa lợi nhuận trước khi trả lãi và thuế với tiền lãi trái phiếu phải trả hàng năm. Hệ số trên quá thấp hay không đáp ứng thanh toán tiền lãi cho các trái chủ làm cho công ty thất bại trong việc vay nợ. Hệ số này cho thấy mức độ an toàn trong thanh toán lãi cho các trái chủ. Khi công ty thiếu khả năng thanh toán lãi cho các trái chủ sẽ đặt công ty vào tình trạng mất khả năng thanh toán nợ. b) Hệ số thanh toán cổ tức ưu đãi Hệ số này cho thấy mức độ an toàn trong viêc thanh toán cổ tức cho các cổ đông. Khi công ty không đủ khả năng thanh toán cổ tức cho cổ đông, sẽ đặt công ty vào tình trạng mất khả năng thanh toán nợ và ảnh hưởng đến giá trị cổ phiếu ưu đãi trên thị trường Chỉ số về khả năng lợi nhuận và sử dụng tài sản Việc tính toán khả năng lợi nhuận chỉ ra số lợi nhuận mà công ty đạt được cho mỗi đồng doanh thu (doanh số). Các nhà phân tích thường nhìn vào cả lợi nhuận gộp và lợi nhuận ròng (lợi nhuận sau thuế) để đánh giá khả năng tạo lợi nhuận a) Hệ số lợi nhuận gộp b) Hệ số lợi nhuận ròng d) Tỷ lệ hoàn vốn cổ phiếu thường Tỷ lệ hoàn vốn cổ phiếu thường là một trong các chỉ tiêu đo lường quan trọng khả năng tạo lợi nhuận của công ty năm này so với năm khác e) Giá sổ sách của cổ phiếu thường Đánh giá thu nhập a) Thu nhập của mỗi cổ phiếu thường (EPS) b) Cổ tức cho một cổ phiếu thường (DPS) c) Chỉ số giá cả trên thu nhập (P/E) Hệ số P/E cao chỉ ra rằng nhà đầu tư đang trả giá cao cho thu nhập ngày hôm nay. Họ làm như vậy hy vọng thu nhập tương lai sẽ cao hơn. Các cổ phiếu có hệ số P/E cao có khuynh hướng trả cổ tức thấp d) Hệ số chi trả cổ tức Hệ số này là tỷ lệ phần trăm lợi nhuận ròng trả cho cổ đông thường dưới dạng cổ tức e) Lơi tức hiện thời (hệ số lãi cổ phần trên thời giá) Lợi tức hiện thời cho cổ phiếu thường thể hiện tỷ lệ hoàn vốn cổ tức dựa trên giá trị thị trường hiện thời của cổ phiếu. Chương 2 – Tình hình thực tế của Thị trường chứng khoán và các cổ phiếu cụ thể trước và sau lạm phát 2.1 Tình hình Thị trường chứng khoán Việt Nam 2.1.1 Chỉ số chứng khoán trước lạm phát Sau khi ra nhập WTO, Thị trường chứng khoán Việt Nam đã có những bước chuyển biến đáng kể. Thị trường chứng khoán VN bắt đầu có những sự khởi sắc nhất định. Chúng ta có thể thấy rõ điều này thông qua số lượng các quỹ đầu tư nước ngoài đăng ký tham gia hoạt động tại thị trường tài chính VN tăng nhanh. Mức cầu chứng khoán gia tăng đã giúp chỉ số VN Index liên tục tăng trong 4-5 tháng đầu năm 2006, và đạt mức kỷ lục là 632,69 điểm (ngày 25/4/2006). Sau giai đoạn đó, Thị trường chứng khoán tiếp tục khởi sắc với những phiên tăng điểm kéo dài và ổn định. Trong giai đoạn đó, những cơn sốt cổ phiếu đang diễn ra. Giới đầu tư bắt đầu săn lùng những cổ phiếu lần đầu IPO. Điều này đã đẩy giá chứng khoán tăng mạnh. Những công ty lớn lần đầu niêm yết được giới đầu tư quan tâm như ACB, FPT … liên tiếp tạo lập kỷ lục về giá niêm yết. Tiếp nối thành công của năm 2006, thị trường chứng khoán Việt Nam tiếp tục có những bước chuyển mình trong năm 2007. Với những phát triển vượt bậc về quy mô, chất lượng, thị trường chứng khoán đã và đang chứng minh vị thế và tầm ảnh hướng đáng phải có của nó với đời sống kinh tế đất nước. Nền kinh tế bước vào năm 2007 tràn đầy tín hiệu lạc quan. Việc tổ chức thành công hội nghị cấp cao APEC, gia nhập Tổ chức Thương mại Thế giới WTO cùng với tốc độ tăng trưởng kinh tế cao liên tục trong nhiều năm tạo cơ sở cho niềm tin về tương lai phát triển của kinh tế đất nước. Niềm tin được thể hiện mạnh mẽ trên thị trường chứng khoán. Giới đầu tư nước ngoài liên tục huy động vốn và chuyển tiền vào Việt Nam chuẩn bị cho những kế hoạch giải ngân dài hơi với quy mô lớn. Nhà đầu tư và các công ty trong nước cũng tập trung nhiều hơn vào lĩnh vực tài chính chứng khoán – chính xác, tài chính và chứng khoán trở thành một dạng “mốt”. Thị trường chứng khoán chính thức có một bước nhảy vọt cả về số lượng các công ty niêm yết, chất lượng hàng hóa và quy mô giao dịch. Làn sóng các công ty niêm yết cuối năm 2006 nhằm hưởng ưu đãi thuế đã không gây ra khủng hoảng như một số chuyên gia dự báo, mà trái lại, đã trở thành một lực đẩy tích cực. Với sự góp mặt của FPT, PVD, PPC, SSI, DPM, HPG…, số lượng các cổ phiếu lớn có ảnh hưởng liên thông gần với VN-Index tăng lên. Thị trường không còn chịu tác động chỉ từ một hai mã cổ phiếu nên có độ cân bằng cao hơn. Tính thanh khoản lên cao chưa từng thấy, đưa thị trường vào giai đoạn phát triển bùng nổ. Số lượng tài khoản nhà đầu tư cũng như giá trị giao dịch tăng từng phiên. Nếu như đầu năm 2006, giá trị giao dịch mỗi phiên chỉ vài chục tỉ đồng thì năm 2007 con số này đạt khoảng 1.000 tỉ đồng. Thị trường chứng khoán chính thức trở thành kênh thu hút vốn cho doanh nghiệp, kênh đầu tư sinh lời của người dân – nơi đâu đó giấc mơ đổi đời đã trở thành sự thật. Khởi đầu năm 2007 với con số 751,77 điểm, chỉ sau hơn 3 tháng VN-Index đã vọt lên đỉnh 1170,67 điểm ngày 12/3. Đây chính là giai đoạn thăng hoa nhất trong lịch sử 8 năm vận hành của Thị trường chứng khoán. Trái “bong bong chứng khoán” trở thành chiếc túi không đáy hút liên tục các nguồn tiền khác nhau. Chặng đường tới đỉnh bắt đầu với đợt tăng giá của các công ty lớn (bluechip) có kết quả kinh doanh tốt. Thị trường được đẩy lên khỏi mức 1.000 điểm. Lợi nhuận đem lại từ đầu tư chứng khoán đi vào câu chuyện thường ngày của mọi nhà, đặc biệt là trong dịp Tết Nguyên Đán, kéo một lượng nhà đầu tư mới ra nhập thị trường. Các cổ phiếu tiếp tục tăng giá sau Tết. Nổi bật ở giai đoạn này là các cổ phiếu mang tính đầu cơ cao như các cổ phiếu các công ty nhỏ sàn HOSE (TP.HCM) và cổ phiếu các công ty thuộc tổng công ty Sông Đà, các công ty in sách giao khoa trên sàn HASTC (Hà Nội). Giá nhiều cổ phiếu tăng không ngừng khiến các chỉ số phân tích cơ bản bị bỏ lại đằng sau đủ để nhiều nhà đầu tư cảm thấy chúng quá đắt. Khi mọi người đều nghĩ “quá cao” thì giảm giá là điều tất yếu. Thị trường giảm liên tục từ giữa tháng 3. Cổ phiếu mất giá khiến không ít nhà đầu tư mà đa phần là những người mới gia nhập thị trường thua lỗ nặng. Đây là bài học đầu tiên trong năm nhưng cũng rất cần thiết với nhà đầu tư. Chỉ có mất mát từ thị trường mới có thể tác động được vào những quan niệm như: Thị trường chứng khoán là cỗ máy in tiền, cứ mua là lãi, đầu tư là công việc nhàn hạ, dễ dàng, thậm chí nhiều người còn coi Thị trường chứng khoán như sòng bạc. Từ mức đỉnh 1170,67 điểm thị trường rơi xuống mức đáy 905,53 ngày 24/4. Khi mà nhiều người, thậm chí là các chuyên gia đã nghĩ đến sự sụp đổ, bong bong vỡ hay hiệu ứng domino thì thị trường chứng minh điều ngược lại. Thị trường và những người tham gia vào nó đã trưởng thành. Đợt giảm giá chỉ là điều chỉnh mà không có đổ vỡ. Khi giá nhiều mã cổ phiếu giảm khoảng 30% cũng là cơ hội đầu tư quay trở lại. Được tiếp thêm sức mạnh sau kì nghỉ lễ 30/4 và 1/5, thị trường bắt đầu tăng giá trong tháng năm. Thị trường giai đoạn này tăng trở lại khá nhanh nhưng không lập lại được mức đỉnh cũ, chỉ đạt 1113,19 điểm ngày 23/5.  