Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 23 * Số 1 * 2019
Chuyên Đề Ngoại Khoa 195
ĐÁNH GIÁ KẾT QUẢ PHẪU THUẬT CẮT TÚI MẬT NỘI SOI 
SAU NỘI SOI MẬT TỤY NGƯỢC DÒNG 
Nguyễn Văn Định*, Nguyễn Tuấn*, Nguyễn Ngọc Thao* 
TÓM TẮT 
Mở đầu: Tỉ lệ sỏi ống mật chủ (SOMC) ở những trường hợp có sỏi túi mật (STM) chiếm khoảng 5-15%. Tỉ 
lệ biến chứng của Nội soi mật tụy ngược dòng (ERCP: Endoscopic Retrograde Cholangio-Pancreatography) 
trong điều trị SOMC khoảng 5,1%, bao gồm 1,6% viêm tụy và 0,4% tử vong liên quan đến thủ thuật này. Phẫu 
thuật cắt túi mật nội soi (CTMNS) sau ERCP có tỉ lệ biến chứng và mổ hở cao hơn do khả năng viêm dính không 
dự đoán trước được và thời điểm phẫu thuật thích hợp vẫn còn bàn cãi. 
Mục tiêu: Đánh giá kết quả phẫu thuật CTMNS sau ERCP trong điều trị sỏi ống mật chủ và sỏi túi mật. 
Phương pháp nghiên cứu: 57 trường hợp được phẫu thuật CTMNS sau ERCP trong thời gian từ tháng 
1/2016 đến tháng 7/2018 tại Bệnh viện Hoàn Mỹ Sài Gòn. 
Kết quả: Độ tuổi trung bình là 57 tuổi (25-95), tỉ lệ nữ/nam là 1,85/1. Có 39 (68,4%) trường hợp được 
phẫu thuật trước 72 giờ, 18 (31,6%) trường hợp được phẫu thuật sau 72 giờ làm ERCP. Sau ERCP có 1 
trường hợp có biến chứng chảy máu và 5 trường hợp viêm tụy. Thời gian phẫu thuật trung bình 69,3 phút. 
Không có trường hợp nào chuyển mổ hở. Không có biến chứng tụ dịch, dò mật hay tổn thương đường mật 
sau mổ. Thời gian nằm viện trung bình 4 ngày. Không có sự khác biệt về thời gian mổ, mức độ dính trong 
mổ, biến chứng, tỉ lệ chuyển mổ hở. Tuy nhiên, có sự khác biệt về thời gian nằm viện giữa nhóm phẫu thuật 
trước 72 giờ và sau 72 giờ. 
Kết luận: Phẫu thuật CTMNS sau ERCP, đặc biệt phẫu thuật sớm trước 72 giờ, trong điều trị SOMC kết 
hợp với STM là phẫu thuật an toàn, tỉ lệ biến chứng thấp, thời gian nằm viện ngắn. 
Từ khóa: cắt túi mật nội soi, Nội soi mật tụy ngược dòng, sỏi ống mật chủ, sỏi túi mật 
ABSTRACT 
OUTCOMES OF LAPAROSCOPIC CHOLECYSTECTOMY AFTER ENDOSCOPIC RETROGRADE 
CHOLANGIO-PANCREATOGRAPHY 
Nguyen Van Dinh, Nguyen Tuan, Nguyen Ngoc Thao 
* Ho Chi Minh City Journal of Medicine * Supplement of Vol. 23 - No 1- 2019: 195-200 
Background: The incidence of common bile duct stones in the patients with cholelithiasis is about 5-15%. 
The post-ERCP complication rate is about 5.1%, including: 1.6%of pancreatitis and 0.4% of mortality associated 
with this procedure. Laparoscopic cholecystectomy afterERCP has a higher rate of complications and conversing 
to open surgery because of its unpredictable adhesions and the optimal interval between ERCP and LC is 
disputed. 
