Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 22 * Số 1 * 2018
Chuyên Đề Sức Khỏe Sinh Sản – Bà Mẹ Trẻ Em 360
ĐÁNH GIÁ KẾT QUẢ NGẮN HẠN PHẪU THUẬT SỬA CHỮA TRIỆT ĐỂ 
TỨ CHỨNG FALLOT TUỔI NHŨ NHI 
Nguyễn Kinh Bang*, Nguyễn Hải Âu*, Nguyễn Quang Thiện*, Đinh Quang Lê Thanh*, Vũ Minh Phúc**, 
Nguyễn Hoàng Định**. 
TÓM TẮT 
Mở đầu: Tứ chứng Fallot là tật tim bẩm sinh tím thường gặp, tỉ lệ tử vong cao nếu không được phẫu thuật 
sớm. Ngày nay phẫu thuật một thì sớm cho bệnh nhân tứ chứng Fallot đã được tiến hành ở nhiều nơi trên thế 
giới và ghi nhận kết quả tương đương hoặc tốt hơn so với phẫu thuật hai thì. Tại Việt Nam chưa có báo cáo nào về 
phẫu thuật triệt để cho bệnh nhân tứ chứng Fallot dưới 12 tháng tuổi. Nghiên cứu này nhằm mục tiêu đánh giá 
kết quả ngắn hạn phẫu thuật sửa chữa triệt để tứ chứng Fallot tuổi nhũ nhi. 
Đối tượng và phương pháp nghiên cứu: Nghiên cứu can thiệp không nhóm chứng thực hiện tại bệnh viện 
Nhi Đồng 1 từ tháng 03/2016 đến tháng 06/2017 trên 54 bệnh nhân TOF dưới 12 tháng tuổi. 
Kết quả: Có 24 trường hợp (44,4%) có SpO2 < 80%, cơn tím 29,6%. Vòng van động mạch phổi Z ≥ -2 
31,5%, Z < -2 68,5%, không có sự khác biệt về kích thước vòng van giữa hai nhóm trên và dưới 6 tháng tuổi. Bảo 
tồn van động mạch phổi 64,8%, TAP dưới 10mm 25,9%, và TAP trên 10mm 9,3%. Các biến chứng sau mổ gồm 
hội chứng cung lượng tim thấp 29,6%, tổn thương thận cấp 7,4%, phù phổi cấp 1,85%, nhịp nhanh bộ nối lạc 
chỗ 24,1%, liệt cơ hoành 3,7%, viêm phổi 50%. Tử vong 1,85%. Kết quả theo dõi 30 ngày sau mổ không có 
trường hợp nào suy tim, hở van động mạch phổi nặng, cũng như hẹp tồn lưu đường thoát thất phải nặng. 
Kết luận: Phẫu thuật tiếp cận qua đường nhĩ phải và động mạch phổi với chiến lược bảo tồn van động mạch 
phổi và mở rộng xuyên vòng van tối thiểu được thực hiện một cách dễ dàng và thuận lợi cho tất cả bệnh nhân 
trong nghiên cứu với tỉ lệ bảo tồn vòng van động mạch phổi khá cao, tỉ lệ tử vong và biến chứng trong giai đoạn 
hồi sức và theo dõi ngắn hạn sau mổ thấp. 
Từ khóa: Tứ chứng Fallot, nhũ nhi, tim bẩm sinh. 
ABSTRACT 
EARLY OUTCOME OF PRIMARY REPAIR OF TETRALOGY OF FALLOT IN INFANTS 
Nguyen Kinh Bang, Nguyen Hai Au, Nguyen Quang Thien, Dinh Quang Le Thanh, Vu Minh Phuc, 
Nguyen Hoang Dinh * Y Hoc TP. Ho Chi Minh * Supplement Vol. 22 - No 1- 2018: 360 - 366 
Background: Tetralogy of Fallot is a common cyanotic congenital heart disease with high mortality if 
untreated early. Primary repair has been favored in many centers for years now and results seem to be compared 
with two stage approach. The aim of this study was to evaluate the early outcome of primary repair of tetralogy of 
Fallot in infants. 
Method: Between March, 2016 and June, 2017, 54 patients underwent primary repair by transatrial 
transpulmonary approach at Nhi Đong 1 hospital. 
Results: There were 44.4% of patients with severe cyanosis, 29.6% blue spell. Pulmonary annulus had Z ≥ -
2 in 31.5%, Z < -2 in 68.5%. Pulmonary valve preservation were occurred in 64.8%, TAP < in 25.9%, and TAP 
> 10mm in 9.3%. LCOS 29.6%, acute renal injury 7.4%, pulmonary edema 1.85%, JET 24.1%, diaphragmatic 
* Bệnh viện Nhi Đồng 1, Khoa Ngoại Tổng hợp ** ĐHYD TPHCM 
Tác giả liên lạc: Nguyễn Kinh Bang ĐT: 0937575850 Email: 
[email protected] 
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 22 * Số 1 * 2018 Nghiên cứu Y học
Chuyên Đề Sức Khỏe Sinh Sản – Bà Mẹ Trẻ Em 361
palsy 3.7%, and pneumonia in 50%. Mortality was 1.85%. There were no significant RVOT obstruction, 
pulmonary insufficiency, and tricuspid regurgitation in 30 days follow up. 