Bị ảnh hưởng bởi đợt đấu giá Bảo Việt, thị trường lại một lần nữa đi xuống. Tuy nhiên, trong xu thế giảm giá kéo dài của toàn thị trường lại xuất hiện những con cá hồi bơi ngược dòng. Tiêu điểm thời gian này là giao dịch của cá cổ phiếu “hiếm” như BMC, TCT, SGH,LBM. Các cổ phiếu này có đặc điểm chung là số lượng cổ phiếu lưu hành trên thị trường ít, phần nào được kiểm soát. Khi có các thông tin tốt về kết quả sản xuất hay những lợi thế về tài nguyên, đất đai, giá lập tức được đẩy lên. Số lượng đặt mua có thể đạt đến triệu đơn vị, trong khi đó số lượng bán ra chỉ nhỏ giọt từng chút một như một động tác để đẩy giá lên kịch trần. Sau gần 3 tháng đến ngày 23/8 VN Index lại rơi xuống 887,62 điểm.  Thị trường tiếp tục cho thấy sức đẩy ở mức 900 điểm. Như được hồi sức sau ngày nghỉ lễ 2/9, VN-Index quay lại con đường chinh phục đỉnh cao. Tuy nhiên, dẫn đạo xu hướng không còn là bluechip mà là các cổ phiếu nhỏ, các cổ phiếu sàn hà Nội và các cổ phiếu mới niêm yết. VN Index quay trở lại 1106,6 điểm ngày 3/10. Việc giá cổ phiếu các công ty mới niêm yết tăng mạnh như động lực đưa các công ty đã có dự định niêm yết nhanh chóng lên sàn. Nhưng khi thời gian niêm yết đã được ấn định thì cũng là lúc thị trường bắt đầu trở nên khó khăn. Cùng với SSI chuyển từ sàn HN sang, khi DPM, HPG niêm yết, thị trường đuối sức dần và bắt đầu tuột dốc. VN-Index lại quay trở về 900 điểm với nỗi lo về nguồn vốn dành cho những đợt phát hành thêm và IPO các công ty quốc doanh cực lớn sắp cổ phần hóa.  2.1.2 Chỉ số chứng khoán trong giai đoạn lạm phát Trái với dự đoán của nhiều nhà đầu tư về tương lai của Thị trường chứng khoán Việt Nam năm 2008, tình hình lạm phát đã kéo Thị trường chứng khoán Việt Nam trở lại với những con số thực của nó. Liên tục những phiên giảm giá của thị trường trong những tháng đầu năm 2008. Hy vọng tái lập mốc 1000 lung lay, và VN index nhanh chóng xuống khỏi những mức mà nhiều nhà đầu tư cho rằng đã chạm đáy. Ngay sau khi có tin tức về chỉ thị 03, nhiều nhà đầu tư bắt đầu bán tháo cổ phiếu khiến cho thị trường liên tiếp đi vào những phiên mất điểm. hạn chế cho vay đầu tư chứng khoán khiến cho nhiều nhà đầu tư e ngại về tính thanh khoản của thị trường. Ngay sau đó là những chính sách vĩ mô của nhà nước liên tục đẩy thị trường vào tình thế “hiểm nghèo”. Những dự báo về khả năng đột biến của lạm phát thời gian tới là một áp lực chính trong những phiên giao dịch vào tháng 5/2008. Xu hướng giao dịch trên sàn không có nhiều khác biệt so với phiên liền trước. Đà giảm đã có trong dự tính của nhiều nhà đầu tư. Điểm mà họ quan tâm là những dự báo về lạm phát vừa xuất hiện trên thị trường. Viện Nghiên cứu và Quản lý kinh tế Trung ương (CIEM) công bố những dự báo về kinh tế Việt Nam năm 2008, trong đó đề cập đến khả năng xấu nhất lạm phát có thể lên tới 22,3%, và lạc quan nhất cũng ở mức 16,7%. Tỷ lệ trên thực sự gây “sốc” đối với những hy vọng về đà giảm của lạm phát trong thời gian tới, nhất là khi đã có dấu hiệu giảm tốc trong hai tháng vừa qua. Với nhà đầu tư chứng khoán, có thể hiểu dự báo trên đi cùng với môi trường đầu tư có khả năng sẽ xấu thêm, mà lạm phát vốn được xem là một nguyên nhân chính gây sụt giảm của thị trường từ đầu năm đến nay. Trong khi đó, có dự báo của một tổ chức uy tín nước ngoài lại chưa được phổ biến rộng rãi. Đó là dự báo khá lạc quan của bộ phận nghiên cứu Ngân hàng Stanard Chartered. Ngân hàng toàn cầu này đưa ra dự báo lạm phát của Việt Nam có thể lên tới 20% trong quý 2/2008, nhưng ngay sau đó sẽ giảm nhanh và kết thúc năm ở dự báo 14%. Xa hơn, Stanard Chartered lạc quan khi dự tính tỷ lệ trên chỉ còn 7,5% trong quý 1 và quý 2/2009 (thấp hơn nhiều so với năm nay). Nhìn lại hai dự báo trên, có một điểm chung là lạm phát vẫn diễn biến phức tạp và có thể tăng mạnh trong quý 2 tới. Đây là một bất lợi đối với khả năng phục hồi của thị trường chứng khoán. Còn trên thực tế, thị trường này vừa khép lại một tuần giảm mạnh cả về điểm số, giá chứng khoán và khối lượng giao dịch. Tại sàn Tp.HCM, chỉ còn 3,5 triệu đơn vị, bằng phân nửa khối lượng những phiên gần đây và có giá trị 148 tỷ đồng. Chỉ số VN-Index qua phiên này chính thức về mốc 500 điểm, giảm 7,61 điểm, còn 500,33 điểm. HASTC-Index chỉ còn 154,23 điểm, giảm 3,19 điểm.  Đúng như dự đoán. Thị trường chứng khoán đã xuống mức “đáy” 366 điểm vào ngày 20/6. nếu xét diễn biến thị trường thời gian qua theo các con số thống kê thì VN - Index đang có xu hướng tăng, tuy có xen kẽ với những phiên giảm. Cụ thể, tính từ 20/6 đến nay, chu kỳ diễn biến của VN - Index đã qua các đoạn như sau: Đoạn một, tăng từ 366 lên 489 điểm, từ ngày 20/6 đến ngày 17/7, tăng 123 điểm trong 19 phiên, bình quân 1 phiên tăng 6,47 điểm. Đoạn hai, giảm từ 489 điểm xuống 429 điểm từ ngày 17/7 đến ngày 25/7, giảm 60 điểm trong 6 phiên, bình quân 1 phiên giảm 10 điểm. Đoạn ba, tăng từ 429 điểm lên 451 điểm từ ngày 25/7 đến ngày 31/7, tăng 22 điểm trong 4 phiên, bình quân 1 phiên tăng 5,5 điểm. Đoạn 4, giảm từ 451 điểm xuống 430 điểm từ ngày 31/7 đến ngày 5/8, giảm 21 điểm trong 3 phiên, bình quân 1 phiên giảm 7 điểm. Đoạn 5, tăng từ 430 điểm lên 562 điểm từ ngày 5/8 đến ngày 27/8, tăng 132 điểm trong 16 phiên, bình quân 1 phiên tăng 8,25 điểm. Đoạn 6, giảm từ 562 điểm xuống 539 điểm từ ngày 27/8 đến ngày 29/8, giảm 23 điểm trong 2 phiên, bình quân 1 phiên giảm 11,5 điểm. Đoạn 7, tăng từ 539,1 điểm lên 555 điểm trong 1 phiên ngày 3/9, tăng 16,04 điểm. Tính từ 20/6 đến ngày 3/9, có 51 phiên, bình quân một đoạn có trên 7 phiên. Có 4 đoạn tăng với 40 phiên, bình quân mỗi đoạn tăng có 10 phiên; điểm tăng của 4 đoạn này là 293 điểm, bình quân một phiên tăng trên 7,3 điểm. Có 3 đoạn giảm với 11 phiên, bình quân mỗi đoạn giảm có gần 4 phiên; điểm giảm của 3 đoạn này là 104 điểm, bình quân một phiên giảm gần 9,5 điểm. Đáy của đoạn giảm sau đều cao hơn đáy của đoạn giảm trước; đỉnh của đoạn tăng sau nhìn chung cao hơn đỉnh của đoạn tăng trước. Như vậy, tăng điểm đã nhiều hơn giảm điểm cả về số đoạn (4/3), số phiên (40/11), tổng số điểm (293/104); nhờ vậy mà tính chung 51 phiên qua, VN - Index vẫn tăng 189 điểm; nhưng số điểm bình quân một phiên, thì phiên tăng ít hơn phiên giảm (7,3/9,5). Biểu đồ 2.1.1 – Chỉ số VnIndex từ tháng 3 đến tháng 9/2008 Tình hình khó khăn cộng với khủng hoảng tài chính thế giới khiến cho CK việt nam chưa tăng đã giảm trở lại. Hy vọng chung của nhiều nhà đầu tư là tình hình ổn định của