Objectives: To evaluate the outcome of laparoscopic cholecystectomy post-ERCP for the treatment of 
cholecystolithiasis. 
Method: The study included 57 patients withlaparoscopic cholecystectomyafter ERCP during the period 
from January 2016 to July 2018, at Hoan My Saigon Hospital. 
Results: Mean age was 57 years (25-95), female/male ratio of 1.85/1. 39 (68.4%) patients were operated 
Khoa Tiêu hóa, Bệnh viện Hoàn Mỹ Sài Gòn 
Tác giả liên lạc Ths.Bs Nguyễn Văn Định ĐT: 0985977701 Email: 
[email protected] 
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 23 * Số 1 * 2019 Nghiên cứu Y học 
Chuyên Đề Ngoại Khoa 196
within 72 hours and 18 (31.6%) patientswere operatedupon 72 hours afterERCP. Bleeding in 1 caseand post-
ERCP pancreatitis in 5 cases are recorded. The average time of surgery was 69.3 minutes. There was no case of 
conversing to open surgery and no complication of fluid collection, bile fistula or biliary injury after surgery. The 
average hospitalization time was 4 days. There was no difference between two groups in operation time, degree of 
adhesion in surgery, complications, the rate of conversing to open surgery. However, there was a difference in 
hospitalization stay between two groups. 
Conclusion: Laparoscopic cholecystectomywithin 72 hours after ERCPin the treatment of cholecystolithiasis 
is feasible and safe with short hospital stay. 
Keywords: laparoscopic cholecystectomy, ERCP, common bile duct stones, gallstones 
ĐẶT VẤN ĐỀ 
Tỉ lệ sỏi ống mật chủ (SOMC) ở những 
trường hợp có sỏi túi mật (STM) khá cao 5-
15%(14), tại các trung tâm lớn, điều trị Nội soi mật 
tụy ngược dòng (ERCP: Endoscopic Retrograde 
Cholangio-Pancreatography) trước phẫu thuật 
cắt túi mật nội soi (CTMNS) thường được chọn 
lựa. ERCP được chỉ định trong những trường 
hợp có bằng chứng về lâm sàng và hình ảnh của 
sỏi ống mật chủ (SOMC). Tỉ lệ biến chứng của 
ERCP khoảng 5,1%, bao gồm 1,6% viêm tụy và 
0,4% tử vong liên quan đến thủ thuật này(10). 
Hầu hết các trường hợp có STM sau làm 
ERCP lấy SOMC, đều được khuyến cáo phẫu 
thuật cắt túi mật nếu tình trạng bệnh nhân cho 
phép để ngăn chặn những triệu chứng đường 
mật tái diễn(7,10,13). Tuy nhiên, phẫu thuật 
CTMNS sau ERCP có tỉ lệ biến chứng và mổ hở 
cao hơn do khả năng viêm dính không dự đoán 
trước được và thời điểm phẫu thuật thích hợp 
vẫn còn bàn cãi. CTMNS có thể thực hiện trước, 
cùng thời điểm hoặc sau ERCP. Hiệp hội Tiêu 
hóa Anh khuyến cáo nên phẫu thuật cắt túi mật 
trong vòng 2 tuần kể từ khi chẩn đoán viêm tụy 
do sỏi mật hoặc trong cùng thời diểm nhập viện 
điều trị(10). 
Tuy nhiên, phẫu thuật CTMNS sau ERCP có 
tỉ lệ biến chứng, chuyển mổ hở cao hơn và thời 
gian thích hợp để phẫu thuật vẫn chưa rõ ràng. 
Vì vậy, chúng tôi thực hiện đề tài này nhằm 
đánh giá kết quả phẫu thuật CTMNS sau ERCP, 
so sánh và đánh giá kết quả phẫu thuật trước 72 
giờ và sau 72 giờ làm ERCP. 
ĐỐI TƯỢNG - PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU 
Đối tượng nghiên cứu 
Mô tả loạt ca. 