Conclusion: Early primary repair of TOF in the 1st year of life can be recommended, there seem no 
significant mortality and morbidity in short term follow up. 
Keywords: tetralogy of Fallot, infant, congenital heart disease. 
MỞ ĐẦU 
Tứ chứng Fallot là dị tật thường gặp nhất 
trong nhóm bệnh tim bẩm sinh tím, chiếm từ 
5% - 10% các dị tật tim bẩm sinh(16). Bệnh 
thường có biểu hiện tím ngay từ những tháng 
đầu sau sinh với diễn tiến nặng dần theo tuổi, 
gây ảnh hưởng rất lớn đến sự phát triển thể 
chất, tinh thần và hoạt động của trẻ. Nếu 
không được can thiệp phẫu thuật, 25% trẻ bị 
tứ chứng Fallot sẽ tử vong trong vòng một 
năm đầu sau sinh do nhiều biến chứng nặng 
gây nên bởi tình trạng thiếu dưỡng khí(3).. 
Ngày nay phẫu thuật một thì sớm cho bệnh 
nhân tứ chứng Fallot đã được tiến hành ở nhiều 
nơi trên thế giới và ghi nhận kết quả tương 
đương hoặc tốt hơn so với phẫu thuật hai thì. 
Tuy nhiên, thời điểm nào là tối ưu để tiến hành 
phẫu thuật triệt để và kết quả phẫu thuật vẫn 
chưa được thống nhất(2,25). Tại Việt Nam, theo các 
báo cáo trước đây thì phẫu thuật triệt để được 
chỉ định cho bệnh nhân có cân nặng và tuổi lớn, 
đối với bệnh nhân nhũ nhi có triệu chứng sẽ 
được phẫu thuật tạm thời và chờ đợi cho bệnh 
nhân đến giai đoạn được cho là an toàn mới 
phẫu thuật triệt để(9,18,20,21,22). Chúng tôi nhận thấy 
chưa có báo cáo nào về phẫu thuật triệt để cho 
bệnh nhân tứ chứng Fallot dưới 12 tháng tuổi. Vì 
vậy chúng tôi đã tiến hành nghiên cứu nàytại 
bệnh viện Nhi Đồng 1 với mục tiêu đánh giá kết 
quả ngắn hạnphẫu thuật sửa chữa triệt để tứ 
chứng Fallot tuổi nhũ nhi. 
ĐỐI TƯỢNG - PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU 
Đối tượng nghiên cứu 
Tất cả bệnh nhân tứ chứng Fallot dưới 12 
tháng tuổi được chẩn đoán và phẫu thuật sửa 
chữa triệt để tại Khoa Tim Mạch Bệnh Viện Nhi 
Đồng 1 Thành Phố Hồ Chí Minh từ tháng 
03/2016 đến tháng 06/2017. 
Tiêu chuẩn chọn bệnh 
Bệnh nhân tứ chứng Fallotcó tuổi dưới 12 
tháng vào thời điểm phẫu thuật. 
Được phẫu thuật sửa chữa triệt để bởi cùng 
một ê kíp. 
Không phân biệt tuổi, giới tính, nơi cư trú, và 
kết quả phẫu thuật. 
Tiêu chuẩn loại trừ 
Tứ chứng Fallot thể không van động mạch 
phổi. 
Tứ chứng Fallot có kèm các tổn thương tim 
bẩm sinh phức tạp khác: Ebstein, kênh nhĩ thất. 
Bệnh nhân có dị tật ngoài tim khác phối hợp 
có thể đe doạ tính mạng. 
Bệnh nhân đã có can thiệp phẫu thuật tạm 
thời trước đó. 
Thiết kế nghiên cứu 
Nghiên cứu can thiệp không nhóm chứng 
Quy trình phẫu thuật 
Quy trình điều trị phẫu thuật được thực hiện 
theo cùng một phác đồ về chẩn đoán, gây mê, 
phẫu thuật, tuần hoàn ngoài cơ thể, hồi sức và 
theo dõi hậu phẫu đã được thông qua hội đồng 
khoa học công nghệ của bệnh viện Nhi Đồng 1. 
Phẫu thuật triệt để tứ chứng Fallot qua 
đường mở nhĩ phải và động mạch phổi 
Mở xương ức đường giữa, thiết lập tuần 
hoàn ngoài cơ thể với cannula động mạch chủ và 
tĩnh mạch chủ trên và dưới. Qua đường mở nhĩ 
phải và lỗ van ba lá, cắt cơ thành trước phễu thất 
phải và bè cơ hướng thành. Qua đường mở dọc 
thân động mạch phổi thám sát van và vòng van 
động mạch phổi. Giải phóng mép van ra khỏi 
thành động mạch, xẻ dọc mép van xuống sát 
vòng van. Phẫu tích cắt bỏ tất cả các mô xơ dưới 
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 22 * Số 1 * 2018
Chuyên Đề Sức Khỏe Sinh Sản – Bà Mẹ Trẻ Em 362
vòng van. Đóng thông liên thất bằng màng ngoài 
tim qua đường mở nhĩ phải và kết hợp qua 
đường mở động mạch phổi nếu cần. 