kinh tế trong nước cùng với sự phát huy của những chính sách chống lạm phát sẽ giúp cho Thị trường chứng khoán tươi sáng hơn. 2.2 Tình hình của một số cổ phiếu tiêu biểu được đề tài chọn trước và sau lạm phát 2.2.1 Công ty cổ phần cơ điện lạnh Reetech (REE) a) Giới thiệu công ty: Công ty cổ phần Cơ Điện Lạnh được thành lập từ năm 1977, tên gọi ban đầu là Xí Nghiệp quốc doanh cơ điện lạnh thuộc sở hữu Nhà nước. Với sự năng động của ban lãnh đạo Công ty và tập thể cán bộ công nhân viên, Công ty luôn được đánh giá là người đi tiên phong trong việc thực hiện các chính sách đổi mới của Nhà nước. Là doanh nghiệp đầu tiên tiến hành cổ phần hóa vào năm 1993, Công ty cũng là một trong hai doanh nghiệp đầu tiên niêm yết cổ phiếu tại Trung tâm Giao dịch Chứng khoán Thành phố Hồ Chí Minh vào tháng 7 năm 2000. Tại thời điểm niêm yết, vốn điều lệ của Công ty là 150 tỷ đồng. Vốn điều lệ hiện tại là 287.142.140.000 đồng. Ngành nghề kinh doanh: - Sản xuất, lắp ráp, thiết kế, lắp đặt, sửa chữa và các dịch vụ về ngành điện, điện tử, cơ khí và điện lạnh. - Kinh doanh thương mại, xuất nhập khẩu các loại hàng tư liệu sản xuất, tư liệu tiêu dùng, các thiết bị lẻ, thiết bị hoàn chỉnh của ngành cơ điện lạnh. - Mua bán và dịch vụ bảo trì máy móc cơ giới nông nghiệp gồm: xe máy thiết bị làm đường, thiết bị đào, san lấp, thiết bị xây dựng, thiết bị công nông lâm nghiệp, máy phát điện và động cơ điện. - Đại lý ký gởi hàng hóa. - Xây dựng dân dụng và công nghiệp - Kinh doanh nhà ở (xây dựng, sửa chữa nhà để bán hoặc cho thuê). - Phát triển và khai thác bất động sản. - Hoạt động đầu tư tài chính vào các ngân hàng, công ty cổ phần. - Dịch vụ cơ điện cho các công trình công nghiệp, thương mại và dân dụng. Sản xuất máy điều hoà không khí Reetech, sản phẩm gia dụng, tủ điện và các sản phẩm cơ khí công nghiệp. REE là một trong hai cổ phiếu đầu tiên của Việt Nam được niêm yết và giao dịch trên thị trường chứng khoán tại Thành phố Hồ Chí Minh. Hiện tại số lượng cổ phiếu đang lưu hành là 80,415,924, trong đó số nhà đầu tư nước ngoài đang sở hữu là 26,771,313 (33.29%). Là một cổ phiếu đầu tiên được niêm yết trên thị trường nên cổ phiếu của REE có những lợi thế nhất định so với các loại cổ phiếu cùng ngành ngề hoạt động. b) Tình hình giá cổ phiếu của REE trước khi lạm phát: Là công ty chuyên sản xuất và tiêu tụ các sản phẩm về thiết bị điện nên nhìn chung tình hình và khả năng tăng trưởng của công ty khá ổn định và vững chắc. Trong năm 2006 và đầu năm 2007 là khoảng thời gian mà giá cổ phiếu của REE lên tới mức đỉnh điểm và có mức ổn định nhất. Khoảng thời gian từ 30-01-2007 đến 30-03-2007 chứng kiến sự ổn định và một mức giá lý tưởng của công ty, qua đó cho thấy được sự ổn định và sự kỳ vọng của nhà đầu tư đối với công ty. Khoảng thời gian này giá cổ phiếu dao động quang mức 250.000đồng/ cổ phiếu, và giá cao nhất là 285.000đồng vào ngày 05-03-2007. Trong thời gian này, khối lượng giao dịch cũng tỷ lệ với giá cổ phiếu. Ngày 31-01-2007 chứng kiến khối lượng giao dịch lớn nhât trong thời gian với gẩn 900.000 cổ phiếu, trung bình khối lượng giao dịch trong thời gian này là 450.000 cổ phiếu. Chúng ta có thể khảo sát qua biểu đồ sau: Biểu đồ 2.1.1 – Cổ phiếu REE từ 31/1 đến 30/3/2007 Có thể khi đạt tới giá trị cực đại thì việc đảo chiều là chuyện khó có thể tránh khỏi và điều đó là không ngoại lệ đối với REE. Khi đạt tới max là 285.000đồng/ cổ phiếu thì ngày 09-05-2007 đảo chiều nhanh chóng khi giá của ngày trước là 243.000đồng xuống 170.000đồng. Và bắt đầu từ ngày này giá của REE cứ tiếp tục giảm tuy không nhiều như lần đảo chiều đó và xoay quanh mức 140.000đồng. Trong thời gian này khối lượng giap dịch cũng giảm hẳn và đáng kể, vào ngày 09-05-2007 khối lượng giao dịch đạt gần 700.000 cổ phiếu. Chúng ta có thể tham khảo sự kiện này qua biểu đồ sau: Biểu đồ 2.1.2 – Cổ phiếu REE từ 2/4 đến 30/7/2007 c) Tình hình giá cổ phiếu của REE trong giai đoạn lạm phát: Trong giai đầu tiên của lạm phát REE và cũng như các mã chứng khoán khác trong suất 4 tháng giá cổ phiếu của REE đều giảm theo từng biên độ nhỏ nhưng do kéo dài nên giá của cổ phiếu lúc này chỉ còn 1/8 so với giá đỉnh. Và giá thấp nhất trong giai đoạn này là 25.000đồng. Trong giai đoạn này giá của REE đã cũng có những phiên giao dịch màu xanh khi Chính phủ có những chính sách cáp bách nhằm cứu vãn thị trường chứng khoán, cụ thể: ngày 25/03/2008 Chính phủ đưa ra các chính sách để hạn chế sự tụt dốc của VN-index xuống xa ngưỡng 500 điểm thì REE có dấu hiệu tăng trong 10 phiên dao dịch liên tiếp. Tuy nhiên sau những cố chính sách không thật đầy đủ và đồng bộ của Chính phủ thì VN-index vẫn tụt xa mốc 500 kéo theo REE tiếp tục đà giảm. Sau tháng 8 Chính phủ công bố chỉ số CPI của tháng so với tháng 8 chỉ dưới 1% thì VN-index bắt đầu tăng và màu xanh đã xuất hiện nhiều hơn trong các giao dịch trong đó có REE. Khi VN-index lên trên 500 điểm thì cũng là lúc giá của REE đạt giá cao nhất trong thời kỳ lạm phát và cũng đạt khối lượng giao dịch lớn nhất trong giai đoạn này. Cụ thể: ngày 06-09-2008 giá đạt 52.500đồng/ cổ phiếu và khối lượng giao dịch gần 190000 cổ phiếu. Biểu đồ cụ thể được biểu diễn dưới đây: Biểu đồ 2.1.3 – Cổ phiếu REE từ 31/1 đến 30/5/2008 Biểu đồ 2.1.4 – Cổ phiếu REE từ 6/5 đến 30/9/2008 Chỉ số giá của REE trước và trong thời kỳ lạm phát được cụ tổng quát bằng biểu đồ sau từ năm 2007 tới hết quý II/2008. Biểu đồ 2.1.5 – Cổ phiếu REE từ năm2007 đến hết quý II năm 2008 Giá và khối lượng mua bán cổ phiếu REE trong 1 năm vừa qua trên HOSE: Biểu đồ 2.1.6 – Cổ phiếu REE từ tháng cuối 10/2007 – 10/2008 2.2.2 Công ty cổ phần khoáng sản Bình Định (BMC) a) Giới thiệu công ty: Ngành nghề mà Công ty cổ phần khoáng sản Bình Định đăng ký hoạt động kinh doanh là ngành khai khoáng. Chuyên ngành khia khoáng chính là khai thác, chế biến và mua bán khoáng sản từ quặng sa khoáng Titan và các loại quặng khoáng sản khác. Các hoạt động hỗ trợ, khai thác khoáng sản( trừ điều tra, thăm dò dầu khí). Kiểm tra, phân tích các loại quặng khoáng sản. Mua bán các loại vật tư, máy móc, thiết bị phục vụ khai thác và chế biến các loại khoáng sản. Công ty cổ phần khoáng sản Bình Định tiền than là Công ty khoáng sản Bình Định được thành lập năm 1985. Công ty chuyển đổi thành Công ty cổ phần khoáng sản Bình Định vào ngày 28/ 01/ 2008 với vốn điều lệ lúc này là 14,114 tỷ đồng. Sản phẩm chính của Công ty là Ilmentie( đóng góp hơn 80% tổng doanh thu của công ty qua các năm), nguyên liệu chính để sản xuất là bột màu Titan dioxit() và kim loại Titan. Hơn 95% sản phẩm của công ty xuất khẩu sang các thị trường Nhật Bản, Malaysia, Trung Quốc. Các khách hàng lớn của công ty là các nhà nhập khẩu quặng của nước ngoài như Kayfour Development