Đề tài Phát triển dịch vụ y tế trên địa bàn tỉnh Hải Dương

Tài liệu Đề tài Phát triển dịch vụ y tế trên địa bàn tỉnh Hải Dương: PHẦN MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài Hải Dương là một trong 8 tỉnh thuộc vùng kinh tế trọng điểm Bắc Bộ, nằm ở vị trí có nhiều hướng tác động mang tính liên vùng, là cầu nối giữa thủ đô Hà Nội với thành phố cảng Hải Phòng. Tương lai không xa, Hải Dương sẽ trở thành trọng điểm thu hút đầu tư phát triển công nghiệp, dịch vụ, thương mại và trở thành một trong các đô thị lớn trong vùng. Quyết định của Thủ tướng Chính phủ số 145/2004/QĐ-TTg ngày 13 tháng 8 năm 2004 về phương hướng chủ yếu phát triển kinh tế - xã hội vùng kinh tế trọng điểm Bắc Bộ đến năm 2010 và tầm nhìn đến năm 2020 thực hiện đối với 8 tỉnh, trong đó có Hải Dương khẳng định: "Phát huy tiềm năng, lợi thế về vị trí địa lý, hệ thống kết cấu hạ tầng để đẩy nhanh tốc độ phát triển kinh tế - xã hội vùng kinh tế trọng điểm Bắc bộ một cách có hiệu quả và bền vững; đi đầu trong công cuộc công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước, luôn giữ vai trò đầu tàu đối với cả vùng Bắc bộ và cả nước trong quá trình thúc đẩy, hỗ trợ các vùn...

docx115 trang | Chia sẻ: hunglv | Lượt xem: 1138 | Lượt tải: 2download
Bạn đang xem trước 20 trang mẫu tài liệu Đề tài Phát triển dịch vụ y tế trên địa bàn tỉnh Hải Dương, để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
PHẦN MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài Hải Dương là một trong 8 tỉnh thuộc vùng kinh tế trọng điểm Bắc Bộ, nằm ở vị trí có nhiều hướng tác động mang tính liên vùng, là cầu nối giữa thủ đô Hà Nội với thành phố cảng Hải Phòng. Tương lai không xa, Hải Dương sẽ trở thành trọng điểm thu hút đầu tư phát triển công nghiệp, dịch vụ, thương mại và trở thành một trong các đô thị lớn trong vùng. Quyết định của Thủ tướng Chính phủ số 145/2004/QĐ-TTg ngày 13 tháng 8 năm 2004 về phương hướng chủ yếu phát triển kinh tế - xã hội vùng kinh tế trọng điểm Bắc Bộ đến năm 2010 và tầm nhìn đến năm 2020 thực hiện đối với 8 tỉnh, trong đó có Hải Dương khẳng định: "Phát huy tiềm năng, lợi thế về vị trí địa lý, hệ thống kết cấu hạ tầng để đẩy nhanh tốc độ phát triển kinh tế - xã hội vùng kinh tế trọng điểm Bắc bộ một cách có hiệu quả và bền vững; đi đầu trong công cuộc công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước, luôn giữ vai trò đầu tàu đối với cả vùng Bắc bộ và cả nước trong quá trình thúc đẩy, hỗ trợ các vùng khác, nhất là các vùng khó khăn, cùng phát triển, đi đầu về hợp tác quốc tế, về thu hút đầu tư nước ngoài, kết hợp chặt chẽ giữa phát triển kinh tế - xã hội với tăng cường, củng cố quốc phòng, an ninh, trật tự, an toàn xã hội, bảo vệ môi trường". Để xứng đáng với vị thế và tầm vóc của mình trong hiện tại cũng như tương lai; thời gian vừa qua Đảng bộ, Hội đồng nhân dân và UBND tỉnh Hải Dương đã ban hành nhiều nghị quyết và văn bản về phát triển kinh tế - xã hội, trong đó có sự nghiệp chăm sóc sức khoẻ nhân dân. Ngành Y tế Hải Dương không chỉ đảm nhận trách nhiệm chăm sóc và bảo vệ sức khoẻ cho nhân dân trên địa bàn tỉnh mà còn góp phần đáng kể trong chăm sóc sức khoẻ nhân dân của khu vực trọng điểm kinh tế phía Bắc (gần 18 triệu người, chiếm 22% dân số cả nước). Để thực hiện được trọng trách này, ngành Y tế Hải Dương cần phải có một hệ thống y tế đủ mạnh, một mạng lưới y tế rộng khắp, một đội ngũ cán bộ y tế có chất lượng cao với cơ sở và trang thiết bị hiện đại. Trong thời kỳ đổi mới, ngành Y tế Hải Dương đã có một số chuyển biến tích cực, mạng lưới y tế của tỉnh đã từng bước được củng cố, cơ sở vật chất ngày càng được tăng cường, các loại hình dịch vụ y tế trong khám chữa bệnh, phòng bệnh và cung ứng thuốc ngày càng đa dạng. Cùng với các cơ sở của Bộ Y tế và các cơ sở Y tế của nhiều ngành khác đóng trên địa bàn tỉnh, ngành Y tế Hải Dương đã góp phần đáng kể trong việc nâng cao chất lượng các dịch vụ y tế trên phạm vi toàn tỉnh, bước đầu đáp ứng được nhu cầu chăm sóc sức khoẻ cho nhân dân Hải Dương và các tỉnh lân cận, góp một phần đáng kể vào công cuộc phát triển kinh tế - xã hội của tỉnh, khu vực và cả nước. Tuy nhiên, hệ thống y tế của Hải Dương vẫn còn những bất cập: cơ sở vật chất xuống cấp và lạc hậu; các trang thiết bị phục vụ cho khám chữa bệnh chưa hiện đại; mạng lưới các trung tâm y tế chuyên sâu, kỹ thuật cao chưa hoàn chỉnh và thiếu đồng bộ. Đầu tư cho sự nghiệp y tế tỉnh còn hạn chế nên chưa đáp ứng được yêu cầu bảo vệ, chăm sóc và nâng cao sức khoẻ nhân dân trong thời kỳ mới - thời kỳ đất nước bước vào công nghiệp hoá và hiện đại hoá. Để đáp ứng được nhu cầu chăm sóc sức khoẻ với chất lượng ngày càng cao, góp phần quan trọng vào chiến lược phát triển nguồn nhân lực, tạo đà cho sự nghiệp phát triển kinh tế - xã hội của tỉnh trong thời kỳ mới cần thiết phải phát triển dịch vụ y tế trên địa bàn tỉnh Hải Dương. Đó chính là lý do tác giả lựa chọn đề tài "Phát triển dịch vụ y tế trên địa bàn tỉnh Hải Dương" cho luận văn cao học của mình. Với mong muốn đề tài sẽ là cơ sở tham khảo để đầu tư ngân sách Nhà nước, huy động vốn từ nhiều nguồn, xây dựng kế hoạch phát triển dịch vụ Y tế một cách đúng hướng, có trọng tâm, trọng điểm, nhằm xây dựng ngành Y tế Hải Dương vững mạnh về mọi mặt, từng bước đáp ứng nhu cầu về chăm sóc sức khoẻ cho nhân dân trong tỉnh. 2. Mục đích nghiên cứu của luận văn Mục tiêu tổng quát của luận văn là đề xuất một số giải pháp: Phát triển hệ thống Y tế theo hướng công bằng - hiệu quả, kết hợp hài hoà giữa y tế chuyên sâu với y tế phổ cập, giữa phòng bệnh nâng cao sức khoẻ với chữa bệnh, phục hồi chức năng, giữa y học cổ truyền với y học hiện đại; phát triển cơ sở cung cấp dịch vụ y tế theo địa bàn dân cư nhằm tạo cơ hội cho mọi người dân được tiếp cận và sử dụng dịch vụ bảo vệ, chăm sóc sức khoẻ với chất lượng ngày càng cao... Đối tượng nghiên cứu Các hoạt động dịch vụ y tế trên trên địa bàn tỉnh Hải Dương. Phạm vi nghiên cứu Các dịch vụ y tế cho mọi người dân trên địa bàn tỉnh Hải Dương theo các lĩnh vực, bao gồm: Y tế dự phòng - nâng cao sức khoẻ; khám chữa bệnh - Phục hồi chức năng; y dược học cổ truyền, mạng lưới sản xuất, kiểm nghiệm, phân phối thuốc... 5. Phương pháp nghiên cứu - Luận văn sử dụng phương pháp duy vật biện chứng và duy vật lịch sử. - Phương pháp thống kê, so sánh, phân tích và tổng hợp… 6. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn luận văn - Hệ thống hoá cơ sở luận về dịch vụ y tế và phát triển dịch vụ y tế trên địa bàn tỉnh Hải Dương. - Đề xuất một số giải pháp nhằm phát triển dịch vụ y tế trên địa bàn tỉnh Hải Dương những năm tới. 7. Kết cấu của luận văn Ngoài lời mở đầu và kết luận, luận văn được kết cấu thành 3 chương: Chương 1: Những vấn đề cơ bản về dịch vụ y tế và kinh nghiệm phát triển dịch vụ y tế trên địa bàn Thành phố Hồ Chí Minh và đất nước Singapore. Chương 2: Phân tích thực trạng phát triển dịch vụ y tế trên địa bàn tỉnh Hải Dương. Chương 3: Một số giải pháp phát triển dịch vụ y tế trên địa bàn tỉnh Hải Dương. Chương I:NHỮNG VẤN ĐỀ CƠ BẢN VỀ DỊCH VỤ Y TẾ VÀ KINH NGHIỆM PHÁT TRIỂN DỊCH VỤ Y TẾ TRÊN ĐỊA BÀN THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH VÀ ĐẤT NƯỚC SINGAPORE 1.1 KHÁI QUÁT VỀ DỊCH VỤ Y TẾ 1.1.1 Dịch vụ y tế và đặc điểm của dịch vụ y tế Dịch vụ là kết quả mang lại nhờ các hoạt động tương tác giữa người cung cấp dịch vụ và khách hàng để đáp ứng một nhu cầu nào đó của người tiêu dùng. Một dịch vụ chỉ tồn tại khi tạo ra được niềm tin và uy tín đối với khách hàng. Dịch vụ ngày càng phát triển và đóng một vai trò ngày càng quan trọng trong mỗi quốc gia, người ta gọi là ngành kinh tế mềm ( SORT ECONOMICS). Dịch vụ y tế là kết quả mang lại nhờ các hoạt động tương tác giữa người cung cấp dịch vụ và khách hàng để đáp ứng nhu cầu về sức khoẻ như: Khám chữa bệnh, phòng bệnh, giáo dục sức khoẻ, tư vấn sức khoẻ do các cơ sở y tế Nhà nước (Trạm y tế xã, Trung tâm y tế huyện/TP, các cơ sở y tế tuyến tỉnh và trung ương) và các cơ sở y tế tư nhân ( Phòng khám, bệnh viện tư, hiệu thuốc) cung cấp. Có quan niệm cho rằng dịch vụ y tế là hàng hoá y tế song không được sử dụng vì dễ bị lợi dụng để biện minh cho hoạt động y tế kiếm lời, trái đạo đức của thày thuốc, nhưng trên thực tế các dịch vụ y tế vẫn ít nhiều mang tính chất của hàng hoá: có nhu cầu, có người cung cấp và có người sử dụng thì phải trả tiền (có thể người trả tiền là cá nhân, có thể là tập thể, Nhà nước). Trong cơ chế thị trường, nhà sản xuất để có lợi nhuận tối đa sẽ căn cứ vào nhu cầu và giá cả thị trường để quyết định sản xuất cái gì, sản xuất như thế nào và sản xuất cho ai. Thông qua cơ chế thị trường, các nguồn lực của nền kinh tế tự động phân bổ một cách tối ưu. Tuy nhiên, để cơ chế thị trường thực hiện tốt được chức năng của mình, thị trường phải có môi trường cạnh tranh hoàn hảo, thông tin đầy đủ và không bị ảnh hưởng bởi các tác động ngoại lai v.v...Trong lĩnh vực y tế, cơ chế thị trường không thể vận hành một cách hiệu quả. Các nhà phân tích kinh tế đã thừa nhận trong thị trường y tế luôn tồn tại các yếu tố “thất bại thị trường”, cụ thể: Thị trường y tế không phải là thị trường tự do. Trong thị trường tự do, giá của một mặt hàng được xác định dựa trên sự thỏa thuận tự nguyện giữa người mua và người bán. Trong thị trường dịch vụ y tế không có sự thỏa thuận này, giá dịch vụ do người bán quyết định. Dịch vụ y tế là một ngành dịch vụ có điều kiện, tức là có sự hạn chế nhất định đối với sự gia nhập thị trường của các nhà cung ứng dịch vụ y tế. Cụ thể, muốn cung ứng dịch vụ y tế cần được cấp giấy phép hành nghề và cần đảm bảo những điều kiện nhất định về cơ sở vật chất. Nói một cách khác, trong thị trường dịch vụ y tế không có sự cạnh tranh hoàn hảo. Bất đối xứng thông tin giữa bên cung cấp dịch vụ và bên sử dụng dịch vụ. Như trên đã trình bày, trên thực tế, bệnh nhân hiểu biết rất ít về bệnh tật và các chỉ định điều trị, do vậy hầu như người bệnh hoàn toàn phải dựa vào các quyết định của thầy thuốc trong việc lựa chọn các dịch vụ y tế (cầu do cung quyết định). Nếu vấn đề này không được kiểm soát tốt sẽ dẫn tới tình trạng lạm dụng dịch vụ từ phía cung ứng, đẩy cao chi phí y tế. Dịch vụ y tế là các dịch vụ có đặc điểm “hàng hóa công cộng” và mang tính chất “ngoại lai”. Đặc điểm “ngoại lai” của các dịch vụ này là lợi ích không chỉ giới hạn ở những người trả tiền để hưởng dịch vụ mà kể cả những người không trả tiền (Ví dụ: các dịch vụ y tế dự phòng, giáo dục sức khỏe). Chính điều này không tạo ra được động cơ lợi nhuận cho nhà sản xuất, làm việc cung ứng các