Đề án Tình hình lạm phát của Việt Nam giai đoạn 2005 – đến nay

Tài liệu Đề án Tình hình lạm phát của Việt Nam giai đoạn 2005 – đến nay: ĐẠI HỌC ĐÀ NẴNG TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ KHOA TÀI CHÍNH NGÂN HÀNG gõh ĐỀ ÁN MÔN HỌC: TÀI CHÍNH – TIỀN TỆ ĐỀ TÀI: TÌNH HÌNH LẠM PHÁT CỦA VIỆT NAM GIAI ĐOẠN 2005 – ĐẾN NAY Giáo viên hướng dẫn: Ts.Võ Thúy Anh Sinh viên thực hiện: Đỗ Nguyễn Hòa Phương Lớp: 35K07.1 ĐÀ NẴNG , THÁNG 4 - 2011 LỜI MỞ ĐẦU Trong quá trình hội nhập quốc tế như hiện nay mỗi nước sẽ có kết cấu sản nghiệp, cơ cấu kinh tế, trình độ phát triển khác nhau nên cũng sẽ phải đối mặt với nhiều thách thức, khó khăn khác nhau trong quá trình phát triển kinh tế nhưng một trong những khó khăn lớn nhất mà các quốc gia đều phải đối mặt đó là vấn đề lạm phát. Trong lịch sử, đã cho thấy nhiều quốc gia rơi vào vòng xoáy của lạm phát cao không thể kiểm soát được mà hậu quả kéo theo là một sự sụt giảm kinh tế và tình trạng mất ổn định chính trị trong nước. Lạm phát là quá trình tăng lên giá cả của các loại hàng hóa, sự mất giá của tiền tệ, mọi thứ đều trở nên khan hiếm trừ tiền. Lạm phát chính ...

doc40 trang | Chia sẻ: haohao | Lượt xem: 1354 | Lượt tải: 2download
Bạn đang xem trước 20 trang mẫu tài liệu Đề án Tình hình lạm phát của Việt Nam giai đoạn 2005 – đến nay, để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ĐẠI HỌC ĐÀ NẴNG TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ KHOA TÀI CHÍNH NGÂN HÀNG gõh ĐỀ ÁN MÔN HỌC: TÀI CHÍNH – TIỀN TỆ ĐỀ TÀI: TÌNH HÌNH LẠM PHÁT CỦA VIỆT NAM GIAI ĐOẠN 2005 – ĐẾN NAY Giáo viên hướng dẫn: Ts.Võ Thúy Anh Sinh viên thực hiện: Đỗ Nguyễn Hòa Phương Lớp: 35K07.1 ĐÀ NẴNG , THÁNG 4 - 2011 LỜI MỞ ĐẦU Trong quá trình hội nhập quốc tế như hiện nay mỗi nước sẽ có kết cấu sản nghiệp, cơ cấu kinh tế, trình độ phát triển khác nhau nên cũng sẽ phải đối mặt với nhiều thách thức, khó khăn khác nhau trong quá trình phát triển kinh tế nhưng một trong những khó khăn lớn nhất mà các quốc gia đều phải đối mặt đó là vấn đề lạm phát. Trong lịch sử, đã cho thấy nhiều quốc gia rơi vào vòng xoáy của lạm phát cao không thể kiểm soát được mà hậu quả kéo theo là một sự sụt giảm kinh tế và tình trạng mất ổn định chính trị trong nước. Lạm phát là quá trình tăng lên giá cả của các loại hàng hóa, sự mất giá của tiền tệ, mọi thứ đều trở nên khan hiếm trừ tiền. Lạm phát chính là vấn đề quan tâm của mọi nước, mọi nền kinh tế và Việt Nam cũng không phải là ngoại lệ. Sau khi tiến hành cải cách vào năm 1986, đặc biệt việc gia nhập tổ chức thương mại thế giới WTO vào ngày 1/1/2007, Viêt Nam đã có những bước tiến nhanh chóng về phát triển kinh tế như tốc độ tăng trưởng GDP trung bình đạt trên 7%/năm và vào năm 2007 đạt mức 8,5%/năm,có nền chính trị ổn định lại nằm trong khu vực đang có tốc độ tăng trưởng cao nhất thế giới nên Việt Nam đang là điểm đến đầy hứa hẹn của các nhà đầu tư. Tuy vậy, bên cạnh tốc độ tăng trưởng nhanh chóng, Việt Nam vẫn đang gặp phải vô vàn khó khăn trong quá trình hội nhập và phát triển. Và một trong những khó khăn lớn nhất mà Việt Nam phải đối mặt đó chính là tình trạng lạm phát. Lạm phát có tác động đến hầu hết các lĩnh vực trong nền kinh tế, nó vừa có thể giúp thúc đẩy sự phát triển của nền kinh tế nhưng cũng có thể gây ảnh hưởng xấu đến toàn bộ nền kinh tế quốc dân, đến đời sống xã hội, đặc biệt là giới lao động. Ở nước ta hiện nay chống lạm phát, giữ vững nền kinh tế phát triển ổn định, cân đối là một mục tiêu rất quan trọng trong phát triển kinh tế - xã hội và nâng cao đời sống nhân dân. Việt Nam đã trải qua những khoản thời gian mà lạm phát trở thành vấn đề cực kỳ nghiêm trọng đó là vào những năm 1987 (lạm phát đến 700% - 1000% một năm), hiện nay dù không trầm trọng như năm 1987 nhưng cũng đã ở mức 2 con số vào năm 2007, 2008 gây ảnh hưởng tiêu cực đến phát triển sản xuất và đời sống nhân dân, nhất là tầng lớp nhân dân lao động, đe dọa tính ổn định của nền kinh tế vĩ mô, tác động không tốt đến môi trường kinh doanh đã và đang làm đau đầu các nhà làm chính sách khi đưa ra các quyết định về kinh tế - xã hội. Chính vì những lẽ đó và để có thể tìm hiểu một cách thấu đáo, sâu sắc hơn về lạm phát Việt Nam hiện nay em đã lựa chọn đề tài:" Tình hình lạm phát Việt Nam trong giai đoạn 2005-đến nay". Mục đích nghiên cứu của đề tài này nhằm để hiểu rõ hơn và sâu sắc hơn về những lý luận cơ bản của lạm phát và từ đó có cái nhìn chính xác và đúng đắn hơn về thực trạng của tình hình lạm phát của Việt Nam trong giai đoạn 2005 – 2010. Nội dung của đề án được kết cấu thành 3 phần : Chương 1 : Những vấn đề lý luận cơ bản về lạm phát. Chương 2 : Thực trạng lạm phát Việt Nam trong giai đoạn 2005 – đến nay. Chương 3 : Dự báo về tình hình lạm phát Việt Nam trong thời gian tới. Chương 4 : Kết Luận. Do thời gian nghiên cứu đề án có hạn, và với những lý do khách quan cũng như chủ quan khác, đề án không thể tránh khỏi những sai sót nhất định, em rất mong nhận được sự chỉ bảo của các thầy cô giáo để đề án được hoàn thiện hơn. Em xin chân thành cảm ơn sự tận tình quan tâm, giúp đỡ của cô Ts.Võ Thị Thúy Anh đã hướng dẫn em hoàn thành đề án này. Đà Nẵng, ngày 20 tháng 4 năm 2011 CHƯƠNG 1: NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CƠ BẢN VỀ LẠM PHÁT 1.1.Khái niệm lạm phát : 1.1.1. Lạm phát : Lạm phát là hiện tượng vốn có của các nền kinh tế sử dụng tiền tệ và là hiện tượng kinh tế phổ biến đối với các nền kinh tế trên thế giới. Nó tồn tại ở cả những nước phát triển, đang phát triển và chậm phát triển, cả trong thời kì phát triển, hưng thịnh lẫn trong thời kì suy thoái. Lạm phát ở mức độ nhất định có vai trò thúc đẩy sản xuất lưu thông hàng hóa, giúp giảm thất nghiệp và giúp tăng trưởng kinh tế nhưng nếu lạm phát vượt ra khỏi tầm kiểm soát và tăng nhanh chóng có thể gây ra nhiều nguy hại cho đời sống kinh tế - xã hội. Vì vậy, khi nghiên cứu lạm phát có nhiều trường phái kinh tế, các khái niệm và cách khác nhau như: Trong bộ "Tư bản" nổi tiếng của mình C.Mác đã nêu lên quy luật lưu thông tiền tệ. Quy luật đó là: " Việc phát hành tiền giấy phải được giới hạn trong số lượng vàng (hay bạc) do tiền giấy đó tượng trưng, lẽ ra phải lưu thông thực sự". Khi khối lượng tiền giấy do nhà nước phát hành và lưu thông vượt quá khối lượng tiền cần cho lưu thông, thì giá trị của tiền tệ sẽ bị giảm xuống, tình trạng lạm phát sẽ xuất hiện. Theo định nghĩa của V.I.Lênin: Dựa trên quan điểm của C.Mác nhưng Lênin lại lập luận rằng sở dĩ khối lượng tiền tệ lưu thông tăng lên là do nhà cầm quyền phát hành tiền để thỏa mãn nhu cầu chi tiêu chính phủ cũng như bộ máy nhà nước. Vậy lạm phát theo quan điểm của Lênin là sự gia tăng khối lượng tiền tệ do sự phát hành thêm tiền của bộ máy nhà nước. Theo quan điểm của Paul Samuelson thì cho rằng "lạm phát xảy ra khi mức chung của giá cả và chi phí tăng – giá bánh mì ,dầu xăng ,xe ô tô tăng ,tiền lương ,giá đất, tiền thuê tư liệu sản xuất tăng “.Ông thấy rằng lạm phát chính là biểu thị sự tăng lên của giá cả. Quan điểm đối lập của Milton Friedman và quan điểm của các nhà kinh tế thuộc trường phái Keneys : Chống lại quan điểm lạm phát của các nhà kinh tế theo trường phái Keneys, Friedman đã đưa ra các bằng chứng ủng hộ thuyết lượng tiền tệ (quaility theory of money) xuất bản năm 1956. Ông cho rằng nếu tăng cung tiền sẽ làm tăng mặt bằng giá hay nói rõ hơn về lâu dài tăng tiền sẽ làm tăng giá các loại mặt hàng khiến mặt bằng giá mới sẽ được thiết lập và sẽ không làm tăng sản lượng. Tuy về ngắn hạn nó có ảnh hưởng như thuyết Keneys là giúp tăng sản lượng nhưng trong dài hạn lại làm giảm sản lượng do giá đã thiết lập mặt bằng mới. Friedman cho rằng ngân hàng trung ương đều đặn tăng cung tiền cùng với mức độ tăng (theo giá cố định) thì lạm phát sẽ biến mất. Friedman cho rằng nguyên nhân của cuộc đại khủng hoảng kinh tế năm 1929 là do sai lầm của ngân hàng trung ương trong việc siết chặt tiền tệ quá mức làm thiếu hụt lượng cung vốn cho thị trường được đề cập đến trong cuốn Money History Of United States xuất bản năm 1963. Vào giai đoạn 1960 – 1970, lý thuyết Keneys về vai trò chi phối nhà nước trong nền kinh tế thị trường thông qua ngân sách chi (sách giáo khoa Economics của Paul Samuelson từ ấn bản năm 1960 đến năm 1985). Ông cho rằng có sự đánh đổi giữa lạm phát và tình trạng thất nghiệp. Nếu một đất nước có tốc độ phát triển cao, tỉ lệ thất nghiệp thấp thì phải chấp nhận mức lạm phát cao, còn ngược lại muốn lạm phát thấp thì phải chấp nhận thất nghiệp cao. Vậy đâu là lý do khiến giá tăng cao mà sản xuất phát triển. Đó là do khi lạm phát tăng cao nhưng tiền lương không tăng hoặc tăng chậm hơn so với mức độ lạm phát nên các chủ doanh nghiệp sẽ được lợi trong quá trình bán hàng, họ sẽ nhận được lượng lợi tức cao hơn và có nhiều vốn hơn để mở rộng sản xuất nhưng Friedman lại cho rằng người dân sẽ không "ngu lâu", khi lạm phát tăng cao sức mua của đồng lương giảm xuống người dân sẽ đòi hỏi lương cao hơn khiến chi phí sản xuất tăng cao hơn trong khi cầu vẫn không đổi gây ra tình trạng nền kinh tế vừa suy thoái, vừa lạm phát cao do nguyên nhân chi phí đẩy (nước Anh năm 1979 đã áp dụng chính sách kinh tế của Friedman để giả quyết tình trạng vừa lạm phát vừa suy thoái lúc đó). Friedman đã cố gắng giải thích lại thuyết lượng tiền tệ cổ điển mà những người theo trường phái Keneys đã phá như sau. Theo lý thuyết cổ điển ta có: (1) M.V = P.Q trong đó M (khối lượng tiền), V (vòng quay đồng tiền),P (mặt bằng giá), Q (sản lượng nền kinh tế). Từ định nghĩa (1) ta có thể suy ra những hệ quả như sau:    (2) Tỷ lệ thay đổi lượng tiền + tỷ lệ thay đổi vòng quay  ≈  tỷ lệ thay đổi giá + tỷ lệ thay đổi sản lượng (3) Tỷ lệ thay đổi giá ≈ Tỷ lệ thay đổi lượng tiền + tỷ lệ thay đổi vòng quay – tỷ lệ thay đổi sản lượng Các nhà kinh tế cổ điển dựa vào định nghĩa (1) và (3) cho rằng vòng quay V của đồng tiền là không đổi nên khi ta tăng M thì chỉ làm tăng P chứ không tăng Q. Họ cho rằng Q chịu ảnh hưởng bởi sức sản xuất nên không bị ảnh hưởng, cung chỉ tạo ra cầu. Việc chỉ sử dụng lý thuyết để giải thích sự vận động của nền kinh tế nên những người theo trường phái thuyết lượng tiền tệ cổ điển đã bị quan điểm Keneys đưa ra phá vỡ, ông cho rằng Cung = cầu + tồn kho (cầu không nhất thiết phải bằng cung). Một khi cầu bé hơn cung vì lo ngại trong tương lai hàng hóa sẽ tồn kho nhiều nếu cứ sản xuất như bây giờ các doanh nghiệp buộc phải giảm sản lượng nhằm điều chỉnh cho cung bằng cầu ở mức thấp hơn sản lượng tiềm năng của nền kinh tế có thể đạt được, lúc đó Keneys cho rằng sự can thiệp nhà nước trong giai đoạn này là cần thiết để giải quyết khủng hoảng, nhưng chính phủ lại gặp khó khăn vì không thể tăng chi tiêu giúp đường tổng cầu sang trái liên tiếp được vì gặp phải giới hạn trong gia tăng chi tiêu và giảm thuế. Chủ trương này của Keynes tất nhiên không nên hiểu là phê phán cách giải thích của Friedman về nguyên nhân sự kéo dài cuộc đại khủng khoảng năm 1929. Vây đâu là nguyên nhân của trạng thái tâm lý lưỡng lự của dân chúng trong giai đoạn khủng hoảng "cầu" thì Keynes không giải thích được. Friedman vẫn dùng định nghĩa của các nhà theo trường phái kinh tế cũ nhưng ông cho rằng V là thay đổi, cầu cũng không tất yếu bằng cung, nhưng phương trình để V ổn định là phải chịu nhiều nhân tố khác nhau tác động như lãi suất, mặt bằng giá P, sản lượng Q và cả kì vọng lạm phát trong tương lai của dân chúng. Nếu M cứ tăng đều đặn qua các năm khiến các biến số khác như lãi suất, mặt bằng giá tăng cao qua mức khiến người dân có xu hướng quay vòng đồng tiền nhiều hơn khiến V tăng lên, làm lạm phát tăng lên dù lượng tiền tăng lên không nhiều. Kiềm chế lạm phát không phải chỉ kiềm chế lượng tiền mà còn phải giữ ổn định V, thay đổi kì vọng của người dân về lạm phát cao thì mới bình ổn được giá cả. Qua nhiều định nghĩa ở trên ta có thể rút ra kết luận như thế nào về lạm phát?          Vậy lạm phát là gì? Lạm phát là hiện tượng tiền trong lưu thông vượt quá nhu cầu cần thiết làm cho chúng bị mất giá, giá cả của hầu hết các loại hàng hóa tăng lên. Các đặc trưng của lạm phát + Hiện tượng gia tăng quá mức của lượng tiền có trong lưu thông dẫn đến đồng tiền bị mất giá. + Mức giá cả chung tăng lên, đặc biệt là các loại hàng hóa thiết yếu. + Sự mất giá các loại chứng khoán có giá. + Sự giảm giá của đồng nội tệ so với các loại ngoại tệ. + Sản xuất đình trệ, hàng hóa dịch vụ khan hiếm. + Cán cân thương mại giảm sút, nhập siêu tăng nhanh. 