Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 22 * Số 2 * 2018
Hội Nghị Khoa Học Kỹ Thuật BV. Bình Dân năm 2018 284
ĐÁNH GIÁ KẾT QUẢ ĐIỀU TRỊ HẸP HẬU MÔN 
Nguyễn Phúc Minh* 
TÓM TẮT 
Đặt vấn đề: Đánh giá kết quả phẫu thuật điều trị hẹp hậu môn. 
Đối tượng, phương pháp nghiên cứu: Mô tả hàng loạt ca, các trường hợp hẹp hậu môn được phẫu thuật tại 
bệnh viện Bình Dân. 
Kết quả: Từ 2014 đến 2017 có 19 TH hẹp hậu môn được phẫu thuật tại BV Bình Dân, nữ chiếm 53%, trung 
bình 49 tuổi. 53% TH hẹp hậu môn là hậu quả sau phẫu thuật Longo, đa số là hẹp vừa đến nặng. Phẫu thuật cắt 
mô xơ kèm hạ niêm mạc che phủ có tỉ lệ thành công cao (89,5%). Tỉ lệ tái hẹp chiếm 10,5% đòi hỏi can thiệp lại 
bằng phẫu thuật cắt cơ thắt trong. 
Kết luận: Phẫu thuật điều trị hẹp hậu môn bằng cắt mô xơ kèm hạ niêm mạc trong nhiều trường hợp là đủ, 
cắt một phần cơ thắt chỉ áp dụng trong vài trường hợp đặc biệt. 
Từ khóa: Hẹp hậu môn, cắt bên cơ thắt trong, cầu niêm mạc. 
ABSTRACT 
RESULT OF SURGICAL TREATMENTS IN ANAL STENOSIS 
Nguyen Phuc Minh * Y Hoc TP. Ho Chi Minh * Supplement Vol. 22 - No 2- 2018: 284 - 287 
Background: To evaluate the results of surgical treatments in anal stenosis. 
Methods: Case series report, patients with anal stenosis treated by operation at Binh Dan Hospital from 
2014 to September 2017. 
Results: From 2014 to Sep 2017, 19 cases of anal stenosis were operated at Binh Dan Hospital, 53% were 
female, average age was 49. 53% of patients underwent a Longo technique, the stricture rings were mild, 
moderate to severe. Anoplasty by removing the anodermal fibrosis and mucosal flap had a high successful rate 
(89.5%). Two recurrent cases required an internal anal sphincterotomy. 
Conclusions: Surgical management of anal stenosis by removing fibrosis and flap anoplasty is effective in 
majority of case. Internal sphincterotomy was indicated in recurrent cases. 
Keywords: Anal stenosis, internal anal sphincterotomy, mucosal flap. 
ĐẶT VẤN ĐỀ 
Hẹp hậu môn là một biến chứng có thể 
gặp sau phẫu thuật hậu môn trực tràng, chủ 
yếu sau phẫu thuật cắt trĩ. Điều trị ngoại khoa 
hẹp hậu môn bằng cắt mô sẹo gây hẹp và làm 
rộng ống hậu môn có khi vẫn thất bại nếu 
không cắt một phần cơ thắt trong. Vậy khi nào 
cần cắt cơ thắt trong khi phẫu thuật tạo hình 
hậu môn để điều trị hẹp. 
ĐỐI TƯỢNG - PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU 
Đối tượng 
Bệnh nhân được chẩn đoán hẹp hậu môn 
đồng ý phẫu thuật. 
Phương pháp nghiên cứu 
Mô tả hàng loạt ca. 
Chuẩn bị bệnh nhân trước mổ: khám lâm 
sàng, nội soi trực tràng. 
* Bộ môn Ngoại Tổng quát, ĐHYD TPHCM 
Tác giả liên lạc: BS Nguyễn Phúc Minh ĐT: 0918151851 Email: 
[email protected] 
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 22 * Số 2 * 2018 Nghiên cứu Y học
Hội Nghị Khoa Học Kỹ Thuật BV. Bình Dân năm 2018 285
Đánh giá tổn thương 
Theo đường kính lỗ hậu môn 
Nhẹ: có thể đút lọt ngón trỏ vào ống hậu môn. 