dịch vụ đó thấp. Lúc này, để đảm bảo đủ cung đáp ứng cho cầu cần có sự can thiệp hỗ trợ của Nhà nước trong cung ứng các dịch vụ y tế mang tính công cộng. Do tính chất đặc thù của dịch vụ y tế và thị trường dịch vụ y tế, Nhà nước đóng vai trò rất quan trọng trong việc quản lý và cung ứng dịch vụ chăm sóc sức khoẻ. Nhà nước cần giữ vai trò cung ứng đối với các dịch vụ y tế “công cộng” và dịch vụ dành cho các đối tượng cần ưu tiên còn để tư nhân cung ứng các dịch vụ y tế tư. Đồng thời với sự tạo điều kiện thuận lợi phát triển các loại hình dịch vụ y tế tư, vai trò quản lý của Nhà nước rất cần thiết trong việc kiểm soát giá cả và chất lượng dịch vụ, tăng cường thông tin, thẩm định điều kiện hành nghề như đã nêu ở trên. Công cụ hữu hiệu nhất trong kiểm soát giá cả và dịch vụ cung ứng chính là phương thức chi trả phù hợp. Kinh nghiệm quốc tế đã cho thấy rất khó kiểm soát các yếu tố thất bại thị trường trong thị trường bảo hiểm y tế tư nhân. Mục tiêu bao phủ bảo hiểm y tế và tiếp cận dịch vụ y tế cơ bản cho mọi người dân chỉ có thể đạt được thông qua con đường bảo hiểm y tế toàn dân với sự hỗ trợ của Nhà nước cho các đối tượng như người nghèo, cận nghèo, dân tộc thiểu số, người già…và sự tham gia tự giác của cộng đồng. Dịch vụ y tế là một ngành dịch vụ trong đó người cung ứng và người sử dụng quan hệ với nhau thông qua giá dịch vụ. Cũng như các loại hình dịch vụ khác, dịch vụ y tế có đặc điểm sau: - Tính chất vô hình của dịch vụ: Dịch vụ xuất hiện đa dạng nhưng không tồn tại ở một mô hình cụ thể như đối với sản xuất hàng hoá. - Tính chất đúng thời điểm và không thể dự trữ, không thoả mãn hai điều kiện này dịch vụ trở nên không có giá trị. - Do phụ thuộc quá nhiều yếu tố: Không gian, thời gian, trạng thái tâm lý, hoàn cảnh của các bên tham gia... nên chất lượng dịch vụ mang tính chất không đồng đều. - Do tính chất không thể dự trữ và không đồng đều nên gặp khó khăn trong việc tiêu chuẩn hoá dịch vụ. Tuy nhiên vẫn có thể xác định được một mức độ phục vụ nhất định nào đó. - Dịch vụ không thể tồn tại độc lập mà gắn liền với người tạo dịch vụ. Khác với hàng hoá, dịch vụ là sự gắn chặt song hành giữa dịch vụ với người tạo ra dịch vụ. - Chính từ sự yêu cầu của người sử dụng mà dịch vụ hình thành và quá trình tạo ra dịch vụ cũng chính là quá trình tiêu dùng dịch vụ. Đó là sự ảnh hưởng mật thiết của người tiêu dùng tới sự tồn tại của dịch vụ. Tuy nhiên, không giống các loại dịch vụ khác, dịch vụ y tế có một số đặc điểm riêng, đó là: - Mỗi người đều có nguy cơ mắc bệnh và nhu cầu chăm sóc sức khoẻ ở các mức độ khác nhau. Chính vì không dự đoán được thời điểm mắc bệnh nên thường người ta gặp khó khăn trong chi trả các chi phí y tế không lường trước được. - Dịch vụ y tế là loại hàng hoá mà người sử dụng (người bệnh) thường không tự mình lựa chọn được mà chủ yếu do bên cung ứng (cơ sở y tế) quyết định. Nói một cách khác, ngược lại với thông lệ “Cầu quyết định cung” trong dịch vụ y tế “Cung quyết định cầu”. Cụ thể, người bệnh có nhu cầu khám chữa bệnh nhưng điều trị bằng phương pháp nào, thời gian bao lâu lại do bác sĩ quyết định. Như vậy, người bệnh chỉ có thể lựa chọn nơi điều trị, ở một chừng mực nào đó, bác sĩ điều trị chứ không được chủ động lựa phương pháp điều trị. - Dịch vụ y tế là loại hàng hoá gắn liền với sức khoẻ, tính mạng con người nên không giống các nhu cầu khác, khi bị ốm, mặc dù không có tiền nhưng người ta vẫn phải mua (khám chữa bệnh) đây là đặc điểm đặc biệt không giống các loại hàng hóa khác. - Dịch vụ y tế nhiều khi không bình đẳng trong mối quan hệ, đặc biệt trong tình trạng cấp cứu: Không thể chờ đợi được và chấp nhận dịch vụ bằng mọi giá. - Bên cung cấp dịch vụ có thể là một tổ chức hay cũng có thể là một cá nhân. Để được là bên cung cấp dịch vụ y tế thì phải có giấy phép hành nghề theo quy định của Nhà nước. 1.1.2 Phân loại dịch vụ y tế: a. Phân loại theo đối tượng phục vụ: Có ba loại dịch vụ y tế: dịch vụ y tế công cộng (public good), dịch vụ y tế cho các đối tượng cần chăm sóc ưu tiên (merit good) và dịch vụ y tế cá nhân (private good). Dịch vụ y tế công cộng là các dịch vụ mà lợi ích của những dịch vụ này không chỉ giới hạn ở việc cung ứng trực tiếp (dịch vụ khám chữa bệnh) cho người sử dụng mà còn cung ứng gián tiếp cho cộng đồng như các dịch vụ phòng bệnh, giáo dục y tế. Dịch vụ y tế cho các đối tượng cần chăm sóc ưu tiên: sẽ được dành cho một số đối tượng đặc biệt như người nghèo, bà mẹ - trẻ em, người có công với cách mạng... Dịch vụ y tế cá nhân là các dịch vụ y tế chỉ cung ứng trực tiếp cho người sử dụng dịch vụ. b. Phân loại theo phân tuyến kỹ thuật và danh mục kỹ thuật trong khám chữa bệnh Danh mục kỹ thuật trong khám chữa bệnh là những dịch vụ y tế mà các cơ sở y tế đăng ký với Nhà nước được cung cấp tại đơn vị mình. Danh mục kỹ thuật trong khám chữa bệnh được sắp xếp theo chuyên khoa, chuyên ngành như: Dịch vụ khoa ngoại, chấn thương, nội, sản, nhi... Phân tuyến kỹ thuật là những quy định của cơ quan Nhà nước trong phạm vi chuyên môn kỹ thuật cho các tuyến từ tuyến xã, huyện, tỉnh đến Trung ương (Phân tuyến kỹ thuật và danh mục kỹ thuật trong khám chữa bệnh trong Quyết định số 23/2005/QĐ-BYT ngày 30/8/2005 của Bộ y tế về việc ban hành Quy định phân tuyến kỹ thuật và danh mục kỹ thuật trong khám chữa bệnh). Theo tiêu thức này dịch vụ y tế bao gồm các hoạt động sau: - Hoạt động y tế dự phòng (Bao gồm cả lĩnh vực vệ sinh an toàn thực phẩm); - Hoạt động khám chữa bệnh, phục hồi chức năng; - Hoạt động khám chữa bệnh bằng y học cổ truyền; - Hoạt động sản xuất, kiểm nghiệm và phân phối thuốc. c. Phân loại theo tiêu thức của WTO - Các dịch vụ nha khoa và y tế: Các dịch vụ chủ yếu nhằm mục đích dự phòng, chẩn đoán và chữa bệnh qua tham vấn với các bệnh nhân mà không có chăm sóc tại bệnh viện... - Các dịch vụ do hộ sinh, y tá, vật lý trị liệu và nhân viên  kỹ thuật y tế cung cấp: Các dịch vụ như giám sát trong thai kỳ  và sinh con... chăm sóc (không nhập viện), tư vấn và dự phòng cho bệnh nhân tại gia. - Các Dịch vụ bệnh viện: Các dịch vụ được cung cấp theo chỉ dẫn của bác sỹ chủ yếu đối với các bệnh nhân nội trú nhằm mục đích chữa trị, phục hồi và/hoặc duy trì tình trạng sức khoẻ... - Các dịch vụ y tế con người khác: Các dịch vụ ngoại trú; Các dịch vụ y tế kèm nơi ở thay vì các dịch vụ bệnh viện. 1.1.3 Tổ chức hoạt động dịch vụ y tế Nhà nước đóng vai trò quan trọng trong việc điều tiết các hoạt động dịch vụ y tế để đạt được tính công bằng và tính hiệu quả trong nền kinh tế xã hội. Các chính sách của Nhà nước nhằm đảm bảo kiểm soát các dịch bệnh lây lan, khuyến khích sự phát triển của khoa học. Bảo vệ người tiêu dùng tránh mua phải những dịch vụ không cần thiết, chất lượng kém hoặc chi phí cao. Sức khoẻ tốt đang ngày càng được xem như một quyền cơ bản của con người trong xã hội. Đảm bảo sức khoẻ tốt cho mọi người là việc rất cần thiết của Chính phủ. Hiện nay ở Việt nam đang lấy dịch vụ y tế Nhà nước làm chủ đạo và phát triển từng bước hợp lý dịch vụ y tế tư nhân. Nhà nước nắm trong tay nguồn nhân lực y tế, đặc biệt là y tế cơ sở tuyến huyện, tuyến xã và thôn bản. Nhà nước lấy nguồn NSNN làm nguồn tài chính chủ yếu cho y tế để chủ động điều chỉnh kinh phí cho vùng nghèo và các đối tượng nghèo cũng như các đối tượng hưởng chính sách (những người có công với nước), thực hiện công bằng xã hội trong chăm sóc sức khoẻ và giải quyết những việc bức bách, cấp thiết của các dịch vụ hoặc những hậu quả do thiên tai, thảm hoạ gây ra... Trong giai đoạn hiện nay, nhiệm vụ của khu vực y tế công là đảm bảo ba mục tiêu lớn: + Tăng cường sức khoẻ nhân dân, + Thực hiện công bằng xã hội trong CSSK, + Tăng cường hiệu quả và chất lượng trong chăm sóc sức khoẻ. Tuy lấy dịch vụ y tế Nhà nước là chủ đạo nhưng hiện nay chúng ta vẫn kết hợp phát triển từng bước hợp lý dịch vụ y tế tư nhân vì dịch vụ y tế Nhà nước tuy có các ưu điểm nhưng cũng có nhược điểm ở chỗ thiếu tính cạnh tranh. Trong hoàn cảnh nền kinh tế nước ta hiện nay nguồn Ngân sách Nhà nước có hạn và tốc độ tăng trưởng kinh tế chưa cao, sự phát triển không đồng đều giữa nông thôn và thành thị, giữa đồng bằng và miền núi, có bộ phận dân cư giàu lên nhưng đại bộ phận vẫn ở mức nghèo, vì vậy việc huy động tài chính từ một bộ phận dân cư giàu lên để đỡ một phần gánh nặng NSNN, đó là việc làm cần thiết. Xã hội hoá y tế là một chiến lược quan trọng nhưng muốn đảm bảo được sự công bằng theo hướng XHCN thì không thể lấy việc giải quyết khó khăn của nguồn NSNN cung cấp cho ngành y tế và làm giảm gánh nặng cho NSNN là mục đích đầu tiên của XHH, mà phải lấy việc giải quyết nhu cầu của công tác CSSK trong khi nền y tế công chưa thể thoả mãn được nhu cầu này làm mục đích chính. Hệ thống y tế tư nhân (YTTN) ở Việt Nam bao gồm các phòng khám, bệnh viện của tư nhân, các hiệu thuốc tư nhân... hoạt động vì lợi nhuận cũng như không vì lợi nhuận, các tổ chức phi Chính phủ. YTTN hoạt động theo (luật HNYDTN năm 1993) chủ yếu cung cấp các dịch vụ KCB ngoại trú và một số dịch vụ chẩn đoán. 1.1.4 Kiểm tra đánh giá hoạt động dịch vụ y tế Với một nguồn lực nhất định, chúng ta đều muốn đạt được nhiều lợi ích hơn khi sử dụng nó. Trong thực tế nguồn lực luôn hạn hẹp, do vậy phải lựa chọn biện pháp tốt nhất để sử dụng. Để đạt được mục tiêu của mình, các cơ sở y tế và cả Cơ quan Bảo hiểm đều phải đối mặt với sự lựa chọn để tìm ra những giải pháp tốt nhất cho việc sử dụng các nguồn lực. Bất kể quốc gia nào, nguồn lực dành cho y tế luôn hạn hẹp và luôn phải cạnh tranh với lĩnh vực khác. Với mục đích như vậy, kiểm tra và đánh giá hoạt động dịch vụ y tế là vấn đề không thể thiếu trong hoạt động dịch vụ y tế, song các phương pháp kiểm tra và đánh giá trở lên phức tạp vì dịch vụ y tế là hàng hoá công cộng được cung cấp cho tất cả mọi người trong xã hội nên không có giá cả trong thị trường. Các phương pháp đánh giá kinh tế không phải là phương tiện thay thế quá trình ra quyết định. Đánh giá hoạt động dịch vụ y tế chỉ là một trong những phương tiện có sẵn và có ích làm cho sự lựa chọn trở lên rõ ràng hơn, tạo cho chúng ta khả năng sử dụng tốt nhất nguồn lực khan hiếm. Để kiểm tra và đánh giá hoạt động dịch vụ y tế, những câu hỏi chung thường được đặt ra và cần được trả lời: Chúng ta nên làm gì, làm như thế nào và làm gì cho ai?. Nguồn lực nào cho từng hoạt động dịch vụ y tế?. Chi phí bao nhiêu?. Có các mối liên hệ nào với các dịch vụ y tế khác nhau?. Người dân sẽ được hưởng những gì từ hoạt động này?. Trả lời cho những câu hỏi trên thường bị ảnh hưởng bởi việc ước tính về giá trị thực