Phương thức nghiên cứu 
Đối tượng nghiên cứu bao gồm những 
trường hợp nhập viện và điều trị tại khoa Ngoại 
Tiêu hóa, Bệnh viện Hoàn Mỹ Sài Gòn, từ tháng 
1/2016 đến tháng 7/2018, được chẩn đoán có 
STM kết hợp với SOMC qua các dữ liệu biểu 
hiện lâm sàng, xét nghiệm chức năng gan, men 
tụy, hình ảnh (Siêu âm, Chụp cắt lớp vi tính, 
Cộng hưởng từ đường mật), có chỉ định làm 
ERCP điều trị SOMC và phẫu thuật CTMNS 
trong cùng thời gian nằm viện, hoặc trong lần tái 
nhập viện, sau khi đã điều chỉnh tình trạng bệnh 
chưa cho phép phẫu thuật ngay, hoặc khi xuất 
hiện triệu chứng đường mật trở lại. 
Tiêu chuẩn loại trừ 
Những trường hợp có kèm theo u đầu tụy, u 
đoạn cuối ống mật chủ, có phẫu thuật vùng 
bụng trên trước đó hoặc đã can thiệp ERCP 
trước thời điểm nghiên cứu. 
Phân tích và xử lý số liệu 
Số liệu được thu thập bao gồm đặc điểm 
nhân chủng học, lâm sàng, cậm lâm sàng, kết 
quả ERCP, kết quả phẫu thuật. Mức độ dính 
trong mổ được đánh giá dựa vào thang điểm 
của Huge và cộng sự (cs): Độ 1: không dính; Độ 
2: dính nhẹ; Độ 3: dính nặng, bao bọc lấy túi mật; 
Độ 4: dính rất nặng, bao gồm các cấu trúc xung 
quanh(14). Số liệu thu thập được chia làm 2 nhóm: 
Nhóm được phẫu thuật trước 72 giờ và nhóm 
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 23 * Số 1 * 2019
Chuyên Đề Ngoại Khoa 197
được phẫu thuật sau 72 giờ sau làm ERCP(6). Kết 
quả được xử lý trên phần mềm thống kê SPSS 
20.0, sử dụng các phép kiểm định χ2 và 
ANOVA, với p<0,05 được xem là khác biệt có ý 
nghĩa thống kê. 
KẾT QUẢ 
Từ tháng 1/2016 đến tháng 7/2018, có 57 
trường hợp nhập viện có chẩn đoán SOMC kết 
hợp với STM và được phẫu thuật CTMNS sau 
ERCP lấy SOMC, với độ tuổi trung bình là 57 
±18,6 tuổi (25-95 tuổi), tỉ lệ nữ/nam: 1,85/1. Có 39 
(68,4%) trường hợp được phẫu thuật CTMNS 
trong vòng 72 giờ và 18 (31,6%) trường hợp 
được phẫu thuật CTMNS sau 72 giờ làm ERCP. 
Không có sự khác biệt về độ tuổi và giới giữa 2 
nhóm nghiên cứu (Bảng 1). 
Kết quả cho thấy không có sự khác biệt về số 
lượng bạch cầu, nồng độ bilirubin, SGOT, SGPT 
trước mổ giữa 2 nhóm. Có sự khác biệt về nồng 
độ amylase trước mổ giữa hai nhóm (p = 0,014), 
với nồng độ amylase trung bình là 431±1005,1 
U/L (Bảng 2). 
Trong những trường hợp chỉ định làm ERCP 
thì 100% chỉ định do tình trạng nhiễm trùng 
đường mật do SOMC, 43,6% có viêm túi mật cấp 
và 14% có viêm tụy cấp trước ERCP (Bảng 3). 