Corporation  Sdoanh nghiệp.Bhd, Qinzhou Qinnan District Jia Hua Import Export Td.,Lmt, Mineral Venture Internation Ltd (Mvi). Đến cuối năm 2006, Bộ Công nghiệp cấp 30 giấy phép khai thác quặng Titan và ra 28 quyết định bàn giao vùng mỏ trong cả nước. Công ty cổ phần Khoáng Sản Bình Định là một trong những doanh nghiêp hoạt động trong lĩnh vực khai thác, chế biến và kinh doanh sa khoáng Titan từ rất sớm so với các doanh nghiệp khác trong hiệp hội Titan Việt Nam. Do trữ lượng mỏ có hạn (khoảng 500,000 tấn), năng suất của công ty ngày càng tăng qua các năm nên công ty gặp rủi ro lớn khi khai thác hết mỏ quặng mà vẫn chưa khảo sát được hoặc xin giấy phép khai thác tại mỏ khoáng khác. Do hơn 95% sản lượng của công ty là xuất khẩu sang các nước Nhật Bản, Trung Quốc, Malaysia. Nhà nước đang có chủ trương hạn chế xuất khẩu sản phẩm khô, khoáng sản, công ty có thể gặp rủi ro về chính sách nhà nước ảnh hưởng tới tình hình kinh doanh của công ty. Ngoài ra, do doanh thu xuất khẩu là chủ yếu nên công ty có thể gặp rủi ro về thanh toán, tỷ giá. Ngành khai khoáng sử dụng nhiều lao động chân tay, do vậy rủi ro về tai nạn lao động, bệnh nghề nghiệp đối với lao động của công ty là khá cao. Ngoài ra, công ty có thể gặp các rủi ro về kinh tế, luật pháp, thiên tai, hỏa hoạn, giá nguyên vật liệu đầu vào đặc biệt là xăng dầu,...Nhà máy sản xuất xỉ Titan công suất 19.000 tấn sản phẩm xỉ Titan và gang/năm tại cụm công nghiệp Cát Nhơn – Phù Cát. Công ty niêm yết cổ phiếu ngày 28/12/2006 tại Trung tâm giao dịch Chứng khoán Hồ Chí Minh theo Quyết định số 112/UBCK-GPNY ngày 12/12/2006 của Ủy ban Chứng khoán Nhà nước. Mã chứng khoán là BMC. Vốn điều lệ  của Công ty là  82.618.200.000 đồng. Giá khởi điểm của BMC tại ngày niêm yết là 50.000đồng. b) Tình hình cổ phiếu BMC trước lạm phát: Trong giai đoạn 7 tháng đầu năm 2007 BMC là cổ phiếu có mức tăng trưởng mạnh mẽ nhất trong tất cả các cổ phiếu niêm yết trong thị trường chứng khoán Việt Nam. Trong đó ấn tượng nhất có 50 phiên tăng điểm liên tục và kịch trần. Tất cả các nhà phân tích và các nhà đầu tư rất hồ hởi với sự tăng trưởng này, bên cạnh đó các nhà phân tích đang cố gắng đi tìm nguyên nhân của sự việc trên. Có một sự thật là số lượng cổ phiếu của BMC sẵn sang cho giao dịch rất nhỏ chỉ khoảng 600.000 cổ phiếu và chủ yếu là các cổ đông lớn tham gia giao dịch nên khả năng thao túng có thể xẩy ra. Trong ngày 21/5, giá cổ phiếu này đã lên tới 847.000 đồng/cổ phiếu, tạo một mức giá kỷ lục khó đánh đổ trong lịch sử thị trường chứng khoán Việt Nam. Trong thời gian này cho dù VN-index nóng lạnh thất thường thì BMC vẫn tiếp tục tăng. Nhìn chung trong giai đoạn này BMC là một hiện tượng rực sáng trên thị trường chứng khoán ( kể cả thị trường OTC). Biểu đồ 2.2.1 – Cổ phiếu BMC từ 13/3 đến 10/7/2007 c) Tình hình cổ phiếu BMC trong giai đoạn lạm phát: Chỉ khi kinh tế vĩ mô bị ảnh hưởng thì BMC mới thật sự chịu ảnh hưởng nặng nề khi giá cổ phiếu đỉnh xuống đáy là 48.000đồng/cổ phiếu quay lại với giá niêm yết chào bán là 50.000đồng/cổ phiếu. Từ đầu tháng 3 đến cuối tháng 5 giá của BMC giảm từ ngưỡng 200.000đồng/ cổ phiếu xuống 50.000đồng/cổ phiếu. Khi đạt những kỳ tích ở năm 2007 thì những dự đoán và phân tích của sự thao túng của BMC dần thành hiện thực. Khi lạm phát tăng cao trong quý I,II/2008 đã làm giảm chỉ số chung VN-index khi sát xuông mức 400 điểâm là một báo động cho những cổ phiếu mà quy mô lẫn khối lượng nhỏ, trong khi đó đòi hỏi quy mô lẫn vốn để hạn chế những rủi ro thấp nhất do lạm phát gây ra và gia nhập. Bên cạnh đó, công ty Khoáng sản Bình Định bị nghi ngờ có liên quan đến vụ pha 57ha rừng có chứa Titan và bị Ủy ban Tỉnh rút giấy phép khai thác khu đất trên. Biểu đồ 2.2.2 – Cổ phiếu BMC từ 11/3- 10/7/2008 Giá và khối lượng giao dịch cổ phiếu BMC trên HOSE trong thời gian 3 tháng và 1 năm qua: Biểu đồ 2.2.3 – Cổ phiếu BMC từ cuối tháng 7 đến cuối tháng 10/2008 Biểu đồ 2.2.4 – Cổ phiếu BMC từ cuối tháng 10/2007 – tháng 10/2008 2.2.3 Ngân hàng thương mại cổ phần Sài GònThương Tín Sacombank (STB) a) Giới thiệu công ty: Chính thức được thành lập và đi vào hoạt động vào ngày 21/12/1991, Sacombank xuất phát điểm là một ngân hàng nhỏ, ra đời trong giai đoạn khó khăn của đất nước với số vốn điều lệ ban đầu 03 tỷ đồng và hoạt động chủ yếu tại vùng ven TP.HCM. Sau gần 17 năm hoạt động, đến nay Sacombank đã trở thành Ngân hàng TMCP hàng đầu Việt Nam với:     - 5.116 tỷ đồng vốn điều lệ;      - Trên 239 chi nhánh và phòng giao dịch tại 45 tỉnh thành trong cả nước và 1 VPĐD tại Trung Quốc;   - 9.700 đại lý thuộc 250 ngân hàng tại 91 quốc gia và vùng lãnh thổ;  - Khoảng 6.000 cán bộ nhân viên trẻ, năng động và sáng tạo;     - Khoảng 60.000 cổ đông đại chúng;     Vào ngày 16/5/2008, Sacombank tạo nên một bước ngoặt mới trong lịch sử hình thành và phát triển Ngân hàng với việc thành lập Tập đoàn tài chính Sacombank. b) Tình hình cố phiếu trước lạm phát: Là ngân hàng đầu tiên IPO chứng khoán và niêm yết trên sàn ngày 12/7/2006, giá cổ phiếu STB là 78.000, ngay sau đó giá cổ phiếu tăng lên hơn 80.000 và tiếp tục ổn định xung quanh mức giá 80.000đ. cũng giống như với thị trường chứng khoán trong năm đó, giá cổ phiếu STB không biến động nhiều, mà chỉ giao động nhẹ, có lúc giảm xuống 62.315 đ, nhưng không đáng kể. Bắt đầu năm 2007 ở mức 72.575,59 đ, những tháng kế tiếp, giá CP STB tiếp tục tăng và duy trì sự ổn định. Đến ngày 24/01/2007 giá của nó là 100.000. đây cũng là thời điểm hưng thịnh của thị trường chứng khoán Việt Nam. Trong suốt quý 2, giá của nó duy trì ở mức cao. Giá kịch sàn của STB tại thời điểm đó là 168.778đ. tại thời điểm đó, giá cổ phiếu của khối ngành ngân hàng cũng được nhà đầu tư khá quan tâm khi có những thông tin tốt từ chính phủ. Thời điểm quan trọng đối với cổ phiếu này là 7/6/2007. Trước đó 1 ngày, vào ngày 6/6/2207 giá của nó vẫn là 144665,83đ. Tuy nhiên ngày hôm sau chỉ còn 78.500đ. và sau đó nó bắt đầu chuỗi giảm giá. Trong quý 3, có thời điểm chỉ còn 50.883.52đ (ngày 23/8). Sau đó, tới cuối tháng 9, giá cổ phiếu tăng nhẹ lên trên 70.000đ và kết thúc năm 2007 ở mức 65.493 đ. Biểu đồ 2.3.1 – Cổ phiếu STB từ 11/2006 đến 7/2007 c) Tình hình cổ phiếu thời kỳ lạm phát Biểu đồ 2.3.2 – Cổ phiếu STB từ 10/2007 đến 9/2008 Hình trên là diễn biến giá của cổ phiếu STB trong 9 tháng đầu năm 2008. Bắt đầu ở mức 69.000đ/1cp vào tháng 10/2007, rồi tăng nhẹ lên 74.000đ, nhưng sau đó STB bắt đầu chu kỳ giảm giá. Giai đoạn trước tháng 1 năm 2008, trước tình hình chung cảu thị trường, STB có giảm, nhưng vẫn duy trì ở mức trên 60.000đ. Thậm chí có những phiên giao dịch, nhờ khối lượng giao dịch lớn, mà STB đã cứu cả thị trường khỏi những phiên mất điểm. Với những báo cáo tài chính tốt