Khi vòng van động mạch phổi nhỏ với chỉ số 
Z <– 2, chỉ định mở rộng xuống qua vòng van và 
xẻ vào phễu thất phải hạn chế đến mức tối thiểu. 
Miếng vá màng ngoài tim xuyên vòng van được 
sử dụng để mở rộng đường thoát thất phải. 
Miếng vá nhân tạo Goretex 0,1mm được sử 
dụng để tạo hình van động mạch phổi tránh hở 
van động mạch phổi sau phẫu thuật trong 
trường hợp đường xẻ vào phễu thất phải > 
10mm hoặc lá van động mạch phổi thiểu sản 
nặng, đặc biệt trên những bệnh nhân có các 
nhánh động mạch phổi kích thước nhỏ. Khi 
nhánh động mạch phổi có kích thước nhỏ, 
miếng vá màng ngoài tim được sử dụng để mở 
rộng lên đến các động mạch phổi. 
Phương pháp thống kê 
Số liệu thống kê được xử lý bằng phần mềm 
SPSS 21.0. 
Các biến số liên tục trước phẫu thuật và sau 
phẫu thuật được mô tả bằng số trung bình ± độ 
lệch chuẩn. Các biến số liên tục không tuân theo 
phân phối chuẩn được mô tả bằng số trung vị và 
khoảng tứ phân vị [tứ phân vị thứ nhất; tứ phân 
vị thứ ba]. Các biến số phân loại trước phẫu 
thuật và sau phẫu thuật được mô tả bằng tần 
suất và tỉ lệ phần trăm. 
KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU 
Từ tháng 03 năm 2016 đến tháng 06 năm 
2017, chúng tôi ghi nhận có 54 trường hợp 
bệnh nhân tứ chứng Fallot được phẫu thuật 
sửa chữa triệt để có đủ tiêu chuẩn chọn mẫu. 
Kết quả sau thu thập dữ liệu từ nhóm bệnh 
nhân này như sau. 
Đặc điểm dịch tễ 
Tuổi: 2- 12 tháng, trung bình 7,4± 2,7 tháng 
tuổi. Trong đó 19 trường hợp ≤ 6 tháng (35,2%) 
và 35 trường hợp > 6 tháng (64,8%). 
Giới tính: 32 nam và 22 nữ (tỉ lệ nam:nữ là 
1,45:1). 
Cân nặng: trung bình 6,8± 1,6 kg, nhỏ nhất 4 
kg, lớn nhất 11kg. 
Đặc điểm lâm sàng – cận lâm sàng 
Độ bảo hoà oxy máu ngoại biên (SpO2): 51% 
- 98%, trung bình 80,6 ± 10,8%. Trong đó 24 
trường hợp (44,4%) có SpO2 < 80%. 
Bảng 1. Liên quan giữa cơn tím và nhóm tuổi* 
 Nhóm tuổi 
≤ 6 tháng đến > 6 
tháng 
Tổng 
Cơn tím Có 10 (52,6%) 6 (17,1%) 16 (29,6%) 
 Không 9 (47,4%) 29 (82,9%) 38 (70,4%) 
Tổng 19 (100%) 35 (100%) 54 (100%) 
* 2= 7,439, p = 0,006. 
Hct trung bình 40,7± 7,4%, thấp nhất 25,2%, 
cao nhất 61,6%.Hb trung bình 13,5 ± 2,4g/dl, thấp 
nhất 7,9g/dl, cao nhất 19,6g/dl. 
Đặc điểm hình thái tứ chứng Fallot 
Thông liên thất quanh màng 52 trường 
hợp (96,3%), dưới hai đại động mạch 2 trường 
hợp (3,7%). 
Phễu thất phải 
Đường kính của phễu thất phải (đo chỗ hẹp 
nhất) trung bình 4,9± 1,6mm, nhỏ nhất 2mm, lớn 
nhất 10mm. 
Vòng van động mạch phổi 
Chỉ số Z trung bình là -2,77± 0,29, nhỏ nhất là 
-8,07, lớn nhất là 2,28. Trong đó 17 trường hợp Z 
≥ -2 (31,5%), và 37 trường hợp Z < -2 (68,5%) 
Van động mạch phổi (Bảng 2) 
Bảng 2. Hình thái cấu trúc van động mạch phổi 
Van ĐMP Tần suất Tỉ lệ 
Ba lá 19 35,2% 
Hai lá 33 61,1% 
Hình vòm 2 3,7% 
Thân và nhánh động mạch phổi (Bảng 3) 
Bảng 3. Kích thước thân và nhánh động mạch phổi 
ĐMP Z score Trung bình 
Thân -7,88 – 1,9 -2,52 ± 2,06 
Nhánh phải -3,85 – 1,67 -0,39 ± 1,17 
Nhánh trái -3,70 – 3,47 -0,41 ± 1,41 
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 22 * Số 1 * 2018 Nghiên cứu Y học
Chuyên Đề Sức Khỏe Sinh Sản – Bà Mẹ Trẻ Em 363
Có 5 trường hợp (9,3%), trong đó 4 trường 
hợp (7,4%) hẹp đoạn đầu nhánh động mạch phổi 
trái và một trường hợp (1,9%) thiểu sản cả hai 
nhánh động mạch phổi phải và trái. 