Kết quả ERCP cho thấy có 51 trường hợp 
(89,5%) có sỏi, có 7 trường hợp (12,2%) đặt stent 
đường mật do không lấy sạch sỏi trong ERCP 
lần 1, sau đó được làm ERCP lần 2 lấy stent và 
tiếp tục lấy sỏi ống mật chủ. Có 01 trường hợp 
có biến chứng chảy máu sau ERCP và 5 trường 
hợp viêm tụy (Bảng 4). 
Thời gian trung bình giữa ERCP và phẫu 
thuật CTMNS trung bình là 9 ngày (1-132 ngày). 
Không có sự khác biệt về thời gian phẫu thuật 
giữa 2 nhóm với thời gian phẫu thuật trung bình 
69,3 phút (30-150 phút). Không có sự khác biệt 
về mức độ dính trong mổ và không có trường 
hợp nào phải chuyển mổ hở (Bảng 5). 
Biến chứng sau mổ xảy ra ở 4 trường hợp 
(7%), bao gồm viêm phổi và nhiễm trùng đường 
mật. Không có biến chứng dò mật hay tổn 
thương đường mật, không có trường hợp nào tử 
vong sau mổ. Thời gian nằm viện trung bình là 4 
ngày, ở nhóm phẫu thuật sau 72 giờ có thời gian 
nằm viện lâu hơn (p = 0,043) (Bảng 6). 
Bảng 1. Đặc điểm chung của đối tượng nghiên cứu 
 Trước 72 
giờ (n = 39) 
Sau 72 giờ 
(n = 18) 
p 
Tuổi 53,8 ± 17,8 63,8 ± 18,1 0,670 
Giới: Nữ 
 Nam 
26 
13 
11 
7 
0,684 
Bệnh kèm 
Tăng huyết áp, Bệnh 
tim mạch 
8 10 
Đái tháo đường 3 6 
Bệnh thận mạn 1 1 
COPD 0 1 
Viêm phổi 0 1 
Suy giáp 1 0 
Nhồi máu não 0 1 
Bảng 2. Đặc điểm cận lâm sàng 
 Trước 72 giờ Sau 72 giờ Trung bình p 
Bạch cầu (10
9
/L) 11,07±5,09 12,7±5,03 11,6±5,0 0,940 
Bilirubin (µmol/L) 45,9±44,7 46,6±34,0 46,1±44,3 0,850 
Amylase (U/L) 332,8±735,5 665,4±1425,9 431±1005,1 0,014 
SGOT (U/L) 241,8±2235,5 168,4±132,4 218,7±210,4 0,222 
SGPT (U/L) 268,8±212,6 211,9±229,7 250,7±217,8 0,800 
Bảng 3. Tình trạng lâm sàng trước ERCP 
 Trước 72 giờ (n = 39) Sau 72 giờ (n = 18) Tổng (n = 57) p 
Nhiễm trùng đường mật, Sỏi ống mật chủ 39 18 57 (100%) - 
Viêm túi mật cấp 18 7 25 (43,8%) 0,607 
Viêm tụy cấp 5 3 8 (14%) 0,698 
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 23 * Số 1 * 2019 Nghiên cứu Y học 
Chuyên Đề Ngoại Khoa 198
Bảng 4. Kết quả ERCP điều trị SOMC 
 Trước 72 giờ (n = 39) Sau 72 giờ (n = 18) Tổng (n = 57) p 
Có sỏi 33 18 51 (89,5%) 0,079 
Stent đường mật 2 5 7 (12,2%) 0,015 
Cháy máu 0 1 1 (0,16%) - 
Viêm tụy 3 2 5 (8,8%) 0,671 
Bảng 5. Kết quả phẫu thuật CTMNS sau ERCP 
 Trước 72 giờ (n = 39) Sau 72 giờ (n=18) Tổng (n=57) p 
Thời gian mổ 68,3± 28,7 71,6 ± 25,8 69,3 ± 29,3 0,561 
Mức độ dính trong mổ 
1 19 8 27 
0,847 
2 13 5 18 
3 6 4 10 
4 1 1 2 
Dẫn lưu 19 9 28 (50%) 0,928 
Buộc ống túi mật 22 12 34 (59,6%) 0,463 
Bảng 6. Kết quả sau phẫu thuật CTMNS 
 Trước 72 giờ Sau 72 giờ Tổng p 
Biến chứng sau mổ 
Nhiễm trùng đường mật 1 2 3 
Viêm phổi 1 0 1 
Thời gian nằm viện (ngày) 3,3 ± 2,04 5,3 ± 6,8 4 ± 4,2 0,043 
BÀN LUẬN 
Lâm sàng và chỉ định ERCP 
Trong nghiên cứu của chúng tôi, những 
trường hợp được làm ERCP và lấy sạch SOMC, 
sau ERCP nếu tình trạng tắc mật giảm, viêm tụy 
sau ERCP ổn và tình trạng bệnh nhân cho phép 
sẽ được tiến hành phẫu thuật CTMNS sớm. 