cùng tính thanh khoản cao, cổ phiều STB vẫn giữ được vị trí của mình trong hạng CP Blue chip. Thế nhưng, Cho đến ngày 30/9/2008, giá niêm yết trên sàn giao dịch chứng khoán Sài gòn là 23.800đ/cp. Mức giá cũng giao động từ 25 đến 30.000đ/cp kể từ tháng 5 năm 2008 Biểu đồ 2.3.3 – Cổ phiếu STB từ tháng 4 đến tháng 9/2008 Cổ phiếu của Sacombank cũng như phần lớn cổ phiếu ngân hàng, chịu một áp lực từ chính sách tín dụng thắt chặt của chính phủ. Không chỉ như những cổ phiếu khác, chỉ chịu ảnh hưởng từ việc nhà đầu tư bán tháo cổ phiếu, đối với riêng cổ phiếu ngành ngân hàng còn chịu thêm ảnh hưởng từ việc hạn chế tín dụng và tăng lãi suất cho vay để đáp ứng mức lãi suất bắt buộc của ngân hàng trung ương. Một mặt, cổ phiếu ngân hàng chịu áp lực từ nhà đầu tư, mặt khác chịu áp lực từ chỉ thị 03 của chính phủ về việc hạn chế cho vay tín dụng nên khó khăn chồng chất khó khăn cho cổ phiếu ngân hàng. . Thực chất chu kỳ giảm của STB bắt đầu từ đầu tháng 3 năm 2008. Đó cũng là những tháng sau Tết, khi mà chỉ số giá tiêu dùng tăng cao. Tâm lý người tiêu dùng không tin tưởng vào độ an toàn của ngành ngân hàng do những rủi ro tín dụng có thể xảy ra. Giống như phần lớn các ngân hàng trong thời kỳ thắt chặt tín dụng, Sacombank phải tăng lãi suất để thu hút đủ vốn cho việc mua tín phiếu bắt buộc từ NHNN. Việc tăng lãi suất đầu vào đồng nghĩa với việc tăng lãi suất cho vay. Như vậy mức độ rủi ro đối với các ngân hàng tăng lên. Tâm lý nhà đầu tư sẽ e dè trong việc lựa chọn cổ phiếu hơn. Nếu như trước đó với bảng Quyết toán tài sản và bảng kết quả hoạt động kinh doanh hấp dẫn, STB thu hút được sự quan tâm của giới đầu tư, thì sau đó những rủi oc hung của thị trường gây nên tâm lý chung cho những người đã sở hữu nó. Hệ lụy của vấn đề là cp bị bán tháo, dẫn đến giá CK giảm mạnh. Đầu tháng 9 cổ phiếu STB có tăng nhẹ. Nhưng trong thời điểm khủng hoảng tài chính hiện nay, giá cổ phiếu STB tiếp tục giảm. Dưới đây là giá và khối lượng giao dịch cổ phiếu STB trên HOSE trong 1 năm qua: Biểu đồ 2.3.4 – Cổ phiếu STB từ cuối tháng 10/2007 – tháng 10/2008 2.2.4 Công ty cổ phần phát triển đầu tư công nghệ FPT a) Giới thiệu công ty: Thành lập từ ngày 13/09/1988, FPT đã liên tục phát triển, Năm 2006 doanh số toàn FPT đạt 11.693 tỷ đồng (tương đương 730 triệu USD), tăng trưởng 42.40% so với năm 2005. Lợi nhuận trước thuế FPT đạt 606 tỷ đồng, tăng 77% so với năm 2005 và đạt 110% kế hoạch. Lợi nhuận sau thuế của cổ đông công ty mẹ cũng tăng 60% và đạt 109% kế hoạch. Mức Lãi sau thuế cổ đông công ty mẹ / Vốn điều lệ bình quân đạt 80%, cao hơn so với kế hoạch 2006 là 9.38%. FPT hoạt động trên nhiều lĩnh vực công nghệ thông tin, nhưng doanh số chủ yếu từ kinh doanh thương mại máy điện thoại và máy tính. Gần đây, FPT tham gia nhiều lĩnh vực khác nhau như bất động sản, bán lẻ, giáo dục và tài chính.  b) Tình hình cố phiếu trước lạm phát: Là công ty đi đầu và là công ty đứng đầu trong lĩnh vực kinh doanh về Công nghệ Viễn thông nên FPT có cả giá trị lẫn thương hiệu rất lớn tại thị trường trong nước. Trong giai đoạn này giá của FPT luôn ở mức giá cao so với giá trị thực tại của nó, với một thời gian dài từ tháng 1 đên tháng 3-2007 giá của FPT dao động quanh ngưỡng 600.000đồng/ cổ phiếu và cao nhất là 665.000đồng/ cổ phiếu. Và ngày 13- 07-2007 được coi là một ngày đáng nhớ của cổ phiếu FPT khi các cổ đông nước ngoài ào ạt đặt lệnh bán với tổng khối lượng gần 1 triệu cổ phiếu sau một thời gian không có dấu hiệu hồi phục, điều này đã kéo theo một hệ quả của sự giảm giá nghiêm trọng nhất trong lịch sử cổ phiếu FPT. Có thể nói đây là một dấu hiệu cho một giai đoạn đi xuống FPT và thực tế cho thấy giá cổ phiếu FPT chỉ còn 217.000đồng/ cổ phiếu vào ngày 04-08-2007, đây là giá thấp nhất của FPT trong suốt 8 tháng đầu năm 2007. Biểu đồ 2.4.1 – Cổ phiếu FPT từ 30/1 đến 25/4/2007 c) Tình hình cổ phiếu thời kỳ lạm phát Sau ngày lịch sử của cổ phiếu FPT, giá của cổ phiếu vẫn trên đà giảm giá khi tình trạng lạm phát diễn ra đồng bộ và lan rộng ra tất cả các mặt hàng tiêu dung. Qua biểu đồ dưới đây chúng ta có thể thấy được giá của FPT từ tháng 10/ 2007 tới tháng 06/ 2008 liên tiếp giảm và xuống đáy, đến cuối tháng 6 giá trị của FPT chỉ còn 1/10 so với 1 năm trước. Biểu đồ 2.4.2 – Cổ phiếu FPT từ 30/8/2007 đến 27/6/2008 Sau khi chỉ số giá tiêu dùng tháng tháng 8 có dấu hiệu giảm mạnh so với các tháng trước đã tạo niềm tin mạnh mẽ cho các nhà đầu tư trong và ngoài nước. Khả năng VN-index có thể quay lại mốc 550 điểm đã làm cho giá cổ phiếu FPT tăng mạnh trong những giao dịch này, cụ thể giá cổ phiếu FPT đã đạt giá trị cao nhất trong thời gian lạm phát mạnh là 133.000đồng/ cổ phiếu vào đầu tháng 9. Tuy nhiên trong cũng trong tháng 9, sau khi có sự hồi phục mạnh mẽ của VN-index có phần chững lại và dao động quanh mốc 500 điểm cũng làm giá cổ phiếu FPT dao động quanh giá 100.000đồng/ cổ phiếu. Biểu đồ 2.4.3 – Cổ phiếu FPT từ 1/7 đến 29/9/2008 Dưới đây là giá và khối lượng giao dịch cổ phiếu FPT trong suốt 1 năm qua Biểu đồ 2. 4.4 – Cổ phiếu FPT từ cuối tháng 10/2007 đến 10/2008 2.2.5 Công ty cổ phần sữa Việt Nam (VNM) a) Giới thiệu công ty: Năm 1976, lúc mới thành lập, Công ty cổ phần sữa Việt Nam (VINAMILK) có tên là Công ty Sữa – Cà Phê Miền Nam, trực thuộc Tổng Cục thực phẩm. Vinamilk hiện là thương hiệu sữa hàng đầu VN với tốc độ tăng trưởng 20 – 25%/năm, có vốn điều lệ 1.590 tỷ đồng. Ngoài sữa và các sản phẩm từ sữa, công ty này còn kinh doanh nước giải khát và công nghệ, thiết bị phụ tùng, vật tư, hóa chất, nguyên liệu... và còn là nhà kinh doanh, môi giới cho thuê bất động sản, kho bến bãi... Ngày 18/10/2003, Vinamilk bán đấu giá lần thứ 1 với 720,000 cổ phần thành công thông qua công ty chứng khoán BSC. Ngày 17/02/2005, Vinamilk bán đấu giá lần thứ 2 với 1,827,000 cổ phần thông qua công ty chứng khoán BSC. Ngày 29/11/2005, Vinamilk bán đấu giá lần thứ 3 với 1,663,000 cổ phần tại VSE. Ngày 19/1/2006, cổ phiếu Công ty sữa VN Vinamilk (mã chứng khoán VNM) chính thức được niêm yết trên sàn giao dịch của Trung tâm Chứng khoán TP. HCM với giá khớp lệnh trong phiên giao dịch đầu tiên là 53.000 đồng/cổ phiếu.. Số lượng cổ phiếu đưa vào giao dịch là 159 triệu, mệnh giá 10.000 đồng/cổ phiếu. Như vậy, tổng giá trị cổ phiếu niêm yết theo mệnh giá là 1.590 tỷ đồng. b) Tình hình cố phiếu trước lạm phát: Bắt đầu ở mức 53.000đ, VNM nhanh chóng tăng giá giai đoạn sau đó. Và đến ngày 14/04/2006 giá Cp VNM đã là 102.000đ. 4 tháng sau đó, với sự thử thách của thị trường, VNM giảm nhẹ. Nhưng từ tháng 8, VNM bắt đầu bình ổn và tăng nhẹ. Giai đoạn cao nhất mà VNM đạt được là ngày 27/02/2007 với giá 212.000đ. So với nhiều “ông lớn” khác thì VNM vẫn duy trì được giá khá ổn định trong năm 