Trung bình: đút ngón trỏ khó khăn, bệnh 
nhân đau. 
Nặng: không đút được ngón trỏ. 
Theo vị trí độ cao tổn thương 
Thấp: chỗ hẹp ở rìa hậu môn đến dưới 
đường lược 0,5 cm. 
Trung bình: chỗ hẹp trên dưới đường lược 0,5 cm. 
Cao: chỗ hẹp cách đường lược 0,5 cm trở lên. 
Phương pháp phẫu thuật 
Vô cảm tê tuỷ sống, bộ que nong Hegar, cắt 
mô xơ hay cắt một phần cơ thắt trong, hạ niêm 
mạc trực tràng che phủ. 
Đánh giá kết quả phẫu thuật 
Trong mổ: đo bằng que nong Hegar ngay 
sau mổ, chảy máu. 
Sau mổ: đau sau mổ, rối loạn tiểu tiện, chảy 
máu, nhiễm trùng vết mổ. 
Muộn: hẹp tái phát, đại tiện khó hay không 
thoải mái, tiêu không tự chủ, biến dạng lỗ hậu 
môn (tròn đều, méo lệch một bên, biến dạng 
phức tạp). 
KẾT QUẢ 
19 trường hợp được phẫu thuật từ năm 2014 
đến 2017 gồm có: 
Tuổi và giới 
Từ 24 đến 80 tuổi (biểu đồ 1), trung bình 49 
tuổi, 9 nam (53%) và 10 nữ (47%). 
Biểu đồ 1. Phân bố theo tuổi 
Thời gian mắc bệnh 
Dưới 6 tháng có 15 trường hợp, trên 6 tháng 
chỉ có 4 trường hợp. 
Nguyên nhân 
4 TH sau phẫu thuật cắt trĩ, 3 TH sau chích 
trĩ đông y, 1 TH sau mổ rò hậu môn, 10 TH hẹp 
đường kim bấm sau PT Longo, 1 TH do lạc nội 
mạc tử cung (biểu đồ 2). 
Mức độ hẹp 
Đa số hẹp mức độ vừa (Biểu đồ 3). 
Vị trí hẹp 
Thấp chiếm 58%, thấp chiếm 42%. 
Biểu đồ 2. Nguyên nhân gây hẹp hậu môn 
Biểu đồ 3. Mức độ hẹp 
Phương pháp mổ 
Nong hậu môn, cắt mô xơ, cắt mô xơ đường 
kim bấm, hạ niêm mạc phủ vết mổ: 19 TH. 
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 22 * Số 2 * 2018
Hội Nghị Khoa Học Kỹ Thuật BV. Bình Dân năm 2018 286
Tái phát 
Hai TH sau cắt mô xơ đường kim bấm hậu 
Longo: mổ lại nong hậu môn, cắt một phần cơ 
thắt trong (tỉ lệ 10,5%). 
Kết quả sau mổ 
Sớm: không có TH chảy máu, bí tiểu 
Thời gian nằm viện: 2-3 ngày 
Theo dõi tái khám: 6 tháng 
BÀN LUẬN 
Hẹp hậu môn được xem là chỗ hẹp thoát 
phân ở đoạn cuối cùng của ống tiêu hoá (đoạn 
cuối trực tràng-ống hậu môn). Bệnh hẹp hậu môn 
tương đối ít gặp, tỉ lệ thay đổi tuỳ theo định nghĩa, 
nguyên nhân gây tổn thương tại chỗ của các bệnh 
lý vùng hậu môn ít gặp hơn là do hậu quả của can 
thiệp các bệnh lý này. Về hình thái học, đây là tình 
trạng lòng ống hậu môn hẹp, về phương diện 
chức năng, đó là do sự rối loạn co dãn cơ vòng 
hậu môn dẫn đến việc thải phân khó. 