1.1.2. Lạm phát cơ bản : Lạm phát cơ bản là thước đo được sử dụng rộng rãi để đánh giá xu hướng cơ bản hay diễn biến chung của giá tiêu dùng bình quân. Lạm phát cơ bản nắm bắt xu hướng dài hạn hoặc phổ biến của giá cả hàng hóa hay dịch vụ bằng cách loại trừ những cơn lốc hay biến động nhất thời trong mức giá tiêu dùng bình quân. 1.2. Phân loại lạm phát : 1.2.1. Dựa vào tỉ lệ tăng giá : 1.2.1.1. Lạm phát vừa phải : Loại lạm phát này xảy ra khi giá cả hàng hóa tăng chậm ở mức độ một con số hàng năm (dưới 10% một năm). Lạm phát vừa phải còn được gọi là lạm phát nước kiệu hay lạm phát 1 con số. Loại lạm phát này thường được các nước duy trì như một chất xúc tác để thúc đẩy nền kinh tế phát triển. 1.2.1.2. Lạm phát cao : Loại lạm phát này xảy khi giá cả hàng hóa tăng chậm ở mức độ hai, ba con số hàng năm (10%, 50%, 200%, 500%, 800%... một năm). Lạm phát này được gọi là lạm phát phi mã… đồng tiền trở nên mức giá nghiêm trọng, lãi suất thực thường là âm, trong điều kiện đó không ai cho vay với lãi suất bình thường, không ai muốn nắm giữ lượng tiền mặt quá lớn mà thay vào đó là các loại hàng hóa lâu bền. Loại lạm phát này gây ra nhiều tác hại cho đời sống kinh tế - xã hội. 1.2.1.3. Siêu lạm phát : Loại lạm phát này có tỉ lệ tăng giá trên 1000% một năm. Không có điều gì là tốt khi nền kinh tế khi xảy ra tình trạng này, nó như căn bệnh ung thư chết người, tốc độ lưu thông tiền tệ tăng nhanh chóng, giá cả các mặt hàng tăng nhanh không ổn định, tiền lương thực tế giảm mạnh, đồng tiền mất giá, thông tin không còn chính xác, các yếu tố thị trường biến dạng. Lịch sử lạm phát đã ghi nhận tác hại của siêu lạm phát như ở Đức năm 1920-1923 tốc độ tăng lên tới 1 triệu lần, Bôlivia năm 1985 với mức 50.000% năm. 1.2.2. Dựa vào tính chất lạm phát : 1.2.2.1. Lạm phát dự kiến được : Là loại lạm phát mà đã được dự tính một các chính xác sự tăng giá tương đối đều đặn của nó. Loại này ít gây ra tổn hại thực cho mọi người và nền kinh tế mà gây ra những phiền toái đòi hỏi các giao dịch thường xuyên phải được điều chỉnh (thông tin kinh tế, tiền lương…). 1.2.2.2. Lạm phát không dự kiến được : Mọi người bị bất ngờ về tốc độ tăng giá của các loại mặt hàng. Nó không chỉ gây ra những phiền toái cho mọi người như lạm phát dự kiến được mà còn gây ảnh hưởng không tốt không chỉ nền kinh tế mà còn là nền chính trị xã hội của quốc gia đó. 1.2.3. Dựa vào định tính : 1.2.3.1. Lạm phát công bằng : Tốc độ tăng của lạm phát tương ứng với tốc độ tăng tiền lương và phù hợp với sự phát triển của các ngành sản xuất. Lạm phát loại này là không ảnh hưởng đến người dân và nền kinh tế nói chung. 1.2.3.2. Lạm phát không công bằng : Lạm phát tăng nhanh không tương ứng với tốc độ tăng của tiền lương và sự phát triển của nền kinh tế. Trên thực tế loại này cũng hay xảy ra. 1.3. Cách tính lạm phát : 1.3.1. Lạm phát : 1.3.1.1. Dựa vào chỉ số giá tiêu dùng ( CPI ) : CPI (Consunmer Price Index) là chỉ số giá tiêu dùng. Chỉ số này phản ánh mức thay đổi giá cả hàng hóa trong một giỏ hàng so với năm gốc cụ thể. CPI thường được dùng để chỉ mức độ lạm phát tiền tệ trong xã hội. Thông thường các nhóm chính trong giỏ hàng hóa để tính CPI thường là thực phẩm, quần áo, nhà cửa, chất đốt, vận tải và y tế. Tùy theo tình hình phát triển – kinh tế xã hội, thị hiếu tiêu dùng của người dân mỗi nước mà chủng loại hàng hóa sẽ thay đổi sao cho phù hợp. Việc tính CPI bao gồm các bước: Bước 1: cố định giỏ hàng hóa: ước lượng các hàng hóa và dịch vụ người tiêu dùng điển hình mua Bước 2: xác định giá cả của mỗi hàng hóa và dịch vụ trong giỏ hàng tại mỗi thời điểm. Bước 3: tính chi phí để mua giỏ hàng: sử dụng các mức giá và lượng để tính chi phí mua giỏ hàng trong mỗi năm Bước 4: Lựa chọn năm cơ sở và tính chỉ số giá. Trong đó: CPIt: chỉ số CPI năm t pt ; giá kỳ báo cáo; : quyền số cố định kỳ gốc năm 2000 t : kỳ báo cáo; 2000: năm gốc. + Tính lạm phát: Chỉ số lạm phát năm t so với năm t-1 = CPIt – CPIt-1 CPIt-1 1 Trong đó: CPIt: chỉ số CPI năm t CPIt-1: chỉ số năm t-1 1.3.1.2. Dựa vào chỉ số giảm lạm phát GDP : Chỉ số giảm lạm phát GDP hay chỉ số điều chỉnh GDP thường được kí hiệu là DGDP ( viết tắt tiếng anh là GDP deflator ) đo lường GDP theo giá hiện hành và giá cố định cùng các thành phần của nó. Ví dụ nếu GDP tăng theo mức cố định là 3% và theo mức giá danh nghĩa hiện hành là 8%, nó hàm ý mức lạm phát trong nền kinh tế là 5%. Chỉ số giảm lạm phát GDP = GDPthực tế GDPdanh nghĩa GDPdanh nghĩa phản ánh giá trị bằng tiền của sản lượng được nền kinh tế tạo ra. GDPthực tế phản ánh khối lượng sản phẩm – tức là sản lượng được đánh giá theo giá năm cơ sở. Chỉ số điều chỉnh GDP phản ánh giá của một đơn vị điển hình so với giá của nó trong năm cơ sở. Điểm khác biệt giữa DGDP và chỉ số CPI là ở chổ: (1) giá của giỏ hàng hóa tính chỉ số này khác nhau, trong đó DGDP sử dụng giá của tất cả hàng hóa sản xuất trong nước còn CPI lại sử dụng giỏ hàng hóa cố định không kể nơi sản xuất để tính CPI. (2) DGDP sử dụng giỏ hàng hóa dịch vụ sản xuất trong kì nghiên cứu vì thế giỏ hàng hóa này được thay đổi mỗi năm còn CPI lại sử dụng giỏ hàng hóa cố định qua mỗi năm và chỉ thay đổi khi cục thống kê hay chính phủ điều chỉnh. 1.3.1.3. Dựa vào chỉ số giá cả sản xuất ( PPI ) : PPI (producer price index) là chỉ số giá người sản xuất hay còn gọi là chỉ số giá sản xuất được dùng để đo chi phí nguyên vật liệu sản xuất. Đây là chỉ tiêu quan trọng nhằm đánh giá mức độ biến động của một lĩnh vực sản xuất trong thời kì nào đó. PPI là chỉ số quan trọng để các cấp lãnh đạo ra các chính sách kinh tế tài chính hay hạch toán nền kinh tế quốc dân. 1.3.1.4. Dựa vào chỉ số giá cả hàng hóa : Đó là sự thay đổi trong giá cả của các hàng hóa một cách có lựa chọn. Trong trường hợp bản vị vàng thì hàng hóa duy nhất được sử dụng là vàng. Khi nước Mỹ sử dụng bản vị lưỡng kim thì chỉ số này bao gồm cả vàng và bạc. 1.3.2. Lạm phát cơ bản : Phương pháp tính toán lạm phát cơ bản được nhiều quốc gia sử dụng là phương pháp loại trừ. Phương pháp loại trừ tính toán lạm phát cơ bản bằng cách loại trừ giá cả của một số nhóm mặt hàng khỏi rổ CPI.Các thành phần hay được loại trừ là loại hàng hóa dễ bị biến động nhất đó là nhóm hàng lương thực – thực phẩm, năng lượng. Phương pháp thống kê thuần túy để tính bao gồm: tính trung vị, trung bình lược bỏ có quyền số/không có quyền số hay phương pháp tính lại quyền số mới hay phương pháp bình quân gia quyền nghịch đảo độ lệch chuẩn hoặc phương sai (những phương pháp này thường sử dụng nội bộ để nghiên cứu và phân tích).  Phương pháp sử dụng mô hình kinh tế lượng trong phân tích, tính toán và dự báo lạm phát cơ bản cũng nên tính thử nghiệm sử dụng nội bộ để nghiên cứu và phân tích. 1.4. Nguyên nhân lạm phát : 1.4.1. Lạm phát theo số lượng tiền tệ : Khi đề cập đến mối quan hệ giữa lạm phát và tiền tệ, Friedman cho rằng "lạm phát luôn và bất cứ ở đâu đều là hiện tượng tiền tệ". Lúc đó lạm phát được định nghĩa như là một sự tăng giá nhanh và liên tục. Quan điểm các nhà thuộc trường phái tiền tệ: (Tổng mức giá) AS3 P AS2 3 P3 2' P2 AS1 2 1' AD3 P1 1 AD2 AD1 0 Yn (Tổng sản phẩm) Y Y1 Đồ thị lạm phát theo số lượng tiền tệ Ban đầu nền kinh tế cân bằng ở điểm 1 (giao nhau giữa AD1 và AS1 với mức giá ban đầu là P1, trùng với mức sản lượng tiềm năng. Nếu cung tiền gia tăng (tăng lương, tăng chi tiêu công…) sẽ khiến cho tổng cầu dịch qua bên phải trở thành đường AD2, trong ngắn hạn mức sản lượng của nền kinh tế sẽ dịch sang Y1 cắt đường AS1 tại điểm 1' nhưng cùng với đó việc mở rộng sản xuất khiến chi phí gia tăng, giá cả các nguyên liệu tăng cao khiến cung giảm xuống làm đường AS1 dịch chuyển song song sang trái cắt đường AD2 tại điểm số 2 thiết lập mức giá mới P2 và sản lượng trở về mức tiềm năng như cũ,. Cứ như vậy, nếu cung tiền cứ gia tăng thì quá trình diễn ra tuần tự và giá sẽ đươc thiết lập ở mức cao hơn ban đầu và lạm phát xảy ra. Trong quan điểm của các nhà thuộc trường phái tiền tệ thì cung tiền là yếu tố duy nhất gây ra lạm phát. 1.4.2. Sự thiếu hụt tài khóa : Khi xảy ra thiếu hụt tài khóa chính phủ có thể tài trợ bằng việc: (1) tăng thuế, (2) vay nợ bằng phát hành trái phiếu và in tiền. Thiếu hụt tài khóa (DEF) chính là khoản chênh lệch giữa chi tiêu chính phủ (G) vượt quá thuế (T) và sẽ bằng tổng và thay đổi trái phiếu chính phủ mà công chúng nắm giữ () DEF= G - T = Nếu xảy ra thiếu hụt tài khóa chính phủ tài trợ bằng việc phát hành tiền liên tục và kéo dài, tất nhiên sẽ làm tăng cung tiền và lạm phát. Hiện nay, các quốc gia không được phát hành tiền mà thông qua phát hành trái phiếu. Tuy không làm tăng cơ số tiền nhưng nếu thâm hụt kéo dài thì đến hạn phải trả số tiền bao gồm cả gốc lẫn lãi có thể vượt quá số tiền cần lưu thông và gây ra lạm phát, hoặc người dân có thể bán lại cho ngân hàng trung ương thông qua nghiệp vụ thị trường mở và làm tăng cung tiền khiến lạm phát xảy ra. Nói chung nếu để trình trạng thâm hụt kéo dài xảy ra và tài trợ bằng tiền có tính lỏng cao thì sẽ dẫn đến mức gia tăng cung tiền làm tổng cầu dịch chuyển sang phải, dẫn đến giá cả tăng lên và lạm phát xảy ra. 1.4.3. Lạm phát do cầu kéo : Sự gia tăng các khoản chi tiêu công của chính phủ (chính sách trợ cấp xã hội,các dự án đầu tư xây dựng...), việc tiêu dùng nhiều hơn của dân cư (thu nhập tăng lên, thuế được giảm) dẫn đến sự mở rộng, gia tăng sản xuất của các doanh nghiệp khiến tổng cầu gia tăng nhanh chóng nhưng với nguồn lực, công suât có giới hạn tổng cung không thể tăng lên một cách tương xứng dẫn đến sự mất cân đối trong quan hệ cung cầu và theo cơ chế thị trường nó sẽ được lấp đầy bằng sự gia tăng giá cả. AD1 AD2 AD3 AS P Y 1 2 3 Đồ thị lạm phát do cầu kéo Ban đầu nền kinh tế cân bằng tại điểm 1 (giao nhau giữa đường AD1 và AS và khi có sự gia tăng tổng cầu (tăng lương, giảm thuế, tăng chi tiêu công) thì đường AD1 dịch chuyển sang phải thanh đường AD2 rồi đến AD3, trong khi đường tổng cung không thay đổi làm cho điểm cân bằng dich chuyển từ 1 rồi đến 2 và 3 và cứ tiếp tục như vậy nếu cầu vẫn tiếp tục tăng lên, hàng hóa thiết lập mức giá sau cao hơn mức giá trước và lạm phát xảy ra. 1.4.4. Lạm phát do chi phí đẩy : Nền sản xuất được đảm bảo bởi sự kết hợp giữa nguồn lực tự nhiên, tư bản và lao động và một khi một trong những yếu tố đó có xu hướng tăng giá sẽ làm cho giá cả hàng hóa tăng lên. Vậy lạm phát chi phí đẩy là loại lạm phát xảy ra khi chi phí gia tăng một cách độc lập với tổng cầu (ví dụ như tỷ giá hối đoái thay đổi,đồng nội tệ bị mất giá so với ngoại tệ làm nguyên vật liệu nhập khẩu tăng cao, thay đổi giá cả hàng hóa, những cú sốc từ bên ngoài như cú sốc về dầu mỏ, thép..., sự thiếu hụt các nguồn tài nguyên hay do sự gia tăng tiền lương cơ bản do quy định của chính phủ). Và một khi giá cả hàng hóa gia tăng, người dân có xu hướng tích trữ hàng hóa, các khoản chi tiêu chính phủ đắt đỏ hơn càng khiến giá hàng hóa bị đẩy lên cao hơn. Vì thế lạm phát chi phí đẩy có thể xảy ra nếu đường tổng cầu dịch chuyển sang bên phải, tổng cầu chỉ có thể dịch chuyển sang phải khi có sự gia tăng mức cung tiền tệ (chính phủ chi nhiều hơn, người dân mua hàng tích trữ). Vậy lạm phát do chi phí đẩy là một hiện tượng tiền tệ bởi vì nó không thể xảy ra nếu không có các chính sách tiền tệ đi kèm theo. Y Y1 Y0 Y0 P 2 AD AS2 AS1 1 Đồ thị lạm phát do chi phi đẩy Nếu do một nhân tố nào đó tác động, ví dụ như trường hợp nguyên vật liệu đầu vào tăng giá làm đường tổng cung dịch chuyển lên trên do chi phí sản xuất tăng tại một mức giá cho trước, ít nhà cung ứng hơn nên lượng cung hàng hóa và dịch vụ giảm, nếu tổng cầu được giữ nguyên không đổi thì nền kinh tế sẽ di chuyển từ điểm 1 đến điểm 2, mức giá tăng lên từ P1 đến P2, sản lượng giảm từ Y0 đến Y1.. Đó chính là hiện tượng suy thoái kinh tế đi kèm lạm phát, vì nền kinh tế phải rơi vào trạng thái sản lượng giảm mà phải gánh chịu lạm phát. 1.4.5. Lạm phát do quán tính : Lạm phát do quán tính là tỷ lệ lạm phát hiện tại mà mọi người dự kiến nó sẽ tiếp tục trong tương lai. Tỷ lệ này được đưa vào các hợp đồng kinh tế, các giao dich mua bán hằng ngày, và chính vì điều này mà lạm phát trở thành hiện thực. Một ví dụ về lạm phát quán tính đó là khi nền kinh tế xảy ra lạm phát cao dẫn đến người dân có xu hướng chỉ giữ một số lượng tiền ít để tiêu dùng còn lại người ta sẽ tích trữ hàng hóa, mua vàng, các loại ngoại tệ mạnh khác khiến số lượng tiền lưu thông càng nhiều hơn và làm lạm phát thêm trầm trọng. 