2007. Đó là do liên tiếp những báo cáo kết quả hoạt động kinh doanh thành công. c) Tình hình cổ phiếu sau lạm phát Không tránh khỏi số phận như những cổ phiếu khác, mặc dù bắt đầu năm 2008 với mức giá 166.000 đ, nhưng ngay sau đó VNM tiếp tục giảm. và cụ thể là tháng 6/2008, giá VNM chỉ còn 93.400đ. biến động thất thường của VNM thực tế bắt đầu từ tháng 3( tức là cũng từ sau chỉ thị 03). Giai đoạn sau đó tăng giảm rất thất thường, nhưng không vượt qua mức 120.000đ. Trong tháng 9 vừa qua, khi những tin tức xấu từ thị trường sữa, cổ phiếu VNM tiếp tục giao động mạnh. Nhưng sau khi chứng minh được sự an toàn thì giá VNM bình ổn, thậm chí còn tăng trong những ngày qua Biểu đồ 2.5.1 – Cổ phiếu VNM từ 22/9 đến 30/9/2008 Giá và khối lượng giao dịch cổ phiếu VNM trong 3 tháng cũng như 1 năm qua: Biểu đồ 2.5.2 – Cổ phiếu VNM từ cuối tháng 7 đến tháng 10/2008 Biểu đồ 2.5.3 – Cổ phiếu VNM từ cuối tháng 10/2007 đến 10/2008 2.3 Nhận định về ảnh hưởng của lạm phát đối với các loại chứng khoán này Theo xu hướng chung của những nhà đầu tư, trong giai đoạn đầu, những cổ phiếu thuộc hàng Bluechip được giới đầu tư quan tâm thường xuyên. Tuy nhiên, chỉ sau khi thị trường chứng khoán về đúng với thực tế của nó thì dòng cổ phiếu này cũng là loại bị rớt giá thê thảm nhất. Trong nhóm cổ phiếu được nghiên cứu, đứng đầu bảng về sự trượt giá có lẽ là FPT, tuy nhiên, xét trên phương diện ảnh hưởng của lạm phát thì STB là chịu áp lực nhiều nhất. Đó là do STB thuộc khối ngành ngân hàng, đối tượng chính chịu ảnh hưởng từ chính sách thắt chặt tín dụng từ chính phủ. Không chỉ do tâm lý chung của thị trường mà còn chịu áp lực từ việc phải thực hiện nhiệm vụ kiềm chế lạm phát. Lạm phát làm cho nhiều nhà đầu tư e ngại đối với những cổ phiếu của khối tài chính, chính tâm lý dè dặt đó làm cho cổ phiếu của STB thêm ế ẩm. Mặc dù chính sách chia cổ tức cùng với những bảng báo cáo tài chính khá khả quan nhưng cũng không đủ sức lôi kéo nhà đầu tư. BMC lại là một minh chứng cho việc bong bóng của thị trường. Có lẽ do đặc thù của tính chất ngành nghề kinh doanh mà BMC được định giá cao như vậy. Những tưởng BMC sẽ thoát khỏi cơn bão này, nhưng nó chính là cổ phiếu làm nhà đầu tư thất vọng nhất. Tình hình lạm phát đã ảnh hưởng trực tiếp tới kết quả hoạt động kinh doanh của công ty, làm cho tình hình tài chính của công ty không được như trước. Tuy nhiên, trên sàn giao dịch thì BMC vẫn giữ một khối lượng giao dịch khá lớn. Có lẽ mức giảm giá ít nhất trong 5 cổ phiếu kể trên là VNM. Thống lĩnh trong ngành kinh doanh sữa, mặt khác lại là mặt hàng thiết yếu, có mức tăng trưởng tốt, VNM chỉ chịu tác động chung của toàn thị trường. Chỉ bị sụt giảm gần một nửa cho thấy VNM có một vị trí khá tốt trong tâm lý nhà đầu tư. Trong giai đoạn gần đây, trước cơn bào Menaline trong sữa, VNM vẫn giao động rất ít. Luôn được đánh giá là anh cả trong thị trường nhưng REE lại cho thấy tính bất ổn của mình trước những rủi ro có tính hệ thống, nhất là những biến động bất lợi từ thị trường. đó cũng là một tính chất chung của những cổ phiếu trên thị trường chứng khoán Việt Nam. Một năm qua với nhiều biến động không tốt từ thị trường trong nước cũng như quốc tế thử thách thị trường cũng như tâm lý nhà đầu tư Việt Nam rất nhiều. Đây chính là thời điểm đo sự hiểu biết của nhà đầu tư. Chương 3 – Các giải pháp can thiệp vào Thị trường chứng khoán trong giai đoạn kiềm chế lạm phát 3.1 Định hướng phát triển Thị trường chứng khoán Việt Nam trong thời gian tới - Tập trung đẩy mạnh phát triển thị trường cả về quy mô và chất lượng hoạt động để TTCK thật sự đóng vai trò là kênh huy động vốn trung và dài hạn cho nền kinh tế, phấn đấu đưa tổng giá trị vốn hoá thị trường cổ phiếu niêm yết đạt khoảng 40-50% GDP vào cuối năm 2010. - Gắn việc phát triển TTCK với thúc đẩy chuyển đổi, sắp xếp lại doanh nghiệp nhà nước và chuyển doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài thành công ty cổ phần. - Mở rộng phạm vi hoạt động của TTCK có tổ chức, từng bước thu hẹp TTCK tự do nhằm bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của các nhà đầu tư. 3.2 Hoạt động của Thị trường chứng khoán TP.HCM a) Quá trình hình thành phát triển: Ngày 20/07/2000, TTGDCK Tp.HCM đã chính thức khai trương đi vào vận hành, và thực hiện phiên giao dịch đầu tiên vào ngày 28/07/2000 với 02 loại cổ phiếu niêm yết. Qua 7 năm với sự tăng trưởng của thị trường và hội nhập với Thị trường chứng khoán thế giới, Trung tâm giao dịch chứng khoán Tp.HCM đã chính thức được Chính phủ ký Quyết định số:599/QĐ-TTg ngày 11/05/2007 chuyển đổi thành Sở giao dịch Chứng khoán Tp.HCM. Ngày 08/08/2007, SGDCK TP.HCM đã chính thức được khai trương. b) Thực trạng: QUY MÔ NIÊM YẾT THỊ TRƯỜNG HIỆN TẠI (30/10/2008) Toàn thị trường Cổ phiếu Chứng chỉ Trái phiếu Số CK niêm yết(1 CK) 236,00 163,00 4,00 69,00 Tỉ trọng (%) 100,00 69,07 1,69 29,24 KL niêm yết(ngàn CK) 5.622.287,12 5.217.731,34 252.508,99 152.046,80 Tỉ trọng(%) 100,00 92,80 4,49 2,70 GT niêm yết(triệu đồng) 70.020.898,68 52.177.313,42 2.520.555,76 15.323.029,50 Tỉ trọng (%) 100,00 74,52 3,60 21,88 Bảng 1 – Quy mô niêm yết HoSE Biểu đồ 3.2.1 – Tỷ trọng khối lượng niêm yết trên HoSE Biểu đồ 3.2.2 – Tỷ trọng giá trị niêm yết trên HoSE Trong hoạt động đối ngoại, SGDCK TP.HCM đã thực hiện ký kết nhiều Biên bản hợp tác với các SGDCK các nước trên thế giới như SGDCK Luân đôn, Thái Lan, New York(Mỹ), Malaysia, Singapore, CH Czech, Warsaw(Ba Lan),Tokyo (Nhật bản), Hồng Kông trong các lĩnh vực về hỗ trợ kỹ thuật, đào tạo cán bộ cho SGDCK TP.HCM, trao đổi thông tin giữa các SGDCK. - Ngày 23/9/2008, tại Stockholm, Tập đoàn Sở Giao dịch chứng khoán NASDAQ OMX và SGDCK Tp. HCM (HOSE) đã ký kết Biên bản ghi nhớ với mục đích hỗ trợ sự phát triển của thị trường chứng khoán Việt Nam. Theo đó, NASDAQ OMX sẽ sử dụng kinh nghiệm của mình nhằm tăng cường khả năng, cơ sở hạ tầng và tính thanh khoản cho HOSE và thị trường vốn Việt Nam. 3.3 Giải pháp phát triển Thị trường chứng khoán với vai trò quản lý của Nhà Nước: - Tăng cường và phát triển hệ thống công bố thông tin nhằm đảm bảo thông tin công bố kịp thời. Giám sát việc công bố thông tin của các thành viên thị trường đảm bảo tính minh bạch, đầy đủ. - Tăng cường công tác giám sát thị trường bằng việc hoàn thiện phần mềm giám sát để theo dõi, phát hiện giao dịch nội gián, thao túng, lũng đoạn thị trường. Tăng cường công tác thu thập thông tin tin đồn. - Xây dựng hệ thống Công nghệ thông tin hiện đại đáp ứng yêu cầu của thị trường và theo tiêu chuẩn quốc tế; Đồng thời tiếp tục triển khai và hoàn tất thực hiện việc giao dịch từ xa từ các Thành viên đến Sở, tiến tới việc giao dịch không sàn trong tương lai. -   Đề xuất các chính sách hợp lý để thị