Chẩn đoán bệnh hẹp hậu môn không khó 
nhưng việc đánh giá mức độ tổn thương trước 
mổ không dễ và việc điều trị đòi hỏi nhiều cân 
nhắc, thận trọng. 
Về nguyên nhân 
Chúng tôi ghi nhận độ tuổi mắc bệnh hẹp 
hậu môn trong khoảng 24 đến 80 tuổi cũng phù 
hợp với các lứa tuổi bệnh trĩ, dù là bệnh lành 
tính ít gặp nhưng lại xảy ra sau khi điều trị bệnh 
trĩ do đó cũng làm giảm nhiều chất lượng cuộc 
sống của người bệnh. 
Hẹp hậu môn là bệnh gặp ở cả 2 giới, trên 
85% có nguyên nhân là hậu quả của việc điều trị 
trĩ. Trước đây, một nghiên cứu báo cáo cho thấy 
phần lớn người bệnh hẹp hậu môn sau điều trị 
trĩ bằng đắp thuốc, đốt chích trĩ chiếm tỉ lệ rất 
cao, gần 73%(7,7) so với tỉ lệ bị hẹp hậu môn sau 
cắt trĩ là 12,8%(7). 
Nghiên cứu của chúng tôi cho thấy hẹp hậu 
môn sau phẫu thuật chiếm tỉ lệ gần 74%, trong 
đó sau phẫu thuật Longo là 53%. Có lẽ ý thức 
người dân đã thay đổi khi họ không còn tiếp cận 
phương pháp đắp thuốc, chích trĩ gia truyền. 
Gần đây tỉ lệ phẫu thuật Longo điều trị trĩ đã 
tăng dần, phẫu thuật Longo hiện tại cũng là một 
phương pháp điều trị trĩ có hiệu quả nhưng vẫn 
có các biến chứng liên quan, các nghiên cứu cho 
thấy tỉ lệ hẹp hậu môn sau phẫu thuật Longo 
thay đổi từ 1,6% đến 8,8%(5,6). 
Về tổn thương 
Các trường hợp hẹp trước mổ từ vừa đến 
nặng chiếm 79% và 42% hẹp ở vị trí thấp, 58% hẹp 
ở vị trí cao. Chúng tôi nhận thấy rằng tổn thương 
hẹp thấp có liên quan đến hậu quả sau cắt, đốt trĩ 
còn hẹp cao thường sau phẫu thuật Longo. 
Phan Đương báo cáo thương tổn trong nhóm 
hẹp hậu môn có 59,6% là hẹp thấp, nhóm bệnh 
này dễ giải quyết trong điều trị phẫu thuật và 
cho kết quả tốt(7). 
Chúng tôi ghi nhận nhóm hẹp cao sau Longo 
có thể can thiệp bằng cách cắt vòng xơ nhưng 
vẫn còn nguy cơ tái phát hẹp về sau đòi hỏi phải 
can thiệp lại cắt phần cơ thắt trong 2 TH, tức tỉ lệ 
hẹp tái phát là 10,5%. Nghiên cứu khác cũng chỉ 
ra rằng, với nhóm tổn thương hẹp cao khi điều 
trị phẫu thuật vẫn có nguy cơ tái phát khoảng 
4,3% mặc dù có khi tác giả phải cắt cơ thắt trong 
ở cả hai bên vị trí 3 giờ và 9 giờ(7). 
Về điều trị 
Điều trị hẹp hậu môn sau mổ có thể bảo tồn 
trong nhiều trường hợp nhẹ, chỉ cần nong. Tỉ lệ 
tái phát hẹp sau nong có khi lên đến 30%(4). 
Các trường hợp cần phẫu thuật, kỹ thuật cắt 
mô xơ, tạo hình hậu môn bằng vạt V-Y có tỉ lệ 
thành công khoảng 90%(1). 
Kết quả nghiên cứu của chúng tôi có tỉ lệ 
thành công phẫu thuật là 89,5% chỉ với cắt mô 
xơ, hạ niêm mạc trực tràng phủ vết thương, 2 TH 
tái phát (10,5%) cần can thiệp lại cắt cơ thắt trong 
ở vị trí 3 và 9 giờ. 