Đặc điểm phẫu thuật 
Thời gian phẫu thuật (Bảng 4) 
Bảng 4: Thời gian phẫu thuật (phút) 
 Thời gian Trung vị Khoảng tứ phân vị 
Phẫu thuật 125 – 400 190 172; 240 
THNCT 60 – 292 101 82,75; 128,75 
Kẹp ĐMC 24 – 118 55,5 49; 67,25 
Mở rộng đường thoát thất phải (Bảng 5) 
16 trường hợp (29,6%) đường thoát thất phải 
được mở rộng qua đường mở nhĩ phải đơn 
thuần, 38 trường hợp (70,4%) kết hợp đường mở 
nhĩ phải và động mạch phổi. Chỉ số Z của vòng 
van động mạch phổi sau khi xẻ mép van động 
mạch phổi 45 trường hợp Z ≥ -2 (83,3%), 9 
trường hợp Z < -2 (16,7%). 
Bảng 5. Phân bố các kiểu mở rộng vòng van ĐMP 
Vòng van 
ĐMP 
Nhóm tuổi 
≤ 6 tháng đến > 6 tháng 
Tổng 
Bảo tồn 16 (84,2%) 19 (54,3%) 35 (64,8%) 
TAP≤10mm 63 (15,8%) 11 (31,4%) 14 (25,9%) 
TAP>10mm 0 (0,0%) 5 (14,3%) 5 (9,3%) 
Tổng 19 (100%) 35 (100%) 54 (100%) 
* Fisher = 5,111, P = 0,057. 
Không có sự khác biệt có ý nghĩa thống kê 
về các kiểu mở rộng vòng van giữa các nhóm 
tuổi. Tất cả 5 trường hợp xẻ mở rộng phễu thất 
phải trên 10mm đều được tạo van động mạch 
phổi một lá, nhưng 1 trường hợp còn chênh áp 
cao qua van động mạch phổi (>50mmHg) nên 
được gỡ bỏ. 
Chênh áp thất phải thất trái 
Tỉ lệ áp lực tâm thu thất phải/thất trái 
trung bình sau khi ngưng tuần hoàn ngoài cơ 
thể là 0,45 ± 0,13, trong đó thấp nhất 0,24 và 
cao nhất 0,83. Có 3 trường hợp (5,56%) tỉ lệ 
ALTT TP/TT > 0,7. 
Có 8 trường hợp (14,8%) phải chạy lại tuần 
hoàn ngoài cơ thể để mở rộng thêm đường thoát 
thất phải. 
Đặc điểm hậu phẫu 
Thời gian thở máy ngắn nhất là 16 giờ, dài 
nhất là 310 giờ, trung vị là 40 giờ, khoảng tứ 
phân vị (20,75; 75,75). Trong đó có 22 trường hợp 
được rút nội khí quản sớm trước 24 giờ (40,7%). 
Thời gian hồi sức ngắn nhất là 2 ngày, dài 
nhất là 13 ngày, với trung vị là 4 ngày, khoảng tứ 
phân vị (3; 6). 
Các biến chứng sau mổ (Bảng 6) 
Bảng 6. Các biến chứng sau mổ 
Biến chứng Tấn suất Tỉ lệ 
HCCLTT 16 29,6% 
Tổn thương thận cấp 4 7,4% 
Chảy máu 8 14,8% 
Phù phổi cấp 1 1,85% 
Bloc nhĩ thất độ III 0 0% 
JET 13 24,1% 
Liệt cơ hoành 2 3,7% 
Viêm phổi 27 50% 
Tử vong sau mổ: Có 1 trường hợp tử vong 
sau mổ 13 ngày, chiếm tỉ lệ 1,85%. 
