Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 22 * Số 1 * 2018 Nghiên cứu Y học
Chuyên Đề Nội Khoa 119
 ĐÁNH GIÁ TÌNH TRẠNG SUY GIẢM NHẬN THỨC 
Ở BỆNH NHÂN SUY TIM MẠN 
Lê Cẩm Tú*, Võ Thành Nhân**, Nguyễn Minh Đức** 
TÓM TẮT 
Mở đầu: Tỷ lệ hiện mắc chung của suy tim đang ngày càng tăng trên toàn thế giới. Suy giảm nhận thức là 
một vấn đề phổ biến ở những bệnh nhân suy tim. Theo thống kê có khoảng 30% đến 80% bệnh nhân suy tim bị 
suy giảm nhận thức ở các mức độ khác nhau. Suy giảm nhận thức làm tăng chi phí điều trị, tỷ lệ tử vong ngoại 
viện, nội viện ở bệnh nhân suy tim. Và ngược lại, mức độ nặng của suy tim cũng liên quan đến tăng nguy cơ của 
suy giảm nhận thức. Chính vì vậy, việc đánh giá tình trạng nhận thức ở bệnh nhân suy tim là cần thiết. 
Mục tiêu: Xác định tỷ lệ, mức độ và các yếu tố liên quan với tình trạng suy giảm nhận thức ở bệnh nhân 
suy tim mạn. 
Đối tượng: Bệnh nhân suy tim nhập viện khoa Nội Tim mạch bệnh viện Chợ Rẫy. 
Phương pháp nghiên cứu: cắt ngang mô tả. 
Kết quả: 198 bệnh nhân suy tim với tuổi trung bình là 62,17 ± 15,09 tuổi. Điểm số MMSE trung bình là 
22,25 ± 3,87 điểm. Suy giảm nhận thức chiếm tỷ lệ 59,6%, trong đó 74,6% suy giảm nhận thức nhẹ, 18,6% suy 
giảm nhận thức trung bình, 6,8% suy giảm nhận thức nặng. Có mối liên quan giữa suy giảm nhận thức và tuổi 
(OR = 1,079, KTC 95%: 1,03 – 1,132); tình trạng hôn nhân: độc thân, góa bụa hay ly hôn (OR = 3,009, KTC 
95%: 1,119 – 8,099); phân suất tống máu thất trái < 40% (OR = 7,571, KTC 95%: 2,703 – 21,208). 
Kết luận: Suy giảm nhận thức là vấn đề thường gặp ở bệnh nhân suy tim, đa số suy giảm nhận thức nhẹ. 
Cần tầm soát và phát hiện suy giảm nhận thức ở bệnh nhân suy tim đặc biệt những bệnh nhân suy tim cao tuổi. 
Từ khóa: suy giảm nhận thức, suy tim 
ABSTRACT 
ASSESSING COGNITIVE IMPAIRMENT STATUS IN CHRONIC HEART FAILURE PATIENTS 
Le Cam Tu, Vo Thanh Nhan, Nguyen Minh Duc 
* Y Hoc TP. Ho Chi Minh * Supplement Vol. 22 - No 1- 2018: 119 - 123 
Background: The prevalence of heart failure is increasing throughout the world. Cognitive impairment is a 
common problem in heart failure patients. It is estimated that between 30% and 80% of heart failure patients experience 
cognitive impairment at different levels. Cognitive impairment increases the cost of treatment, deaths of outpatient and 
inpatients with heart failure. Conversely, the severity of heart failure is also associated with an increased risk of cognitive 
impairment. Therefore, assessment of cognitive status in patients with heart failure is necessary. 
Objectives: To determine the rate, extent and associated factors with cognitive impairment in patients with 
chronic heart failure. 
Research method: cross sectional study. 
Results: 198 heart failure patients had an average age of 62.17 ± 15.09 years. The mean MMSE score was 
22.25 ± 3.87. Cognitive impairment accounted for 59.6%, of which 74.6% had mild cognitive impairment, 18.6% 
medium cognitive impairment, 6.8% severe cognitive impairment. There was a correlation between cognitive 
* Bệnh viện Đa khoa khu vực An Giang, ** Bộ môn Lão khoa – Đại học Y Dược TP.HCM 
Tác giả liên lạc: BS. Lê Cẩm Tú ĐT: 0976888401 Email: 
[email protected] 
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 22 * Số 1 * 2018
Chuyên Đề Nội Khoa 120
impairment and age (OR = 1.079, 95% CI: 1.03 - 1.132); Marital status: single, widowed or divorced (OR = 
3.009, 95% CI: 1.119 – 8.099); Left ventricular ejection fraction <40% (OR = 7.571, 95% CI: 2.703 – 21.208). 