Những trường hợp đặt stent đường mật do 
không lấy hết sỏi sẽ được xem xét làm ERCP lần 
2 rút stent và lấy SOMC nếu không có tình trạng 
viêm túi mật cấp. Trường hợp có viêm túi mật 
cấp với triệu chứng nhiễm trùngdiễn tiến nặng 
hơn sẽ được phẫu thuật CTMNS sớm. 
Nhiều nghiên cứu khuyến cáo nên phẫu 
thuật cắt túi mật trong vòng 6 tuần đầu sau 
ERCP nhằm làm giảm nguy cơ của các biến 
chứng đường mật(1). Tuy nhiên, thời gian thích 
hợp nhất vẫn chưa rõ ràng, việc cắt túi mật 
sớm cũng cho thấy là ít thách thức hơn và có 
thể được thực hiện mà không có những diễn 
tiến bất lợi nào(10). 
Phẫu thuật CTMNS sau ERCP có thời gian 
phẫu thuật kéo dài hơn và khó khăn hơn so với 
CTMNS mà trước đó chưa can thiệp ERCP, và 
cần được thực hiện bởi những PTV có kinh 
nghiệm(7). Mức độ khó trong mổ là giống nhau 
theo thời giam sau ERCP nên không có lý do gì 
để trì hoãn phẫu thuật(12). CTMNS có thể thực 
hiện đồng thời ngay sau khi làm ERCP, tuy 
nhiên, cách tiếp cận này có một số hạn chế là 
phẫu trường hẹp do ruột trướng hơi ngay sau 
khi làm ERCP và chỉ được thực hiện ở vài trung 
tâm. CTMNS sau ERCP được xem là cách tiếp 
cận được chấp nhận phổ biến trên thể giới. Theo 
một số nghiên cứu, việc phẫu thuật sớm trong 
vòng 48-72 giờ cho kết quả tốt, một số khác cho 
rằng nên phẫu thuật trì hoãn để vùng túi mật đỡ 
viêm và có thời gian phục hồi sau đợt cấp(14). 
Hiệp hội Tiêu hóa Anh khuyến cáo nên phẫu 
thuật cắt túi mật trong vòng 2 tuần kể từ khi 
chẩn đoán viêm tụy do sỏi mật hoặc trong cùng 
thời diểm nhập viện điều trị(10). Theo Anadi, 
nghiên cứu 167 trường hợp CTMNS sau ERCP, 
thời gian giữa ERCP và phẫu thuật cắt túi mật 
chương trình trung bình là 7 tuần, trong thời 
gian chờ phẫu thuật có 20% trường hợp xuất 
hiện những biến chứng về đường mật như: viêm 
túi mật cấp (11%), sỏi ống mật chủ tái phát (5%), 
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 23 * Số 1 * 2019
Chuyên Đề Ngoại Khoa 199
nhiễm trùng đường mật (2%) và viêm tụy cấp do 
sỏi mật (1%). Thời gian phẫu thuật trước 1 tuần 
làm giảm nguy cơ biến chứng về đường mật và 
giảm thời gian nằm viện(3). 