1.4.6. Lạm phát do sự thay đổi tỷ giá hối đoái : Tỷ giá hối đoái giữa đồng nội tệ so với đơn vị tiền tệ nước ngoài tăng cũng là nguyên nhân gây ra lạm phát. Thứ nhất, khi tỷ giá tăng, đồng nội tệ mất giá, trước hết nó tác động lên tâm lý những người sản xuất trong nước, muốn kéo giá hàng lên theo mức tăng của tỷ giá hối đoái. Thứ hai, khi tỷ giá tăng, giá nguyên liệu, hàng hoá nhập khẩu cũng tăng cao, đẩy chi phí về phía nguyên liệu tăng lên, lại quay trở về lạm phát phí đẩy như đã phân tích trên đây. Việc tăng giá cả của nguyên liệu và hàng hoá nhập khẩu thường gây ra phản ứng dây chuyền, làm tăng giá cả ở rất nhiều các hàng hoá khác, đặc biệt là các hàng hoá của những ngành có sử dụng nguyên liệu nhập khẩu và những ngành có mối liên hệ chặt chẽ với nhau (nguyên liệu của ngành này là sản phẩm của ngành khác,điển hình như xăng dầu là nguyên liệu chính, trực tiếp liên quan đến các ngành sản xuất…) 1.4.7. Lạm phát do cơ cấu : Trong nền kinh tế, khi một ngành kinh doanh có hiệu quả sẽ tăng tiền công cho công nhân làm việc, còn đối với ngành kinh doanh không hiệu quả dù không muốn vẫn phải tăng lương cho người lao động (chính sách tăng lương cơ bản của chính phủ) nhưng để đảm bảo lợi nhuận công ty phải tăng giá thành sản phẩm, nhu cầu tăng lên nhưng cung lại không đáp ứng đủ nên lạm phát xảy ra hay do cơ cấu nền kinh tế quá tập trung vào một lĩnh vực sản xuất mà không quan tâm đến nghành khác dẫn đến sự rời bỏ ngành của doanh nghiệp (đầu tư công nghiệp không chú trọng nông nghiệp dẫn đến khan hiếm thực phẩm) khiến mức cân đối trong cung cầu thị trường gây ra tâm lý thiếu hàng trong dân chúng khiến nạn đầu cơ có điều kiện bộc phát gây nên tình trạng lạm phát cao. Hiện tượng kinh tế này chủ yếu phổ biến ở các nước đang phát triển do tình trạng mất cân đối trong nền kinh tế khiến sản xuất kém hiệu quả, cung không đủ cầu gây ra lạm phát. Các dạng mất cân đối chủ yếu trong nền kinh tế: + Mất cân đối trong cơ cấu ngành trong nền kinh tế (nông nghiệp lạc hậu chiếm tỷ trọng cao trong cơ cấu nền kinh tế), mất cân đối trong cơ cấu trong nội bộ ngành kinh tế (chú trọng công nghiệp nặng, luyện kim, khai khoáng ít chú trọng đến phát triển những ngành công nghiệp vật liệu mới, công nghiệp nhẹ đòi hỏi lượng chất xám cao như chip điện tử, sản xuất hàng điện tử). + Mất cân đối giữa mức tích lũy thấp nhưng đầu tư cao. + Cơ cấu ngoại thương bất hợp lý. + Cơ cấu tiêu dùng bất hợp lý. 1.4.8. Lạm phát do xuất khẩu : Việc xuất khẩu tăng cao khiến tổng cầu tăng nhanh hơn tổng cung, hoặc sản phẩm được huy động cho xuất khẩu khiến tổng cung mặt hàng trong nước thấp hơn tổng cầu trong nước. Sự mất cân đối giữa tổng cung và tổng cầu khiến lạm phát nảy sinh. 1.4.9. Lạm phát do nhập khẩu : Do các sản phẩm không thể sản xuất trong nước mà phải nhập từ bên ngoài nên khi có sự gia tăng giá cả của mặt hàng nhập khẩu (như việc tăng giá dầu của OPEC, giá nhập khẩu phôi thép) khiến giá hàng trong nước phải tăng lên. Lạm phát hình thành do giá nhập khẩu đội lên. 1.4.10. Lạm phát do tâm lý người tiêu dùng : Ngoài ra, lạm phát cũng có thể xảy ra do tâm lý người tiêu dùng (với chiến thuật quảng cáo rầm rộ các công ty sẽ kích thích những nhu cầu chưa thực sự của người dân gây ra tình trạng khan hiếm hàng hóa giả tạo trên thị trường, đẩy giá lên cao) hay do yếu tố chính trị, bất ổn định, chiến tranh, tình trạng thiếu thông tin thị trường, chính sách nhà nước cũng tác động đến tâm lý người dân. 1.5. Tác động của lạm phát : Lạm phát ảnh hưởng đến nhiều mặt đến đời sống kinh tế xã hội, nó cũng có thể đem lại những lợi ích bên cạch những tác hại nghiêm trọng đến đời sống kinh tế xã hội của đất nước. Vậy tác động của nó như thế nào ? 1.5.1. Tác động tích cực : 1.5.1.1. Tác động phân phối lại thu nhập của cải : Nó phát sinh từ những sự khác nhau trong các loại tài sản và nợ nần của người dân. Khi lạm phát xảy ra, những người có tài sản, những người đi vay nợ là có lợi nhất vì giá cả các loại hàng hóa nói chung đều tăng lên theo mức tăng lạm phát trong khi giá trị của đồng tiền lại giảm xuống khiến những người nắm giữ tiền mặt, người làm công ăn lương, những người cho vay là bị thiệt hại. 1.5.1.2. Tác động phát triển kinh tế : Trong điều kiện nền kinh tế chưa đạt đến mức sản lượng tối ưu hay mức toàn dụng thì lạm phát vừa phải cũng giúp thúc đẩy phát triển nền kinh tế vì nó có tác dụng làm tăng khối lượng tiền tệ lưu thông, cung cấp thêm vốn cho các đơn vị sản xuất kinh doanh, kích thích quá trình tiêu dùng người dân và chính phủ. 1.5.1.3. Tác động đến thất nghiệp : Lạm phát và thất nghiệp có mối quan hệ ngược chiều nhau: khi lạm phát tăng thì sẽ giúp thất nghiệp giảm và ngược lại. Nhà kinh tế học A.W.Phillips đã đưa ra" Lý thuyết đánh đổi giữa lạm phát và việc làm" đó là một nước có thể có một tỉ lệ thất nghiệp thấp hơn nếu nước đó sẵn sàng trả một tỉ lệ lạm phát cao hơn. Điều này giúp các nhà lãnh đạo có thể có thê đưa ra các chính sách kinh tế để đảm bảo tăng trưởng kinh tế, người dân có thêm việc làm nhưng lạm phát được giữ ở mức chấp nhận được. Lạm Phát % Thât nghiệp AD Đồ thị mối quan hệ lạm phát và thất nghiệp Như chúng ta đã biết chính sách tài khóa và chính sách tiền tệ và chính sách tài khóa đều có thể làm dịch chuyển đường tổng cầu. Do đó chính sách tiền tệ và tài khóa có thể làm dịch chuyển nền kinh tế dọc theo đường Phillips. Nếu chính phủ tăng cung tiền, tăng chi tiêu chính phủ và cắt giảm thuế sẽ làm tăng tổng cầu và di chuyển nền kinh tế dịch về phía bên trái trên đường Phillips sao cho ở đó lạm phát cao hơn và thất nghiệp ít hơn. Còn chính phủ thực hiện biện pháp cắt giảm cung tiền, cắt giảm chi tiêu chính phủ và tăng thuế sẽ làm tổng cầu giảm xuống và nền kinh tế sẽ dịch chuyển về bên phải trên đường Phillips sao cho tại đó thất nghiệp cao hơn và lạm phát thấp hơn. Vì thế qua đường Phillips chính phủ sẽ có chính sách phù hợp nhằm tạo được sự kết hợp tối ưu nhất giữa lạm phát và thất nghiệp. 1.5.1.4. Tác động làm tăng số thuế nhà nước thu được : Nếu thuế được đánh theo hệ thống thuế lũy tiến thì tỉ lệ lạm phát cao sẽ đẩy người ta nhanh qua mức thuế cao hơn phải nộp, và như vậy chính phủ có thể thu được nhiều thuế hơn mà không phải thông qua luật. 1.5.2. Tác động tiêu cực : 1.5.2.1. Đối với lĩnh vực sản xuất : Trong điều kiện lạm phát cao và không dự kiến được thì mọi hoạt động sản xuất đều bị thay đổi, giá cả hàng hóa tăng cao và biến động không ngừng gây nên tình trạng mất ổn định trong nền kinh tế. Quá trình hạch toán của các công ty trở nên vô hiệu do tốc độ thay đổi giá cả của hàng hóa gây ảnh hưởng đến hoạt động sản xuất kinh doanh, đối với những công ty có tỷ suất lợi nhuận thấp thì dẫn đến tình trạng phá sản. Cơ cấu nền kinh tế bị thay đổi vì khi đó các nhà kinh doanh tập trung đầu tư vào các ngành sản xuất có chu kì ngắn, khả năng thu hồi và quay vòng vốn cao thay vì đầu tư vào các ngành có điều kiện ngược lại khiến tình trạng cung ứng hàng mất cân đối khiến lạm phát trầm trọng thêm. 1.5.2.2. Đối với lĩnh vực lưu thông : Trong lĩnh vực lưu thông, khi giá cả hàng hóa tăng nhanh thì tình trạng đầu cơ, tích trữ hàng hóa thường là hiện tượng phổ biến khiến tình trạng khan hiếm hàng hóa trở nên trầm trọng. Do đó người tham gia vào quá trình lưu thông trở nên hỗn loạn. Tiền trong tay người này vừa bán xong lại nhanh chóng được đẩy ra lưu thông, tốc độ lưu chuyển tiền mặt nhanh chóng khiến tình trạng lạm phát thêm trầm trọng. 1.5.2.3. Đối với lĩnh vực tiền tệ , tín dụng : Trong điều kiện các nhân tố khác không thay đổi, lạm phát tăng cao khiến tỷ giá hối đoái tăng lên. Sự mất giá của đồng tiền khiến xuất khẩu có lợi thế nhưng lại gây thiệt hại đối với hàng hóa nhập khẩu. Lạm phát cao, siêu lạm phát làm giảm số lượng người dân đi gửi tiền, khả năng thanh khoản của ngân hàng kém đi khiến nhiều ngân hàng bị phá sản. Lạm phát tăng nhanh khiến người dân không muốn nắm giữ tiền mặt trong tay, họ chuyển sang tích trữ vàng, ngoại tệ mạnh...khiến tình trạng lạm phát càng trầm trọng. 1.5.2.4. Đối với chính sách kinh tế tài chính quốc gia : Lạm phát tăng nhanh, sự biến động giá cả tăng nhanh khiến các giá trị thông tin bao hàm trong giá cả bị phá vỡ, tính toán kinh tế bị sai lệch nhiều, thông tin bị nhiễu loạn khiến mọi người không thể phán đoán doanh nghiệp nào lãi, doanh nghiệp nào lỗ để có hướng đầu tư cho chính xác. Lạm phát cao và lâu dài gây ra sự bào mòn đối với ngân sách nhà nước, các khoản chi tiêu trở nên đắt đỏ hơn, nhà nước phải giảm bớt các khoản phúc lợi xã hội, thu hẹp danh mục đầu tư đối với các dự án, ngân sách bị suy giảm do sản xuất bị đình đốn khiến các mục tiêu phát triển kinh tế - xã hội đã đề ra từ trước phải thay đổi. 1.5.2.5. Làm méo mó số thuế phải nộp : Lạm phát tăng cao khiến người nộp thuế theo thuế suất lũy tiến nhanh chóng chuyển qua mức nộp thuế cao hơn trong khi lương thực tế lại giảm mạnh khiến đời sống của người dân bị xáo trộn, thay đổi và khó khăn hơn. Không những thế việc lạm phát quá cao cũng khiến chi phí các nguyên vật liệu đầu vào tăng cao khiến doanh nghiệp khó khăn trong khâu tiêu thụ làm sản xuất bị đình đốn nhiều doanh nghiệp phá sản hơn cũng khiến cho số thuế thu được của nhà nước cũng giảm đi. 1.5.2.6. Lạm phát không chắc chắn làm đầu tư ở trung và dài hạn giảm : Vì lạm phát tăng cao các nhà đầu tư không thể dự kiến chính xác nguồn vốn cần là bao nhiêu tiền cho các dự án trong tương lai, các công trình đang xây dựng phải ngừng thực hiện do chi phí nguyên vật liệu đầu vào tăng cao khiến doanh nghiệp không đủ nguồn lực thực hiện gây ảnh hưởng xấu đến các mục tiêu kinh tế trung dài hạn, các mục tiêu xã hội không thực hiện được khiến tăng trưởng kinh tế của đất nước giảm xuống. 1.5.2.7. Lạm phát khiến người dân quan tâm đến lợi ích trước mắt : Thay vì gửi tiền vào ngân hàng người dân sẽ dùng số tiền đầu tư, tích trữ các loại hàng hóa, chuyển qua các loại đồng ngoại tệ mạnh, các kim loại quý (vàng, bạch kim...) và đẩy mạnh tích trữ hàng hóa do kì vọng lạm phát tăng trong tương lai khiến dòng tiền lưu thông nhanh hơn, giá cả hàng hóa tăng cao hơn và lạm phát tăng nhanh hơn trước. 1.5.2.8. Lạm phát và nợ quốc gia : Lạm phát khiến giá trị đồng tiền quốc nội giảm giá mạnh so với ngoại tệ, các khoản vay trước đây tăng cao hơn gây sức ép lên nền kinh tế quốc gia. Tuy được lợi trong các khoản vay vốn trong nước nhưng chính phủ lại bị thiệt trong các khoản vay ngoại tệ nước ngoài. 1.5.2.9. Các chi phí xã hội của lạm phát : Lạm phát vừa có thể gây ra những tác hại mà ta có thể dễ nhận biết nhưng cũng đồng thời gây ra những tác hại mà ta khó có thể nhận biết đó chính là chi phí xã hội của lạm phát. - Chi phí mòn giày: Lạm phát cao hơn làm tăng lãi suất danh nghĩa mà hệ quả mọi người sẽ giảm số tiền nắm giữ. Nếu mọi người giữ số dư tiền thực tế ít hơn, thì họ phải thường xuyên đến ngân hàng rút tiền. Điều này làm bạn phải đi rút tiền nhiều hơn (giầy bạn mòn hơn). - Chi phí thực đơn: Lạm phát cao hơn làm cho doanh nghiệp thay đổi giá cả thường xuyên hơn. Việc này là tốn kém nếu họ in lại biểu giá và cataglo. - Giá cả tương đối biến động mạnh hơn. Nếu trong giai đoạn ổn định các doanh nghiệp không thay đổi giá cả thường xuyên thì lạm phát sẽ làm cho giá cả tương đối biến động mạnh hơn mà nền kinh tế thị trường lại phân bổ nguồn lực dựa trên giá cả, lạm phát dẫn đến tính phi hiệu quả của nền kinh tế. - Thay đổi gánh nặng về thuế. Nhiều luật thuế không tính đến tác động của lạm phát. Do đó, lạm phát có thể làm thay đổi gánh nặng về thuế của các cá nhân và doanh nghiệp, ngoài dự kiến ban đầu của các nhà hoạch định gây ra cản trở tiết kiệm và phát triển kinh tế. - Sự nhầm lẫn bất tiện: Lạm phát tăng cao khiến giá của hàng hóa biến động liên tục, giá trị của đồng tiền giảm xuống và thước đo lợi nhuận của các doanh nghiệp trở nên khó khăn và việc lựa chọn đầu tư của các doanh nghiệp trở nên phức tạp và dễ nhầm lẫn hơn. - Tái phân phối một cách tùy tiện: Ví dụ khi các điều kiện cho vay nói chung được tính theo giá trị danh nghĩa dựa theo một tỉ lệ lạm phát dự kiến nhất định. Nhưng nếu lạm phát tăng cao so với dự kiến, người đi vay được lợi vì chỉ hoàn trả lại cho người cho vay một số tiền có sức mua thấp hơn dự kiến còn người cho vay lại bị lỗ. Ngược lại, nếu lạm phát thấp hơn dự kiến thì người cho vay sẽ được lợi do họ sẽ thu về được những đồng tiền có sức mua cao hơn trước. Vì thế lạm