Kết quả sau xuất viện 30 ngày 
Không có trường hợp nào có biểu hiện suy 
tim khi tái khám 30 ngày sau mổ (Bảng 7) 
Bảng 7. Hở van động mạch phổi 
Hở van ĐMP Tấn suất Tỉ lệ 
Không có 27 50,9% 
Hở nhẹ 23 43,4% 
Hở trung bình 3 5,7% 
Hở nặng 0 0,0% 
Tổng 53 100% 
Bảng 8. Hẹp tồn lưu đường thoát thất phải 
Hẹp tồn lưu đường thoát thất 
phải 
Tần suất Tỉ lệ 
Không hẹp 10 18,9% 
Hẹp nhẹ 37 69,8% 
Hẹp trung bình 6 11,3% 
Hẹp nặng 0 0% 
Tổng 53 100% 
BÀN LUẬN 
Thời điểm phẫu thuật nào được cho là tối ưu 
đối với bệnh nhân tứ chứng Fallot cho đến nay 
vẫn còn tranh cãi, hiện nay trên thế giớikhuynh 
hướng phẫu thuật triệt để tứ chứng Fallot được 
chỉ định trong độ tuổi từ 6 đến 12 tháng 
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 22 * Số 1 * 2018
Chuyên Đề Sức Khỏe Sinh Sản – Bà Mẹ Trẻ Em 364
tuổi(13,16,26). Một số trung tâmchỉ định phẫu thuật 
triệt để ở giai đoạn sơ sinh và từ 3 đến 6 tháng 
tuổi cho kết quả khả quan(2,15). Trong nghiên cứu 
của chúng tôi, độ tuổi phẫu thuật đã tiếp cận với 
độ tuổi được báo cáotrên thế giới và thấp hơn rất 
nhiều so với các báo cáo trong nước hiện 
nay(12,17,21,22,23). 
Cân nặng thấp cũng là một yếu tố ảnh 
hưởng đến kết quả phẫu thuật, đặc biệt được 
quan tâm ở các báo cáo trong nước. Cân nặng 
trên 10 kg thường được cho là lựa chọnan toàn 
cho phẫu thuật tim bẩm sinh nói chung trong đó 
có tứ chứng Fallot. Điều này có lẽ không còn phù 
hợp trong giai đoạn hiện nay khi mà phẫu thuật 
timbẩm sinh đã có những bước tiến đáng kể. 
Phẫu thuật tim bẩm sinh phức tạp ở trẻ sơ sinh 
đã được thực hiện tại nhiều trung tâm trong 
nước cho kết quả khả quan thì không lí do gì tứ 
chứng Fallot phải chờ đợi cho bệnh nhân trên 
10kg mới tiến hành phẫu thuật. Nghiên cứu của 
chúng tôi cân nặng trung bình là 6,8 ± 1,6 kg, đây 
là cân nặng thấp nhất so với các báo cáo trong 
nước(12,17,19,21). 
Cơn tím là tình trạng thiếu oxy nặng cấp tính 
có thể đe doạ tính mạng hoặc để lại di chứng cho 
bệnh nhân tứ chứng Fallot nếu không được xử 
trí kịp thời. Cơn tím thường xảy ra ở những 
bệnh nhân có hẹp nặng vùng phễu thất phải 
chưa được phẫu thuật(26). Nghiên cứu của chúng 
tôi tỉ lệ bệnh nhân có cơn tím xảy ra là 29,6%, tỉ lệ 
khá cao so với các nghiên cứu khác(12,17,21). Ở bệnh 
nhân trên 12 tháng tần suất xảy ra cơn tím sẽ 
giảm dần do hiện tượng mô xơ lớp nội mạc 
trong lòng đường thoát thất phải ngày càng 
nhiều làm cho đường thoát thất phải hẹp cố định 
không bị co thắt nữa. 
Phẫu thuật sửa chữa triệt để tứ chứng Fallot 
qua đường nhĩ phải đã được báo cáo bởi 
Hudspeth vào năm 1963(11). Sau đó phương pháp 
tiếp cận này được phổ biến rộng rãi bởi 
Edmunds(7) và Kawashima(14) với các báo cáo cho 
kết quả khả quan về tỉ lệ sống còn, mức độ hở 
van động mạch phổi, và chức năng thất phải trên 
số lượng lớn bệnh nhân. Tiếp cận qua đường nhĩ 
phải để đóng thông liên thất có thể bảo tồn hình 
dạng thất phải tốt hơn bởi việc tránh phải xẻ 
rộng thất phải ngay cả khi phải xẻ xuyên vòng 
van. Chúng tôi lựa chọn phương pháp tiếp cận 
qua đường nhĩ phải và động mạch phổi cho tất 
cả các trường hợp ngay cả khi có thiểu sản lan 
toả đường thoát thất phải và không gặp khó 
khăn khi mở rộng đường thoát thất phải cũng 
như đóng thông liên thất ngay cả trên bệnh nhân 
nhỏ tuổi và nhẹ cân. 
Vòng van động mạch phổi trong các trường 
hợp chạy lại tuần hoàn ngoài cơ thể đều có Z > -
2, thậm chí gần đến mức 0 nhưng chênh áp thất 
phải/thất trái sau khi ngưng tuần hoàn ngoài cơ 
thể lần đầu lớn hơn 0,7. Như vậy việc nhận định 
vị trí hẹp tồn lưu đường thoát thất phải tại vòng 
van động mạch phổi có thể không chính xác mà 
vị trí hẹp thật sự nằm ở vùng phễu thất phải. 