Trong nghiên cứu của chúng tôi, thời gian 
phẫu thuật CTMNS được ưu tiên thực hiện sớm 
sau ERCP khi tình trạng đường mật, biến chứng 
sau ERCP (viêm tụy, chảy máu đường mật, ) 
ổn định và tình trạng bệnh nhân cho phép phẫu 
thuật cắt túi mật. Thời gian trung bình là 9 ngày 
(1-132 ngày). Kết quả cho thấy không có sự khác 
biệt về mức độ dính trong mổ, biến chứng phẫu 
thuật giữa nhóm phẫu thuật trước 72 giờ và sau 
72 giờ. Theo Salman, phẫu thuật sớm trước 72 
giờ cho kết quả tốt hơn, có lẽ liên quan tới quá 
trình viêm nhiễm(5,6,7,11). 
Theo Nair và cs, thời gian phẫu thuật sau 
ERCP trung bình là 4,1 tuần và không có sự khác 
biệt về thời gian phẫu thuật, tỉ lệ chuyển mổ 
hở(12). Tuy nhiên, cũng có một số nghiên cứu cho 
thấy CTMNS ngay cùng thời điểm ERCP cũng 
cho thấy an toàn và ít nguy cơ biến chứng(9). 
Đối với những trường hợp <75 tuổi thì 
CTMNS được khuyến cáo thực hiện sau ERCP, 
đặc biệt là những trường hợp có nguy cơ tái phát 
những biến chứng về đường mật. Đối với những 
trường hớp >75 tuổi mà nguy cơ dự đoán tái 
phát những biến chứng đường mật thấp thì nên 
theo dõi(8). 
Theo Robert và cs, tỉ lệ tái phát triệu chứng 
đường mật trong thời gian chờ phẫu thuật cắt 
túi mật cao gấp 10 lần ở nhóm cắt túi mật muộn 
so với nhóm được phẫu thuật sớm(13). Phẫu thuật 
CTMNS cấp cứu có thể được thực hiện hiệu quả 
và an toàn trong những trường hợp có viêm tụy 
nhẹ. Mổ cắt túi mật chương trình có thể làm tăng 
nguy cơ biến chứng sau ERCP, kéo dài thời gian 
nằm viện, tăng nguy cơ chảy máu và tỉ lệ chuyển 
mổ hở(10). Lý do làm tăng những nguy cơ này 
vẫn chưa được làm rõ, có thể do mức độ nặng 
của bệnh lý túi mật do sỏi hoặc hậu quả thứ phát 
của ERCP. 
Kết quả phẫu thuật cắt túi mật nội soi 
Trong nghiên cứu của chúng tôi không thấy 
sự khác biệt về mức độ dính trong mổ giữa 2 
nhóm. Có 2 trường hợp viêm dính rất nhiều 
vùng tam giác Calot, trong mổ không nhận diện 
được cấu trúc ống mật chủ hay túi mật và được 
cắt túi mật bán phần. Mức độ viêm dính sau 
ERCP-ES được cho là do dùng thuốc cản quang, 
tổn thương cơ vòng Oddi, dẫn tới sự định cư của 
vi khuẩn ở ống mật chủ, sự viêm nhiễm và sẹo 
hóa của dây chằng gan-tá tràng. Giả thuyết này 
được củng cố bởi một số nghiên cứu cho thấy 
rằng dịch mật của những bệnh nhân đã cắt cơ 
vòng bị nhiễm vi khuẩn khoảng 60% trường 
hợp(1,7,12). Mức độ bám dính thường tối đa trong 
khoảng 4-6 tuần(1). Do đó, tỉ lệ biến chứng, 
chuyển mổ hở ở những trường hợp CTMNS sau 
cắt cơ vòng Oddi cao hơn những trường hợp 
không cắt cơ vòng(2). Tác giả Vries, nghiên cứu 
83 trường hợp CTMNS sau ERCP, tỉ lệ chuyển 
mổ hở ở nhóm mổ sau ERCP 2-6 tuần cao hơn 
nhóm mổ trong vòng 2 tuần(4). 