của những hoạt động được đề ra. Để đánh giá đúng, các câu hỏi thường đặt ra: Với các nguồn lực đang sử dụng thì dịch vụ y tế và trương trình y tế đang được thực hiện có giá trị hơn là các chương trình khác mà chúng ta đã bỏ qua không?. Cách sử dụng nguồn lực để cung cấp dịch vụ y tế, thực hiện chương trình y tế đã phù hợp chưa?. Do vậy đánh giá hoạt động dịch vụ y tế là công cụ giúp nhà hoạch định chính sách và nhà kế hoạch ra quyết định nhằm tối ưu hoá lợi ích và hiệu quả cho xã hội đã được phân bổ. Các phương pháp đánh giá dịch vụ y tế: 1.1.4.1 Phân tích giảm thiểu chi phí ( Cost Minimization Anlysisa – CMA) dựa trên các phát hiện dịch tễ học, kỹ thuật này dùng để xác định các chi phí can thiệp nhỏ nhất. 1.1.4.2 Phân tích chi phí hiệu quả ( Cost Effectiveness Analysis- CEA) Phát hiện phương pháp tốt nhất để hoàn thành một mục tiêu đơn bằng cách so sánh chi phí với hiệu quả: Loại can thiệp nào trong một số can thiệp sẽ hoàn thành với chi phí nhỏ nhất. Với một ngân sách cố định, loại can thiệp nào sẽ tối đa hoá hiệu quả của chi phí. Các kết quả đánh giá sẽ được biểu hiện bằng chi phí, hoặc hiệu quả tính bằng đơn vị tiền tệ. 1.1.4.3 Phân tích chi phí lợi ích ( Cost Bebefit Analysis – CBA) Đó là việc định giá cả chi phí và lợi ích thành tiền, so sánh chúng, lượng giá xem đề án, chương trình có phải là điều mong muốn không, qua cách sử dụng các tiêu chuẩn để ra quyết định: Nếu tỷ số Lợi ích/Chi phí>1 là khả thi. 1.1.4.4 Phân tích chi phí hữu dụng ( Cost Unitity Analysis-CUA) là một dạng của CEA nhưng nó đo lường hiệu quả của một dự án, chương trình bằng tính hữu dụng, có thể hướng vào việc tối thiểu hoá chi phí hoặc tối đa hoá hiệu quả. 1.2 NHỮNG CƠ SỞ ĐỂ PHÁT TRIỂN DỊCH VỤ Y TẾ 1.2.1 Sự cần thiết để phát triển dịch vụ y tế Sau 20 năm đổi mới với những thành tựu kinh tế ngoạn mục, uy tín Việt Nam trên trường quốc tế và khu vực ngày càng nâng cao, quan trọng hơn hết là việc Việt nam gia nhập Tổ chức Thương mại Thế giới - WTO. Gia nhập WTO sẽ tạo ra nhiều cơ hội tốt cho nền kinh tế Việt Nam nhưng đồng thời cũng đặt ra rất nhiều thách thức lớn lao - đó là cạnh tranh quốc tế - một cuộc cạnh tranh tuy công bằng nhưng vô cùng khốc liệt. Ngành y tế Việt Nam nói chung và dịch vụ y tế của Việt Nam không nằm ngoài cuộc cạnh tranh này. Sự đối mặt đầu tiên với cạnh tranh quốc tế của dịch vụ y tế sau khi Việt Nam gia nhập WTO là ngày càng nhiều những người bệnh thu nhập cao ra nước ngoài khám và chữa bệnh. Số lượng này ngày càng tăng, lúc đầu chủ yếu từ các thành phố lớn như Hà Nội, thành phố Hồ Chí Minh, sau này thêm người bệnh từ các tỉnh khác như Nam Định, Ninh Bình, Lạng Sơn… Thành phần người bệnh cũng rất đa dạng, từ các vị lãnh đạo cao cấp trong Chính phủ, tới các doanh nhân và công chức. Nhu cầu dịch vụ y tế của người dân cũng rất đa dạng, từ  kiểm tra sức khỏe định kỳ tới điều trị ung thư, phẫu thuật cho tới thẩm mỹ, chăm sóc sắc đẹp. Nếu cách đây 10 năm trở về trước, “xuất ngoại” là việc lớn của hầu hết các gia đình Việt Nam thì “xuất ngoại” đi chữa bệnh lại càng là chuyện lạ. Thì nay, đó lại trở nên bình thường khi đời sống của người dân ngày càng tăng. Việc cấp hộ chiếu trong nước ngày càng phổ biến, nhanh chóng và thuận tiện. Hàng rào visa đã hoàn toàn xóa bỏ trong khối ASEAN và sắp tới có thể với nhiều quốc gia khác. Sự ra đời gần đây của các hãng hàng không giá rẻ càng làm cho việc đi lại trở nên thuận tiện. Với sự vĩ đại của công nghệ thông tin, các bệnh nhân Việt Nam có thể tiếp cận rất dễ dàng với các chuyên gia y tế hàng đầu khu vực và quốc tế qua email và internet để hỏi ý kiến chuyên môn và chẩn đoán. Trong khi đó, cung cấp dịch vụ y tế nói chung và đặc biệt là dịch vụ y tế chất lượng cao trong nền kinh tế thị trường là thoả mãn nhu cầu của khách hàng vẫn là khái niệm mơ hồ đối với nhiều bệnh viện tại Việt Nam, đặc biệt tại các bệnh viện công. Không nói quá khi nhiều bệnh viện công lập tỏ thái độ không cần bệnh nhân vì lúc nào họ cũng trong tình trạng quá tải. Nếu phải làm dịch vụ y tế chất lượng cao, họ chỉ quan tâm tới việc trang bị tivi, tủ lạnh, máy điều hoà cho một vài phòng bệnh chứ không ý thức xây dựng một chiến lược thông qua liên kết, quảng bá, tiếp thị nhằm thu hút bệnh nhân nước ngoài, Việt kiều hoặc người có điều kiện tài chính muốn được chữa trị và chăm sóc đúng mức. Phải đối diện với cạnh tranh quốc tế về trình độ công nghệ và dịch vụ y tế chất lượng cao là một thực tế và thách thức của dịch vụ y tế Việt Nam. Dịch vụ y tế Việt Nam có truyền thống rất lâu đời và có nhiều thành tích tốt đẹp được thế giới ghi nhận như tiêm chủng mở rộng, chăm sóc sức khỏe ban đầu, kết hợp tốt hai nền y học cổ truyền và hiện đại, giải quyết tốt đại dịch SARS và dịch cúm gia cầm, thực hiện tốt ghép tạng trong điều kiện hết sức thiếu thốn và khó khăn. Do vậy vấn đề mang tính thời đại là phải có những giải pháp cần thiết trong đào tạo, nghiên cứu, quản lý, đặc biệt là việc xây dựng chiến lược phát triển dịch vụ y tế thì ngành Y tế Việt Nam mới thực hiện tốt, hiệu quả, đáp ứng được nhu cầu chăm sóc sức khoẻ của nhân dân, tiến tới xuất khẩu dịch vụ y tế và nâng cao khả năng cạnh tranh trên thị trường quốc tế. 1.2.2 Các biện pháp phát triển dịch vụ y tế Tăng trưởng trong lĩnh vực y tế về cơ bản chỉ là sự gia tăng thuần tuý về mặt lượng của các chỉ tiêu kinh tế tổng hợp: Viện phí, công xuất sử dụng giường bệnh... thì phát triển dịch vụ y tế ngoài việc bao hàm quá trình gia tăng đó, còn có một nội hàm phản ánh rộng lớn hơn, sâu sắc hơn, đó là những biến đổi về mặt chất của ngành y tế, mà trước hết là sự chuyển dịch cơ cấu ngành theo hướng CNH, HĐH và kèm theo đó là việc không ngừng nâng cao chất lượng các loại hình dịch vụ thể hiện ở hàng loạt tiêu chí như: tuổi thọ trung bình, tỷ lệ chết của trẻ sơ sinh, và khả năng áp dụng các thành tựu khoa học - kỹ thuật vào phát triển kinh tế - xã hội... Do vậy để phát triển dịch vụ y tế chúng ta cần phải: 1.2.2.1 Củng cố và phát triển y tế cơ sở Củng cố và phát triển mạng lưới y tế cơ sở nhằm nâng cao chất lượng công tác chăm sóc sức khoẻ ban đầu. Đảm bảo 100% số xã có trạm y tế phù hợp với điều kiện kinh tế địa lý, môi trường sinh thái và nhu cầu khám chữa bệnh của từng vùng. Đảm bảo đến năm 2010, tại 100% các trạm y tế xã vùng đồng bằng, trung du và 50% số trạm y tế xã vùng miền núi, vùng sâu có bác sỹ... Nhà nước có trách nhiệm đào tạo và bồi dưỡng chuyên môn cho các đối tượng này. Phát triển đội ngũ tình nguyện viên y tế tại các thôn ấp miền đồng bằng. Tăng cường công tác quản lý y tế cơ sở, triển khai các giải pháp quản lý mới đạy hiệu quả cao hơn như giải pháp lồng ghép chăm sóc trẻ ốm, nâng cao năng lực điều hành chăm sóc sức khoẻ ban đầu dựa vào cộng đồng... 1.2.2.2 Phát triển dịch vụ y tế dự phòng, nâng cao sức khoẻ nhân dân Nâng cao năng lực hệ thống y tế dự phòng từ TW đến cơ sở, đặc biệt là các Trung tâm y tế dự phòng tuyến tỉnh và đội vệ sinh phòng dịch của các huyện, quận. Củng cố các khoa y tế lao động và thành lập các phòng khám bệnh nghề nghiệp tại các tỉnh thành trọng điểm công nghiệp. Hoàn thiện mạnh lưới quản lý chất lượng, vệ sinh an toàn thực phẩm; kiện toàn hệ thống thanh tra liên ngành. Thực hiện các mục tiêu Chương trình Quốc gia thanh toán một số bệnh xã hội và dịch bệnh nguy hiểm, phấn đấu đến năm năm 2010: Giảm số mắc sốt rét xuống dưới 200 ca /100.000 dân; khống chế, tiến tới giảm tỷ lệ số lao mới mắc và và tổng số lao mới mắc và tổng số bệnh nhân còn 70% so với năm 2000... Chủ động trong công tác phòng chống dịch bệnh, không để dịch lớn xảy ra. Củng cố hệ thống báo cáo, giám sát dịch tễ, hiện đại hoá hệ thống quản lý số liệu để có các thông tin kịp thời cho việc xử lý các vụ dịch. Lãnh đạo chính quyền tỉnh, thành phố có trách nhiệm trực tiếp chỉ đạo, cung cấp nguồn lực, huy động các ban ngành, đoàn thể và nhân dân tham gia phòng chống dịch và các chương trình như cung cấp nước sạch, vệ sinh môi trường... Triển khai thực hiện rộng rãi các trương trình phòng chống các bệnh không nhiễm trùng như: tim mạch, ung thư, đái tháo đương.... Tham gia tích cực trong việc phòng chống tai nạn thương tích, nhất là tai nạn giao thông, tai nạn lao động và bệnh nghề nghiệp... Tăng cường quản lý chất lượng, vệ sinh an toàn thực phẩm, phát triển đội ngũ thanh tra và kiểm tra vệ sinh an toàn thực phẩm tại tất cả các tuyến.. Triển khai mạnh mẽ chương trình sức khoẻ sinh sản, làm mẹ an toàn, chăm sóc sản khoa thiết yếu và các dịch vụ kế hoạch hoá gia đình... Thực hiện các chương trình chăm sóc sức khoẻ trẻ em như: Phòng chống suy dinh dưỡng, sức khoẻ vị thành niên... Đẩy mạnh phong trào thể dục thể thao nâng cao sức khoẻ. 1.2.2.3 Phát triển hệ thống khám chữa bệnh và phục hồi chức năng Đầu tư nâng cấp hệ thống khám chữa bệnh một cách đồng bộ, phù hợp với nhu cầu từng vùng và khả năng kinh tế xã hội. Tập trung nguồn lực cho việc nâng cấp các cơ sở khám chữa bệnh ở 2 trung tâm y tế chuyên sâu. Phân tuyến chuyên môn kỹ thuật và có quy định chuyển tuyến chặt chẽ hơn để giảm bớt tình trạng quá tải ở các bệnh viện tuyến trên. Sớm hoàn thành quy hoạch mạng lưới khám chữa bệnh, chuẩn hoá các phương tiện và kỹ thuật thường quy, sử dụng có hiệu quả và khai thác hết công xuất các thiết bị trong chuẩn đoán và điều trị. Xây dựng danh mục thuốc điều trị phù hợp với nhu cầu của bệnh viện... Tập trung triển khai tốt quy chế bệnh viện, cải cách các thủ tục hành chính trong khám bệnh và chữa bệnh để tạo điều kiện cho bệnh nhân. Đảm bảo điều kiện phục vụ các bệnh nhân tại cơ sở khám chữa bệnh như ăn, ở và sinh hoạt. Tiếp tục giáo dục cán bộ toàn ngành y tế thấm nhuần y đức xoá bỏ tiêu cực trong bệnh viện. Đổi mới cơ chế quản lý các dịch vụ y tế... Đa dạng hoá các cơ sở khám chữa bệnh bao gồm các cơ sở của Nhà nước, y tế các ngành, cơ sở có vốn đầu tư nước ngoài, bán công và tư nhân. Thống nhất quản lý về chuyên môn và nghiệp vụ của các cơ sở y tế nói trên với hoạt động của hệ thống y tế quốc gia nói chung bao gồm cả phòng bệnh và chữa bệnh. 1.2.2.4 Phát triển y dược học cổ truyền Củng cố và phát triển hệ thống YDHCT từ trung ương đến trạm y tế xã phường. Tăng cường đào tạo cán bộ chuyên sâu và phổ cập về YDHCT. Tập trung nghiên cứu ứng dụng và nghiên cứu kết hợp, xác định những bệnh ưu tiên chữa bằng y học cổ truyền để hướng dẫn các cơ sở điều trị. Phát triển vườn thuốc nam và các kỹ thuật không dùng thuốc như châm cứu, bấm huyệt... có chính sách cụ thể về tăng cường sử dụng thuốc YHCT. 1.2.2.5 Phát triển công nghệ dược Tiếp tục triển khai chính sách quốc gia về thuốc với các mục tiêu cơ bản là đảm bảo cung ứng thường xuyên và đủ thuốc có chất lượng đến người dân, thực hiện sử dụng thuốc an toàn hợp lý. Củng cố và kiện toàn hệ thống tổ chức quản lý Nhà nước về dược từ trung ương đến địa phương. Quy hoạch và tổ chức lại ngành công nghiệp dược theo hướng tập trung, chuyên môn hoá và đầu tư có trọng điểm. Phát triển công nghệ sinh học, đặc biệt là công nghệ gen, công nghệ nhân giống và cấy mô để phục vụ cho sản xuất thuốc, sản xuất vắc xin... Tranh thủ mọi nguồn vốn đầu tư nâng cấp các công ty dược theo tiêu chuẩn Thực hành tốt sản xuất thuốc (GMP). 