trường chứng khoán phát triển bền vững, thu hút mọi nguồn lực trong nước và nguồn vốn nước ngoài. - Tiếp tục ký biên bản hợp tác với các SGDCK trên thế giới; Đồng thời tổ chức và thực hiện các nội dung trong các Biên bản hợp tác đã ký, đặc biệt phối hợp với các SGDCK tổ chức thực việc niêm yết chéo giữa các thị trường. - Phạm vi và mức độ hiệu quả quản lý của Nhà nước chưa tương xứng với mức độ phát triển của TTCK. Theo số liệu hiện nay, có 4.000 công ty đại chúng của Nhà nước nhưng mới chỉ có trên 1.000 doanh nghiệp đăng ký với UBCKNN, trong đó có trên 300 DN đã niêm yết trên TTCK tập trung. Nói cách khác, hiệu lực của các quy định về giao dịch, chuyển nhượng chứng khoán của Nhà nước mới tác động đến khoảng 1/10 DN, vì vậy các quy định về phát hành huy động vốn mới tác động đến 25% DN đại chúng. Như vậy, thị trường tự do còn quá lớn dẫn đến hiệu quả của các chính sách quản lý Nhà nước còn thấp, là nguyên nhân làm cho TTCK nói chung còn thiếu minh bạch và phát triển thiếu bền vững. Do vậy, trọng tâm chiến lược của Chính phủ đối với TTCK là phải xác lập phạm vi quản lý Nhà nước đối với thị trường thông qua biện pháp phát triển nhanh và mạnh thị trường có tổ chức và thu hẹp phạm vi của thị trường tự do. Một mặt, sử dụng hiệu quả và nâng cấp hai thị trường TP.HCM và HN xứng tầm để thúc đẩy và phát triển các DN niêm yết. Mặt khác, Nhà nước cần có những giải pháp mạnh để buộc các DN do Nhà nước sở hữu vốn lên sàn. Đây sẽ là đòn bẩy thúc đẩy thị trường phát triển mạnh mẽ hơn. - Cần có sự đánh giá lại chiến lược phát triển dài hạn của thị trường và điều kiện hoạt động để từ đó đẩy mạnh lộ trình phát triển của TTCK. Trong thời gian tới, các nhu cầu về thị trường mới như thị trường tương lai, thị trường quyền chọn, thị trường hàng hóa… sẽ phát triển, cần có sự đầu tư quy hoạch để chủ động phát triển theo định hướng của Chính phủ - Cần sớm xác định mô hình cổ phần hóa Sở giao dịch Chứng khoán TP.HCM và Trung tâm GDCK Hà Nội, tạo bình đẳng trong hoạt động kinh doanh nhằm đề cao vai trò của các thành viên tham gia thị trường, góp phần thúc đẩy TTCK phát triển theo như thông lệ quốc tế. - Ngoài ra, Chính phủ cũng nên xem xét và hạn chế việc thành lập thêm các công ty chứng khoán trong giai đoạn hiện nay. - Chính phủ nên tạm thời tiếp tục hoãn chưa đánh thuế thu nhập đối với lĩnh vực này để khuyến khích các nhà đầu tư đầu tư vào Thị Trường Chứng Khoán. - Khuyến khích các tổ chức định mức tín nhiệm tham gia thị trường. Trước mắt là cho phép các tổ chức định mức tín nhiệm nước ngoài cung cấp dịch vụ định mức tín nhiệm tại Việt Nam, tiến tới cho phép thành lập các tổ chức định mức tín nhiệm Việt Nam. 3.4 Giải pháp cho các doanh nghiệp phát hành chứng khoán trong giai đoạn lạm phát: - Điều quan trọng nhất để ứng phó với tình hình là phải phân tích, dự báo, nhận dạng đúng và đưa ra các giải pháp linh hoạt. Có thể thành lập một hội đồng “phản ứng nhanh”, gồm các cán bộ quản lý được trang bị kiến thức và kỹ năng quản trị rủi ro để ứng phó linh hoạt với những biến động của thị trường - Doanh nghiệp chỉ nên thực hiện đầu tư vào những mục tiêu cụ thể nhất, chắc chắn nhất. Việc cần làm lúc này là đẩy mạnh sản xuất hàng hóa để thu được tiền về. - Doanh nghiệp nên tìm cách phát huy nội lực, nâng cao năng lực sản xuất, tiết kiệm chi phí. - Thực hiện công khai, minh bạch tài chính; thông qua các bản cáo bạch tài chính để giữ niềm tin và thu hút vốn trên thị trường chứng khoán. - Trong hoàn cảnh khó khăn như hiện nay, doanh nghiệp cần có chính sách sử dụng lợi nhuận sau thuế hợp lý để duy trì nguồn vốn sản xuất kinh doanh cũng như giữ chân các cổ đông hay nói cách khác doanh nghiệp phải cân đối giữa 2 ưu tiên là giữ lại lợi nhuận để tiếp tục đầu tư hoặc duy trì tính hấp dẫn của cổ phiếu thông qua chi trả cổ tức. 3.5 Giải pháp cho các nhà đầu tư Một nhà đầu tư có thể dựa vào tất cả các nhóm chỉ số để đánh giá hiệu quả của chứng khoán đã được đề cập ở chương 1 của đề tài này; dựa vào 1 nhóm nào đó trong các nhóm chỉ số đó; dựa vào một vài chỉ số nhất định ở các nhóm khác nhau hay thậm chí chỉ lựa chọn theo cảm tính. Trong khi tìm hiểu, các nhà đầu tư sẽ phải đứng trước rất nhiều phương pháp lựa chọn chứng khoán khác nhau và không ít người cảm thấy bối rối trước lời khuyên của các chuyên gia. Trong những điều kiện phát triển bình thường của nền kinh tế, việc quyết định đầu tư đã không dễ dàng, vậy đầu tư trong bối cảnh lạm phát, nên hay không nên? Đây là một câu hỏi khó cho nhiều nhà đầu tư trong giai đoạn hiện nay. Tuy nhiên với sự phân tích và quan sát tốt vẫn có câu trả lời thỏa đáng. - Khi Thị Trường Chứng Khoán bùng nổ ở Việt Nam, có rất nhiều nhà đầu tư có hiểu biết rất ít nhưng lại có những giấc mộng làm giàu dễ dàng và nhanh chóng nhờ Thị Trường Chứng Khoán, chính vì vậy, đa số những nhà đầu tư như vậy đã có được bài học thích đáng trong giai đoạn khó khăn vừa qua. Chính vì thế, để “đừng chết vì thiếu hiểu biết” thì có 1 kiến thức nhất định về chứng khoán, về Thị Trường Chứng Khoán là điều cần thiết như việc nhà đầu tư cần phải hiếu rõ những sản phẩm của công ty, công ty chế tạo những sản phẩm gì, phục vụ trong lĩnh vực nào. - Thị trường chứng khoán suy giảm trong bối cảnh lạm phát cao nhưng những ngành sản xuất kinh doanh các mặt hàng thiết yếu cho nhu cầu cuộc sống lại tăng trưởng mạnh bất kể Thị trường chứng khoán liên tục suy giảm. Cổ phiếu các ngành như lương thực thực phẩm, nguyên vật liệu, hàng tiêu dùng thiết yếu là nhóm ngành có tốc độ tăng trưởng tương đối tốt, đặc biệt các doanh nghiệp đầu ngành là tăng trưởng mạnh nhất. Vì thế, nếu một nhà đầu tư muốn tiếp tục đầu tư vào Thị Trường Chứng Khoán nhưng không muốn quá mạo hiểm thì giải pháp là hãy đầu tư vào các công ty đầu ngành lương thực phẩm, nguyên vật liệu và hàng tiêu dùng thiết yếu, cho nên ngay cả trong tình hình lạm phát thì VNM không phải là một lựa chọn tồi. - Tại thị trường Việt Nam hiện nay, các cổ phiếu ngành khai khoáng (như BMC, PVD, MCV … ) cũng là những cổ phiếu đáng được lưu tâm. Hầu hết các công ty trong ngành này đều đang ở vị thế "độc quyền" trong một phạm vi nhất định nào đó.