phát đã gây ra hiện trượng tái phân phối một cách tùy tiện. 1.6. Biện pháp kiềm chế lạm phát : 1.6.1. Biện pháp cấp bách : 1.6.1.1. Biện pháp chính sách tài khóa : Biện pháp tài khóa có vai trò hết sức quan trọng trong việc kiểm soát lạm phát vì trong nhiều trường hợp lạm phát có nguyên nhân xuất phát từ thâm hụt ngân sách Nhà Nước. Vậy nếu nguyên nhân này được giải quyết thì tiền tệ sẽ ổn định, lạm phát sẽ được kiềm chế. Chính phủ có thể sử dụng một số biện pháp sau. - Thực hành tiết kiệm triệt để, hạn chế chi tiêu công, giảm bớt các hạng mục xây dựng cần vốn lớn mà chưa thấy cần thiết, hoàn thành nhanh chóng triệt để các dự án xây dựng trọng điểm, tránh kéo dài lâu gây thất thoát lãng phí cho Nhà Nước. - Tăng thuế trực thu, đặc biệt là đối với những cá nhân và doanh nghiệp có thu nhập cao, chống thất thu thuế. - Kiểm soát chặt chẽ các chương trình tín dụng của nhà nước như chương trình vay vốn hỗ trợ sinh viên nghèo, tránh trường hợp sinh viên không nghèo vẫn được vay... - Tiến hành vay nợ trong và ngoài nước để giảm bội chi ngân sách. 1.6.1.2. Biện pháp thắt chặt tiền tệ : Chính sách tiền tệ là một trong những biện pháp cấp bách mà chính phủ cần phải sử dụng trong tình hình nền kinh tế có lạm phát cao, khó có thể điều tiết được bằng " bàn tay vô hình" của thị trường. Với tư cách là "ngân hàng của các ngân hàng" ngân hàng trung ương cần phải điều hành linh hoạt đồng bộ các công cụ chính sách tiền tệ, kết hợp hài hòa linh hoạt tỷ giá và lãi suất, tăng cường sự phối hợp giữa các bộ ban ngành, sự kết hợp giữa chính sách tài khóa và chính sách tiền tệ, nâng cao công tác thống kê, dự báo, phản ứng kịp thời trước những diễn biến kinh tế, tiền tệ trong và ngoài nước, đảm báo tính thanh khoản của các tổ chức tín dụng nhằm mục đích kiềm chế lạm phát thúc đẩy tăng trưởng kinh tế. Và một trong những biện pháp quan trọng kiềm chế lạm phát mà ngân hàng trung ương phải làm đó là giảm lương tiền trong lưu thông bằng các biện pháp khác nhau như: - Đóng băng tiền tệ : ngân hàng trung ương thắt chặt việc thực hiện các nghiệp vụ tái chiết khấu, tái cấp vốn, cho vay theo hồ sơ tín dụng, giới hạn tăng trưởng tín dụng ngân hàng... nhằm mục đích giảm bớt lượng tiền đang lưu thông trên thị trường - Nâng lãi suất : khi lãi suất tiền gửi tăng cao sẽ thu hút người dân gửi tiền hơn thay vì giữ tiền lưu thông, hay chuyển sang cất trữ vàng và đổi sang ngoại tệ, các doanh nghiệp sẽ gửi các khoản tiền không kì hạn vào ngân hàng khiến dòng tiền lưu thông trên thị trường ít lại. Việc tăng mức dự trữ bắt buộc của ngân hàng trung ương cũng làm giảm khả năng tạo tiền của ngân hàng thương mại làm giảm lượng tiền lưu thông trên thị trường, giảm sức ép tăng giá. - Tiến hành vay nợ bên ngoài nhằm đảm bảo các nguồn lực nhằm đối phó với lạm phát (giữ ổn định đồng nội tệ, nhập khẩu các mặt hàng trọng yếu nếu xảy ra tình trạng khan hiếm). Ngoài ra, ngân hàng sẽ phát hành các công cụ vay nợ cho chính phủ như trái phiếu...nhằm thu hút lượng tiền nhàn rỗi trong dân chúng. Trong thời kì lạm phát cao tâm lý người dân sẽ hoang mang và sẽ thực hiện việc bảo toàn tài sản của mình bằng việc rút tiền ồ ạt nhằm chuyển sang đầu tư các loại hàng hóa có giá khác nên ngân hàng trung ương cần hỗ trợ vốn nhằm đảm bảo tính thanh khoản cho các ngân hàng thương mại, tránh để xảy ra tình trạng mất thanh khoản gây ra tình trạng hoảng loạn trong dân chúng càng khiến tình trạng lạm phát tồi tệ hơn 1.6.1.3. Biện pháp kiềm chế giá cả : Muốn kiềm chế lạm phát ở mức cao, nhà nước có thể thực hiện một số chính sách sau: - Nhập khẩu hàng hóa từ nước ngoài nhằm điều tiết cung cầu trong lưu thông hàng hóa. - Đẩy mạnh quá trình áp dụng khoa học kĩ thuật vào sản xuất nhằm tăng cung cho thị trường, xuất hàng dự trữ quốc gia nhằm bình ổn giá cả thị trường. - Nhà nước bán vàng, xuất quỹ dự trự ngoại hối nhằm thu hút tiền mặt trong lưu thông, ổn định giá vàng, tỷ giá hối đoái tạo tâm lý ổn định cho các mặt hàng. - Kiểm soát thị trường chặt chẽ, chống nạn đầu cơ tích trữ nhằm lũng đoạn thị trường, thực hiện việc kiềm chế không tăng một số nguyên liệu đầu vào chủ yếu của nhiều ngành sản xuất như điện, xăng dầu... 1.6.2. Biện pháp chiến lược : 1.6.2.1. Xây dựng và thực hiện chiến lược kinh tế xã hội đúng đắn : Tiền tệ chỉ rối loạn một khi nguồn cung hàng hóa bị thay đổi, vì thế để có thể giữ ổn định quá trình lưu thông hàng hóa và lưu thông tiền tệ chúng ta cần có một quỹ hàng hóa với số lượng nhiều, chất lượng cao, phong phú về chủng loại. Và thực hiện được điều đó, nhà nước cần xây dựng chính sách kinh tế vĩ mô hợp lý, điều chỉnh cơ cấu nền kinh tế theo xu hướng thị trường, khuyến khích áp dụng tiến bộ khoa học kĩ thuật trong để nâng cao sản lượng và chất lượng, tăng cường đầu tư trong lĩnh vực công nghệ sạch nhằm đảm bảo mục tiêu tăng trưởng phải bền vững. Tập trung đẩy mạnh công tác cải cách giáo dục, phát triển nguồn nhân lực có chất lượng thông qua các biện pháp như đưa ra các chính sách phù hợp hiệu quả nhằm nâng cao chất lượng giáo dục và đào tạo, chú trọng đầu tư cơ sở vật chất trong trường học, phân bổ đào tạo sử dụng hợp lý và hiệu quả nguồn nhân lực, chú trọng đào tạo lại và phát triển nguồn nhân lực cấp cao, có chính sách đãi ngộ xứng đáng nhằm giữ chân nhân tài, phát triển nhân lực trong các ngành khoa học – kĩ thuật, một số ngành công nghiệp phụ trợ. Một chính sách kinh tế - xã hội đúng đắn không thể không đề cập đến chính sách an sinh – xã hội nhằm đảm bảo công bằng và phát triển đất nước thông qua việc trợ cấp đối với người già, người cao tuổi, trợ cấp vốn đào tạo nghề cho người thất nghiệp, đẩy mạnh công tác y tế cho người nghèo... Việc đảm bảo an sinh – xã hội cũng là một yếu tố quan trọng giúp phát triển kinh tế, xã hội ổn định và ngăn chặn lạm phát. 1.6.2.2. Đổi mới chính sách quản lý tài chính công : Đẩy mạnh tăng cường quản lý các khoản thu, tăng thu từ thuế dựa trên cơ sở mở rộng và nuôi dưỡng nguồn thu, chống thất thu về thuế. Trong việc thực hiện ngân sách nhà nước phải thực hành tiết kiệm, đảm bảo chi phải hiệu quả thúc đẩy kinh tế phát triển, chống thất thoát lãng phí trong các dự án đầu tư của chính phủ nhằm đảm bảo cân đối ngân sách chính phủ. Giảm bội chi là nhân tố quan trọng trong chống lạm phát. 1.6.2.3. Thực hiện chiến lược thị trường cạnh tranh hoàn hảo : . Phấn đấu đến việc xây dựng thị trường cạnh tranh hoàn hảo. Vì trong thị trường cạnh tranh hoàn hảo, mọi doanh nghiệp đều công bằng như nhau về các chính sách nên các doanh nghiệp phải cố gắng hết sức để cải tiến kĩ thuật, nâng cao năng suất vừa tăng chất lượng nhưng cũng đảm bảo chất lượng vì thế tình hình lạm phát cao sẽ ít xảy ra do thiếu nguồn cung hay do sự lũng đoạn thị trường. Vì thế các chính phủ cần xây dựng các bộ luật sao cho thúc đẩy việc cạnh tranh công bằng giữa các doanh nghiệp, chống độc quyền... 1.6.2.4. Dùng lạm phát chống lạm phát : Những quốc gia hiện tại vẫn còn tiềm năng về tài nguyên thiên nhiên, đất đai, con người, chưa đạt đến mức sản lượng tiềm năng có thể gia tăng chi cho đầu tư phát triển, có thể sử dụng lâu dài như công trình cầu đường, sân bay...nhằm đem lại lợi ích kinh tế trong tương lai. 1.6.2.5. Tạo lòng tin người dân vào Chính Phủ : Đẩy mạnh công tác quản lý giá thị trường, xây dựng các quỹ dự trự hàng hóa nhằm xuất dùng những lúc cần thiết, chống nạn đầu cơ lũng đoạn thị trường tạo tâm lý tốt cho người dân về các biện pháp của nhà nước cũng là yếu tố quan trọng chống nạn lạm phát cao. 1.7. Hiện tượng giảm phát : Theo phương trình của Fisher M.V = P.Y, giảm phát là hiện tượng xảy ra khi vì lý do nào đó mà M trong lưu thông giảm xuống kéo theo P giảm. Trong đó có khả năng gây nên tình trạng phá sản các doanh nghiệp, thất nghiệp tràn lan, nhu cầu tiêu dùng giảm xuống. Còn theo J.M.Kernes thì giảm phát là hiện tượng khi nhà nước bơm thêm tiền vào lưu thông mà giá cả hàng hóa không tăng lên. * Biểu hiện của giảm phát: + Giá các mặt hàng liên tục giảm, GDP tăng trưởng âm. + Ngân hàng thương mại khó khăn trong cho vay, lãi suất huy động tiết kiệm thấp khiến người dân không muốn gửi tiền ngân hàng, các nhà đầu tư thì cân nhắc kĩ khi vay tiền ngân hàng vì lãi suất thực tế cao hơn nhiều lãi suất danh nghĩa khiến dòng tiền trong lưu thông bị tắt nghẽn, ứ đọng lượng cung tiền trong ngân hàng. + Lạm phát thấp khiến tiền công của công nhân cao hơn, họ sẽ giảm cung sản xuất và dùng nhiều thời gian để nghỉ ngơi hơn, do giá của nhiều mặt hàng xuống thấp các doanh nghiệp không muốn đầu tư sản xuất, hoạt động sản xuất trong nền kinh tế trở nên chậm chạp không sôi động. Giảm phát là hiện tượng kinh tế ngược với lạm phát và có ảnh hưởng xấu đến nền kinh tế nếu chúng ta không biết cách khắc phục. * Nguyên nhân của giảm phát: + Việc chính phủ đề ra các biện pháp chống lạm phát quá liều, biện phát thắt chặt tiền tệ quá mức, giảm chi tiêu triệt để khiến lượng cầu giảm xuống nhanh, các ngành kinh tế thiếu vốn trong sản xuất khiến sản xuất kém linh động, nhu cầu nguyên liệu đầu vào giảm làm giá giảm nhanh. + Các biện pháp phòng lạm phát xảy ra quá cứng nhắc, điều hành quản lý giá các mặt hàng một cách cứng nhắc không tuân theo quy luật thị trường khiến nhà sản xuất không muốn đầu tư. + Do kì vọng của dân chúng, doanh nghiệp là giá cả trong tương lai và giảm cầu trong hiện tại khiến giá cả giảm nhanh. + Sai lầm trong điều hành chính sách kinh tế vĩ mô của chính phủ. * Hậu quả: Giảm phát có tác động mạnh đến tình hình kinh tế trong nước không kém lạm phát. + Do nhu cầu giảm xuống nên khiến sản xuất bị đình trệ, doanh nghiệp không muốn đầu tư gia tăng sản xuất gây lãng phí nguồn tài nguyên, tình trạng xuất khẩu suy giảm do các nước trên thế giới giảm cầu. + Tình hình sản xuất trong nước ảm đạm do nhu cầu tiêu thụ hàng hóa suy giảm, giá cả giảm xuống, nhiều doanh nghiệp phải đóng cửa, tình trạng sản xuất bị đình đống gây nguy hại đến nền kinh tế trong nước CHƯƠNG 2 : THỰC TRẠNG LẠM PHÁT VIỆT NAM TRONG GIAI ĐOẠN 2005 – ĐẾN NAY 2.1. Thực trạng : Kể từ khi giải phóng thông nhất đất nước đến nay, Việt Nam đã trải qua những cuộc khủng hoảng kinh tế trầm trọng, lạm phát tăng cao như giai đoạn 1976 – 1990 đạt mức đỉnh điểm vào năm 1987 với mức tăng 700%-1000%, đồng tiền mức giá trầm trọng, đời sống nhân dân lâm vào cảnh khó khăn. Nhằm xoay chuyển tình thế Việt Nam thực hiện nhiều biện pháp trong chính sách tài khóa và tiền tệ và đã đưa giúp lạm phát ở Việt Nam giảm xuống chỉ còn 5,3% năm 1993. Tuy vậy, do ảnh hưởng của cuộc khủng hoảng kinh tế toàn cầu, tác động của cú sốc về giá năm 2007 và cuộc khủng hoảng kinh tế toàn cầu bắt đầu năm 2008 đã làm chỉ số lạm phát Việt Nam đang có những diễn biến phức tạp với mức tăng 2 con số trở thành nỗi lo đối với các nhà làm chính sách trong việc điều hành nền kinh tế vĩ mô. 2.1.1. Giai đoạn 2005 – 2008 : Bảng 1 : CPI qua các năm 2006 , 2007 , 2008 Như được "tiếp sức" từ năm 2007, lạm phát tại Việt Nam bùng phát mạnh đạt mức tăng cao kỉ lục với mức tăng đến 22,97% vào năm 2008 do ảnh hưởng cuộc cơn bão giá đầu năm 2008 và cuộc khủng hoảng kinh tế toàn cầu gây ra mối nguy lớn cho tình hình kinh tế - xã hội của đất nước. Nhìn vào biểu đồ CPI trên hình ta nhận thấy có những điểm đáng lưu ý trong chỉ số CPI của năm 2008. Thứ nhất: Đây là năm tăng giá CPI cao nhất từ năm 2000 đến nay với mức tăng 2 con số , có 2 tháng đạt mức tăng cao kỉ lục 3,91% vào tháng 5 và 3,56% vào tháng 2. Thứ hai: Ngoài mức tăng cao kỉ lục vào tháng 5 (3,91%), khoảng cách tăng giữa tháng cao nhất và tháng thấp nhất cũng rất lớn đạt gần 5% ( so sánh giữa mức tăng 3,91% và mức tăng -0,76%). Thứ ba: Biểu đồ lạm phát năm 2008 rất đặc biệt khác xa so với đa số cùng kì nhiều năm trước như năm 2006, 2007 lạm phát thường có xu hướng tăng cao vào những tháng đầu năm (trùng dịp tết Nguyên Đán) sau đó trở lại bình thường rồi lại tiếp tục tăng cao vào những tháng cuối năm nhưng trong năm 2008 diễn biến lại thay đổi, tháng tăng cao nhất không nằm ở đầu năm hay cuối năm mà lại nằm vào tháng giữa năm (tháng 5 với mức tăng 3,91%) do ảnh hưởng của cú sốc dầu mỏ tăng mạnh từ giữa năm 2007 và đạt đỉnh vào ngày 11/7/2008 với mức 147 USD/thùng làm giá xăng trong nước tăng cao từ mức 13000 đồng/lít cuối tháng 2 năm 2008 "vọt" lên mức 19000 đồng/lít vào giữa tháng 7/2008 cộng thêm tại thời điểm đó giá gạo thế giới tăng cao đạt mức 1005 USD/ tấn, giá các loại ngũ cốc trên thị trường thế giới tăng mạnh trở thành