Conclusion: Cognitive impairment is a common problem in heart failure patients, most of them with mild 
cognitive impairment. Screening cognitive impairment should be investigated in patients with heart failure 
especially in elderly ones. 
Key words: cognitive impairment, heart failure 
ĐẶT VẤN ĐỀ 
Suy tim là một vấn đề lớn đối với sức khỏe 
cộng đồng vì số bệnh nhân suy tim đang ngày 
càng tăng, với hơn 20 triệu bệnh nhân trên toàn 
thế giới. Tỷ lệ hiện mắc chung của suy tim trong 
dân số trưởng thành ở các quốc gia phát triển 
khoảng 2% và tỷ lệ này tăng theo quy luật hàm số 
mũ, tăng dần theo tuổi, ảnh hưởng đến 6-10% dân 
số trên 65 tuổi. Mặc dù tỷ lệ mới mắc tương đối 
của suy tim ở nữ thấp hơn so với nam, nhưng ít 
nhất 50% trường hợp suy tim là ở nữ do tuổi thọ 
trung bình của nữ cao hơn. Hiện nay, với những 
tiến bộ của các phương pháp can thiệp, tối ưu hóa 
điều trị, đã góp phần cải thiện thời gian sống còn 
của bệnh nhân, dẫn đến tỷ lệ hiện mắc chung của 
suy tim tăng dần lên theo thời gian(4). 
Suy tim làm tăng tỷ lệ nhập viện, tỷ lệ tử 
vong và làm giảm chất lượng cuộc sống của 
người bệnh. Người ta ước tính rằng những bệnh 
nhân suy tim cao tuổi thì tỷ lệ tái nhập viện 
trong vòng 6 tháng lên đến 40-50%(8). Các yếu tố 
ảnh hưởng đến suy tim bao gồm: kém tuân thủ 
điều trị của bệnh nhân, chế độ ăn uống không 
hợp lý và suy giảm khả năng nhận biết cũng như 
phản hồi các triệu chứng sớm của suy tim mất 
bù, mà những điều này có thể là hậu quả của suy 
giảm nhận thức(3, 9). 
Một số nghiên cứu đã cho thấy rằng suy 
giảm nhận thức đặc biệt phổ biến ở những bệnh 
nhân suy tim, với 30% đến 80% bệnh nhân suy 
tim bị suy giảm nhận thức ở các mức độ khác 
nhau. Tuy hầu hết bệnh nhân suy tim bị suy 
giảm nhận thức ở mức độ nhẹ, nhưng tỷ lệ suy 
giảm nhận thức từ trung bình tới nặng cũng khá 
cao, với khoảng 25%. Và ngược lại, mức độ nặng 
của suy tim cũng liên quan đến tăng nguy cơ của 
suy giảm nhận thức(1, 13). 
Suy giảm nhận thức làm gia tăng chi phí điều 
trị cũng như tỷ lệ tử vong ngoại viện, nội viện ở 
bệnh nhân suy tim. Theo Zuccalà, nguy cơ tử vong 
tăng lên gấp 5 lần ở những bệnh nhân suy tim có 
suy giảm nhận thức so với những bệnh nhân suy 
tim có chức năng nhận thức bình thường(15). 
Chính vì mối liên quan trên, việc đánh giá 
tình trạng nhận thức ở bệnh nhân suy tim là thật 
sự cần thiết. Với mong muốn có cái nhìn ban đầu 
về vấn đề này, chúng tôi sử dụng thang điểm 
MMSE đã được Việt hóa để tiến hành nghiên 
cứu: “Đánh giá tình trạng suy giảm nhận thức ở 
bệnh nhân suy tim mạn”. 
Thang điểm MMSE 
Thang điểm đánh giá tình trạng tâm thần thu 
nhỏ này được Folstein và cộng sự công bố năm 
1975(5) và được sử dụng rộng rãi đến nay. Thang 
điểm này được sử dụng để đánh giá những lĩnh 
vực của nhận thức. Vì tính đơn giản và dễ sử 
dụng nên có thể được thực hiện bởi bất kỳ 
những ai đã được qua huấn luyện thực hành 
như bác sĩ lâm sàng, nhà tâm thần học, điều 
dưỡng viên, 
Thang điểm MMSE được chia thành 5 phần: 
định hướng, sự ghi nhận hay ghi nhớ, sự tập 
trung chú ý và tính toán, nhớ lại và ngôn ngữ. 