Theo Osami và Van Arsdell van động mạch phổi 
có thể được bảo tồn nếu kích thước vòng van lớn 
hơn 70-80% giá trị bình thường, tác giả đã đưa ra 
chiến lược mở rộng đường thoát thất phải từng 
bước nhằm tối đa hoá khả năng bảo tồn vòng 
van động mạch phổi(26). Xẻ van và mép van động 
mạch phổi qua đường mở thân động mạch phổi, 
mở rộng thân động mạch phổi bằng mảnh vá. 
Đánh giá hẹp tồn lưu đường thoát thất phải 
bằng siêu âm thực quản và đo áp lực trực tiếp 
sau khi ngưng tuần hoàn ngoài cơ thể. Nếu áp 
lực tâm thu thất phải trên 75% áp lực hệ thống 
và có hẹp phễu thất phải thì mở rộng phễu thất 
phải bằng mảnh vá. Nếu tắc nghẽn vẫn còn tại 
vòng van động mạch phổi thì mảnh vá xuyên 
vòng van kích thước vừa phải được thực hiện. 
Với chiến lược nàytỉ lệ bảo tồn vòng van động 
mạch phổi có thể lên đến 80%. 
Những trường hợp vòng van động mạch 
phổi được xác định trong lúc mổ có chỉ số Z < -2, 
vòng van động mạch phổi sẽ được chủ động mở 
rộng ngay từ đầu.Tùy vào đánh giá về kích 
thước và cấu trúc của vùng phễu, vòng van, và lá 
van, chiều dài đoạn mở rộng từ vòng van động 
mạch phổi xuống phễu thất phải sẽ khác nhau, 
từ 5 – 10mm hay trên 10mm. Giannopoulos đã 
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 22 * Số 1 * 2018 Nghiên cứu Y học
Chuyên Đề Sức Khỏe Sinh Sản – Bà Mẹ Trẻ Em 365
báo cáo kĩ thuật này nhằm mục đích hạn chế việc 
xẻ phễu thất phải, bảo tồn chức năng thất phải 
và van động mạch phổi(8). 
Hội chứng cung lượng tim thấp hầu hết xuất 
hiện trong ngày đầu sau mổ, và đáp ứng tốt với 
điều trị bảo tồn với vận mạch, bù dịch, và chế độ 
thở máy thích hợp. Một trường hợp giảm cung 
lượng timnặng kéo dài cần phải mổ lại để mở 
rộng hai nhánh động mạch phổi và mở lại thông 
liên thất, sau mổ hội chứng cung lượng tim thấp 
có cải thiện nhưng bệnh nhân tử vong trong 
bệnh cảnh viêm phổi nặng, suy hô hấp, và 
nhiễm trùng huyết. 
Tần suất nhịp nhanh bộ nối lạc chỗ sau mổ 
tứ chứng Fallot được ghi nhận từ 14% -22%(5,10). 
Rối loạn nhịp này thường thoáng qua nhưng để 
lại hậu quả nghiêm trọng do giảm cung lượng 
tim do đó việc điều trị tích cực cũng như phòng 
ngừa xảy ra nhịp nhanh bộ nối lạc chỗ là hết sức 
quan trọng. Các yếu tố nguy cơ của nhịp nhanh 
bộ nối lạc chỗ bao gồm: tuổi nhỏ, thời gian tuần 
hoàn ngoài cơ thể và thời gian kẹp động mạch 
chủ kéo dài, thuốc vận mạch liều cao, sốt và rối 
loạn điện giải(4).Tỉ lệ nhịp nhanh bộ nối lạc chỗ 
của chúng tôi khá cao so với các nghiên cứu 
khác(6,12,19,24) nhưng tất cả các trường hợp đều 
thoáng qua và không ảnh hưởng đến huyết 
động học nghiêm trọng. 
Nghiên cứu của chúng tôi có một trường hợp 
tử vongtrong bệnh viện chiếm tỉ lệ 1,85%. 
Nguyên nhân tử vong là viêm phổi và nhiễm 
trùng huyết.Bệnh nhân này có hẹp nặng phễu 
thất phải, vòng van kích thước nhỏ với van động 
mạch phổi hình vòm, thân và nhánh động mạch 
phổi nhỏ, đặc biệt chúng tôi nghĩ rằng các nhánh 
xa động mạch phổi kém phát triển do áp lực thất 
phải rất cao dù đường thoát thất phải thân và hai 
nhánh động mạch phổi đã được mở rộng.Bệnh 
nhân phải phẫu thuật lại để mở rộng hai nhánh 
động mạch phổi và mở lại thông liên thất, rối 
loạn chức năng thất phải, tình trạng hội chứng 
cung lượng tim thấp, thở máy kéo dài là những 
yếu tố dẫn đến viêm phổi nhiễm trùng huyết 
không đáp ứng với điều trị. Chúng tôi nghĩ rằng 
đối với bệnh nhân này nên cân nhắc khi chỉ định 
mổ sửa chữa triệt để một thì, B-T shunt sau đó 
sửa chữa triệt để có thể là lựa chọn tốt hơn. 