mối đe dọa an ninh lương thực toàn cầu, giá gạo xuất khẩu của Việt Nam lần lượt tăng 23,6%: 40,4% và 26,7% trong 3 tháng từ tháng 4 đến tháng 6 năm 2008. Ngay cả đối với cường quốc xuất khẩu gạo như Việt Nam,việc thiếu thông tin thị trường đã gây tâm lý hoang mang cho người dân tạo thời cơ thuận lợi cho nạn đầu cơ trục lợi hoành hành còn các cơ quan chức năng lại dự báo sai tình hình thế giới nên yêu cầu các doanh nghiệp ngừng xuất khẩu gạo dù giá thế giới đang cao, giá phôi thép tăng cao đạt 1150 – 1200 USD/tấn đẩy giá trong nước tăng đến 19-20 triệu đồng một tấn, giá xi măng đạt 80000đồng – 90000đồng/1 bao, nhập siêu nửa đầu năm 2008 đã cao hơn mức nhập siêu của cả năm 2007. * Tình hình tỷ giá hối đoái Việt Nam cũng diễn biến rất phức tạp : - Trong 3 tháng đầu năm 2008, tỷ giá VND/USD trên thị trường liên ngân hàng liên tục sụt giảm (từ mức 16.112 VND có thời điểm xuống mức thấp là 15.560 VND). Trên thị trường tự do, tỷ giá VND/USD dao động mức 15.700 – 16.000 VND/USD. Nguyên nhân là do đây là giai đoạn gần tết Dương lịch, lượng kiều hối đổ về khá lớn, bên cạnh đó kì vọng VND sẽ tăng giá so với USD, chênh lệch giữa lãi suất VND và USD cũng khiến giới đầu tư tập trung bán ngoại tệ đổi lấy tiền đồng cộng thêm việc ngân hàng nhà nước không mua ngoại tệ nhằm kiềm chế lượng tiền trong lưu thông, hạn chế bơm tiền ra bên ngoài phục vụ mục tiêu kiềm chế lạm phát. - Trong giữa tháng 3 đến giữa tháng 7/2008, tỷ giá tăng dần đều và tăng vọt vào giữa tháng 6/ năm 2008, đỉnh điểm lên đến 19.400 VND vào ngày 18/6/2008. Tâm lý hoang mang, cộng thêm tình trạng đầu cơ, găm giữ ngoại tệ cũng khiến tỷ giá tăng cao. - Từ nửa cuối tháng 7/2008: tỷ giá giảm và dần đi vào ổn định. Nhờ có sự can thiệp kịp thời của ngân hàng nhà nước nên tỷ giá đã được bình ổn giảm từ 19.400 đồng xuống còn 16.400 đồng và giao dịch quanh mức 16.600 VND trong giai đoạn từ tháng 8 đến tháng 11/2008. Với diễn biến như vậy, tỷ giá hối đoái đã gây ra tình trạng hoang mang trong dân chúng khiến giới đầu cơ có cơ hội trục lợi tăng giá các mặt hàng làm tình hình lạm phát càng biến động theo chiều hướng xấu ảnh hưởng đến đời sống kinh tế - xã hội của người dân. Bảng 2 : Hệ số ICOR của Việt Nam và một số quốc gia Châu Á Dù đang tăng trưởng cao nhưng khả năng sử dụng nguồn vốn của Việt Nam lại rất thấp, hiệu quả đầu tư không cao bằng chứng là hệ số ICOR tăng qua các năm (năm 2005 là 4,6, năm 2006 là 5,01, năm 2007 là 5,2, năm 2008 là 6,66). Nền kinh tế Việt Nam đang mấp mế bờ vực khủng hoảng với những bong bóng kinh tế chực chờ nổ tung trên thị trường tiền tệ, thị trường tín dụng ngân hàng, thị trường bất động sản. Chỉ số CPI tăng cao trên mức 2 con số ảnh hưởng xấu đến đời sống kinh tế xã hội của người dân. 2.1.2. Giai đoạn 2009 – đến nay : Nhờ chính phủ đã thực hiện nhiều biện pháp nhằm khắc phục tình hình lạm phát nên đến năm 2009 tỉ lệ lạm phát đã giảm còn 6,88%. Tình hình giá cả trong năm 2009 được giữ khá ổn định. Chỉ số giá tiêu dùng bình quân năm 2009 tăng 6,88% so với bình quân năm 2008, là mức thấp nhất trong 6 năm trở lại đây.Chỉ số giá vàng tháng 12/2009 tăng 10,49% so với tháng trước; tăng 64,32% so với cùng kỳ năm 2008. Chỉ số giá đô la Mỹ tháng 12/2009 tăng 3,19% so với tháng trước; tăng 10,7% so với cùng kỳ năm 2008. Trong bối cảnh khủng hoảng tài chính toàn cầu, nền kinh tế nước ta vừa đạt mức tăng trưởng tương đối khá, vừa duy trì được mức độ lạm phát không cao, đây là thành công lớn trong chỉ đạo, điều hành kinh tế vĩ mô. Bảng 3 : Diễn biến chỉ số CPI theo tháng giai đoạn 2008 – 2010 Nguồn : Tổng cục thống kê Nguyên nhân chỉ số CPI tăng mạnh trong năm 2010 là tổng hòa của các nhân tố như thiên tai, giá cả hàng hóa thế giới tăng, tiền đồng bị mất giá, thâm hụt ngân sách kéo dài, nhập siêu cao..., nhưng nguyên nhân sâu xa có thể tìm thấy trong việc lựa chọn thứ tự ưu tiên các mục tiêu phát triển kinh tế. Đối với nhiều nước đang phát triển như Việt Nam thì tăng trưởng vẫn là ưu tiên số một. Do vậy, suốt một thời gian dài, Việt Nam đã chấp nhận lạm phát cao để theo đuổi mục tiêu tăng trưởng kinh tế với chính sách tiền tệ và tài khóa về cơ bản là nới lỏng. Thành tựu tăng trưởng kinh tế những năm qua là điều đáng ghi nhận, song lạm phát cao, kéo dài so với nhiều nước trong khu vực là một bất ổn, ảnh hưởng đến tăng trưởng bền vững của nền kinh tế. Nhờ gói kích cầu của chính phủ nhằm chống suy giảm kinh tế đưa ra ngày 12/5/2009 trị giá 8 tỷ đô la (khoảng 143.000 tỷ đồng) nền kinh tế Việt Nam đã dần bước qua giai đoạn khủng hoảng với việc phục hồi một số ngành sản xuất quan trọng (giá trị sản xuất công nghiệp tăng 13,7%, kim ngạch xuất khẩu tăng 23,3% , nhìn chung hầu hết các lĩnh vực sản xuất trong nền kinh tế trong 10 tháng đầu năm 2010 đều tăng so với cùng kì năm 2009).Nhưng vấn đề lo ngại nhất trong năm 2010 là vấn đề lạm phát. Bảng 4 : Chỉ số giá tiêu dùng đầu năm 2010 đến tháng 2 – 2011 Bảng 5 : CHỈ SỐ CPI THÁNG 2 QUA CÁC NĂM Nguồn : Tổng cục thống kê Trong 10 năm gần nhất, chỉ số giá tiêu dùng tháng 2 đã có 8 năm vượt mức tăng 2% và tháng 2 năm nay cũng đạt mức tăng thấp nhất trong 8 năm vừa nêu.Tuy nhiên, so sánh trong ngắn hạn, CPI tháng 2/2011 đã tăng cao hơn mức của khoảng hơn 30 tháng liền trước.So với tháng 12/2010, chỉ số giá tiêu dùng tháng này đã tăng 3,87%; so với cùng kỳ tăng 12,31%. CPI bình quân 2 tháng đầu năm 2011 so với cùng kỳ đã tăng 12,24%.Luôn là nguyên nhân tiêu dùng tăng tháng Tết dẫn đến chỉ số giá tăng cao. Các mức “định lượng” được công bố gần đây về tổng cầu, mức độ mua sắm của khu vực dân cư… cũng cho thấy điều này.132 nghìn tỷ đồng hỗ trợ thanh khoản hệ thống ngân hàng thương mại; tổng tiền gửi giảm trong khi tín dụng tăng trên dưới 3% hai tháng liên tiếp trước Tết Nguyên đán; kiều hối về nhiều; thưởng Tết cao hơn năm ngoái… rõ ràng đã tạo ra tổng cầu lớn trong tháng 2.Bộ Tài chính ước tính tổng mức bán lẻ hàng hóa, doanh thu dịch vụ tiêu dùng thiết yếu đã tăng khoảng 20-25% so với năm ngoài trong khoảng thời gian trước Tết Nguyên đán vừa qua. Trong khi đó, chi phí đầu vào sản xuất tăng trong tháng qua, dưới sự tác động của nhiều nguyên nhân. Về phía chi phí đầu vào sản xuất là lương, thưởng, đều tăng hơn cùng với giá nguyên, nhiên, vật liệu nhập khẩu chênh lên so với trước.Với chi phí vốn, việc tăng lãi suất cho thấy tác động rõ ràng, trong khi tỷ giá thay đổi vừa áp đặt mức chi phí mới cho sản xuất, vừa khiến cho khoản trích lập dự phòng có thể đã phình to hơn ở một số doanh nghiệp…Sản xuất nông nghiệp cũng vướng giai đoạn khó khăn về thời tiết, đặc biệt là ở miền Bắc. Gia súc chết, rau quả giảm tăng trưởng… cũng khiến nguồn cung bị ảnh hưởng trong tháng vừa qua. Nguyên nhân này có thể đã gây ra thiếu hàng hóa ở một số nơi, một vài thời điểm.Với rất nhiều yếu tố tác động đến tăng giá như vừa nêu, trên thị trường người bán “đo” túi tiền người mua để ra giá. Biến động mạnh của giá cả trong khoảng thời gian trước và sau Tết Nguyên đán cho thấy điều này, nếu nhìn vào các mặt hàng thịt gia súc gia cầm, rau xanh, dầu ăn, bánh mứt kẹo, đường, sữa... Điểm lại các nhóm hàng hóa, dịch vụ tiêu dùng chính, CPI tháng 2 có sự đóng góp lớn của nhóm hàng ăn và dịch vụ ăn uống khi nhóm này tăng tới 3,65%. Trong con số này, CPI lương thực tăng 1,51%; thực phẩm tăng mạnh 4,53%; ăn uống ngoài gia đình tăng 3,31%. Cũng do nhu cầu tiều dùng lớn trong dịp Tết, CPI nhóm đồ uống thuốc lá tháng này đã tăng 2,14%; may mặc, mũ nón, giày dép tăng 1,38%; giao thông tăng 1,01% (do tăng giá vé của nhiều loại hình vận tải); nhà ở và vật liệu xây dựng tăng 0,83% (do tiêu dùng điện, nước tăng trong khi giá xi măng, thép… cũng đã cao hơn trước); thiết bị và đồ dùng gia đình tăng 0,64%...Chỉ số giá USD tháng này đã tăng 0,94% so với tháng trước. Ngược lại, chỉ số giá vàng giảm 0,35%. Bảng 6 : Chỉ số giá tiêu dùng cả nước tháng 1 – 2011 : MÃ SỐ CHỈ SỐ GIÁ THÁNG 01 NĂM 2011 SO VỚI Kỳ gốc năm 2009 Tháng 1 năm 2010 Tháng 12 năm 2010 CHỈ SỐ GIÁ TIÊU DÙNG C 118,63 112,09 101,86 I. Hàng ăn và dịch vụ ăn uống 01 123,19 116,30 102,61 1- Lương thực 011 129,31 115,27 102,42 2- Thực phẩm 012 121,99 117,46 102,84 3- Ăn uống ngoài gia đình 013 119,26 112,87 101,91 II. Đồ uống và thuốc lá 02 115,94 110,08 101,72 III. May mặc, mũ nón, giầy dép 03 114,37 108,56 101,88 IV. Nhà ở và vật liệu xây dựng (*) 04 124,34 113,63 101,11 V. Thiết bị và đồ dùng gia đình 05 109,91 106,84 100,84 VI. Thuốc và dịch vụ y tế 06 105,55 104,30 100,38 VII. Giao thông 07 115,31 103,80 100,74 VIII. Bưu chính viễn thông 08 90,73 94,18 99,92 IX. Giáo dục 09 131,97 124,81 103,88 X. Văn hoá, giải trí và du lịch 10 105,62 103,51 100,65 XI. Hàng hoá và dịch vụ khác 11 117,77 109,54 101,02 (*) Nhóm này bao gồm: tiền thuê nhà ở, điện, nước, chất đốt và vật liệu xây dựng 2.2. Nguyên nhân lạm phát ở Việt Nam : 2.2.1. Nguyên nhân khách quan : 2.2.1.1. Sự gia tăng đột biến giá các mặt hàng thiết yếu trên toàn cầu : Việt Nam hiện nay vẫn là một nước nhập siêu với khối lượng hàng hóa cần nhập lớn lại chủ yếu là các nguồn nguyên liệu, vật liệu chính cho nền sản xuất trong nước vì thế khi giá cả thế giới tăng vọt (chỉ trong năm 2008 giá dầu đã tăng đến 72% đạt mức đỉnh 147,27 đô la vào tháng 7 năm 2008, sắt thép tăng 114%, phân bón tăng 59,6%) đã kéo theo giá lương thực thế giới tăng cao. Dù Việt Nam là nước xuất khẩu gạo đứng nhì thế giới nhưng với giá gạo tăng cao như vậy, tình trạng thu mua gạo đã xảy ra khiến giá gạo trong nước cũng tăng theo gây khó khăn cho đến đời sống của người dân và hoạt động sản xuất trong nước bị đình đốn do giá các nguyên vật liệu tăng quá cao. 2.2.1.2. Do cuộc khủng hoảng kinh tế toàn cầu : Bắt đầu từ năm 2007, hàng loạt ngân hàng tại Mỹ và nhiều nước trên thế giới buộc phải phá sản do ảnh hưởng từ cuộc khủng hoảng tín dụng thứ cấp tại Mỹ buộc Cục dự trữ Liên Bang Mỹ FED và các ngân hàng trung ương của những nền kinh tế chủ chốt trên thế giới phải áp dụng một số biện pháp như giảm lãi suất cơ bản, mở rộng tính lưu động của đô la, thả lỏng để đồng đô la mất giá khiến giá các mặt hàng tăng cao, lạm phát từ Mỹ đã lan ra khắp toàn bộ nền kinh tế thế giới trong đó có Việt Nam. Không những thế khủng hoảng toàn cầu khiến đầu tư của nước ngoài vào Việt Nam bị giảm sút gây ảnh hưởng đến các tiến độ dự án đầu tư dự định triển khai, và một khi nguồn vốn đầu tư nước ngoài giảm xuống sẽ làm lượng cung ngoại tệ giảm xuống khiến đồng nội tệ giảm xuống khiến tình trạng lạm phát tại Việt Nam càng thêm trầm trọng 2.2.2. Nguyên nhân chủ quan : 2.2.2.1 Chính sách tiền tệ chưa linh động : Nguyên nhân trực tiếp gây ra nạn lạm phát Việt Nam chính là do hiện tượng cung ứng tiền tệ quá nhiều khiến quá thừa lượng lưu thông tiền tệ. Từ năm 2005 tổng lượng phương tiện thanh toán tăng nhanh (năm 2005 là 29,7%, năm 2006 là 33,6%, 2007 là 46,1%, 2008 là 16,3%, 2009 là 26%), số ngân hàng thành lập mới nhiều, giá nhà đất tăng cao, khoản tiền cho vay nhà đất tăng trên 35%, đồng nội tệ sụt giá so với ngoại tệ là những điều kiện cho lạm phát bùng nổ vào năm 2008. Bảng 7: Mối quan hệ giữa tăng trưởng tín dụng và lạm phát Nguồn : Tổng cục thống kê 2.2.2.2. Chính sách tài khóa chưa hiệu quả : Chính sách tài khóa chưa thực sự hiệu quả chính là nhân tố quan trọng đẩy lạm phát tăng cao. Việc chi tiêu công dàn trải không đúng mục tiêu trọng điểm, tình trạng tham nhũng, "rút ruột" công trình khiến việc đầu tư kém hiệu quả gây thất thoát lãng phí lớn cho nhà nước. Bộ máy chính quyền còn nặng nề, quan liêu thiếu tính hiệu quả, các tập đoàn kinh tế nhà nước chưa phát huy hết vai trò thúc đẩy nền kinh tế phát triển mà còn gây thiệt hại nhiều tỷ đồng của ngân sách nhà nước (như vụ sập đổ tập đoàn Vinashin trong năm 2010) làm mức thâm hụt ngân sách lớn (năm 2007 là 5,5% GDP, 2008 là 4,9%, 2009 là 7%), mức nhập siêu của Việt Nam vẫn còn cao đang khiến lạm phát ngày càng diễn biến xấu cho nền kinh tế. 2.2.2.3. Sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế vẫn còn chậm: Viêt Nam hiện vẫn là một nước nông nghiệp với tỉ trọng nông nghiệp vẫn chiếm tỉ lệ cao trong nền kinh tế, xuất khẩu vẫn chủ yếu là các sản phẩm nông nghiệp, xuất thô khoáng sản, tỉ trọng công nghiệp vẫn chiếm tỉ lệ chưa cao, hàm lượng chất xám trong sản phẩm công nghiệp còn thấp khiến khả năng cạnh tranh của hàng Việt Nam là thấp so với các nước trong khu vực. Vì vẫn là một nước nông nghiệp nên Việt Nam chịu nhiều tác động của giá cả thế