1.2.2.6 Xã hội hoá công tác y tế Đa dạng hoá các loại hình chăm sóc sức khoẻ, tìm kiếm và khai thác các nguồn đầu tư khác nhau cho y tế như BHYT tự nguyện, viện trợ nước ngoài... Phát triển văn hoá, xây dựng nếp sống văn minh, xoá bỏ tập quán có hại cho sức khoẻ. Xây dựng điển hình tiên tiến về vệ sinh môi trường và an toàn cộng đồng. Củng cố và phát triển các trung tâm truyền thông và giáo dục sức khoẻ. Phát triển mạng lưới tuyên truyền xuống tận tuyến xã. Phối hợp với các cấp các ngành, các tổ chức chính trị xã hội trong công tác truyền thông giáo dục sức khoẻ cộng đồng. 1.2.3 Những điều kiện để phát triển dịch vụ y tế 1.2.3.1 Cơ sở vật chất kỹ thuật Cơ sở vật chất là điều kiện quan trọng quyết định hiệu quả, chất lượng khám, phòng và chữa bệnh. Về đầu tư: Việc đầu tư cho công tác chăm sóc và bảo vệ sức khoẻ nhân dân phải dựa vào nhiều nguồn lực khác nhau, bao gồm: đầu tư của Nhà nước, đóng góp của cộng đồng và viện trợ quốc tế... trong đó đầu tư của nhà nước giữ vai trò chủ đạo. Từng bước phấn đấu mức chi thường xuyên cho y tế đạt tỷ lệ 5% trong tổng chi ngân sách vào năm 2010. Thực hiện phân bổ ngân sách dựa trên mức thu nhập và nhu cầu chăm sóc sức khoẻ, mức độ bao phủ của Bảo hiểm y tế và khả năng chi trả viện phí của người dân tại mỗi vùng. Ngân sách Nhà nuớc ưu tiên đầu tư cho vùng nghèo, vùng núi và các hoạt động y tế dự phòng, y học cổ truyền, các hoạt động chăm sóc sức khoẻ ban đầu tại y tế cơ sở, khám chữa bệnh cho người nghèo và các đối tượng chính sách. Nhà nước cần phải đầu tư cho các mục tiêu chương trình y tế quốc gia và một số chương trình sức khoẻ ưu tiên để chủ động giải quyết các vấn đề sức khoẻ. Ngân sách nhà nước tập trung cho những chương trình có tác động rộng rãi đến sức khoẻ và đời sống kinh tế- văn hoá xã hội của công đồng. Bố trí, cân đối lại tỷ trọng đầu tư từ ngân sách Nhà nước, vay vốn hoặc viện trợ để đảm bảo tính bền vững của các chương trình. Thực hiện cơ chế chính sách tài chính mới tại một số bệnh viện ở các thành phố lớn tiến tới tự cân đối thu chi thường xuyên dựa trên BHYT và viện phí. Nhà nước sẽ hỗ trợ cho đầu tư phát triển và thực hiện các chính sách của Nhà nước trong khám chữa bệnh. Nhà nước cần thực hiện chính sách đa phương hoá, đa dạng hoá trong quan hệ hợp tác quốc tế. Tăng cường huy động và điều phối các nguồn viện trợ, đặc biệt là các khoản viện trợ không hoàn lại cho hỗ trợ kỹ thuật và các khoản vay ưu đãi cho đầu tư phát triển; cùng với các khoản đầu tư cá nhân và liên doanh phù hợp với chủ trương và chính sách của Nhà nuớc. Thực hiện việc kết hợp các nguồn viện trợ với ngân sách Nhà nước trong chiến lược chăm sóc và bảo vệ sức khoẻ Nhân dân. Bên cạnh đó ngành Y tế phải nâng cao năng lực quản lý tài chính ở các cấp, giảm bớt đầu tư bất hợp lý, tránh thất thoát và tăng cường tiết kiệm. Về trang thiết bị: Trong thời gian qua, các bệnh viện tuyến tỉnh dù đã được đầu tư, nâng cấp về cơ sở hạ tầng và trang thiết bị nhưng mức đầu tư này vẫn còn thấp so với nhu cầu thực tế. Nhiều bệnh viện mới chỉ có được 30% trên 30 loại thiết bị y tế thiết yếu (trong tổng số trên 200 loại trang thiết bị dùng cho tuyến tỉnh). Trong đó có đến 35% số lượng thiết bị hiện có đã sử dụng từ những năm 1985 trở về trước. Gần 40% thiết bị được đưa vào sử dụng từ những năm 1986. Qua một thời gian dài sử dụng như vậy số trang thiết bị hiện còn sử dụng được chỉ vào khoảng 25-30%. Thêm nữa, trình độ đội ngũ cán bộ kỹ thuật đã quá lạc hậu so với các nước trong khu vực nên nhiều cơ sở chưa đáp ứng kịp sự đổi mới về kỹ thuật - công nghệ, không ít cơ sở còn chưa khai thác hết trang thiết bị hiện có. Ở một số nơi, trang thiết bị ngoại nhập đắt tiền thậm chí vẫn được "đắp chiếu" do... quá hiện đại với khả năng của người vận hành, sử dụng. Để khắc phục tình trạng xuống cấp, khai thác chưa hết tính năng, công suất hoặc không được sử dụng của TTBYT, đẩy nhanh quá trình hiện đại hoá ngành y tế, phấn đấu đạt trình độ ngang tầm với các nước trung bình trong khu vực, cần phải: - Kiện toàn về tổ chức và xây dựng các trung tâm dịch vụ kỹ thuật trang thiết bị y tế, hoàn chỉnh hệ thống văn bản pháp quy về trang thiết bị y tế. Đầu tư trang thiết bị y tế theo phân tuyến kỹ thuật của hệ thống phòng bệnh và khám chữa bệnh, đảm bảo đến năm 2010 tất cả các cơ sở y tế được trang bị đầy đủ thiết bị y tế theo danh mục tiêu chuẩn của Bộ y tế và được cấp đầy đủ vật tư và các dụng cụ thông thường. - Đẩy mạnh hợp tác nghiên cứu khoa học, chuyển giao công nghệ trong lĩnh vực trang thiết bị y tế với các nước và các ngành, nhằm phát triển nền công nghiệp trang thiết bị y tế ở Việt nam. 1.2.3.2 Nhân lực y tế Nhân lực là nguồn lực quan trọng nhất của mỗi quốc gia, là nhân tố quyết định mọi thắng lợi hay thất bại của một hệ thống. Chính vì vậy các nước trên thế giới đều rất quan tâm tới việc đào tạo nhân lực, bồi dưỡng nhân tài. Người ta ước tính mức chi hợp lý cho con người ở các nước phát triển là khoảng 50-70% tổng chi phí. Việc đào tạo cán bộ y tế thường mất nhiều thời gian và tốn kém, ở các nước phát triển chi cho đào tạo bác sỹ thường từ 40.000-90.000USD cho một năm. Còn đối với nước ta chi cho đào tạo bác sỹ chính quy là 12.000USD/năm. Nhân lực y tế có vai trò đặc biệt quan trọng trong hệ thống y tế, nó ảnh hưởng trực tiếp đến sức khoẻ của con người. Do vậy yêu cầu đối với đội ngũ cán bộ y tế phải ngày càng phát triển, chuyên môn hoá cao và sâu. Công tác quản lý ngành ngày càng đa dạng hơn do việc đưa các thiết bị hiện đại và các loại cán bộ kỹ thuật khác nhau vào trong công tác y tế, đặc biệt trong lĩnh vực cận lâm sàng. Trong công cuộc công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước, kỹ thuật cao và quy trình tự động hoá cao đòi hỏi phải đổi mới cơ chế quản lý nhân lực y tế, tiêu chuẩn hoá việc đào tạo các hình loại hình cán bộ cho từng tuyến. Cải cách trương trình giảng dạy, đổi mới nội dung và nâng cao chất lượng đào tạo hướng vào việc hình thành các năng lực và phẩm chất đáp ứng nhu cầu chăm sóc sức khoẻ cộng đồng, thực hiện các chương trình y tế và sử dụng các phương tiện khoa học kỹ thuật y dược hiện đại. Phân bổ lực lượng cán bộ y tế phù hợp giữa các vùng theo nhu cầu chăm sóc sức khoẻ của nhân dân. Sắp xếp lại nhân lực ở các cơ sở y tế tuyến tỉnh, tuyến huyện để có thể điều động luân phiên các bác sỹ về tăng cường cho y tế cơ sở. Nâng cao trình độ chuyên môn, tăng cường kỷ luật lao động và y đức của cán bộ y tế. 1.2.3.3 Cơ chế tổ chức, điều hành và quản lý Trình độ quản lý, cơ chế điều hành và tổ chức cán bộ có ảnh hưởng rất lớn tới các hoạt động kinh tế xã hội trong giai đoạn hội nhập kinh tế quốc tế. Việc xây dựng một cơ chế vận hành và quản lý bộ máy nhà nước tường minh, hiệu quả trở thành đòi hỏi bức thiết trong đời sống kinh tế xã hội. Đối với các hoạt động dịch vụ y tế cần: Tăng cường đào tạo cán bộ quản lý các cấp về kiến thức tổ chức và quản lý trong lĩnh vực y tế; Nâng cao năng lực lập kế hoạch trong các lĩnh vực hoạt động của ngành y tế; Điều hành, quản lý Nhà nước về y tế bằng pháp luật đi đôi với việc tăng cường thanh tra, kiểm tra, giám sát việc thực hiện các chế độ chính sách của Nhà nước trong việc chăm sóc và bảo vệ sức khoẻ nhân dân. Thực hiện tốt qui chế dân chủ tại tất cả các cơ sở y tế. Xây dựng phong trào thi đua trong ngành, đặc biệt là xây dựng những đơn vị cá nhân điển hình tiên tiến. Phong trào thi đua phải được duy trì để phát triển ngành và tăng cường y đức. Tiếp tục củng cố và hoàn thiện hệ thống tổ chức ngành y tế theo hướng tinh giảm đầu mối để đạt hiệu quả cao. Tiếp tục xây dựng và hoàn thiện mạng lưới tổ chức trong các lĩnh vực y tế dự phòng, khám chữa bệnh, dược và đào tạo... Hoàn thiện cơ chế quản lý ngành từ cấp tỉnh đến cơ sở. Phát triển bệnh viện đa khoa khu vực (liên huyện) ở những địa bàn xa trung tâm tỉnh để dưa kỹ thuật khám chữa bệnh thích hợp xuống gần dân. Củng cố và nâng cao chất lượng hoạt động của phòng khám đa khoa cụm liên xã tại các vùng miền núi, vùng sâu, vùng xa. Chăm sóc và bảo vệ sức khoẻ là sự nghiệp của toàn đảng, toàn dân ta. Thực hiện chiến lược chăm sóc và bảo vệ sức khoẻ nhân dân là trách nhiệm của tất cả các Bộ, các Ngành và các địa phương, trong đó ngành y tế giữ vai trò làm lòng cốt trong việc tham mưu cho chính phủ tổ chức thực hiện. 1.3 KINH NGHIỆM PHÁT TRIỂN DỊCH VỤ Y TẾ TẠI THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH VÀ ĐẤT NƯỚC SINGAPORE Theo các chuyên gia tâm lý, yếu tố tâm lý tác động rất nhiều đến sự chuyển biến của bệnh tật. Trong quá trình chữa bệnh, điều trị về tinh thần là vô cùng quan trọng. Có những người mắc bệnh nan y như ung thư, nếu được sống trong một môi trường thân thiện, thoải mái, tâm lý tốt, có thể kéo dài cuộc sống thêm vài năm, thậm chí là vài chục năm. Trong khi đó phần lớn bệnh nhân Việt Nam lại không tìm thấy không khí đấy tại các bệnh viện trong nước. Họ cho rằng ngoài sự quá tải đến ngột ngạt thì thái độ bác sỹ cũng khiến cho bệnh tật của họ nặng thêm. Nhiều người có tiền đã lựa chọn dịch vụ khám chữa bệnh ở nước ngoài, mặc dù giá cả khám chữa bệnh tại nước ngoài không rẻ chút nào (phẫu thuật điều trị tim bẩm sinh mất khoảng 250 triệu đồng/lần (bệnh nhân thường phải trải qua 2-3 lần), ghép gan cho người lớn hiến từ người sống hết khoảng 2,5 tỷ đồng, phẫu thuật u não bằng phương pháp xạ vi phẫu (tạo vết thương nhỏ) khoảng 200 đến 250 triệu đồng…), thế nhưng nhu cầu đang ngày càng tăng. Ngoài các bệnh nhân có nhu cầu đi chữa bệnh ở nước ngoài đều mắc các bệnh nặng như ung thư, tim mạch, hoặc cần được ghép tạng… và phần lớn họ không tin tưởng vào chất lượng dịch vụ y tế trong nước nhưng trên thực tế, có rất nhiều người ra nước ngoài không phải vì bệnh hiểm nghèo mà chỉ muốn được tận hưởng một dịch vụ chăm sóc bệnh nhân hoàn hảo. Thế mới có chuyện, nhiều người có tiền tranh thủ ngày nghỉ cuối tuần để sang Thái lấy cao răng?! Vấn đề đặt ra ở đây là, giải pháp gì khi chúng ta đang để mất một lượng đáng kể