Trong vòng 30 ngày sau xuất viện, tất cả 
bệnh nhân đều không có biểu hiện suy tim, 
không có tử vong cũng như biến cố nào phải 
nhập viện lại trong thời gian này. Đặc điểm này 
cho thấy nhóm bệnh nhân trong nghiên cứu 
thích ứng tốt với phẫu thuật triệt để trong giai 
đoạn sớm. Khi tái khám tất cả bệnh nhân đều 
được siêu âm tim qua thành ngực và cho kết quả 
khả quan. Chúng tôi ghi nhận hở van động 
mạch phổi đa số là hở van động mạch phổi mức 
độ nhẹ (42,6%), chỉ 5,6% hở van động mạch phổi 
mức độ trung bình, và không có trường hợp nào 
hở phổi mức độ nặng.Mở rộng đường thoát thất 
phải trên 10mm chúng tôi đều thực hiện tạo hình 
van động mạch phổi một lá và ghi nhận cả 4 
trường hợp đều có hở van động mạch phổi mức 
độ nhẹ. Như vậy việc mở rộng đường thoát thất 
phải xuyên vòng van tối thiểu có kết quả hở van 
động mạch phổi có thể chấp nhận được đáp ứng 
yêu cầu mở rộng đường thoát thất phải mà 
không gây hở van động mạch phổi nghiêm 
trọng cũng như phải tạo hình van động mạch 
phổi một lá nếu đường mở xuống phễu thất phải 
dưới 10mm. 
KẾT LUẬN 
Bệnh nhân TOF tuổi nhũ nhi thường có biểu 
hiện lâm sàng tím nặng. Tỉ lệ cơn tím thiếu oxy 
khá cao, đặc biệt ở nhóm bệnh nhân dưới 6 
tháng tuổi. Kích thước vòng van động mạch 
phổi đo được trên siêu âm phần lớn có có Z < -2. 
Phẫu thuật tiếp cận qua đường nhĩ phải và động 
mạch phổi với chiến lược bảo tồn van động 
mạch phổi và mở rộng xuyên vòng van tối thiểu 
được thực hiện một cách dễ dàng và thuận lợi 
cho tất cả bệnh nhân trong nghiên cứu với tỉ lệ 
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 22 * Số 1 * 2018
Chuyên Đề Sức Khỏe Sinh Sản – Bà Mẹ Trẻ Em 366
bảo tồn vòng van động mạch phổi khá cao, tỉ lệ 
tử vong và biến chứng trong giai đoạn hồi sức và 
theo dõi ngắn hạn sau mổ thấp. 
TÀI LIỆU THAM KHẢO 
1. Akcan-Arikan A, Zappitelli M, Loftis LL, et al (2007). "Modified 
RIFLE criteria in critically ill children with acute kidney injury". 
Kidney Int, 71(10):pp.1028-35. 
2. Al Habib HF, Jacobs JP, Mavroudis C, et al (2010). 
"Contemporary patterns of management of tetralogy of Fallot: 
data from the Society of Thoracic Surgeons Database". Ann 
Thorac Surg, 90(3):pp.813-9; discussion pp.819-20. 
3. Bertranou EG, Blackstone EH, Hazelrig JB, et al (1978). "Life 
expectancy without surgery in tetralogy of Fallot". Am J Cardiol, 
42(3):pp.458-66. 
4. Cools E, Missant C (2014). "Junctional ectopic tachycardia after 
congenital heart surgery". Acta Anaesthesiol Belg, 65(1):pp.1-8. 
5. Dodge-Khatami A, Miller OI, Anderson RH, et al (2002). 
"Surgical substrates of postoperative junctional ectopic 
tachycardia in congenital heart defects". J Thorac Cardiovasc Surg, 
123(4):pp.624-30. 
6. Dyamenahalli U, McCrindle BW, Barker GA, et al (2000). 
"Influence of perioperative factors on outcomes in children 
younger than 18 months after repair of tetralogy of Fallot". Ann 
Thorac Surg, 69(4):pp.1236-42. 
7. Edmunds LH, Saxena NC, Friedman S, et al (1976). "Transatrial 
resection of the obstructed right ventricular infundibulum". 
Circulation, 54(1):pp.117-22. 
8. Giannopoulos NM, Chatzis AK, Karros P, et al (2002). "Early 
results after transatrial/transpulmonary repair of tetralogy of 
Fallot". Eur J Cardiothorac Surg, 22(4):pp.582-6. 
9. Hồ Huỳnh Quang Trí, Phạm Nguyễn Vinh, Nguyễn Minh Trí 
Viên (2006). “Kết quả phẫu thuật triệt để Tứ chứng Fallot tại 
Viện Tim 1992-2004”. Tạp chí Tim Mạch Học Việt Nam, 45:pp.41-
52. 
10. Hoffman TM, Bush DM, Wernovsky G, et al (2002). 
"Postoperative junctional ectopic tachycardia in children: 
incidence, risk factors, and treatment". Ann Thorac Surg, 
74(5):pp.1607-11. 