Điểm số được cho tổng cộng từ 0 đến 30 điểm, 
trong đó: 
≥ 24 điểm: Không có suy giảm nhận thức 
20 – 23 điểm: Suy giảm nhận thức nhẹ 
14 - 19 điểm: Suy giảm nhận thức trung bình 
≤ 13 điểm: Suy giảm nhận thức nặng 
Hiện nay, đa số các nước trên thế giới sử 
dụng thang điểm này nhưng được dịch ra ngôn 
ngữ riêng của mỗi quốc gia để thật sự phù hợp. 
Ở Việt Nam, nghiên cứu của Nguyễn Kinh Quốc 
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 22 * Số 1 * 2018 Nghiên cứu Y học
Chuyên Đề Nội Khoa 121
và Vũ Anh Nhị thực hiện năm 2005, giúp chuẩn 
hóa thang điểm MMSE bằng tiếng Việt(11). 
Mục tiêu nghiên cứu 
Đánh giá tình trạng nhận thức ở bệnh nhân 
suy tim mạn bằng thang điểm MMSE. 
ĐỐI TƯỢNG - PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU 
Đối tượng nghiên cứu 
Là những bệnh nhân suy tim nhập viện khoa 
Nội Tim mạch bệnh viện Chợ Rẫy, từ tháng 
10/2016 đến tháng 05/2017, thỏa tiêu chuẩn chọn 
mẫu và không thuộc tiêu chuẩn loại trừ. 
Tiêu chuẩn chọn bệnh 
Bệnh nhân được chẩn đoán suy tim theo tiêu 
chuẩn chẩn đoán của Hội Tim mạch châu Âu năm 
2016 hoặc đã được chẩn đoán suy tim trước đó. 
Tiêu chuẩn loại trừ 
Bệnh nhân không hợp tác, mù chữ. 
Bệnh nhân không có khả năng giao tiếp một 
cách chính xác: giảm thính lực, sa sút trí tuệ, rối 
loạn tri giác (sảng, lơ mơ, hôn mê,). 
Bệnh nhân có tổn thương não như đột quỵ, u 
não, viêm não, chấn thương đầu gây máu tụ, hội 
chứng não – gan, 
Bệnh nhân có tình trạng nội khoa kèm theo nặng 
như: nhiễm trùng, nhiễm độc, rối loạn điện giải. 
Phương pháp nghiên cứu 
Cắt ngang mô tả 
Số lượng bệnh nhân: 198 bệnh nhân 
Phương pháp chọn mẫu: chọn mẫu thuận tiện. 
Phương pháp thu thập số liệu: bảng thu thập 
số liệu. 
Xử lý số liệu bằng phần mềm SPSS 16.0. 
KẾT QUẢ 
Đặc điểm chung của mẫu nghiên cứu 
Bảng 1: Đặc điểm chung của mẫu nghiên cứu 
Biến số 
n/Giá trị trung 
bình 
Tỷ lệ/Độ lệch 
chuẩn 
Tuổi 62,17 15,09 
Nữ giới 94 47,5 
Trình độ học vấn cấp 1 94 47,5 
Biến số 
n/Giá trị trung 
bình 
Tỷ lệ/Độ lệch 
chuẩn 
Không sống chung 88 44,4 
Tăng huyết áp 96 48,5 
Đái tháo đường 52 26,3 
Bệnh mạch vành 116 58,6 
Bệnh thận mãn 60 30,3 
Thời gian mắc bệnh (năm) 8,19 6,65 
Số lần nhập viện (lần) 2,63 1,33 
Số lượng hồng cầu 
(triệu/mm
3
) 
4,14 0,87 
Nồng độ Hemoglobin (g/L) 118,55 23,34 
NYHA I 3 1,5 
NYHA II 79 39,9 
NYHA III 109 55,1 
NYHA IV 7 3,5 
BNP (pg/ml) 801,4 366,6-1775,4 
EF (%) 42,11 16,15 
Điểm MMSE 22,25 3,87 
Tình trạng nhận thức ở bệnh nhân suy tim 
Kết quả thu được có 118 trong tổng số 198 
bệnh nhân suy tim bị suy giảm nhận thức, chiếm 
tỷ lệ 59,6%. 
Ở những bệnh nhân suy tim bị suy giảm 
nhận thức thì suy giảm nhận thức nhẹ chiếm tỷ 
lệ cao nhất 74,6%, tiếp theo là suy giảm nhận 
thức trung bình 18,6% và thấp nhất là suy giảm 
nhận thức nặng 6,8%. 