bệnh nhân có khả năng chi trả cao?. Bao giờ các bệnh viện Việt Nam mới đáp ứng được nhu cầu dịch vụ y tế và bao giờ các bệnh viện Việt nam có dịch vụ khám chữa bệnh chất lượng cao, đạt tiêu chuẩn quốc tế? Theo nhận định của các chuyên gia cho rằng, để đáp ứng nhu cầu về dịch vụ y tế của nhân dân hiện nay còn rất khó khăn chứ chưa nói đến dịch vụ khám chữa bệnh chất lượng cao tại các bệnh viện trong nước. Song, về trình độ chuyên môn, các bác sỹ Việt Nam được đánh giá rất cao, họ có đủ khả năng để tiếp xúc với nền y học tiên tiến, hiện đại. Đặc biệt, đến nay nhiều bệnh viện trong nước đã thực hiện thành công các ca ghép nội tạng. Trong đó, kỹ thuật ghép thận đã về đến các bệnh viện tuyến tỉnh, và có đến 5 bệnh viện tuyến trung ương có thể tiến hành ghép gan. Kỹ thuật ghép tim đang được bệnh viện Việt Đức tiến hành nghiên cứu thực hiện… Tuy nhiên, để ngành y tế Việt Nam phát triển với hệ thống khám chữa bệnh chất lượng cao, chỉ chuyên môn thôi không đủ mà còn liên quan đến cả hệ thống. Đó là các bệnh viện Việt Nam chủ yếu được xây dựng theo mô hình bệnh viện công, vì thế luôn trong tình trạng quá tải. Đây chính là nguyên nhân khiến cho chất lượng dịch vụ kém đi - một bác sỹ bình quân khám khoảng 20 bệnh nhân/ngày chắc chắn sẽ đủ “minh mẫn” hơn khi con số đó là 200. “Chất lượng hay không chính là ở chỗ đó”. Mặt khác, chi phí y tế cho một đầu người tại Việt Nam vẫn đang ở mức quá thấp, 6 USD/người (tại Singapore, con số này là 2.000 USD, Mỹ trên 6.000 USD). Với chi phí đó, dịch vụ y tế nói chung, trang thiết bị, cơ sở vật chất nói riêng không thể đáp ứng được nhu cầu của những người có nhiều tiền. Để khắc phục tình trạng này, có lẽ chỉ có thể bằng cách chuyển đổi mô hình các bệnh viện công sang viện tư, đặt kinh doanh, lợi nhuận lên hàng đầu. Đến lúc đó, phần lớn người dân có bệnh lại không dám đến bệnh viện vì không có khả năng chi trả. 1.3.1 Phát triển dịch vụ y tế trên địa bàn TP Hồ Chí Minh Với quyết tâm chuyển dịch cơ cấu kinh tế, Thành phố Hồ chí minh trong những năm qua luôn duy trì khu vực dịch vụ đạt tốc độ tăng trưởng bình quân 12%/ năm. Để đạt được mức tăng trưởng như vậy, Thành phố Hồ Chí Minh đã đưa ra một số nhiệm vụ cụ thể về phát triển các dịch vụ y tế. Đó là xây dựng 5 khu điều trị kỹ thuật cao, gồm 1 khu trung tâm là các bệnh viện hiện nay, và 4 khu cửa ngõ vào TP: 1- Bình Chánh, Bình Tân, quận 8; 2- Thủ Đức, quận 9, quận 2; 3 - Củ Chi, Hóc Môn, quận 12; 4- Cần Giờ, Nhà Bè, quận 7. Thành lập công ty mẹ-con ngành dược. Xây dựng khu xét nghiệm kỹ thuật cao, trung y học cổ truyền TP hòa nhập với các quốc gia khu vực và thế giới. Xây dựng viện trường ở Củ Chi (quy mô 100 ha, vốn đầu tư khoảng 85 triệu euro) phục vụ lâu dài cho công tác đào tạo cán bộ y tế của TP. Xác định nhu cầu chăm sóc sức khoẻ của nhân dân ngày càng tăng, nhất là các dịch vụ y tế chất lượng cao, TP.HCM đã bắt đầu từ những thế mạnh sẵn có là phụ sản, hỗ trợ sinh sản, thẩm mỹ, nha khoa sau đó mở rộng sang một số lĩnh vực khác. Để phát triển chất lượng dịch vụ y tế trên địa bàn, TP.HCM đang tập trung đầu tư vào một số cơ sở nhất định, chuẩn hoá cơ sở vật chất, quản lý và nhân sự để đạt chuẩn quốc tế bằng việc thực hiện các chính sách: - Thu hút đầu tư từ mội nguồn lực trong xã hội nhằm thực hiện tốt công tác xã hội hoá y tế. - Về nhân lực: Cơ sở y tế được phép mời chuyên gia về hội chẩn, mời chuyên gia của đơn vị khác, chuyên gia đến khám chữa bệnh theo yêu cầu của bệnh viện, mổ các trường hợp khó.. tại đơn vị mình; - Cho phép tư nhân tham gia cung cấp các dịch vụ theo hợp đồng và được thanh toán từ NSNN, như dịch vụ vệ sinh, giặt là, duy tu, bảo dưỡng thiết bị máy móc công nghệ cao, cung cấp thực phẩm... để ban lãnh đạo bệnh viện tập chung vào vấn đề quan trọng hơn của các dịch vụ y tế. - Cho phép cùng tổ chức một bộ phận cung cấp dịch vụ y tế cùng hạch toán trong cơ sở y tế công. - Bộ phận khám chữa bệnh theo yêu cầu của bệnh viện công được phép giao cho một tổ chức y tế tư nhân phụ trách. - Liên doanh góp vốn mở một khoa KCB theo yêu cầu với nước ngoài. - Dịch vụ cung cấp thuốc ngoài danh mục thuốc thiết yếu trong bệnh viện. Công tư phối hợp trong tạo nguồn tài chính cho các hoạt động CSSK. - Tư nhân bỏ vốn mua thiết bị y tế đặt tại các cơ sở y tế công, tự lo cả kinh phí bảo dưỡng, được thu hồi vốn thông qua việc thu phí dịch vụ. Bệnh viện có thiết bị phục vụ khám chữa bệnh, trả tiền sử dụng máy thông qua cơ chế trích một tỷ lệ cố định trên số phí dịch vụ thu được. - Công tư góp vốn bằng hình thức cổ phần để xây dựng bộ phận bán công trong cơ sở y tế công hoặc hoạt động độc lập như một vệ tinh của cơ sở công lập đó. - Tư nhân cho cơ sở y tế công lập vay tiền để đầu tư mua sắm trang thiết bị, nhà, cơ sở hạ tầng. Đơn vị vay trả dần bằng ngân sách hàng năm hoặc trả bằng nguồn viện phí thu được từ hoạt động chuyên môn Chính cơ chế này đã và đang thúc đẩy sự phát triển dịch vụ y tế của thành phố Hồ Chí Minh thành trung tâm cung cấp dịch vụ y tế lớn nhất trong cả nước. Đánh dấu sự chuyển mình của ngành y tế Việt Nam phù hợp với nền kinh tế thị trường hiện nay. Ví dụ cụ thể là: Tại TP.HCM có hai trung tâm cung cấp dịch vụ y tế chất lượng cao đó là Trung tâm Medic Bình Tân, bệnh viện Chợ Rẫy đang được đầu tư dự án PET-CT có chức năng sản xuất chất đồng vị phóng xạ dùng chẩn đoán ung thư. Chi phí cho hệ thống trị giá 5 triệu USD. So với những kỹ thuật chẩn đoán khác, PET-CT có độ chính xác cao hơn, lên đến 93% trong xác định tính chất lành hay ác của khối u phổi, 92% trong phát hiện di căn gan. Trong bệnh lý thần kinh trung ương, PET-CT đánh giá được những tổn thương u còn sót lại sau điều trị bằng tia xạ hoặc hoá chất. Ngoài ra, PET-CT đánh giá tốt tiến triển điều trị bệnh mạch vành, xác định vùng cơ tim bị tổn thương có thể điều trị được hay không. Hiện ở khu vực ASEAN, chỉ Singapore và Philippines có PET-CT. Như thế Việt Nam là nước thứ ba trong khu vực trang bị được kỹ thuật tiên tiến này. Chi phí chụp PET-CT tại Singapore khoảng 3.500 USD, nếu tính cả chi phí đi lại cũng mất 5.000 USD. Trong khi với PET-CT trong nước, người dân chỉ mất khoảng 1.000 USD. Dịch vụ y tế chất lượng cao này sẽ được TPHCM đưa vào danh mục kỹ thuật dùng trong BHYT nên nó đáp ứng không chỉ người có tiền, mà người nghèo cũng có thể tiếp cận được với kỹ thuật cao này. Trong kế hoach lâu dài chủ trương của ngành y tế TP.HCM, một số bệnh viện như: Medic Bình Tân, bệnh viện Chợ rẫy, bệnh viện Tù Dũ... đã được đầu tư để đạt chuẩn quốc tế sẽ là nơi tiếp nhận các bác sĩ nước ngoài thực tập và điều trị bệnh nhân nước ngoài, biến y tế trở thành một dịch vụ kinh tế thu ngoại tệ. Đây là mô hình mà các quốc gia Ấn Độ, Singapore, Thái Lan đã áp dụng thành công. 1.5.2 Phát triển dịch vụ y tế ở Singapore Có người nói, y học Singapore với tay sang những nước chung quanh vì người dân của họ được chăm sóc y tế quá tốt, nên không còn mấy người ốm đau, bệnh tật. Vì thế, để tồn tại, các cơ sở y tế nước này buộc phải đi kiếm bệnh nhân từ bên ngoài. Cách lý giải đó phần nào đúng, nhưng đúng hơn là trước sau như một người Singapore vẫn trung thành với chiến lược phát triển đất nước bằng việc cung cấp dịch vụ chất lượng cao, trong đó y tế là mảnh đất phì nhiêu. Là một quốc đảo nhỏ bé với bốn triệu dân, không có tài nguyên thiên nhiên, đến nước sinh hoạt còn phải nhập khẩu, Singapore chỉ dựa vào nguồn tài nguyên duy nhất là con người. Từ lâu Singapore đã xác định muốn tồn tại phát triển và phồn thịnh, họ phải tập trung mạnh vào công nghệ và dịch vụ chất lượng cao trong đó công nghệ sinh y học và dịch vụ y tế. Trong chiến lược phát triển kinh tế từ nay và trong tương lai, công nghệ sinh y học và dịch vụ y tế được coi là một trong những trụ cột chính của nền kinh tế Singapore. Nói đi đôi với làm, trong những năm vừa qua, chính phủ Singapore đã đầu tư rất mạnh cho công nghệ sinh y học, tăng cường hơn nữa việc “nhập khẩu chất xám” đầu tư cơ sở hạ tầng và đào tạo, quyết tâm biến Singapore thành trung tâm hàng đầu thế giới về công nghệ sinh y học. Dịch vụ y tế cũng được đẩy mạnh tạo điều kiện tốt hơn nữa cho bệnh nhân nước ngoài. Trong rất nhiều hội nghị, các vị bộ trưởng trong chính phủ Singapore luôn nhắc đến cụm từ: “bán kính 5 giờ bay” (5 hour flight radius) ý nói chỉ trong 5 giờ bay Singapore đã có một thị trường khổng lồ với hơn 2,7 tỷ dân trong đó có 560 triệu dân ASEAN, và hơn hai tỷ dân Ấn Độ và Trung Quốc với tiềm năng kinh tế lớn. Và đương nhiên Việt Nam được coi là một điểm sáng trong “bán kính 5 giờ” này. Các tập đoàn y tế nhà nước và tư nhân của Singapore đã mở văn phòng đại diện ở khắp mọi nơi trên thế giới nhưng thị trường trọng điểm của họ vẫn là các nước ASEAN. Ở Việt Nam có các văn phòng như: Singhealth, NHG, Parkway, Raffles. Tạo thuận lợi cho người bệnh nước ngoài, tập đoàn Raffles mở cả văn phòng tại sân bay quốc tế Changi, để đón tiếp bệnh nhân sau khi hạ cánh. Tại các bệnh viện Singapore, người ta thấy chung một công thức, đó là uy tín, trọng thị và rõ ràng. Các chuyên gia tâm lý đã khẳng định, yếu tố tâm lý tác động rất nhiều đến sự chuyển biến của bệnh tật. Trong quá trình chữa bệnh, điều trị về tinh thần là vô cùng quan trọng. Có những người mắc bệnh nan y như ung thư, nếu được sống trong một môi trường thân thiện, thoải mái, tâm lý tốt, có thể kéo dài cuộc sống thêm vài năm, thậm chí là vài chục năm. Chính điều này đã được các bác sỹ tại Singapore áp dụng rất thành công và cũng chính như vậy đã làm cho đất nước Sigapore trở thành nước xuất khẩu dịch vụ y tế đứng đầu ASEAN. “Bệnh viện ở Singapore lộng lẫy như khách sạn, nó giống chỗ nghỉ ngơi du lịch hơn là nơi chữa bệnh. Bác sỹ nơi đây thân thiện như người trong gia đình, và đặc biệt là không hề có mùi của thuốc tẩy. Tôi không có cảm giác là mình đang bị bệnh...”