Tác giả Gerges, nghiên cứu 99 trường hợp 
CTMNS sau ERCP 2 tuần nhằm đánh giá những 
khó khăn trong mổ. Mức độ dính ở vùng tam 
giác Calot: độ I: 27; độ II: 42; độ III:18 và độ IV: 
12 trường hợp; tỉ lệ chuyển mổ hở là 33%; tỉ lệ tử 
vong là 3%. Tác giả khuyến cáo nên thực hiện 
CTMNS đồng thời hoặc sau ERCP trong vòng 1 
tuần, trường hợp phẫu thuật sau 1 tuần nên 
được thực hiện bởi những phẫu thuật viên có 
kinh nghiệm(1,6,7,13). 
Theo Gorla và cs, nghiên cứu trên 50 trường 
hợp CTMNS sau ERCP, thời gian thích hợp để 
phẫu thuật là trước 3 ngày. Mức độ dính trong 
mổ, tổn thương đường mật, đặt dẫn lưu, thời 
gian phẫu thuật là cao hơn ở nhóm phẫu thuật 
muộn sau 3 ngày(12). 
Theo Sahu và cs, nghiên cứu 77 trường hợp 
CTMNS sau ERCP cho thấy CTMNS có thể thực 
hiện an toàn trong vòng 24 giờ sau ERCP, cho 
kết quả tốt và ít chi phí hơn. Thời điểm phẫu 
thuật sau ERCP không liên quan đến kết quả 
phẫu thuật(14). Kết quả cũng cho thấy không có 
sự khác biệt về thời gian mổ trung bình, mức độ 
dính quanh túi mật, đặt dẫn lưu, nhưng có sự 
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 23 * Số 1 * 2019 Nghiên cứu Y học 
Chuyên Đề Ngoại Khoa 200
khác biệt về thời gian nằm viện và chi phí giữa 
nhóm phẫu thuật trước 24 giờ; trước 7 ngày; 
trước 28 ngày và sau 28 ngày(14). 
Tỉ lệ chuyển mổ hở liên quan đến túi mật sau 
ERCP cao gấp 6 lần so với phẫu thuật CTMNS ở 
những trường hợp sỏi mật không biến chứng(7). 
Theo Allen và cs, nồng độ bilirubin trước ERCP-
ES >5mg/dL là yếu tố tiên lượng chuyển mổ hở 
với giá trị tiên đoán dương tính là 63%, giúp ích 
trong việc tiên lượng mức độ thành công của 
phẫu thuật CTMNS(2). Theo Sahu, các yếu tố liên 
quan đến mức độ khó của phẫu thuật bao gồm: 
nam giới, nồng độ bilirubin, thời gian làm ERCP, 
túi mật co nhỏ và sỏi có kích thước lớn (>15mm 
trên siêu âm)(14). 
Nghiên cứu của chúng tôi có thời gian nằm 
viện trung bình 4 ngày, thời gian nằm viện ở 
nhóm phẫu thuật sớm ngắn hơn sơ với nhóm 
phẫu thuật sau 72 giờ. 
KẾT LUẬN 
Kết quả nghiên cứu của chúng tôi cho thấy 
phẫu thuật cắt túi mật nội soi sau ERCP có thể 
thực hiện an toàn và nguy cơ biến chứng sau mổ 
thấp. Đặc biệt phẫu thuật sớm trước 72 giờ sau 
ERCP giúp rút ngắn thời gian nằm viện. 