Các yếu tố liên quan đến tình trạng nhận thức 
Bảng 2: Các yếu tố liên quan đến tình trạng nhận 
thức trong phân tích đa biến 
Yếu tố liên quan p OR KTC 95% 
Tuổi 0,001 1,079 1,03 – 1,132 
Nữ giới 0,90 1,066 0,385 – 2,95 
Trình độ học vấn 0,178 0,660 0,361 – 1,207 
Không sống chung 0,029 3,009 1,119 – 8,097 
Tăng huyết áp 0,227 0,515 0,175 – 1,513 
Đái tháo đường 0,847 1,108 0,392 – 3,131 
Bệnh mạch vành 0,791 1,140 0,433 – 2,998 
Bệnh thận mãn 0,310 1,869 0,558 – 6,257 
Thời gian mắc bệnh 0,837 0,99 0,898 – 1,091 
Số lần nhập viện 0,212 1,373 0,834 – 2,261 
Số lượng hồng cầu 0,201 0,557 0,227 – 1,366 
Nồng độ Hemoglobin 0,152 1,025 0,991 – 1,060 
NYHA 0,274 1,626 0,681 – 3,886 
EF < 40% < 0,001 7,571 2,703 – 21,208 
Dùng hồi quy Logistic đa biến phân tích mối 
liên quan giữa tình trạng nhận thức và các yếu tố 
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 22 * Số 1 * 2018
Chuyên Đề Nội Khoa 122
liên quan ở bệnh nhân suy tim, kết quả cho thấy: 
có mối liên quan giữa suy giảm nhận thức và tuổi 
(OR = 1,079, KTC 95%: 1,03 – 1,132); tình trạng hôn 
nhân không sống chung cùng vợ hoặc chồng (độc 
thân, góa bụa hay ly hôn) (OR = 3,009, KTC 95%: 
1,119 – 8,099); phân suất tống máu thất trái < 40% 
(OR = 7,571, KTC 95%: 2,703 – 21,208). 
BÀN LUẬN 
Từ kết quả mà chúng tôi ghi nhận được cho 
thấy, suy giảm nhận thức là mối nguy cơ tìm ẩn 
ở bệnh nhân suy tim, với tỷ lệ bệnh nhân bị suy 
giảm nhận thức khá cao, chiếm 59,6%. Kết quả 
của chúng tôi cao hơn của Zuccalà và cộng sự là 
53%(14), của Coma là 33,5%(2). Sự khác biệt này do 
kết hợp của nhiều yếu tố đi kèm: 
- Trình độ học vấn của các đối tượng nghiên 
cứu ở các tác giả này cao hơn nghiên cứu của 
chúng tôi, với số năm đi học trung bình là 8 năm 
của Zuccalà còn của chúng tôi có 47,5% bệnh 
nhân trình độ cấp 1. 
- Thời gian mắc bệnh ngắn hơn (35 tháng của 
Zuccalà so với 8,19 năm của chúng tôi) 
- Phân suất tống máu thất trái cao hơn (44,7% 
so với 42,1%). 
Nhưng, kết quả của chúng tôi lại thấp hơn 
của Ghanbari và cộng sự(6). Theo ghi nhận của 
tác giả này tỷ lệ suy giảm nhận thức ở bệnh nhân 
suy tim là 64,9%. Nguyên nhân là do chúng tôi 
thực hiện nghiên cứu trên tất cả bệnh nhân suy 
tim trưởng thành (từ 18 tuổi trở lên), còn 
Ghanbari nghiên cứu tuy đối tượng là trên tất cả 
bệnh nhân suy tim, nhưng tuổi thấp nhất trong 
nghiên cứu là 45 tuổi. 
Trong phân tích hồi quy Logistic đa biến cho 
thấy, có mối liên quan giữa tình trạng nhận thức 
với ba yếu tố: tuổi, tình trạng hôn nhân không 
sống chung cùng vợ hoặc chồng và phân suất 
tống máu giảm. 
Sinh lý bệnh của suy giảm nhận thức ở bệnh 
nhân suy tim còn chưa rõ ràng, với nhiều giả 
thuyết được đưa ra, trong đó nổi bật nhất là 
nguyên nhân giảm tưới máu não gây rối loạn về 
mặt chức năng của thùy trước và thùy thái 
dương. Giả thuyết này được củng cố từ nghiên 
cứu ở những bệnh nhân suy tim giai đoạn cuối, 
có chỉ định ghép tim, cho thấy có sự cải thiện ý 
nghĩa về khả năng nhận thức ở những bệnh 
nhân sau cấy ghép(7, 12). Điều này giúp giải thích 
cho vai trò của phân suất tống máu thất trái lên 
tình trạng nhận thức ở bệnh nhân suy tim. 