. Đó là tâm sự của một bệnh nhân Việt nam đã từng đi chữa bệnh tại Singapore. Chương II: PHÂN TÍCH THỰC TRẠNG PHÁT TRIỂN DỊCH VỤ Y TẾ TRÊN ĐỊA BÀN TỈNH HẢI DUƠNG 2.1 KHÁI QUÁT CHUNG VỀ TỈNH HẢI DƯƠNG 2.1.1 Vị trí của tỉnh Hải Dương Hải Dương là 1 trong 11 tỉnh, thành phố thuộc vùng Đồng bằng sông Hồng và là 1 trong 8 tỉnh thuộc vùng kinh tế trọng điểm Bắc Bộ. Hải Dương nằm trong khu tam giác kinh tế Hà Nội - Hải Phòng - Quảng Ninh và liền kề với các thành phố loại 3 như: Bắc Giang, Thái Bình và các khu công nghiệp lớn như Bắc Ninh, Phố Nối - Hưng Yên... Đây là vùng kinh tế năng động của các tỉnh phía Bắc. Nằm ở vị trí thuận lợi, Hải Dương có vai trò quan trọng là cầu nối giữa thủ đô Hà Nội với thành phố cảng Hải Phòng. Trong những năm tới, Hải Dương sẽ trở thành trọng điểm thu hút đầu tư phát triển công nghiệp, dịch vụ, thương mại và trở thành một trong các đô thị lớn của vùng Đồng bằng sông Hồng và là tỉnh kinh tế trọng điểm của các tỉnh phía Bắc. Bên cạnh những lợi thế trong phát triển kinh tế xã hội; với vị trí là tâm điểm của vùng; tỉnh Hải Dương cũng có thể sẽ bị ảnh hưởng bởi những bất lợi trong di biến động dân cư dễ gắn liền với sự lây truyền các bệnh dịch nguy hiểm. 2.1.2 Địa lý và khí hậu Địa lý Hải Dương có tổng diện tích là 1652,8 km2. Hệ thống sông ngòi khá dày đặc, thuận lợi cho phát triển nông nghiệp và giao thông đường thuỷ. Tuy nhiên, nhiều sông ngòi cũng tạo nên sự chia cắt thành nhiều vùng sinh thái khác nhau làm cho việc đi lại không thuận lợi, nhất là vào mùa bão lũ, gây ảnh hưởng bất lợi đến sản xuất nông nghiệp, đời sống dân sinh và sức khoẻ của người dân trong tỉnh. Khí hậu Hải Dương mang đặc điểm chung của vùng khí hậu nhiệt đới gió mùa, nóng ẩm, được chia thành 4 mùa rõ rệt. Các bệnh thường gặp vào mùa xuân là do vi rút gây nên như: cúm, sởi, sốt; mùa hè là các bệnh về nhiễm khuẩn hô hấp, tiêu hoá, viêm não Nhật Bản, mùa thu - đông các bệnh mạn tính, tim mạch, bệnh khớp... 2.1.3 Dân số và nguồn lao động Dân số Năm 2007, dân số tỉnh Hải Dương là 1.703,456 nghìn người, chiếm 2,05% dân số cả nước và 9,46% dân số vùng Đồng bằng sông Hồng. Mật độ dân số trung bình toàn tỉnh là 1042 người/km2. Tỷ lệ tăng dân số tự nhiên năm 2007 là 9,71‰. Niên giám thống kê 2007, Tổng cục thống kê Tuổi thọ trung bình trong toàn tỉnh năm 2007 đạt 72 tuổi. Bảng 1: Tốc độ phát triển dân số tỉnh Hải Dương (2001 - 2007) Năm Tốc độ tăng DS tự nhiên (‰) Tỷ lệ sinh thô (‰) Tỷ lệ chết thô (‰) 2001 10,50 15.72 5,23 2002 9,79 14.96 5,17 2003 10,44 15.68 5,24 2004 10,09 15.39 5,30 2005 9,80 15.23 5,27 2006 9,36 14,09 5,43 2007 9,71 14,92 5,21 (Nguồn : Cục Thống kê tỉnh Hải Dương năm 2007) Cơ cấu dân số trẻ, tỷ lệ trong độ tuổi lao động chiếm 62,8%. Tỷ lệ giới tính khá ổn định, nam luôn chiếm khoảng 50%, nữ chiếm 50%. Dân số chủ yếu ở nông thôn chiếm 84,43% (năm 2007). Dân số thành thị tăng nhanh, năm 1995 là 7,5% nhưng đến năm 2006 tăng lên 15,57% Niên giám thống kê 2007, Tổng cục thống kê . Toàn tỉnh có 11 huyện và 1 thành phố với 263 xã/phường/thị trấn. Sự phân bố dân số tương đối đều ở các huyện đồng bằng. Thành phố Hải Dương có mật độ dân số cao nhất là 3.995 người/km2. Huyện miền núi Chí Linh là huyện có mật độ dân số thấp nhất tỉnh, chỉ có 530 người/km2. Các huyện còn lại đều có mật độ dân số từ 1.000 - 1.200 người/km2 Bảng 2: Phân bố dân cư trong tỉnh STT Tên huyện/TP Tổng số xã/phường Dân số 1 Hải Dương 13 144610 2 Chí Linh 20 149425 3 Kim Thành 21 126344 4 Kinh Môn 25 166514 5 Nam Sách 23 140882 6 Thanh Hà 25 162778 7 Tứ Kỳ 27 164475 8 Gia Lộc 25 148567 9 Thanh Miện 19 128840 10 Ninh Giang 28 145621 11 Cẩm Giàng 19 121634 12 Bình Giang 18 103766 Tổng cộng 263 1.703.456 (Nguồn: Cục Thống kê tỉnh Hải Dương, năm 2007) Lao động Số người trong độ tuổi lao động tăng từ 55,23% năm 2003 lên 62,8% năm 2007 trong tổng số dân. 2.1.4 Chính sách xã hội và việc làm Trong những năm gần đây, cùng với phát triển kinh tế, Hải Dương đã quan tâm và thực hiện tốt các chính sách xã hội, đời sống của các tầng lớp nhân dân được cải thiện, GDP/người tăng từ 3,7 triệu đồng năm 2001 lên 7,98 triệu đồng năm 2005; tỷ lệ hộ nghèo giảm từ 11,36 % năm 2001 xuống còn 3,7% (năm 2005). Tỷ lệ lao động thiếu việc làm còn cao, thu nhập của người lao động, nhất là lao động nông nghiệp thấp. Việc chấp hành luật lao động và điều lệ BHXH cho người lao động của một số doanh nghiệp chưa tốt. Thực trạng này cho thấy, trong thời gian tới; số đối tượng thuộc diện CSXH cần được hưởng chế độ ưu đãi trong CSSK của tỉnh nhà vẫn còn chiếm tỷ lệ đáng kể. 2.1.5 Kết cấu hạ tầng Về hệ thống đường bộ: Hải Dương có 9205,96 km đường bộ, trong đó đường dành cho ô tô chiếm 23,9%, mật độ đường ô tô của Hải Dương cao nhất so với cả nước (0,47km/km2); 06 tuyến đường quốc lộ kết nối Hải Dương với các cực trong tam giác phát triển của cả nước. Toàn tỉnh có 13 tuyến tỉnh lộ với tổng chiều dài là 253,9 km. Hệ thống này đang trong tình trạng cần được cải tạo nâng cấp, là một khó khăn cho người dân trong việc tiếp cận các dịch vụ y tế. Đường sắt: Hải Dương có 3 tuyến đường sắt đi qua, bao gồm tuyến Hà Nội - Hải Phòng có 44 km qua tỉnh, tuyến Kép - Bãi Cháy có 10 km qua tỉnh và tuyến Bến Tắm - Cổ Thành dài 16 km. Hệ thống nhà ga trên các tuyến đã được nâng cấp cải tạo nhưng vẫn chưa đáp ứng được nhu cầu phục vụ. Đường thuỷ: Hải Dương có nhiều sông lớn chảy qua, thuận lợi trong việc giao lưu trong, ngoài tỉnh và hệ thống cảng biển quốc gia. Toàn tỉnh có 12 tuyến đường sông do Trung ương quản lý dài 300 km, 6 tuyến đường sông do địa phương quản lý dài 119 km. Tuy nhiên, các hệ thống bến bãi, các đập chưa được cải tạo, luồng lạch chưa được nạo vét thường xuyên nên hạn chế khả năng lưu thông. Hệ thống giao thông phát triển thuận lợi cho phát triển kinh tế xã hội nhưng tai nạn giao thông cũng gia tăng hàng năm. Hệ thống cấp và thoát nước Hải Dương có nguồn nước mặt khá phong phú với hệ thống sông ngòi dày đặc, hồ, đầm, kênh mương phân bố đều trên địa bàn tỉnh. Bên cạnh đó, nguồn nước ngầm cũng khá dồi dào. Lượng nước ngầm tại các giếng khoan đạt từ 30 - 50m3/ngày. Chất lượng nước tốt, trữ lượng lớn là tiềm năng cung cấp nước ổn định phục vụ cho sản xuất và sinh hoạt của nhân dân trong tỉnh. Tỷ lệ dân số ở thành phố, thị trấn được sử dụng nước máy còn thấp, chỉ đạt 50%. Theo số liệu của Sở Nông nghiệp và Phát triển nông thôn, tỷ lệ hộ dân ở nông thôn sử dụng nước sạch ngày càng tăng từ 48% năm 2001 lên 71,6% năm 2005, tỷ lệ dân số vẫn sử dụng nước giếng khơi là 9%, sử dụng nước mưa là 17% và tỷ lệ dân số sử dụng nước giếng khoan là 2,4%. Theo số liệu của Trung tâm y tế dự phòng tỉnh Hải Dương thì tỷ lệ hộ gia đình trong toàn tỉnh sử dụng nước hợp vệ sinh năm 2005 là 77,2%. Hệ thống thoát nước thải: Hàng ngày toàn tỉnh có hàng vạn m3 nước thải được thoát ra từ các khu dân cư, khu công nghiệp, dịch vụ và bệnh viện. Do vậy, vấn đề thoát nước và vệ sinh môi trường hiện đang trở nên bức xúc. Tại thành phố Hải Dương hiện vẫn còn một số khu vực chưa có hệ thống thoát nước thải. Hệ thống hồ điều hòa gần như không phát huy được tác dụng, cống dẫn nước ngầm và 1 trạm bơm tiêu nước với công suất nhỏ khoảng 18.000m3/h đã xuống cấp không đảm bảo được yêu cầu thoát nước và vệ sinh môi trường. Thông tin liên lạc Hệ thống bưu chính viễn thông, thông tin liên lạc của Hải Dương đã được áp dụng tiến bộ kỹ thuật mới, các mạng nội bộ hiện có đã được nâng cấp với chất lượng dịch vụ khá tốt. Trên toàn tỉnh đã có hệ thống máy tính quản lý công tác phát hành báo chí và bưu phẩm. Công nghệ thông tin đã được chú trọng phát triển, được áp dụng trong lĩnh vực quản lý nhà nước. Hải Dương đã có 11 mạng thông tin diện rộng, 900 mạng cục bộ liên kết hơn 10.000 máy tính, 800 điểm truy cập Internet với 1.775 máy tính, tại 100% xã, các doanh nghiệp và nhiều hộ gia đình, phục vụ tích cực cho công tác quản lý, điều hành, khai thác thông tin. Đây là một tiền đề thuận lợi giúp người dân tiếp cận dễ dàng với các thông tin về giáo dục sức khoẻ. Tiềm năng du lịch, văn hoá Hải Dương có hai huyện miền núi phía Đông Bắc là Chí Linh và Kinh Môn với khá nhiều phong cảnh đẹp, có nhiều tiềm năng khai thác và phát triển du lịch của tỉnh. Hải Dương là nơi có nhiều danh lam thắng cảnh và khu di tích lịch sử văn hoá như: Khu danh lam thắng cảnh Phượng Hoàng - Kỳ Lân, Khu di tích lịch sử Côn Sơn - Kiếp Bạc, nhiều núi đá vôi với những hang động kỳ thú, những làng quê trù phú mang đậm nét văn hoá đặc sắc của làng quê Bắc bộ, các khu miệt vườn vải thiều nổi tiếng... Hải Dương có nhiều lợi thế để phát triển ngành du lịch và dịch vụ đặc biệt là dịch vụ KCB bằng YDHCT trong những năm tới. Song mặt trái từ du lịch cũng tạo ra nhiều yếu tố tiềm ẩn làm phát sinh bệnh tật, ảnh hưởng đến sức khỏe cộng đồng. 2.1.6 Môi trường và sức khỏe Trong những năm gần đây, công nghiệp Hải Dương đã phát triển khá nhanh chóng với nhiều ngành nghề sản xuất phong phú và đa dạng. Các cơ sở sản xuất công nghiệp có quy mô khác nhau và rất đa dạng với sự tham gia của nhiều thành phần kinh tế. Vì vậy, việc quản lý và giám sát quá trình sản xuất kinh doanh là hết sức khó khăn, đặc biệt là vấn đề xử lý rác thải. Trong sản xuất, cùng với sinh hoạt của người dân, hàng ngày thải ra môi trường hàng chục tấn phế liệu rắn, hoá chất lỏng, khí độc. Trong sản xuất nông nghiệp, theo tập quán của Hải Dương chủ yếu vẫn dùng phân tươi chưa được xử lý hợp vệ sinh. Thêm vào đó là tình trạng sử dụng thuốc trừ sâu, phân hóa học bất hợp lý, chưa đúng quy trình kỹ thuật cũng là yếu tố tạo nên sự ô nhiễm môi trường ở khu vực nông thôn nhất là khu chăn nuôi tập trung, làng nghề chế biến nông sản thực phẩm làm cho môi trường ở những khu vực này bị ô nhiễm nghiêm trọng. Tại một số khu công nghiệp sản xuất xi măng, vấn đề ô nhiễm môi trường không khí hiện đang ở trong tình trạng báo động. Vấn đề xử lý chất thải rắn, chất thải bệnh viện chưa được triệt để gây ô nhiễm môi trường sống của cộng đồng dân cư. Đồng thời, Hải Dương lại là tỉnh nằm ở cuối nguồn của sông Thái Bình và sông Hồng nên ô nhiễm môi trường nước cũng là vấn đề nan giải hiện nay. Nguyên nhân của tình trạng này là do các thiết bị xử lý môi trường không đồng bộ, kinh phí đầu tư cho xử lý môi trường là rất thấp. Các loại rác thải không được xử lý triệt để, đã ảnh hưởng đến nguồn nước bề mặt, nước ngầm và môi trường. Ô nhiễm môi trường không khí, môi trường đất, môi trường nước ở Hải Dương hiện nay đang tiềm ẩn nhiều nguy cơ làm nảy sinh các bệnh về tiêu hoá, hô hấp... Bởi vậy, ô nhiễm môi trường thực sự là một thách thức đối với sự phát triển kinh tế - xã hội và công tác chăm sóc, bảo vệ sức khỏe nhân dân Hải Dương đến năm 2020. 