11. Hudspeth AS, Cordell AR, Johnston FR (1963). "Transatrial 
approach to total correction of tetralogy of Fallot". Circulation, 
27(4):pp.796-800. 
12. Huỳnh Thị Minh Thuỳ, Nguyễn Hoàng Định, (2016). “Xác định 
các yếu tố ảnh hưởng kết quả sớm phẫu thuật triệt để tứ chứng 
Fallot ở trẻ nhỏ”. Y Học TP. Hồ Chí Minh, 20(1):pp.202-210. 
13. Jonas RA (2014). “Tetralogy of Fallot with pulmonary stenosis”. 
In: Jonas RA (ed), Comprehensive surgical management of 
congenital heart disease, 2nd ed, pp. 347-370. CRC Press, Boca 
Raton. 
14. Kawashima Y, Kitamura S, Nakano S, et al (1981). "Corrective 
surgery for tetralogy of Fallot without or with minimal right 
ventriculotomy and with repair of the pulmonary valve". 
Circulation, 64(2Pt2):pp.147-53. 
15. Kirsch RE, Glatz AC, Gaynor JW, et al (2014). "Results of elective 
repair at 6 months or younger in 277 patients with tetralogy of 
Fallot: a 14-year experience at a single center". J Thorac Cardiovasc 
Surg, 147(2):pp.713-7. 
16. Kouchoukos NT, et al (2013). “Ventricular septal defect with 
pulmonary stenosis or atresia”. In: Kouchoukot N (eds), 
Kirklin/Barratt-Boyes Cardiac Surgery, 4th ed, pp.1362-1467. 
Elsevier Saunder, Philadelphia, PA. 
17. Lê Quang Thứu, Lê Bá Minh Du, Bùi Đức Phú (2010). “Đánh giá 
kết quả phẫu thuật sửa chữa toàn phần bệnh Tứ chứng Fallot ở 
trẻ dưới 18 tháng tuổi”. Tạp chí Y học Việt Nam, 375:pp.25-29. 
18. Lê Thành Khánh Vân, Phạm Thọ Tuấn Anh (2009). “Ứng dụng 
chỉ số Mac Goon trong định hướng điều trị tứ chứng Fallot”. Y 
Học TP. Hồ Chí Minh, 13(1):pp.125-133. 
19. Ngô Bảo Khoa (2012). “Đánh giá kết quả trung hạn phẫu thuật 
sửa chữa triệt để tứ chứng Fallot qua đường mở nhĩ phải và 
động mạch phổi. Luận văn Thạc Sĩ Y Học. Đại Học Y Dược Thành 
Phố Hồ Chí Minh, Hồ Chí Minh. 
20. Nguyễn Hoàng Định, Nguyễn Anh Dũng, Vũ Trí Thanh, Phạm 
Thế Việt, Cao Đằng Khang, Nguyễn Minh Trí Viên (2008). "Kết 
quả sớm phẫu thuật sửa chữa triệt để qua đường mở nhĩ phải 
và động mạch phổi điều trị tứ chứng Fallot". Y Học Thực Hành, 
2:pp.70-76. 
21. Nguyễn Sinh Hiền, Đặng Ngọc Hùng (2008). “Kết quả điều trị 
phẫu thuật triệt để tứ chứng Fallot tại Bệnh viện Tim Hà Nội”. 
Ngoại Khoa, 58:pp.31-33. 
22. Nguyễn Thị Tuyết Lan, Vũ Minh Phúc (2009). “Đặc điểm tiền 
phẫu lâm sàng và cận lâm sàng các trường hợp tứ chứng fallot 
dưới 17 tuổi được phẫu thuật tại bệnh viện Chợ Rẫy”. Y Học TP. 
Hồ Chí Minh, 13(1):pp.106-113. 
23. Phạm Nguyễn Vinh, Hồ Huỳnh Quang Trí (2002). “Khảo sát các 
yếu tố nguy cơ của giảm cung lượng tim nặng sau phẫu thuật 
sửa chữa triệt để tứ chứng Fallot”. Y học TP. Hồ Chí Minh, 
6(1):pp.25-29. 
24. Phan Thị Phương Thảo, Phạm Thế Việt, Nguyễn Hoàng Định, 
Trương Quang Bình (2011). "Loạn nhịp tim trong giai đoạn sớm 
sau phẫu thuật tứ chứng Fallot". Y Học TP. Hồ Chí Minh, 
15(1):pp.253-257. 
25. Van Arsdell GS, Maharaj GS, Tom J, et al (2000). "What is the 
optimal age for repair of tetralogy of Fallot?". Circulation, 102(19 
Suppl 3):pp.III123-9. 
26. Yuh DD, et al (2014). “Tetralogy of Fallot”. In: Yuh DD (eds), 
Johns Hopkins textbook of cardiothoracic surgery, 2nd ed, 
pp.1069-1083. McGraw-Hill Education, New York, NY. 
Ngày nhận bài báo: 17/11/2017 
Ngày nhận phản biện: 20/12/2017 
Ngày bài báo được đăng: 15/03/2018