Theo đó, tuổi cũng có mối liên quan đến tình 
trạng nhận thức ở bệnh nhân suy tim có thể là do sự 
suy giảm trong cơ chế tự điều hòa lưu lượng máu 
não, là tình trạng thường thấy ở người cao tuổi(10). 
KẾT LUẬN 
Suy giảm nhận thức là vấn đề thường gặp ở 
bệnh nhân suy tim, đa số suy giảm nhận thức 
nhẹ. Cần tầm soát và phát hiện suy giảm nhận 
thức ở bệnh nhân suy tim đặc biệt những bệnh 
nhân suy tim cao tuổi. 
Có mối liên quan giữa suy giảm nhận thức 
với tuổi, tình trạng hôn nhân không sống chung 
cùng vợ hoặc chồng và phân suất tống máu thất 
trái giảm. 
TÀI LIỆU THAM KHẢO 
1. Bennett SJ, Sauve MJ. (2003), "Cognitive deficits in patients with 
heart failure: a review of the literature", Journal of Cardiovascular 
Nursing, 18 (3), pp. 219–242. 
2. Coma M, et al (2016), "Effect of Permanent Atrial Fibrillation on 
Cognitive Function in Patients With Chronic Heart Failure", Am 
J Cardiol, 115 (2), pp. 233-239. 
3. Dardiotis E, et al (2012), "Cognitive Impairment in Heart 
Failure", Cardiology Research and Practice. 
4. Fauci AS, et al (2011), Chapter 234. Heart Failure and Cor 
Pulmonale, In Harrison's Principles of Internal Medicine, 18th 
Edition, McGraw-Hill 
5. Folstein MF, Folstein SE, McHugh PR. (1975), "Mini-mental 
state". A practical method for grading the cognitive state of 
patients for the clinician", J Psychiatr Res, 12(3), pp. 189-198. 
6. Ghanbari A, et al (2013), "The Study of Cognitive Function and 
Related Factors in Patients With Heart Failure", Nursing and 
Midwifery Studies, 2(1), pp. 34-38. 
7. Gorkin L, et al (1993), "Assessment of quality of life as observed 
from the baseline data of the studies of left ventricular 
dysfunction (SOLVD) trial quality of life study", Am J Cardiol 71, 
pp. 1069–1073. 
8. Krumholz HM, et al (1997), "Readmission after hospitalization 
for congestive heart failure among medicare beneficiaries", 
Archives of Internal Medicine, 157(1), pp. 99–104. 
9. Malik AS, et al (2011), "Patient perception versus medical record 
entry of healthrelated conditions among patients with heart 
failure", The American Journal of Cardiology, 107 (4), pp. 569–572. 
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 22 * Số 1 * 2018 Nghiên cứu Y học
Chuyên Đề Nội Khoa 123
10. Melamed E, Lavy S, Bentin S, Cooper G, Rinot Y. (1980), 
"Reduction in regional cerebral blood flow during normal aging 
in man", Stroke, 11, pp. 31–35. 
11. Nguyễn Kinh Quốc, Vũ Anh Nhị (2005), "Khảo sát thang điểm 
MINI-MENTAL STATE EXAMINATION (MMSE) trên người 
Việt Nam bình thường", Tạp chí Y học Thành phố Hồ Chí Minh, 9 
(1), pp. 121-126. 
12. Scahll RR, Petrucci RJ, Brozena SC, Cavarocchi NC, Jessup M. 
(1989), "Cognitive function in patients with symptomatic dilated 
cardiomyopathy before and after cardiac transplantation", J Am 
Coll Cardiol, 14, pp. 1666–1672. 
13. Vogels RLC, Scheltens P, Schroeder-Tanka JM, Weinstein HC. 
(2007), "Cognitive impairment in heart failure: a systematic 
review of the literature", European Journal of Heart Failure, 9 (5), 
pp. 440–449. 
14. Zuccalà G, et al (1997), "Left ventricular dysfunction: a clue to 
cognitive impairment in older patients with heart failure", J 
Neurol Neruosurg Psych, 63, pp. 509–512. 
15. Zuccalà G, et al (2003), "The effects of cognitive impairment on 
mortality among hospitalized patients with heart failure", The 
American Journal of Medicine, 115 (2), pp. 97-103. 
Ngày nhận bài báo: 18/11/2017 
Ngày phản biện nhận xét bài báo: 19/11/2017 
Ngày bài báo được đăng: 15/03/2018