2.1.7 Kinh tế - xã hội Kinh tế Giai đoạn 2001-2007, tổng sản phẩm (GDP) trong tỉnh tăng bình quân 16,49% năm, vượt mục tiêu đề ra và cao hơn bình quân chung cả nước, trong đó: Đến năm 2007, giá trị của nông, lâm, thuỷ sản là 26,9%; công nghiệp và xây dựng 43,7%; dịch vụ 29,4%. Bảng 3: Chỉ tiêu về các ngành kinh tế Hải Dương Chỉ tiêu Nông nghiệp Công nghiệp Dịch vụ Tổng hợp Giá trị (triệu đồng) Tỷ trọng (%) Giá trị triệu đồng Tỷ trọng (%) Giá trị triệu đồng Tỷ trọng (%) Giá trị triệu đồng Tỷ trọng (%) Năm 2001 135.575 62.4 50.189 23.1 31.504 14.5 217.268 100 Năm 2002 189.764 59.6 76.733 24.1 51.899 16.3 318.396 100 Năm 2003 223.525 54.8 111.354 27.3 73.013 17.9 407.892 100 Năm 2004 274.742 48.9 155.069 27.6 132.033 23.5 561.844 100 Năm 2005 472.648 41.2 398.080 34.7 276.476 24.1 1.147.204 100 Năm 2006 598.322 30.2 830.122 41.9 552.754 27.9 1.981.198 100 Năm 2007 719.359 26.9 1.168.624 43.7 786.214 29.4 2.674.197 100 Nguồn: Chi cục Thống kê Hải Dương Phát triển sản xuất, đẩy mạnh chuyển dịch cơ cấu kinh tế đã góp phần phân công lại lao động; tỷ trọng lao động nông lâm thuỷ sản giảm từ 82,4% (Năm 2000) xuống còn 67,1% (năm 2006); trong các ngành công nghiệp, xây dựng từ 9,0% lên 18,6%; các ngành dịch vụ từ 8,6% lên 13,9%. Nền kinh tế Hải Dương đang hòa cùng sự phát triển chung của nền kinh tế cả nước, thực hiện công nghiệp hoá, hiện đại hoá; góp phần xoá đói, giảm nghèo, nâng cao chất lượng cuộc sống trong đó có CSSK cho nhân dân trong tỉnh. Giáo dục Năm 1991, tỉnh được công nhận phổ cập giáo dục tiểu học và năm 2000 đã đạt chuẩn quốc gia về phổ cập THCS. 100% số xã/phường trong toàn tỉnh có trung tâm giáo dục cộng đồng. 100% học sinh các trường tham gia mua BHYT. 100% các trường đều có tủ thuốc và bộ phận nha học đường. Khoa học công nghệ Khoa học công nghệ Hải Dương từng bước được kiện toàn về bộ máy tổ chức, tiềm lực khoa học công nghệ được tăng cường cả về số lượng và chất lượng. Kinh phí đầu tư cho khoa học công nghệ năm 2005 gấp 2,3 lần năm 2001. Hoạt động khoa học công nghệ góp phần tích cực vào phát triển kinh tế - xã hội của tỉnh, nhất là lĩnh vực sản xuất nông nghiệp, bảo vệ môi trường, chăm sóc sức khoẻ nhân dân. Việc ứng dụng tiến bộ khoa học vào đời sống thực tế ngày càng được chú trọng, nhận thức về bảo vệ môi trường có sự chuyển biến tích cực, nhiều cơ sở xây dựng phương án sản xuất gắn liền với gìn giữ môi trường, các thị trấn thị tứ, các hộ dân đều có bãi chôn rác tập trung; 95% số bệnh viện được xử lý chất thải rắn vµ 73,7 % số bệnh viện có hệ thống xử lý chất thải lỏng (năm 2007). Văn hoá Phong trào xây dựng đời sống văn hoá ở cơ sở phát triển mạnh mẽ, có 41% số khu dân cư được công nhận “Làng, khu dân cư văn hoá”; trên 79% số làng khu dân cư xây dựng và thực hiện hương ước. Hoạt động văn hoá từng bước được xã hội hoá; các thiết chế văn hoá ở cơ sở được xây dựng tăng đáng kể, xây dựng 831 nhà văn hoá thôn, 650 thư viện xã và trường học. Công tác đào tạo cán bộ văn hoá thông tin văn học nghệ thuật đạt nhiều kết quả. Phong trào thể dục, thể thao quần chúng tiếp tục phát triển, 20,5% số dân luyện tập thường xuyên, là 1 trong 10 tỉnh, thành, ngành có phong trào TDTT phát triển mạnh, thành tích thể thao mũi nhọn được giữ vững. Cơ sở vật chất cho hoạt động TDTT được tăng cường, công tác xã hội hoá thể dục, thể thao từng bước được quan tâm đẩy mạnh. Tuy nhiên, còn có sự chênh lệch giữa thành thị và nông thôn về giáo dục, hưởng thụ văn hoá; điều kiện cơ sở vật chất còn hạn chế, các hoạt động còn nghèo nàn chưa đáp ứng nhu cầu hưởng thụ của người dân. Thêm vào đó là lối sống hiện đại đang ngày càng nhanh chóng du nhập vào tỉnh, một số tệ nạn đang là vấn đề gây nhức nhối, bức xúc cho chính quyền cũng như người dân trong tỉnh. Điều này cũng ảnh hưởng đến hiệu quả của công tác nâng cao sức khỏe toàn diện cho nhân dân. 2.2 THỰC TRẠNG CƠ SỞ PHÁT TRIỂN DỊCH VỤ Y TẾ TỈNH HẢI DƯƠNG Từ rất sớm Y dược học Hải Dương đã góp phần không nhỏ cho sự phát triển của nền y học Việt nam. Ở từng giai đoạn Hải Dương đều có những thày thuốc tiêu biểu, những lương y có tài, luôn nêu cao tấm gương về đạo đức người thày thuốc trong chăm sóc sức khoẻ nhân dân như Đại danh y - thiền sư Tuệ tĩnh; Nguyễn Đại Năng - Người thày của ngành châm cứu Việt Nam... Trong khánh chiến chống mỹ, Hải Dương được đánh giá là một tronh những tỉnh làm tốt công tác chăm sóc sức khoẻ của nhân dân. Ngày 15/2/1965 ngành y tế Hải Dương đã vinh dự được Bác Hồ về thăm. Đến năm 1986 đất nước chuyển sang cơ chế thị trường theo định hướng XHCN. Đứng trước yêu cầu đổi mới, ngành y tế Hải Dương đã tiếp thu và quán triệt sâu sắc nội dung các nghị quyết và Quan điểm của Đảng đối với hoạt động chăm sóc sức khoẻ của nhân dân. Thực hiện công cuộc đổi mới, cùng với các ngành trong tỉnh, bước đầu ngành y tế Hải Dương đã đạt được những kết quả quan trọng, góp phần đẩy nhanh phát triển kinh tế, xã hội của tỉnh. Đặc biệt, kể từ sau ngày tái lập tỉnh (tháng 1 năm 1997), ngành y tế Hải Dương gặp không ít khó khăn với hơn 400 bác sỹ, đạt trên 3 bác sỹ/ vạn dân, trình độ chuyên môn thấp, trang thiết bị chuyên môn thiếu thốn, lạc hậu, chưa đáp ứng được nhu cầu khám chữa bệnh và phòng chống dịch bệnh. Các trạm y tế hoạt động kém hiệu quả; nhiều cơ sở y tế tuyến huyện, tuyến xã dột nát; phương tiện làm việc và trang thiết bị khám chữa bệnh nghèo nàn, đội ngũ cán bộ y tế vừa thiếu lại yếu, gần nửa số trạm y tế chưa có nữ hộ sinh trung học, chỉ có 18 xã có bác sỹ công tác; đầu tư cho y tế cơ sở ở mức thấp, không đáp ứng được nhu cầu khám chữa bệnh... Những khó khăn này đã ảnh hưởng đến việc giải quyết, khống chế mô hình bệnh tật tại địa phương, một số dịch bệnh như ỉa chảy, sốt rét, suy dinh dưỡng có số dịch bệnh tật tại địa phương, một số dịch bệnh như ỉa chảy, sốt rét, suy dinh dưỡng gần 50%, nhiều vụ dịch lớn xảy ra, nhiều trẻ em chết do dịch bệnh thường xảy ra, gây khó khăn cho công tác chăm sóc bảo vệ sức khoẻ nhân dân trong tỉnh. Trước thực trạng trên, Ngành Y tế Hải Dương đã nhanh chóng ổn định tổ chức, sắp xếp lại bộ máy tổ chức theo Nghị định 01 của Chính Phủ ...Đặc biệt xây dựng mô hình trung tâm y tế thống nhất trên toàn tỉnh. Bên cạnh đó, ngành còn tiến hành thực hiện quy trình bổ nhiệm, bổ nhiệm lại có thời hạn chức danh giám đốc, phó giám đốc các trung tâm y tế huyện, thành phố và các đơn vị trực thuộc. Từ năm 1997 – 2007, ngành y tế Hải Dương đã đạt được những thành tựu rất đáng khích lệ. Đến nay đã có một mạng lưới y tế rộng khắp từ tỉnh đến xã phường khá hoàn chỉnh, đảm bảo tốt công tác chăm sóc và bảo vệ sức khoẻ nhân dân. Toàn ngành có 39 đơn vị trực thuộc Sở y tế, trong đó có 14 đơn vị tuyến tỉnh, 13 đơn vị bệnh viện và 12 trung tâm y tế dự phòng tuyến huyện, thành phố với tổng số 3.797 giường bệnh; 2.2.1 Về nhân lực y tế Đội ngũ cán bộ y tế về cơ bản đã đáp ứng được yêu cầu trong các lĩnh vực khám chữa bệnh và phục hối chức năng. Bảng 4: Tình hình nhân lực y tế Hải Dương Nội dung 2001 2002 2003 2004 2005 2006 2007 Bình quân CBYT/10.000 dân 21,39 21,47 21,8 22,2 22,0 22,28 23,1 Bình quân BS /10.000 dân 3,88 3,96 4,1 4,1 4,29 4,6 4,9 Bình quân DSĐH /10.000 dân 0,23 0,26 0,26 0,25 0,27 0,2 0,24 Tổng số CBYT thôn (người) 1.539 1.594 1.706 1.706 1.706 1.564 1.617 (Nguồn: Sở Y tế Hải Dương) Tỷ lệ CBYT/10.000 dân tăng từ 21,39 (năm 2001) lên 23,1 năm 2007 song vẫn thấp hơn so với cả nước (27); bác sỹ/10.000 dân, tăng từ 3,88 năm 2001 lên 4,9 năm 2007, tỷ lệ này là thấp so với bình quân toàn quốc năm 2005 (5,8 BS/10.000 dân). Tỷ lệ dược sỹ đại học/10.000 dân của tỉnh nhà chỉ đạt 0,24% trong khi tỷ lệ này của cả nước là 0,8%. Bảng 5: Trình độ chuyên môn của đội ngũ cán bộ y tế Hải Dương Đơn vị tính: Người Nội dung 2001 2002 2003 2004 2005 2006 2007 Tiến sĩ, CKII 3 6 6 11 10 14 16 Thạc sĩ, CKI 133 177 189 185 196 224 248 Đại học 690 761 793 811 871 904 1009 Cao đẳng trung cấp 2293 2257 2323 2315 2498 2569 2518 Sơ học 80 85 83 90 90 76 72 Khác 338 328 317 300 300 327 307 Tổng 3537 3614 3711 3712 3965 4114 4170 (Nguồn: Sở Y tế Hải Dương) Đội ngũ cán bộ y tế đã được tăng cường về số lượng và trình độ chuyên môn góp phần tăng cường công tác chăm sóc toàn diện cho nhân dân. Mặc dù vậy vẫn còn thấp hơn đáng kể so với mặt bằng chung cả nước. Tỷ lệ cán bộ lãnh đạo các đơn vị y tế có trình độ trên đại học tăng từ 54% năm 2001 lên 75% năm 2007. Tỷ lệ cán bộ lãnh đạo khoa/phòng có trình độ từ đại học trở lên tăng từ 85,4% năm 2001 lên là 87% năm 2007. Tỷ lệ trạm y tế có bác sỹ công tác tăng từ 44,9% năm 2001 lên 62,36% năm 2006; 100% trạm y tế có Nữ hộ sinh hoặc Y sỹ Sản nhi; 100% trạm y tế có cán bộ dược tá kiêm nhiệm; 100% trạm y tế có cán bộ khám chữa bệnh bằng YDHCT; 100% cán bộ y tế xã phường có trình độ trung cấp trở lên. Bảng 6: Nhân lực y tế theo tuyến Đơn vị tính: Người Nội dung 2001 2002 2003 2004 2005 2006 2007 Tuyến tỉnh 1.049 1.088 1.126 1.147 1.275 1.374 1.394 Tuyến huyện 1.370 1.393 1.430 1.433 1.547 1.590 1.620 Tuyến xã 1118 1.125 1.115 1.133 1.143 1.150 1.156 Tổng 3.537 3.614 3.711 3.712 3.956 4.114 4.170 (Nguồn: Sở Y tế Hải Dương) CBYT thôn tăng từ 1.539 người (năm 2001) lên 1.564 người/1.413 thôn năm 2007. Đảm bảo 100% số thôn đã có ít nhất 1 cán bộ y tế (50% CBYT thôn có trình độ trung cấp). 2.2.2 Cơ sở vật chất, trang thiết bị y tế Các bệnh viện tuyến tỉnh: Tổng số có 6 Bệnh viện tuyến tỉnh, giá trị tài sản còn lại là 27.233,583 triệu đồng, trong đó: Nhà cấp II: có 5 khối diện tích 2.160 m2, giá trị 2.779,912 triệu đồng. Nhà cấp III: có 64 khối diện tích 45.578m2, giá trị 21.560,125 triệu đồng. Nhà cấp IV: có 40 khối diện tích 5.015m2, giá trị 2.893,546 triệu đồng. Các bệnh viện tuyến tỉnh gồm có: - Bệnh viện đa khoa tỉnh là bệnh viện loại I quy mô 600 giường, Bệnh viện cũ được xây dựng năm 1974 trên diện tích 50.000m2 tại phường Thanh Bình - thành phố Hải Dương do Hội đồng nhà thờ thế giới và Châu á tài trợ, sau 30 năm sử dụng, hầu hết các công trình đã xuống cấp nghiêm trọng không đảm bảo an toàn cho khám chữa bệnh. Năm 2003, Uỷ ban nhân dân tỉnh Hải Dương phê duyệt và triển khai Dự án xây dựng Bệnh viện đa khoa tỉnh ở địa điểm mới (Phía sau Bệnh viện cũ) hiện đã giải phóng xong mặt bằng và tiến hành khởi công xây dựng được một số hạng mục, tiến độ thi công so kế hoạch được duyệt còn chậm, nguyên nhân do thiếu vốn. - Bệnh viện y học cổ truyền là bệnh viện hạng II, quy mô 200 giường và đang sử dụng 3.000 m2 nhà cửa trong đó có 1.000 m2 đã xuống cấp cần đầu tư sửa chữa. Hiện bệnh viện có dự án xây ở địa điểm mới. - Bệnh viện Lao & Bệnh phổi quy mô 150 giường và bệnh viện mới được xây dựng từ nguồn vốn Chương trình mục tiêu và vốn đối ứng của tỉnh. - Bệnh viện Tâm thần quy mô 150 giường và đang sử dụng 4.000 m2 nhà cửa trong đó có 1.000m2 đã xuống cấp. Hiện đang được nâng cấp từ nguồn vốn Chương trình mục tiêu và vốn đối ứng của tỉnh. - Bệnh viện Phong Chí Linh quy mô 200 giường với diện tích nhà đang sử dụng là 2.000 m2 hiện đang được nâng cấp từ nguồn vốn Chương trình mục tiêu và vốn đối ứng của tỉnh. - Bệnh viện Điều dưỡng & PHCN quy mô 100 giường với 2.500 m2 nhà cửa trong đó có 1.000 m2 đã xuống cấp. Hiện đang được mở rộng nâng cấp từ nguồn vốn của tỉnh. - Khu