giới, đặc biệt xăng dầu, khi hóa lỏng, phân bón... nên khi giá cả thế giới có tăng cao thì giá các mặt hàng trong nước cũng tăng lên nhanh chóng gây khó khăn cho nền kinh tế. Chính do hàm lượng chất xám trong sản phẩm của doanh nghiệp Việt Nam chưa cao nên tình trạng nhập siêu của Việt Nam vẫn đang còn ở mức cao (các mặt hàng công nghệ thông tin, xăng … phải nhập từ nước ngoài) biểu hiện qua thâm hụt thương mại tăng dần qua các năm 2006 (-4,8 tỷ USD), 2007 (-12,4 tỷ USD), 2008 (-20,0 tỷ USD) và đặc biệt ta thấy cứ năm nào lạm phát cao thì mức thâm hụt càng cao như lạm phát cao năm 2008 thì mức thâm hụt thương mại cũng là 20%. Cán cân tài khoản vãng lai so với GDP cũng có chiều hướng đi xuống năm 2005 là 0,4% thì các năm tiếp theo đều ở mức âm 2007 là -9,0%, 2008 là -10,2% , 2009 l à -8.4% , 2010 l à -9.1%. V à c ần phải đổi mới nền sản xuất, chuyển dich cơ cấu ngành nghề nhanh hơn nữa thì Việt Nam mới có thể giảm được lạm phát. Bảng 8 : Cán cân thương mại , cán cân vãng lai , cán cân thanh toán giai đoạn 2000 – 2010 ( Nguồn : Tổng cục thống kê ) 2.2.2.4. Do cầu kéo : Do đầu tư mở rộng của các xí nghiệp, các khoản chi tiêu đầu tư của chính phủ, thu nhập gia tăng của người dân nhu cầu về nguồn nguyên liệu, công nghệ tăng cao làm giá các mặt hàng tăng cao. Điển hình là nhu cầu về lương thực tăng cao trên thế giới vào cuối năm 2007 đầu năm 2008 làm giá xuất khẩu tăng theo kéo theo cầu về lương thực trong nước tăng mà nguồn cung thiếu do thiên tai, dịch bệnh. 2.2.2.5. Do chi phí đẩy : Ảnh hưởng từ cuộc tăng giá mạnh các mặt hàng trên thế giới từ cuối năm 2007 đến đầu năm 2008 (xăng, thép, xi măng, lương thực...) đã thiết lập mặt băng giá mới nên dù có giảm vào cuối năm 2008 đầu năm 2009 nhưng vẫn ở mức khá cao cộng thêm sự phục hồi của một số nền kinh tế mới nổi khiến giá các mặt hàng nguyên vật liệu chủ chốt như xăng dầu, phân bón… hiện nay tăng cao cộng thêm việc điều chỉnh tăng giá điện, giá xăng dầu, giá bán than theo cơ chế thị trường và do một số nguyên nhân khác như tăng tỷ giá thuế suất các mặt hàng lamg giá cả hàng hóa tăng lên. 2.2.2.6. Ảnh h ư ởng c ủa thi ên tai : Việt Nam là một trong những nước chịu ảnh hưởng nhiều nhất do biến đổi khí hậu toàn cầu nên tình trạng lụt bão xảy ra thường xuyên hơn (trận lụt lịch sử tại miền trung vào tháng 10 năm 2010, bão Xangsen), dich bệnh trên hoa màu bùng phát ở nhiều nơi (dịch rầy nâu...) khiến cung của các mặt hàng trọng yếu bị giảm sút, tăng chi tiêu công để cứu trợ lũ lụt cũng khiến giá cả leo thang. 2.2.2.7. Do y ếu t ố t âm l ý : Ngoài các nguyên nhân như trên thì yếu tố tâm lý cũng là yếu tố quan trọng đẩy lạm phát đi xa hơn mức lạm phát do các yếu tố như trên gây ra. Tâm lý đám đông diễn ra trong tình trạng lạm phát là một bài toán khó cho chính phủ. Tâm lý hoang mang của người dân, lạm phát kì vọng cao cùng với tin đồn về sự khan hiếm nguồn hàng... cũng làm giá cả tăng cao. Áp lực lạm phát khiến nạn đầu cơ tích trữ có cơ hội bùng phát càng làm thị trường trở nên rối loạn. Những cơn sốt tâm lý trước việc giá cả tăng cao, kì vọng tiền đồng sẽ mất giá, giá vàng tăng cao, lạm phát sẽ tăng nhanh trong tương lai... là những điều kiện khiến người dân chuyển sang mua các kim loại quý, ngoại tệ... thay vì dùng tiền đó để đầu tư sản xuất hay gửi tiết kiệm làm lượng tiền trong lưu thông nhiều hơn và đẩy lạm phát lên cao hơn. 2.2.2.8. Do công tác quản lý giá cả thị trường còn tồn tại nhiều hạn chế Việc quản lý giá, công tác thanh kiểm tra thị trường vẫn chưa được quan tâm sát sao, chặt chẽ, những quy định ban hành của chính phủ về quản lý các mặt hàng chưa thực sự mang lại hiệu quả khiến các chủ doanh nghiệp có thể "làch luật" tăng giá liên tục các mặt hàng, điển hình như những đợt tăng giá thuốc, giá sữa ngoại nhập trong thời gian vừa qua của các đơn vị đầu mối đã khiến tình hình thị trường thật sự nhiễu động gây ảnh hưởng xấu đến đời sống người dân. 2.3. Biện pháp khắc phục : 2.3.1. Biện pháp ngắn hạn : 2.3.1.1. Chính sách tiền tệ : Ngân hàng nhà nước với chức năng và nhiệm của mình cần điều hành chính sách tiền tệ theo hướng chủ động, linh hoạt, đảm bảo tăng trưởng hợp lý tổng phương tiện thanh toán, tổng mức tín dụng nhằm mục tiêu phát triển sản xuất, cung ứng đủ vốn cho doanh nghiệp trong giai đoạn cuối của năm. Kiểm soát, quản lý chặt chẽ lượng tín dụng trong các ngân hàng thương mại nhằm đảm bảo an toàn hệ thống tín dụng ngân hàng, ngân hàng trung ương cùng với các ngân hàng thương mại thực hiện các biện pháp nhằm đưa nhanh lượng tiền ra khỏi lưu thông giúp kiềm chế lạm phát. Ngoài ra, việc kiểm soát chặt chẽ lượng tiền nóng đổ vào thị trường qua các kênh như chứng khoán, nhà đất nhằm đảm bảo sự ổn định tỷ giá ngoại tệ, theo dõi sát sao các diễn biến về giá vàng trong và ngoài nước nhằm tránh tình trạng lên quá cao gây tâm lý không tốt về tình hình lạm phát của quốc gia (vàng được xem là kênh đầu tư an toàn trong thời buổi lạm phát cao, giá vàng quá cao thì người dân sẽ nghĩ lạm phát đất nước đang có xu hướng tăng cao). 2.3.1.2. Chính sách tài khóa : Thực hiện đồng bộ các giải pháp như thắt chặt chi tiêu chính phủ, kiểm soát đầu tư công, quản lý chặt chẽ nguồn vốn sử dụng của các doanh nghiệp nhà nước, cắt giảm chi phí hành chính, thực hành tiết kiệm, chống lãng phí, kiên quyết cắt bỏ các dự án chưa hiệu quả, thời gian xây dựng dài mà tập trung vốn, đẩy nhanh tiến độ cho các dự án trọng điểm, các công trình sản xuất tạo ra nhiều hàng hóa thuộc mọi thành phần kinh tế xã hội, cố gắng giảm thâm hụt ngân sách xuống mức thấp. Rà soát lại các dự án đầu tư của nhà nước tại địa phương.Trước khi đầu tư phải có quy hoạch tổng thể rõ ràng về các hạng mục cần đầu tư (cần xây bao nhiêu con đường, bao nhiêu sân bay, cảng biển, diện tích bao nhiêu) tránh tình trạng trùng lặp, thiếu trước hụt sau trong các công trình đầu tư. Việc đầu tư không hiệu quả có thể chưa đưa đến hậu quả ngay nhưng sau 1 thời gian việc đầu tư kém hiệu quả sẽ gây ra các tác động xấu cho nền kinh tế khiến lạm phát tăng cao. Kiên quyết trong việc không bù lỗ giá xăng dầu, số tiền nhờ không bù lỗ sẽ tập trung hỗ trợ cho các vùng nghèo khó khăn, hỗ trợ cho các ngành dễ tác động của tốc độ gia tăng giá cả (hỗ trợ xăng dầu cho ngư dân, hỗ trợ dầu hỏa cho đồng bào vùng cao), mở rộng việc thực hiện các chương trình an sinh xã hội (hỗ trợ mua thẻ bảo hiểm y tế với người nghèo, tăng mức trợ cấp cho người về hưu, người có công với cách mạng,...) giúp hạn chế tác động xấu của lạm phát đến đời sống người dân. Tăng cường quản lý các hoạt động thu chi ngân sách, tăng cường tính hiệu quả của nguồn vốn nhà nước, có các biện pháp nhằm chống thất thu ngân sách, gian lận thuế, thực hành tiết kiệm chống lãng phí trong quản lý ngân sách. 2.3.1.3. Kiềm chế giá cả : Thực hiện các biện pháp bình ổn giá, xuất kho dự trữ nhằm tăng lượng cung hàng hóa trên thị trường, đẩy mạnh sản xuất, tăng cường phân phối hàng hóa đến các vùng sâu cùng xa, mở thêm nhiều trung tâm bán hàng bình ổn giá cho người dân, khuyến khích các doanh nghiệp sản xuất,bán lẻ tham gia vào việc bán hàng bình ổn giá (thông qua việc trợ cấp vốn vay, hỗ trợ lãi suất cho các doanh nghiệp bán hàng bình bình ổn giá), trợ giá cho người nông dân, quản lý chặt chẽ biến động giá trên thị trường nhằm ngăn chặn nạn đầu cơ tích trữ, kiên quyết xử lý các doanh nghiệp cố tình "găm" hàng chờ tăng giá, gây sốt giá ảo trong dân chúng thời gian vừa qua, giảm thuế nhập khẩu đối với các mặt hàng chiến lược như phôi thép, phân bón..., sử dụng linh hoạt các công cụ thuế, phí, lệ phí, quỹ bình ổn xăng dầu nhằm mục tiêu kiềm giữ giá cả, tránh không để lạm phát cao tái diễn. 2.3.1.4. Điều chỉnh tỷ giá hối đoái : Ngân hàng Nhà nước thực hiện kiểm soát ngoại hối kiên định. Việc này là quan trọng giúp cho quá trình điều hành chính sách tỷ giá được chủ động, minh bạch và có cơ sở để điều hành chính sách tỷ giá nhịp nhàng. Chẳng hạn, chúng tôi cho rằng việc điều chỉnh tỷ giá liên ngân hàng tăng 9% trong quý 1/2011 phản ánh đúng xu hướng của tỷ giá thực giữa VND và USD. Tuy nhiên mức độ điều chỉnh lớn đã gây ra một cú sốc với hàng hóa và nguyên liệu nhập khẩu và từ đó tạo tâm lý không tốt cho thị trường. Có lẽ, điều chỉnh tỷ giá linh hoạt làm nhiều lần với biên độ nhỏ và có định hướng rõ ràng sẽ thuận lợi hơn cho điều hành chính sách tiền tệ nói chung và tạo tâm lý tốt hơn cho thị trường. 2.3.1.5. Tạo tâm lý tốt cho người dân : Sử dụng các phương tiện thông tin đại chúng nhằm đưa những thông tin xác thực về tình hình chính sách của Đảng và Nhà Nước về chống lạm phát, công khai minh bạch trong cách tính các chỉ số như thâm hụt ngân sách, tình hình biến động giá cả trong và ngoài nước để tao sự đồng thuận trong nhân dân cũng như các doanh nghiệp, các cơ quan trong xã hội trong việc bình ổn giá cả, ngăn chặn lạm phát cao và thúc đẩy tăng trưởng kinh tế, quyết liệt ngăn chặn tình trạng tham nhũng, quan liêu trong bộ máy công quyền nhằm tránh tình trạng hoang mang, thiếu thông tin, tạo tâm lý tốt, tin tưởng vào chính sách của Đảng và Nhà Nước trong dân chúng. 2.3.2. Biện pháp dài hạn : 2.3.2.1. Chính sách tiền tệ : Thực hiện chiến lược lành mạnh hóa hoạt động ngân hàng, nâng cao hiệu quả của hệ thống tài chính ngân hàng, tăng trưởng tín dụng phải nhằm mục tiêu tăng trưởng kinh tế, chuyển dịch cơ cấu tín dụng theo hướng tập trung vốn sản xuất, xuất khẩu, phát triển nông nghiệp nông thôn, mở rộng cho vay đối với doanh nghiệp vừa và nhỏ, kiểm soát chặt chẽ lượng tín dụng cho vay, hạn chế các khoản nợ xấu đảm bảo tính thanh khoản cho thị trường, điều chỉnh tỉ giá hối đoái theo hướng mở rộng biên độ theo giá thị trường, chống tình trạng đô la hóa trên thị trường, sử dụng linh hoạt các công cụ điều tiết nền kinh tế thông qua chính sách tiền tệ (lãi suất chiết khấu, tỉ lệ dự trữ bắt buộc, công cụ thị trường mở,...) nhằm đảm bảo cung cấp đủ vốn để phát triển nhưng cũng giúp kiềm chế lạm phát,ngăn chặn sự sụp đổ ngân hàng trên thế giới vừa qua. 2.3.2.2. Chính sách tài khóa : Kiểm soát chặt chẽ các khoản đầu tư và chi tiêu công, đảm bảo chi tiêu phải tạo ra hiệu quả, kiên quyết xử lý các cá nhân, tổ chức có hành vi trục lợi trong việc sử dụng nguồn ngân sách nhà nước, khuyến khích xã hội hóa các công trình đầu tư xã hội. Hạn chế chi tiêu thường xuyên mà thay vào đó là tăng chi đầu tư phát triển bao gồm đầu tư hệ thống thông tin liên lac, bưu chính viễn thông, hệ thống khu công nghiệp tập trung, khu công nghệ cao, khu kinh tế mở, hệ thống cơ sở hạ tầng văn hóa – xã hội (như trường học, bệnh viện, khu vui chơi giải trí) vì các khoản chi tiêu này sẽ đem lại lợi ích kinh tế trong tương lai giúp chống lạm phát. Để thực hiện đầu tư công có hiệu quả cần nhanh chóng hoàn thiện hệ thống quy hoạch, tiến hành triển khai các dự án đầu tư công một cách có trọng điểm, thực hiện dứt điểm các dự án đầu tư, có cơ chế giám sát hiệu quả tránh tình trạng tiêu cực lãng phí trong xây dựng. Đẩy mạnh công tác quản lý thuế, xử lý nghiêm các trường hợp trốn thuế, nộp thuế chậm và chống thất thu từ thuế. Thực hiện đồng bộ các giải pháp trên sẽ giúp phát triển kinh tế và giảm nguy cơ lạm phát cao. 2.3.2.3. Điều chỉnh lại cơ cấu nền kinh tế : Chuyển dich cơ cấu nền kinh tế theo hướng giảm tỉ trọng trong nông nghiệp, tăng tỉ trọng trong công nghiệp và dịch vụ trong GDP của đất nước nhưng vẫn đảm bảo an toàn về năng lượng, lương thực và môi trường, tăng cường đầu tư phát triển khoa học công nghệ giúp tăng năng suất, sản lượng. Khuyến khích đầu tư vào các ngành công nghệ cao (điện tử, viễn thông, vật liệu mới...). Tiến hành xây dựng và đầu tư vào các lĩnh vực có chất lượng thay thế hàng nhập khẩu và tạo nguồn thu lớn cho quốc gia như (hóa dầu, xi măng, phôi thép...), hỗ trợ vốn cho các dự án luyện kim, hóa chất nhằm tránh tình trạng xuất khẩu thô khoáng sản tăng thu cho ngân sách nhà nước, giảm thâm hụt và nhập siêu như hiện nay. Hoàn thiện và phát triển mô hình kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Tăng cường thu hút nâng cao hiệu quả đầu tư, thúc đẩy nhập khẩu, chuyển giao công nghệ để nâng cao năng lực sản xuất và khả năng cạnh tranh trong tương lai. Đặc biệt tận dụng ưu thế sân nhà, khuyến khích sản xuất, tiêu dùng hàng nội địa, nhất là thực phẩm đồ uống, hàng dệt may, thuốc chữa bệnh, ưu tiên hỗ trợ ngành hàng sản xuất có lợi thế thay thế hàng nhập khẩu, sử dụng nguyên liệu trong nước, đẩy mạnh chương trình xúc tiến thương mại không chỉ vậy mà các doanh nghiệp nước ta cần mở rộng thị trường xuất khẩu hàng hóa, dịch vụ đến những thị trường tiềm năng, những mặt hàng Việt Nam có thế mạnh với giá cả hợp lý. 2.3.2.4. Tăng cường công tác quản lý giá và bình ổn thị trường : Tăng cường công tác quản lý thị trường, kiểm soát giá cả chặt chẽ. Kiên quyết không để tình trạng lạm dụng các biến động trên thị trường để tăng giá, đầu cơ nhất là các mặt hàng có tính chất nhạy cảm như sắt, thép, xăng dầu, thực phẩm ngăn chặn tình trạng buôn lậu qua biên giới như xăng dầu, khoáng sản..., thực hiện niêm yết giá với các mặt hàng nhạy cảm như sữa ngoại, thuốc chữa bệnh,theo dõi sát tình hình biến động giá thế giới để có đối sách phù hợp đối với hàng hóa trong nước. Điều chỉnh giá các mặt hàng thiết yếu như điện, xăng dầu theo cơ chế thị trường nhưng có sự điều tiết nhà nước tránh hiện tượng tăng giá đột ngột gây cú sốc về chi phí với người dân và doanh nghiệp, xây dựng các quỹ bình ổn nhằm đối phó với tình hình biến động thị trường (quỹ bình ổn giá xăng dầu, cửa hàng bán hàng bình ổn giá...). 