TÀI LIỆU THAM KHẢO 
1. Ahn KS, Kim YH, Kang KJ et al (2015). Impact of 
Preoperative ERCP on Laparoscopic Cholecystectomy: A 
Case-Controlled Study with Propensity Score Matching. 
World J Surg, 39(9): 2235-42. 
2. Allen NL, Leeth RR, Finan KR et al (2006). Outcomes of 
cholecystectomy after endoscopic sphincterotomy for 
choledocholithiasis. J Gastrointest Surg, 10(2): 292-6. 
3. Besselink MG, Boerma D, Schiphorst AH et al (2008). Timing 
of cholecystectomy after endoscopic sphincterotomy for 
common bile duct stones. Surg Endosc, 22:2046–50. 
4. De Vries A, Donkervoort SC, Geloven AA, Pierik EG (2006). 
Conversion rate of laparoscopic cholecystectomy after 
endoscopic retrograde cholangiography in the treatment of 
choledocholithiasis: does the time interval matter? Surg 
Endosc, 20(12): 1932. 
5. Gerges SS, El-Atrebi AK (2015). Difficulty of Delayed 
Laparoscopic Cholecystectomy After Endoscopic Retrograde 
Cholangiography Management of Choledocholithiasis. 
Journal of GHR, 4(12): 1873-6. 
6. Gorla GPR, Augustine AJ et al (2014). Optimal Timing of 
Laparoscopic Cholecystectomy After Endoscopic Retrograde 
Cholangiopancreatography. J Curr Surg, 4(2):35-9. 
7. Gouma DJ, Reinders JSK, Heisterkamp J, et al (2013). 
Laparoscopic cholecystectomy is more difficult after a 
previous endoscopic retrograde cholangiography. HPB, 
15:230–4. 
8. Lai JH, Chen CJ, Chu CH et al (2017). Cholecystectomy after 
Sphincterotomy for Preventing Recurrence in Elderly 
Patients with Acute Cholangitis. International Journal of 
Gerontology, 11: 182-1855. 
9. Mallick R, Rank K, Ronstrom C et al (2016). Single-session 
laparoscopic cholecystectomy and ERCP: a valid option for 
the management of choledocholithiasis. Gastrointestinal 
Endoscopy, 8(4):639-45. 
10. Mann K, Belgaumkar AP, Singh S et al (2013). Post–
Endoscopic Retrograde Cholangiography Laparoscopic 
Cholecystectomy: Challenging but Safe. Journal of the Society 
of Laparoendoscopic Surgeons, 17: 371–5. 
11. Matar Z (2006). Immediate Versus Interval Laparoscopic 
Cholecystectomy Post ERCP Regarding Safety. Outcome 
And Cost. Internet Journal of Surgery, 12(2):9716. 
12. Nair SR, Kamble R. (2016). A study to assess the outcome of 
patients undergoing laparoscopic cholecystectomy post 
ERCP, 3(3): 1318-21. 
13. Robert JH, Barakat MT, Girotra M, Banerjee S et al (2017). 
Practice Patterns for Cholecystectomy After Endoscopic 
Retrograde Cholangiopancreatography for Patients With 
Choledocholithiasis. Gastroenterology; 153: 762–71. 
14. Sahu D, Mathew MJ, Reddy PK, (2015). Outcome in Patients 
Undergoing Laparoscopic Cholecystectomy Following 
ERCP; Does Timing of Surgery Really Matter? J Minim 
Invasive Surg Sci, 4(1): e25226. 
15. Salman B, Yilmaz U, Et al (2009). The timing of laparoscopic 
cholecystectomy after endoscopic retrograde 
cholangiopancreaticography in cholelithiasis coexisting with 
choledocholithiasis. J Hepatobiliary Pancreat Surg, 16(6): 832-6. 
Ngày nhận bài báo: 08/11/2018 
Ngày phản biện nhận xét bài báo: 07/12/2018 
Ngày bài báo được đăng: 10/03/2019