( Đơn cử như BMC, công ty này gần như độc quyền trong việc khai thác titan tại tỉnh Bình Định, một tài nguyên được đánh giá là có mức lợi nhuận hấp dẫn và khai thác dễ hơn là gỗ.) - Nhà đầu tư nên mua những cổ phiếu được những tổ chức đầu tư lớn sở hữu. Nên tìm hiểu có bao nhiêu quỹ đầu tư, ngân hàng và các tổ chức khác đã mua cổ phiếu ấy. Hãy tập hợp tất cả những điều đó vào một cuốn sổ nhỏ và nhớ cập nhật chúng nếu có thể. Các tổ chức tài chính hàng đầu đều phải phân tích cơ bản rất kỹ trước khi mua một cổ phiếu nào đó vì vậy việc học tập theo họ cũng là 1 cách làm tăng tính an toàn của danh mục đầu tư. - Trong năm 2007, các nhà đầu tư sẵn sàng mua các cổ phiếu có P/E rất cao (20 – 25) nhưng trong giai đoạn hiện nay, lời khuyên là các nhà đầu tư nên chọn công ty có ROE cao. Các công ty có tỷ suất lãi gộp càng cao càng tốt, khoảng 20% trở lên, mua ở mức giá hợp lý với P/E ≤ 8. - Ngoài giá của chứng khoán thì khối lượng giao dịch là 1 điểm đáng lưu tâm. Khối lượng giao dịch của cổ phiếu mỗi ngày hay mỗi tuần là một trong những công cụ quan trọng để hiểu sức ép cung cầu một cách chính xác. Chính vì vậy trong các báo cáo hàng ngày về giá của thị trường luôn đi kèm với khối lượng giao dịch. Nếu cổ phiếu của đang tăng giá với một sự gia tăng khối lượng giao dịch đây là một dấu hiệu đáng mừng, cổ phiếu sẽ tiếp tục tăng giá, nếu cổ phiếu tăng giá lại đi kèm với một khối lượng giao dịch yếu đi, cổ phiếu sẽ không tiếp tục tăng giá nữa, nếu cổ phiếu giảm giá mà khối lượng giao dịch cũng giảm theo, đây là một dấu hiệu cho thấy không có sự bán ra nữa, cổ phiếu sẽ ngưng giảm giá. Tuy không phải luôn đúng, nhưng những nguyên tắc này khá hợp lý nếu được xem xét trong những khoảng thời gian thật ngắn, từng giờ, từng ngày, nếu xem xét chúng trong khoảng thời gian dài sẽ không được chính xác lắm, và lại chứng chỉ chính xác trong những thị trường lệnh thị mua bán tức thời. - Vẫn biết “không nên bỏ tất cả trứng vào một rổ” nhưng biết rất nhiều thứ mà không chuyên thứ nào quả thật rất khó thành công trong bất cứ lĩnh vực nào, kể cả đầu tư. Rõ ràng càng phân tán ra nhiều thì lại càng ít nắm rõ được từng lĩnh vực đầu tư. Thực tế nhà đầu tư không nên phân bố danh mục đầu tư quá rộng. Chỉ cần tập trung đầu tư vào một vài lĩnh vực mà chúng ta biết rõ và theo dõi được cặn kẽ. Đa dạng hóa danh mục là điều hợp lý, nhưng đừng nên lạm dụng. Luôn đặt mục tiêu sẽ sở hữu bao nhiêu loại cổ phiếu và tuân thủ nghiêm túc mục tiêu đó. Nhà tỷ phú lừng danh Warren Buffett từng nói : “Hãy thực tế khi xác định đâu là lĩnh vực mình thông thạo. Cố gắng định ra cái gì ta có thể hiểu biết đến nơi đến chốn, dừng lại ở đó, quên hết mọi thứ khác đi ” - Trong vòng một hoặc hai năm đầu, khi còn đang trong giai đoạn học hỏi đầu tư, tốt nhất nên đầu tư bằng tiền của mình. Với một vài năm kinh nghiệm, một kế hoạch rõ ràng và những quy tắc mua - bán chặt chẽ, lúc đó nhà đầu tư có thể cân nhắc tới việc mua với tỷ lệ ký quỹ (sử dụng tiền vay từ công ty chứng khoán để mua thêm cổ phiếu). Nhưng trong giai đoạn thực tế hiện nay, nhà đầu tư nên dừng lập tức việc sử dụng tỷ lệ ký quỹ và giữ càng nhiều tiền mặt càng tốt. Bởi khi toàn bộ thị trường đi xuống và cổ phiếu của bắt đầu mất giá, so với việc đầu tư bằng tiền của mình, thì vốn đầu tư ban đầu của bạn sẽ mất nhanh hơn nếu sử dụng vốn vay. Đừng quên bất cứ cái gì nhân zero cũng thành zero. Dù bạn có thắng nhiều nhưng nếu vay mượn quá mức hoặc làm điều gì đó mà khả năng thắng cuộc là zero thì sẽ mất tất cả.  - Trong giai đoạn như hiện nay, nếu giá cổ phiếu rớt 8% từ giá mua ban đầu, nhà đầu tư có thể bán chúng đi để cắt giảm thua lỗ, bằng cách này nhà đầu tư đã mua một hợp đồng bảo hiểm để bảo vệ bản thân. Nhà đầu tư sẽ dễ dàng bị những thua lỗ trầm trọng khi không làm gì trong trường hợp này. Nếu bất ngờ chúng tăng giá trở lại, đừng tiếc nuối và hoang mang, hãy coi 8% ấy như phí bảo vệ để tránh khỏi sự khủng hoảng đang lan rộng trên toàn thế giới và chưa ai có thể dự đoán trước được điều gì.  PHẦN 3 – KẾT LUẬN Lạm phát đã ảnh hưởng tới cả Thị Trường Chứng Khoán Việt Nam và tới chứng khoán của mỗi doanh nghiệp, tuy nhiên, những sự thay đổi này vẫn chưa thể hiện đúng mức độ của nó. Bởi nếu như ở các nước khác trên thế giới, một khi giá chứng khoán trên thị trường đã giảm mạnh thì chắc hẳn doanh nghiệp phải đang làm ăn thua lỗ và đứng trên bờ vực phá sản. Nhưng thực tế ở Việt Nam thì lại không phải như vậy, trong thời gian xảy ra lạm phát, giá chứng khoán đã giảm mạnh thì cả 5 doanh nghiệp được đem ra phân tích vẫn có tình hình hoạt động kinh doanh tốt. Do ở nước ta, thị trường chứng khoán chưa thực sự là thước đo tình hình hoạt động của doanh nghiệp nên những diễn biến từ Thị Trường Chứng Khoán chưa tác động mạnh mẽ và sâu sắc đến doanh nghiệp như các nước trên thế giới. Tuy nhiên, trong thời gian tới, khi Việt Nam phát triển đúng theo những quy luật kinh tế khách quan thì mỗi biến động trên Thị Trường Chứng Khoán sẽ phản ánh chính xác tình hình hoạt động thực tế của doanh nghiệp và mỗi thay đổi trong việc sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp sẽ làm thay đổi giá trị của doanh nghiệp trên Thị Trường Chứng Khoán. Với tổng vốn hóa trên thị trường hiện nay chiếm 25,7% GDP, bình quân vốn giao dịch mỗi ngày khoảng 631 tỷ đồng, Thị trường chứng khoán ngày càng thể hiện vị thế và vai trò là kênh huy động vốn quan trọng để Nhà nước và các Doanh nghiệp đại chúng huy động nguồn vốn phục vụ cho quá trình sản xuất kinh doanh. Tuy nhiên, để Thị trường chứng khoán phát triển bền vững và vượt qua những khó khăn ngắn hạn trong giai đoạn lạm phát tăng cao, diễn biến thị trường tài chính thế giới khó lường như hiện nay, các Cơ quan quản lý Nhà nước cần phải có những điều chỉnh linh hoạt và tầm nhìn mang tính chiến lược đối với thị trường. Các Doanh nghiệp phải căn cứ vào nội lực cũng như những diễn biến trên thị trường để có những giải pháp sản xuất, kinh doanh thích hợp; vượt qua được tình hình khó khăn hiện nay, thì doanh nghiệp sẽ lớn mạnh. Môi nhà đầu tư đều mong muốn quyết định của mình khi đầu tư là đúng đắn và mang về càng nhiều lợi nhuận càng tốt. Vì vậy các nhà đầu tư cần tình táo lựa chọn rồi ra quyết định. PHẦN 4 – TÀI LIỆU THAM KHẢO 1. Luật Chứng khoán do Quốc hội nước Cộng Hòa Xã Hội Chủ Nghĩa Việt Nam ban hành ngày 29/6/2006. 2. PGS. TS Phan Thị Cúc, Giáo trình Tài chính tiền tệ, 2007. 3. TS. Nguyễn Minh Tuấn, Th.S Trần Nguyễn Minh Ái, Giáo trình Kinh tế vĩ mô, NXB Lao Động Xã Hội, 2006. 4. PGS. TS Nguyễn Văn Công, Nguyên lý kinh tế học vĩ mô, NXB Lao Động, 2006. 5. PGS.TS Phan Thị Cúc, TS. Nguyễn Trung Trực, CH. Từ Thị Hoàng Lan (đồng chủ biên), Giáo trình Phân tích và Đầu tư Chứng khoán, 2008. 6. Các báo cáo tài chính quý, năm của Công ty cổ phần sữa Việt Nam, Ngân hàng thương mại cổ phần Sài Gòn Thương Tín, Công ty cổ phần khoáng sản Bình Định, Công ty cổ phần phát triển đầu tư công nghệ FPT, Công ty cổ phần cơ điện lạnh Reetech. 7. Các báo: Thời báo kinh tế Việt Nam, Thời báo kinh tế Sài Gòn (Saigon Times), 8. Tài liệu từ các website: - Uỷ ban chứng khoán nhà nước: www.ssc.gov.vn - Sở GDCK TP.HCM www.hsx.vn Và các website khác như: www.chungkhoan360.vn; www.tvsi.com.vn; www.sanotc.com; , v.v…

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc-(chungkhoan)-CK03.doc