2.3.2.5.Cải cách giáo dục–đào tạo, phát triển nguồn nhân lực cho đất nước : Một nền kinh tế vững mạnh không thể nào thiếu yếu tố con người. Yếu tố con người đóng vai trò quyết định trong các quyết sách, năng lực cạnh tranh của đất nước trong bối cảnh đang hội nhập sâu rộng trong nền kinh tế toàn cầu. Việc cải cách giáo dục cần chú trọng vào áp dụng thực tiễn vào giáo dục, đưa ra các chính sách phù hợp nhằm nâng cao công tác đào tạo, tăng cường đầu tư trang thiết bị vào trường học, đào tạo sắp xếp nguồn nhân lực một cách hợp lý, có chính sách đãi ngộ xứng đáng với nhân tài, giáo dục phải gắng liền với thị trường lao động, phát triển nhân lực trong các ngành cần nguồn chất xám cao như (công nghệ thông tin, hóa chất, công nghệ mới...). Trong lạm phát nếu đầu tư cho giáo dục đúng hướng không chỉ góp phần giảm lạm phát trong tương lai mà còn nâng cao năng lực cạnh tranh của đất nước. Đây là một trong những biện pháp dùng lạm phát chống lạm phát chúng ta cần thực hiện. 2.3.2.6.Tăng cường xây dựng niềm tin của người dân vào Đảng và Nhà nước : Xây dựng niềm tin của người dân vào chính sách của Đảng và Nhà nước là điều hết sức quan trọng trong điều hành nền kinh tế vĩ mô. Đi đôi với tuyên truyền chính phủ cần đẩy mạnh công tác đấu tranh phòng chống tham nhũng, hối lộ nhằm xây dựng bộ máy chính quyền hiệu quả hơn tránh tình trạng quan liêu, cửa quyền, nhũng nhiễu gây phiền hà cho người dân, khuyến khích phát triển đối với doanh nghiệp đầu tư nhân, xây dựng thể chế đồng bộ và nhất quán, kiên quyết loại bỏ cơ chế xin – cho, đối xử công bằng với các loại hình doanh nghiệp thực hiện tốt các chính sách an sinh xã hội như khám chữa bệnh miễn phí cho trẻ dưới 6 tuổi, chính sách hỗ trợ người dân nghèo, người đồng bào dân tộc thiểu số, các xã vùng sâu vùng xa, khó khăn trong đời sống, thực hiện tốt các chính sách đối với người cao tuổi, chủ động xây dựng phương án cứu trợ cho những người bị rủi ro, hoạn nạn, kiểm soát chặt chẽ các chương trình dự án phục vụ lợi ích người dân tránh tình trạng "bớt xén" các công trình xây dựng gây tình trạng thất thoát lãng phí, không đem lại hiệu quả cho người dân. Chương 3 : Dự báo về tình hình lạm phát Việt Nam trong thời gian tới 3.1. Dự báo của các tổ chức quốc tế về tình hình kinh tế Thế Giới 2011 : Theo báo cáo của các tổ chức tài chính và xếp hạng quốc tế, kinh tế thế giới năm 2010 phục hồi chậm chập và có nhiều dấu hiệu cho thấy tốc độ tăng trưởng trong hai năm tới sẽ yếu đi, lạm phát tăng cao do giá lương thực và nguyên liệu đầu vào tăng cao và lượng tiền cung ứng quá mức. Một số nền kinh tế chủ chốt tiếp tục gặp khó khăn về nợ nần nên nhu cầu còn yếu ớt và chưa khuyến khích các nhà đầu tư đẩy mạnh hoạt động sản xuất. Đáng chú ý, tỉ lệ thất nghiệp cao, các chính sách thắt chặt tài chính, tinh thần hợp tác của các nền kinh tế lớn đang giảm và nguy cơ chiến tranh tiền tệ là những yếu tố đe dọa quá trình phục hồi kinh tế. Theo dự báo của IMF trong ấn phẩm World Economic Outlook xuất bản vào tháng 10 năm 2010, kinh tế toàn cầu sẽ tăng trưởng chậm lại trong năm 2011 với mức tăng 4,2% so với mức 4,8% của năm 2010; trong đó, các nền kinh tế mới nổi và đang phát triển sẽ tăng trưởng 6,4% so với mức 7,1%; các nước phát triển, tăng trưởng dự báo chỉ đạt tương ứng 2,2% so với mức 2,7%  với một số nền kinh tế có tốc độ tăng trưởng đang chậm lại đáng kể từ 6 tháng cuối  năm 2010 và 6 tháng đầu năm 2011. Trong các nước châu Á đang phát triển, Việt Nam là một trong số ít nước được dự báo tăng cao hơn so với năm 2010: 6,8% so với 6,5% của năm 2010. Điều đó cho thấy trong năm 2011, bối cảnh kinh tế toàn cầu vẫn còn không ít khó khăn. Bảng 9: Dự báo tăng trưởng kinh tế một số nước Quốc gia  2009 2010 2011 1. Thế giới -0.6 4.8 4.2 2. Mỹ -2.6 2.6 2.3 3. Khu vực châu Âu -4.1 1.7 1.5 4. Nhật Bản -5.2 2.8 1.5 5. Trung Quốc 9.1 10.5 9.6 6. Ấn Độ 5.7 9.7 8.4 7. Indonesia 4.5 6 6.2 8. Malaysia -1.7 6.7 5.3 9. Philippines 1.1 7 4.5 10. Thái Lan -2.2 7.5 4 11. Việt Nam 5.3 6.5 6.8 Nguồn: World Economic Outlook, IMF, 10/2010 Mục tiêu tăng trưởng kinh tế của năm 2011 từ 7- 7,5% trong bối cảnh nền kinh tế toàn cầu được dự báo sẽ tăng trưởng chậm lại so với năm 2010. Mô hình tăng trưởng chủ yếu vẫn dựa vào đầu tư (với tổng mức đầu tư xã hội dự kiến là 40% GDP, trong đó, đầu tư công chiếm khoảng 1/3), trong khi hiệu quả đầu tư thấp (thể hiện qua hệ số ICOR vẫn cao) và khó có thể cải thiện trong ngắn hạn. Thâm hụt ngân sách dự báo là 5,3%, vẫn ở mức cao. Rủi ro có thể tiếp tục xẩy ra là chính sách tiền tệ tài trợ cho chính sách tài khóa. Do vậy, áp lực lạm phát vẫn tiếp tục duy trì trong năm 2011. Việt Nam nhập khẩu đến 90% tư liệu sản xuất, trong đó, có trên 60% nhập nguyên, nhiên, vật liệu phục vụ sản xuất trong nước. Vì vậy, giá thế giới cũng ảnh hưởng đến chi phí sản xuất của doanh nghiệp, làm cho giá thành sản phẩm tăng lên và do đó, sẽ ảnh hưởng đến giá bán trên thị trường. Với quyền số hai nhóm hàng lương thực và thực phẩm là 32,53% (8,18% và 24,35%)  trong rổ hàng hóa tính CPI, giá lương thực, thực phẩm sẽ đóng góp đáng kể vào mức tăng chung của CPI năm 2011 (năm 2010, hai nhóm hàng lương thực và thực phẩm đóng góp 5,53% vào mức tăng chung của chỉ số CPI). Theo FAO, chỉ số giá lương thực của tổ chức này (dựa trên giá bán buôn của một rổ hàng hóa gồm các mặt hàng như lúa mì, ngô, gạo, các loại hạt cho dầu, các sản phẩm sữa, đường và thịt) đã lên mức 214,7 điểm, mức cao nhất từ khi được thiết lập vào năm 1990 (vượt cả đỉnh cao trong thời kì khủng hoảng lương thực thế giới 2007 -2008). Trong khi nhu cầu lương thực không ngừng tăng lên, sản lượng lương thực thế giới đang có xu hướng giảm do thiên tai, biến đổi khí hậu toàn cầu, hay diện tích đất nông nghiệp giảm mạnh. FAO dự báo sản lượng ngũ cốc thế giới sẽ giảm 2,1% trong niên vụ 2010/2011, góp phần đưa giá lương thực thế giới đang tạo đỉnh sẽ có khả năng tăng cao hơn. Đóng góp thêm vào lạm phát năm 2011, sẽ là hệ quả của lộ trình tăng giá xăng dầu, điện, than, nước...theo tín hiệu thị trường, hay việc điều chỉnh tăng tiền lương tối thiểu lên 830.000 đ. kể từ ngày 1/5/2011. Chỉ số CPI tháng 1 năm 2011 tăng 1,74% so với tháng 12 năm 2010, nếu so với cùng kỳ năm trước, CPI tháng 1 tăng 12,17%. CPI tháng 1 năm nay cũng tăng cao hơn nhiều so với cùng kỳ những năm trước đó. Cụ thể, từ năm 1996 trở lại đây, thì chỉ có duy nhất tháng 1/2008 là tăng 2,38%, tháng 1 các năm còn lại đều tăng thấp hơn 1,7%. Điều này cho thấy sức ép lạm phát trong năm 2011 sẽ tiếp tục lớn. Đúng như dự đoán của các chuyên gia, ngày 11/02/2011, NHNN công bố điều chỉnh tỷ giá bình quân liên ngân hàng lên mức 1 USD= 20.693 VND (tăng 9,3%) và thu hẹp biên độ giao dịch từ 3% xuống 1%. Việc điều chỉnh tăng tỉ giá USD/VND 9,3% vào ngày 11/02/2011 và 0,5% vào ngày 14/02/2011 càng làm cho bài toán kiểm soát lạm phát thêm khó khăn. Với những yếu tố khách quan, chủ quan nêu trên, để hoàn thành chỉ tiêu lạm phát năm 2011 dưới 7% như Quốc hội đề ra,  đòi hỏi Chính phủ thực hiện nhất quán định hướng ưu tiên là ổn định vĩ mô, kiềm chế lạm phát hơn là tăng trưởng kinh tế. 3.2. Giải pháp 3.2.1. Chính sách tài khóa : - Cùng với các biện pháp để tăng thu cho ngân sách nhà nước, cần thực hiện chính sách tài chính chặt chẽ, tiết kiệm chi tiêu thường xuyên, nâng cao hiệu quả vốn đầu tư từ nguồn ngân sách nhà nước. - Cắt giảm đầu tư công và chi phí thường xuyên của các cơ quan sử dụng ngân sách, kiểm soát chặt chẽ đầu tư của các doanh nghiệp nhà nước, cố gắng giảm tỷ lệ thâm hụt ngân sách. Cắt giảm nguồn đầu tư này sẽ làm giảm áp lực về cầu, giảm nhập siêu, góp phần nâng cao hiệu quả của nền kinh tế. Rà soát chặt chẽ các hạng mục đầu tư của doanh nghiệp nhà nước, kiên quyết cắt bỏ các công trình đầu tư kém hiệu quả. Đồng thời, tạo điều kiện và tập trung vốn cho những công trình sắp hoàn thành, những công trình đầu tư sản xuất hàng hóa thuộc mọi thành phầnkinh tế, đẩy nhanh tiến độ, sớm đưa vào sản xuất. - Tập trung sức phát triển sản xuất công nghiệp, nông nghiệp, khắc phục nhanh hậu quả của thời tiết và dịch bệnh để tăng sản lượng lương thực, thực phẩm. Hiện nay tiềm năng phát triển của nước ta còn rất lớn, nhất là khi Việt Nam đã trở thành thành viên của Tổ chức Thương mại thế giới, đầu tư nước ngoài và đầu tư tư nhân tăng mạnh, thị trường xuất khẩu được mở rộng, vì vậy phát triển sản xuất là giải pháp gốc, tạo hiệu quả nhiều mặt, vừa tăng nguồn cung cho thị trường trong nước và xuất khẩu, góp phần kiềm chế lạm phát, giảm nhập siêu, vừa thúc đẩy tăng trưởng kinh tế, vừa không gây phản ứng phụ. Kịp thời tháo gỡ các khó khăn, vướng mắc về vốn, thị trường, về thủ tục hành chính, thúc đẩy sản xuất phát triển. - Bảo đảm cân đối cung cầu về hàng hóa, đẩy mạnh xuất khẩu, giảm nhập siêu: đây là tiền đề quyết định để không gây ra đột biến về giá, ngăn chặn đầu cơ. Cải cách mạnh thủ tục hành chính liên quan đến họat động xuất khẩu để giảm chi phí cho doanh nghiệp, góp phần nâng cao khả năng cạnh tranh hàng xuất khẩu của Việt Nam đi đôi với việc áp dụng các hàng rào kỹ thuật và các biện pháp khác phù hợp với các cam kết quốc tế của nước ta, để giảm nhập siêu, kể cả việc tăng thuế nhập khẩu những mặt hàng không thiết yếu. Về lâu dài phải nâng cao tính cạnh tranh của sản phẩm trong nước, làm thế nào để người dân sử dụng sản phẩm nội nhiều hơn; cần có một hệ thống rào cản kỹ thuật nhằm quản lý các sản phẩm nhập khẩu; nâng cao năng lực của khu vực phân phối trong nước, làm sao để chiến lược quảng bá sản phẩm đến được với người tiêu dùng, giúp họ nhận thức được chất lượng của hàng hóa nội. - Hướng tới thay đổi cơ cấu hàng xuất khẩu: không thể dựa mãi vào xuất khẩu các mặt hàng nguyên liệu thô, một trong những yếu tố quan trọng nhất là thay đổi cơ cấu sản xuất của Việt Nam, nơi xuất khẩu các sản phẩm thô chiếm tỷ trọng lớn, tức là phần giá trị gia tăng thấp. Muốn tăng phần này lên thì phần nguyên liệu phải ít đi để tăng phần giá trị gia tăng do con người Việt Nam tạo ra thì mới thay đổi được tương quan giữa xuất và nhập khẩu. Điều này đòi hỏi phải có một chiến lược rất căn bản, tức chuyển dịch cơ cấu đầu tư sang phía những ngành dựa trên lợi thế của Việt Nam cộng với giá trị gia tăng cao. - Triệt để tiết kiệm trong sản xuất và tiêu dùng: hiện nay tình trạng lãng phí trong sản xuất và tiêu dùng diễn ra khá phổ biến ở các cơ quan, đơn vị. Tiềm năng tiết kiềm trong sản xuất và tiêu dùng là rất lớn. Cần rà soát các khoản chi nhằm hạ giá thành và chi phí lưu thông, tiết kiệm tiêu dùng, nhất là nhiên liệu và năng lượng. Đây là giải pháp vừa có tác dụng giảm sức ép về cầu, giảm nhập siêu, vừa góp phần nâng cao hiệu quả của cả nền sản xuất xã hội. - Tăng thuế xuất khẩu ở mức phù hợp đối với một số loại tài nguyên, khoáng sản, thuế nhập khẩu và thuế nội địa một số mặt hàng tiêu dùng không thiết yếu, xa xỉ; chống thất thu thuế. 3.2.2. Chính sách tiền tệ : - Thực hiện chính sách tiền tệ thắt chặt: Ngân hàng nhà nước thông qua việc chủ động, linh hoạt sử dụng hợp lý các công cụ chính sách tiền tệ theo nguyên tắc thị trường để thực hiện bằng được các yêu cầu: chủ trương kiểm soát chặt chẽ tổng phương tiện thanh toán và tổng dư nợ tín dụng. Bên cạnh đó, cần đảm bảo tính thanh khoản của nền kinh tế và hoạt động của các ngân hàng, tổ chức tín dụng, tạo điều kiện cho sản xuất