Có nghiên cứu cắt cơ thắt trong để điều trị hẹp 
hậu môn trong hầu hết các trường hợp(7), nhưng các 
tác giả khác cho rằng chỉ nên cắt cơ thắt trong một 
cách chọn lọc trong một số trường hợp(3). 
Cắt cơ thắt trong được chỉ định trong một số 
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 22 * Số 2 * 2018 Nghiên cứu Y học
Hội Nghị Khoa Học Kỹ Thuật BV. Bình Dân năm 2018 287
trường hợp hẹp hậu môn vừa đến nặng, hoặc tái 
phát hẹp sau nong(7). Phương pháp này có tỉ lệ 
thành công khá cao, tái phát hẹp sau cắt bên cơ thắt 
trong dao động từ 4,3% đến 15%(4,7) nhưng đáng 
ngại là biến chứng són phân. Biến chứng són phân 
sau cắt cơ thắt trong rất khó điều trị, tỉ lệ từ 19 đến 
29,8%(4). Chúng tôi không gặp biến chứng són phân 
sau mổ trong kết quả nghiên cứu này. 
Ngoài ra, cắt cơ thắt trong còn được chỉ định 
điều trị trong một số các bệnh lý hậu môn trực 
tràng như: nứt kẽ hậu môn mãn, đau mãn tính 
sau cắt trĩ, tăng áp lực ống hậu môn, phình đại 
tràng bẩm sinh nhưng áp dụng nhiều nhất vẫn 
là hẹp hậu môn(2). 
KẾT LUẬN 
Qua 19 TH hẹp hậu môn được phẫu thuật tại 
bệnh viện Bình Dân, chúng tôi nhận thấy có một 
tỉ lệ lớn là sau phẫu thuật Longo với tổn thương 
hẹp cao. Phẫu thuật cắt mô xơ kèm hạ niêm mạc 
cho tỉ lệ thành công khá cao, cắt bên cơ thắt trong 
được áp dụng hạn chế trong một số trường hợp 
tái phát nhằm phòng ngừa biến chứng són phân. 
TÀI LIỆU THAM KHẢO 
1. Aqhayeva A, Atasoy D, Bayraktar O, Cengiz TB, et al 
(2017). V-Y advancement flap reconstruction for anal stricture. 
Colorectal Dis;20(1):78-79. 
2. Emile H (2017). Indications and Technical Aspects of Internal 
Anal Sphincterotomy: Highlighting the Controversies. Dis 
Colon Rectum;60(1):128-132. 
3. Mehdi T, et al (2017). Surgical management of anal stenosis: 
anoplasty with or without sphincterotomy. Journal of 
Coloproctology;37(1):13-17. 
4. Nguyễn Mậu Anh (2007). Biến chứng cắt cơ vòng trong phía 
bên trong điều trị trít hẹp hậu môn. Y học TP. Hồ Chí 
Minh;11(1):184-186. 
5. Oughriss M, Yver R, Faucheron JL (2005). Complications of 
stapled hemorrhoidectomy: a French multicentric study. 
Gastroenterol Clin Biol;29(4):429-33. 
6. Peeters K, Bronckaers M, et al (2016). Early complications after 
stapled hemorrhoidopexy: a retrospective study comparing 
three different circular staplers. Acta Chir Belg;116(4):213-216. 
7. Phan Đương (2007). Phân loại tổn thương trít hẹp hậu môn. Y 
học TP. Hồ Chí Minh;11(1):180-183. 
8. Phan Đương (2008). Đánh giá kết quả điều trị hẹp hậu môn 
bằng phẫu thuật cắt cơ vòng trong phía bên. Luận án tiến sĩ. 
Trường Đại học Y Dược TP. Hồ Chí Minh. 
Ngày nhận bài báo: 14/11/2017 
Ngày phản biện nhận xét bài báo: 06/02/2018 
Ngày bài báo được đăng: 25/03/2018