hàng hóa và xuất khẩu phát triển. - Về tốc độ cung tiền: dòng vốn nước ngoài chảy vào Việt Nam tăng đột biến buộc Ngân hàng nhà nước phải đóng vai trò người mua ngọai tệ cuối cùng và đưa thêm tiền đồng vào lưu thông làm cho mức cung tiền vượt nhiều lần GDP dẫn đến lạm phát cao. Giải pháp: mở tài khoản cho ký gửi ngoại tệ, mở một tài khoản tiền Việt cho họ sử dụng khi cần, đây là biện pháp khuyến khích giảm lưu thông tiền mặt. - Tăng tỷ lệ dự trữ tiền đồng và ngoại tệ, khống chế tỷ lệ dự trữ cho vay chứng khoán. Ngân hàng nhà nước cần nắm chắc thông tin, kiểm soát chặt chẽ tổng phương tiện thanh toán, dư nợ tín dụng trong toàn bộ nền kinh tế, việc cho vay kinh doanh bất động sản, kinh doanh chứng khoán của các ngân hàng thương mại và các tổ chức kinh doanh tiền tệ khác. Ðiều chỉnh linh hoạt chính sách tiền tệ, bảo đảm tốc độ tăng trưởng hợp lý dư nợ tín dụng, khả năng thanh khoản cho các tổ chức tín dụng và kiềm chế lạm phát. Tăng cường công tác giám sát các tổ chức tín dụng, bổ sung các công cụ giám sát theo cơ chế thị trường, thông lệ quốc tế để chủ động cảnh báo và xử lý tốt hơn những biến động trên thị trường tín dụng, tiền tệ. - Quản lý chặt chẽ việc thành lập mới, việc phát hành cổ phiếu, tăng vốn điều lệ của các ngân hàng, các tổ chức tài chính, tiền tệ, chứng khoán, bất động sản, đặc biệt là các tập đoàn, tổng công ty lớn của Nhà nước, các ngân hàng thương mại theo hướng đề ra những yêu cầu, tiêu chí theo thông lệ của nền kinh tế thị trường để các chủ thể kinh doanh tiền tệ phải thật sự lành mạnh, bảo đảm lợi ích của mình và của cả nền kinh tế. - Nâng cao lãi suất tiết kiệm lên, lãi cao người dân sẽ gửi tiền nhiều, ngân hàng khi đó sẽ tìm cách cho vay lượng tiền huy động được, tiền sẽ được sử dụng hợp lý và được điều chỉnh tỷ giá một cách hợp lý. - Kiểm soát vốn đầu tư nước ngoài và tỷ giá. Ðiều hành tỷ giá giữa VND với USD và các loại ngoại tệ nói chung với biên độ hợp lý. Sớm áp dụng các biện pháp quản lý nguồn vốn đầu tư gián tiếp (FII) như nhiều nước đã áp dụng thành công. Tiếp tục có giải pháp tích cực, có hiệu quả, chống đô-la hóa nền kinh tế. Điều chỉnh về chính sách cho phép tiền đồng lên giá một chút so với USD: điều này có thể giúp kiềm chế lạm phát, bởi các chuyên gia cho rằng “cứ 1% lên giá của tiền đồng so với đôla Mỹ thì sẽ giảm được 1 – 1,5 điểm phần trăm lạm phát trong thời gian 12 tháng”. Chủ trương áp dụng tỷ giá linh hoạt với biên độ thích hợp, phản ánh mối quan hệ cung cầu trên thị trường, giúp cho việc kiềm chế lạm phát nhưng không ảnh hưởng lớn đến xuất khẩu, đảm bảo việc mua bán, chuyển đổi ngoại tệ diễn ra thuận lợi. Ngân hàng nhà nước phải đảm bảo đủ vốn và mua hết ngoại tệ cho các doanh nghiệp làm hàng xuất khẩu, xử lý ngay ách tắc về tín dụng xuất khẩu cho từng trường hợp cụ thể. 3.2.3. Về công tác quản lý : Tăng cường công tác quản lý thị trường, kiểm sóat việc chấp hành pháp luật nhà nước về giá: - Kiên quyết không để xảy ra tình trạng lạm dụng các biến động trên thị trường để đầu cơ, nâng giá, nhất là các mặt hàng thiết yếu cho sản xuất và tiêu dùng như: xăng dầu, sắt thép, ximăng, thuốc chữa bệnh, lương thực, thực phẩm…; ngăn chặn tình trạng buôn lậu qua biên giới, đặc biệt là xăng dầu, khoáng sản. Đối với công tác quản lý giá cả và điều tiết thị trường cần phải mạnh tay và thống nhất, cần sự nhất quán từ trung ương đến địa phương, từ cơ quan quản lý vĩ mô cho đến các trung tâm, xí nghiệp nhỏ trong cả nước. Về cơ chế điều chỉnh giá cả, khuyến khích cạnh tranh về giá theo pháp luật để tăng hiệu quả, thúc đẩy hội nhập kinh tế quốc tế về giá, tiến tới hệ thống giá cả phản ánh giá cả thị trường (cả trong nước và quốc tế), phấn đấu kiểm soát chỉ số tăng giá tiêu dùng thấp hơn tốc độ tăng trưởng kinh tế. Từ đó, các cơ chế điều hành cần tập trung vào việc tiếp tục áp dụng hoàn thiện môi trường pháp lý, kiên trì cơ chế giá thị trường, khuyến khích cạnh tranh theo pháp luật đối với đại bộ phận hàng hóa dịch vụ của nền kinh tế như: xăng, xi măng, sắt thép, phân bón, giấy, hàng điện tử, điện lạnh, hàng may mặc, hàng nông sản thực phẩm, các dịch vụ phục vụ du lịch, văn hóa, vui chơi, giải trí, giá đất... Tiếp tục thực hiện, tiến tới lộ trình giá thị trường vào thời điểm thích hợp đối với các loại dầu, than bán cho các hộ tiêu dùng lớn (xi măng, phân bón, giấy, nước sạch). - Có kế hoạch chủ động nhập khẩu bù đắp thiếu hụt. Có cơ chế, chính sách để các tập đoàn kinh tế, tổng công ty lớn kinh doanh các mặt hàng chủ lực của nền kinh tế được hình thành quỹ bảo hiểm rủi ro theo nguyên tắc thị trường, lấy lãi bù lỗ. Có biện pháp ngăn ngừa việc kinh doanh chồng chéo của những đơn vị này để tránh dẫn đến tăng cung, cầu giả tạo, cạnh tranh không lành mạnh, đẩy giá thị trường lên cao, sử dụng vốn nhà nước không hiệu quả. cần có chính sách và tháo gỡ các khó khăn cho các doanh nghiệp xuất khẩu, duy trì và thúc đẩy được tốc độ tăng trưởng xuất khẩu: nghiên cứu việc giảm thuế thu nhập cho doanh nghiệp xuất khẩu; điều hành chính sách tài chính, tiền tệ chủ động, linh hoạt, tạo thuận lợi cho các doanh nghiệp có hợp đồng sản xuất, xuất khẩu có hiệu quả, đa dạng các hình thức thanh toán... Về lâu dài, cần có chiến lược, kế hoạch, cơ chế, chính sách để cơ cấu lại việc sản xuất hàng xuất khẩu, giảm nhanh xuất khẩu khoáng sản và giảm dần xuất khẩu sản phẩm nguyên liệu thô, hàng gia công lắp ráp, tăng xuất khẩu sản phẩm tinh chế, có hàm lượng khoa học - công nghệ cao, có giá trị gia tăng cao; mở rộng quan hệ thương mại với các đối tác mới, các thị trường mới... - Quản lý chặt chẽ, có hiệu quả các hoạt động nhập khẩu. Sử dụng các biện pháp không trái với các quy định của WTO để hạn chế nhập khẩu các sản phẩm không nhất thiết phải nhập khẩu, nhất là việc nhập các mặt hàng xa xỉ (ô-tô, rượu ngoại đắt tiền...), giảm tối đa việc nhập siêu. Thực hiện các biện pháp tổng hợp, nghiêm ngặt, đủ mạnh để chống nhập lậu, gian lận thương mại. Quản lý thị trường chứng khoán và thị trường bất động sản: - Quản lý chặt chẽ các nguồn vốn vay ngân hàng của các công ty để đầu tư vào thị trường chứng khoán, thị trường bất động sản; từng bước lành mạnh hóa hai loại thị trường này, khắc phục tình trạng đầu cơ, đẩy giá lên cao như thời gian qua. - Chỉ đạo, rà soát để những đơn vị có đủ điều kiện và năng lực kinh doanh chứng khoán hoạt động lành mạnh; kiên quyết không cho thành lập, hoạt động đối với những đơn vị không đủ điều kiện kinh doanh. Tiếp tục thực hiện tốt chương trình cổ phần hóa doanh nghiệp nhà nước, cung cấp hàng hóa có chất lượng cho thị trường. - Sớm ban hành chính sách thuế chống đầu cơ bất động sản; các chính sách và thủ tục hành chính thông thoáng để thị trường chứng khoán và bất động sản phát triển một cách lành mạnh. Mở rộng việc thực hiện các chính sách về an sinh xã hội: - Điều chỉnh mức lương tối thiểu cho những người lao động thuộc khối cơ quan, nhà nước, lực lượng vũ trang, tổ chức chính trị, tổ chức chính trị - xã hội; điều chỉnh mức lương tối thiểu theo hướng tăng lên đối với lao động Việt Nam làm việc cho doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài, cơ quan, tổ chức nước ngoài, tổ chức quốc tế và cá nhân người nước ngoài tại Việt Nam, lao động ở công ty, doanh nghiệp, hợp tác xã, tổ hợp tác, trang trại, hộ gia đình, cá nhân và các tổ chức khác của Việt Nam có thuê mướn lao động. - Điều chỉnh mức lương, trợ cấp cho những người về hưu, người có công và những người hưởng trợ cấp bảo hiểm xã hội. Ban hànhc ác chính sách hỗ trợ đồng bào dan tộc thiểu số, hộ thuộc diện chính sách, hộ nghèo, hộ cận nghèo và ngư dân. - Giữ ổn định mức thu học phí, viện phí; tiếp tục xuất gạo dự trữ quốc gia để cấp không thu tiền cho hộ đồng bào bị thiên tai, thiếu đói. Tiếp tục đẩy mạnh thực hiện các chương trình mục tiêu quốc gia, các giải pháp hỗ trợ đối với các vùng khó khăn, vùng bị thiên tai. Cần phải chú ý xây dựng cơ chế kiểm tra việc thực thi, đảm bảo nguồn hỗ trợ của nhà nước đến đúng đối tượng, không bị thất thoát, tham nhũng… 3.3. Kiến nghị : - Tăng cường năng lực thông tin kinh tế - xã hội: Hiện nay thông tin về chỉ số giá tiêu dùng (CPI), chỉ số giá hàng nhập khẩu, hàng xuất khẩu, chỉ số giá người sản xuất (PPI)do Tổng cục Thống kê thu thập, tính toán. Nhưng việc công bố rộng rải chỉ có chỉ số giá tiêu dùng (CPI), còn các chỉ số còn lại chỉ công bố trong Niên giám Thống kê vào tháng 9 năm sau. Để có đủ thông tin nhằm phục vụ việc chống lạm phát cũng như thiểu phát cần phải có đủ các thông tin từ Ngân hàng Nhà nước, Bộ Tài chánh, Bộ Kế hoạch và Đầu tư,... Vì vậy cần phải đầu tư hơn nữa về kinh phí và con người trong công việc thu thập và xử lý, công bố thông tin kinh tế xã hội. - Nâng cao sức sản xuất các sản phẩm mang tính chiến lược liên quan đến an ninh lương thực, an ninh năng lượng, sản xuất công nghiệp,.. Cần hổ trợ nông thôn, nông nghiệp và nông dân thông qua đầu tư cho nghiên cứu giống cây trồng, thủy lợi, điện, đường, trường , trạm, thú y, khuyến nông và cho vay tín dụng ưu đãi,.. đặc biệt cho chăn nuôi. Không nên phát triển tràn lan các khu công nghiệp mà thu hẹp diện tích đất nông nghiệp nhằm đảm bảo lượng lương thực, thực phẩm cho dân số hiện tại và đang tăng thêm hàng năm; nhằm giữ nguyên là nước xuất khẩu gạo đứng hàng thứ 2 trên thế giới với khoảng 4 triệu tấn hàng năm. Để đảm bảo an ninh năng lượng, góp phần chống lạm phát cao có thể gây bất ổn xã hội; cần đẩy mạnh việc xây dựng các nhà máy lọc dầu và hóa dầu nhằm sử dụng nguồn dầu thô do ta khai thác được bảo đảm nguồn cung cho sản xuất và tiêu dùng trong nước ( năm 2007 nước ta xuất khẩu dầu thô đạt hơn 8 tỷ USD, nhưng nhập khẩu sản phẩm từ dầu mỏ 7,7 tỷ USD). - Cần hạ thấp thuế nhập khẩu các sản phẩm nhập khẩu mà cung trong nước không đủ, nhằm giảm bớt một lượng tiền, lại thêm nguồn cung góp phần chống lạm phát. - Nâng cao năng lực của khu vực phân phối trong nước, giảm các tầng nấp trung gian. Cần tập trung xây dựng các trung tâm bán lẻ lớn. - Luôn duy trì lãi suất thực dương, nhằm thu hút lượng tiền nhàn rỗi trong dân cư. - Tiết kiệm: cần có chiến dịch kêu gọi mọi người hạn chế sử dụng hàng xa xỉ phẩm nhập khẩu từ nước ngoài, như: xe hơi đắt tiền, điện thoại di động loại đắt tiền, trong xây dựng chỉ nên xây dựng đủ ở không nên phô trương; sử dụng xe phân khối nhỏ trong nội thành nhằm tiết kiệm nhiên liệu, giảm ô nhiễm môi trường. KẾT LUẬN : Qua đề tài chúng ta có thể nắm được những lý luận cơ bản về lạm phát và cũng từ đó có cái nhìn tổng quát về tình trạng lạm phát tại Việt Nam, đâu là nguyên nhân, đâu là tác động và giải pháp như thế nào nhằm khắc phục tình trạng lạm phát cao tại Viêt Nam như hiện nay. Trong giai đoạn vừa qua, bên cạnh tốc độ tăng trưởng kinh tế nhanh, Việt Nam cũng đang đối mặt với những thách thức như tình hình lạm phát cao như hiện nay. Việc đảm bảo vừa tăng trưởng kinh tế vừa kiềm chế lạm phát ở mức vừa phải là một vấn đề hết sức khó khăn đối với một đất nước có xuất phát điểm kinh tế thấp, lại bị tàn phá bởi 2 cuộc chiến tranh giữ nước nhưng chúng ta tin rằng bằng những biện pháp linh hoạt, chủ động, kịp thời, quyết liệt trong việc điều hành nền kinh tế của chính phủ đất nước ta sẽ vượt qua giai đoạn khó khăn và phát triển nhanh chóng. Những thành tựu to lớn mà chúng ta đạt được trong công cuộc chống lạm phát cũng không vì thế mà làm chúng ta chủ quan , nới lỏng. Lạm phát luôn rình rập và đe dọa chúng ta bất cứ lúc nào. Chính vì vậy Đảng và Nhà Nước ta cần phải luôn luôn thận trọng trong mỗi bước đi của mình để đảm bảo cho nền kinh tế nước ta phát triển vững mạnh làm nền tảng để phát triển khoa học giáo dục. DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO : Nhập môn Tài chính-tiền tệ – Pgs.Ts Lê Vinh Danh – Nxb Lao động xã hội 2008 Giáo trình lý thuyết Tài chính-tiền tệ - Ts Nguyễn Hữu Tài – Nxb Thống kê 2002 Giáo trình kinh tế vĩ mô – Ts Bùi Quang Bình – Nxb Giáo dục 2008 Giáo trình Ngân hàng trung ương – Pgs.Ts Nguyễn Duệ - Nxb Thống kê 2005 Trang Web: www.vnecon.com Trang Web: www.tailieu.vn Trang Web bộ tài chính: www.mof.gov.vn Báo Dân trí điện tử: www.dantri.com.vn Báo Vnexpress: www.vnexpress.net Báo Vietnamnet: www.vietnamnet.vn Báo 24h: www.24h.com.vn/tai-chinh-bat-dong-san Trang Web: www.cafef.vn/tai-chinh-ngan-hang Trang Web : vneconomy.vn

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docĐỀ TÀI- TÌNH HÌNH LẠM PHÁT CỦA VIỆT NAM GIAI ĐOẠN 2005 – ĐẾN NAY.doc
Tài liệu liên quan