quản lý và điều trị bệnh nhân AIDS thuộc TTPC HIV/AIDS quy mô 100 giường, (năm 2006, được UBND tỉnh giao thực hiện chỉ tiêu 50 giường bệnh) đang sử dụng 6.000 m2 nhà cửa trong đó có 4.000 m2 đã xuống cấp (tiếp quản của Bệnh viện Lao & bệnh phổi). Hiện đang được xây dựng mới từ nguồn vốn Chương trình mục tiêu và vốn đối ứng của tỉnh. Các Trung tâm chuyên khoa tuyến tỉnh: Trung tâm y tế dự phòng tỉnh, Trung tâm PCBXH, Trung tâm CSSKSS, Trung tâm TTGDSK, Trung tâm Kiểm nghiệm Dược - Mỹ phẩm và Thực phẩm được cải tạo, xây dựng từ nguồn vốn của tỉnh. Vì vậy, cơ sở vật chất của các đơn vị trên ngày một khang trang hơn. Các bệnh viện huyện/thành phố: 13 bệnh viện huyện (tuyến 1) đều là bệnh viện đa khoa hạng III, tổng diện tích đất 207.504 m2, giá trị tài sản còn lại là 31.108,965 triệu đồng, trong đó: Nhà cấp II: có 4 khối diện tích 1,396 m2, giá trị 802,039 triệu đồng. Nhà cấp III: có 118 khối diện tích 42,911m2, giá trị 28.081,688 triệu đồng. Nhà cấp IV: có 53 khối diện tích 10.103 m2, giá trị 2.225,860 triệu đồng. Các bệnh viện huyện/thành phố gồm có: - Bệnh viện đa khoa thành phố Hải Dương quy mô 80 giường bệnh trên diện tích đất 4,300 m2, có 8 khối nhà cấp III diện tích sàn 2,116 m2, giá trị 49,688 triệu; 2 khối nhà cấp IV, diện tích sàn 268m2, giá trị 15,057 triệu đồng. - Bệnh viện đa khoa Gia Lộc quy mô 100 giường bệnh trên diện tích đất 17,038 m2, có 7 khối nhà cấp III, diện tích sàn là 4,737m2, giá trị là 2.216,089 triệu đồng; 02 khối nhà cấp IV diện tích sàn là 268 m2, giá trị là 15,057 triệu đồng. - Bệnh viện đa khoa Tứ Kỳ quy mô 110 giường trên diện tích đất 14,000 m2, có 7 khối nhà cấp III, diện tích sàn là 3,098 m2, giá trị 2.736,969 triệu đồng; có 8 khối nhà cấp IV, diện tích sàn là 919m2, giá trị là 430,255 triệu đồng. - Bệnh viện đa khoa Ninh Giang quy mô 110 giường bệnh trên diện tích đất 13,036 m2 (trong đó có khu PKĐK Tuy hòa 5.956 m2); có 10 khối nhà cấp III, diện tích sàn là 2,319 m2, giá trị là 1.685,299 triệu đồng; có 3 khối nhà cấp IV, diện tích sàn là 242 m2, giá trị là 39,898 triệu đồng. - Bệnh viện đa khoa Bình Giang quy mô 100 giường bệnh trên diện tích đất 18,927 m2, có 1 khối nhà cấp II, diện tích 563 m2, trị giá 317,468 triệu đồng; 06 khối nhà cấp III, diện tích sàn là 1,074 m2, giá trị 977,876 triệu đồng; 5 khối nhà cấp IV, diện tích sàn 264 m2, giá trị 381,930 triệu đồng. - Bệnh viện đa khoa Thanh Hà quy mô 120 giường bệnh trên diện tích đất 17,000 m2; có 18 khối nhà cấp III, diện tích sàn 4,271m2, giá trị 3.498,984 triệu đồng; 5 khối nhà cấp IV, diện tích sàn 292m2 giá trị 3,552 triệu đồng. - Bệnh viện đa khoa Nam Sách  quy mô 115 giường bệnh trên diện tích đất 22,867 m2 (trong đó PKĐK Tiền Trung 2,618 m2), có 8 khối nhà cấp III, diện tích sàn là 3,328m2, giá trị là 2.407,464 triệu đồng; 6 khối nhà cấp IV, diện tích 2,554m2, giá trị 280,540 triệu đồng. - Bệnh viện đa khoa Kim Thành quy mô 100 giường trên diện tích đất 19,000 m2; có 5 khối nhà cấp III, diện tích sàn 882m2, giá trị 632 triệu đồng; 4 khối nhà cấp IV, diện tích sàn 2,063m2, giá trị 1.035,201 triệu đồng. - Bệnh viện đa khoa Kinh Môn quy mô 110 giường bệnh trên diện tích đất 16,903 m2; có 17 khối nhà cấp III, diện tích sàn 5,180m2, giá trị 5,714,938 triệu đồng; có 2 nhà cấp IV, diện tích sàn 198 m2, giá trị 1,769 triệu đồng. - Bệnh viện đa khoa khu vực Nhị Chiểu quy mô 50 giường bệnh trên diện tích đất 13,097 m2; có 7 khối nhà cấp III, diện tích sàn là 1,343m2, giá trị 641,640 triệu đồng; 2 khối nhà cấp IV, diện tích sàn là 159m2, giá trị là 11,537 triệu đồng. - Bệnh viện đa khoa Chí Linh quy mô 140 giường bệnh trên diện tích đất 18,000 m2 (trong đó Khu tập thể 7,000 m2); 09 khối nhà cấp III, diện tích sàn là 4.496m2, giá trị là 2.234,098 triệu; 3 khối nhà cấp IV, diện tích sàn là 1.159m2. - Bệnh viện đa khoa Thanh Miện quy mô 100 giường bệnh trên diện tích đất 19.836 m2; có 3 khối nhà cấp II, diện tích sàn 833m2, giá trị 484,391 triệu đồng; 09 khối nhà cấp III, diện tích sàn 2.913m2, giá trị 2.024,031 triệu đồng; 5 khối nhà cấp IV, diện tích sàn là 294m2, giá trị là 14,733 triệu đồng. - Bệnh viện đa khoa Cẩm Giàng quy mô 100 giường bệnh trên diện tích đất 13.500 m2, 05 khối nhà cấp III diện tích sàn 6.534 m2 giá trị 2.992,528 triệu đồng; 06 khối nhà cấp IV diện tích sàn 1.045m2, giá trị 4,725 triệu đồng. Trung tâm y tế dự phòng huyện, thành phố: 12 Trung tâm y tế dự phòng huyện chưa có cơ sở riêng, hiện còn ở nhờ cơ sở của Bệnh viện đa khoa huyện. Các trạm y tế - 95,52% Trạm y tế xã đủ diện tích đất theo quy định của Bộ Y tế. - 47,5% Trạm y tế có khối nhà chính là mái bằng kiên cố, đủ diện tích tối thiểu 90 m2 và đủ số phòng chuyên môn theo quy định của Bộ Y tế. - Tuy nhiên, vẫn còn 11 Trạm y tế thiếu diện tích đất theo qui định của Bộ Y tế, cụ thể Trạm y tế: Thái Thịnh, Phú Thái (Kinh Môn), Văn Tố (Tứ Kỳ), Gia Hoà (Gia Lộc), Cẩm Sơn, Thạch Lỗi, Cẩm Hoàng, TT. Cẩm Giàng (Cẩm Giàng), Trần Phú, Trần Hưng Đạo, Lê Thanh Nghị (Tp Hải Dương). Còn 2 Trạm y tế hoàn toàn nhà cấp 4, là: thị trấn Phú Thái (Kim Môn), Phường Phạm Ngũ Lão (Tp Hải Dương). Còn 138 trạm y tế khối nhà chính chỉ đạt 4-5 phòng chuyên môn theo qui định của Bộ Y tế 2.2.3 Hiện trạng về hệ thống xử lý chất thải y tế - 13/19 bệnh viện chiếm tỷ lệ 68,4% (năm 2007) có Hệ thống xử lý chất thải rắn, bao gồm: + Bệnh viện đa khoa tỉnh có lò đốt rác Hoval công suất 500 kg/ngày, còn hoạt động tốt. Bệnh viện có 01 xe ô tô vận chuyển rác thải y tế trọng tải < 2 tấn. + Bệnh viện Lao và Bệnh phổi, bệnh viện huyện Thanh Miện có lò đốt rác của Nhật mới đầu tư năm 2006 với công suất 500kg/ngày. + Bệnh viện đa khoa Bình Giang lò đốt rác của Việt Nam mới đầu tư năm 2003 công suất 100 kg/ ngày, hiện còn hoạt động tốt. + Các bệnh viện đa khoa huyện: Kim Thành, Ninh Giang, Gia Lộc, Tứ Kỳ, Cẩm Giàng, Nam Sách, Chí Linh, Thanh Hà, Kinh Môn, được đầu tư lò đốt rác của Nhật công suất 15 kg/giờ vào năm 2007-2008. - Các bệnh viện: Bệnh viện Tâm thần, BV Y học cổ truyền, BV Điều dưỡng và phục hồi chức năng, BV Thành phố Hải Dương và các trung tâm chuyên khoa tuyến tỉnh được Bệnh viện Đa khoa tỉnh vận chuyển và xử lý chất thải. - Các Trạm y tế xã xử lý chất thải rắn y tế chủ yếu bằng đào hố đổ rác. - Có 14/19 Bệnh viện chiếm tỷ lệ 73,7% (năm 2007) có hệ thống xử lý chất thải lỏng là: Bệnh viện Đa khoa tỉnh, BV Lao và bệnh phổi, các bệnh viện đa khoa huyện (Thanh Miện, Ninh Giang, Tứ Kỳ, Gia Lộc, Nam Sách, Chí Linh, Thanh Hà, Kinh Môn, Kim Thành, TP Hải Dương, Bình Giang, Cẩm Giàng). + Có 95% Bệnh viện được xử lý chất thải rắn + Có 73,7% bệnh viện có hệ thống xử lý chất thải lỏng. + Lượng chất thải ở các cơ sở y tế khác được xử lý chủ yếu bằng hình thức chôn lấp. 2.2.4 Trang thiết bị y tế Được sự quan tâm đầu tư của UBND tỉnh, hỗ trợ của Bộ Y tế và Dự án Dân số đã đầu tư một số trang thiết bị y tế cho Bệnh viện đa khoa tỉnh, Trung tâm chăm sóc sức khoẻ sinh sản tỉnh, 12 bệnh viện huyện, thành phố và các trạm y tế xã, phường. Các bệnh viện đa khoa và chuyên khoa tuyến tỉnh có một số trang thiết bị y tế cơ bản như: máy Siêu âm đen trắng, máy Xquang cao tần, máy nội soi, máy điện tim, máy hút dịch, đèn phẫu thuật, máy xét nghiệm và một số dụng cụ khám chữa bệnh khác. Trong đó có một số máy tiên tiến hiện đại như máy CT-Scanner của Bệnh viện đa khoa tỉnh,... Các Bệnh viện huyện, thành phố có 1 máy siêu âm, 1 máy điện quang, 1 máy xét nghiệm, 1 máy ghế răng, 100% giường INOX và một số dụng cụ khác phục vụ cho khám chữa bệnh, có ít nhất 1 xe ô tô cứu thương. Trạm y tế xã đã có 58% số lượng trang thiết bị y tế theo danh mục của Bộ Y tế, mỗi Trạm Y tế xã có đủ bàn đẻ, có dụng cụ cơ bản khám phụ khoa, có 1 giường INOX. Phương tiện thông tin liên lạc: Sở Y tế đầu tư kinh phí mắc điện thoại cố định cho 100% Trạm y tế xã. Tuy nhiên, 100% các cơ sở khám chữa bệnh từ tỉnh đến cơ sở không đủ trang thiết bị y tế cơ bản theo danh mục chuẩn của Bộ Y tế. Các trang thiết bị y tế đã có thường là đơn chiếc, qua nhiều năm sử dụng hầu hết đã hư hỏng. 2.2.5 Về tài chính Ngân sách chi thường xuyên cho Y tế trung bình/người dân/năm tăng từ 28.000 đồng năm 2001 lên > 86.000 đồng năm 2007, mức tăng này chủ yếu bù tăng lương, chi cho hoạt động chuyên môn, trong đó chi phòng bệnh chiếm 17,8%; chi điều trị 65,6%; chi cho quản lý Nhà nước 1,3%; chi cho đào tạo 1,8%; chi KCB miễn phí cho trẻ em dưới 6 tuổi 5,2%; chi KCB cho người nghèo 8,3%. Thu phí, viện phí tăng từ 23 tỷ 887 triệu đồng năm 2001 lên 29 tỷ 778 triệu đồng năm 2007. Nguồn thu từ bảo hiểm y tế năm 2007 đạt 52 tỷ 291 triệu đồng, chiếm 24,7% tổng thu ngân sách của toàn ngành trong năm. Tổng mức đầu tư phát triển cho các đề án, dự án y tế từ năm 2001 đến năm 2005 là 63.413 triệu đồng, đạt 15,7% tổng mức đầu tư các đề án, dự án đã được phê duyệt. Trong đó nguồn đầu tư: sự nghiệp y tế 24.143 triệu đồng, ngân sách tỉnh bổ sung 1.844 triệu đồng, vốn xây dựng cơ bản tập trung của tỉnh 25.526 triệu đồng, chương trình mục tiêu y tế Quốc gia 11.000 triệu đồng, hỗ trợ của Bộ Y tế 900 triệu đồng. Giá trị đầu tư vào hoạt động: + Mua sắm trang thiết bị y tế, phương tiện vận chuyển: 12.782 triệu đồng, trong đó: tuyến tỉnh 11.000 triệu đồng, tuyến huyện 1.782 triệu đồng. + Xây dựng cơ sở vật chất: 44.670 triệu đồng, trong đó: tuyến tỉnh 29.466 triệu đồng, tuyến huyện 14.714 triệu đồng, tuyến xã 490 triệu đồng. 2.3 THỰC TRẠNG PHÁT TRIỂN DỊCH VỤ Y TẾ TRÊN ĐỊA BÀN TỈNH HẢI DƯƠNG 2.3.1 Về dịch vụ y tế dự phòng Với phương châm chủ động phòng chống dịch bệnh, ngăn chặn không cho dịch bệnh xâm nhập, phát hiện sớm, xử trí kịp thời, hạn chế số mắc và tử vong, không để dịch lớn xảy ra. Công tác vận động tuyên truyền giáo dục sức khoẻ cho nhân dân được ngày càng đẩy mạnh. Phong trào vệ sinh phòng bệnh được triển khai với hiệu quả ngày càng cao đặc biệt là công tác giám sát dịch tễ và các chương trình phòng bệnh. Duy trì thành quả thanh toán bại liệt và uốn ván sơ sinh từ năm 2000. Đến nay, không có ca nào mắc uốn ván sơ sinh, không có ca nào mắc và chết do bệnh dại, thanh toán bệnh phong theo tiêu chuẩn quốc tế, phủ kín chương trình Nha học đường trên quy mô toàn tỉnh. Phòng chống dịch bệnh viêm phổi cấp do vi rút SARS, vi rút H5N1 cũng được địa phương đặc biệt quan tâm, chưa có trường hợp nào mắc/chết do vi rút SARS, vi rút H5N1, viêm não Nhật Bản. Chương trình MTYTQG đã được xã hội hoá ngày càng cao, nhận thức của cộng đồng có sự chuyển biến rõ rệt theo hướng có lợi cho sức khoẻ, góp phần nâng cao chất lượng quản lý, củng cố mạng lưới y tế trong tỉnh, đặc biệt là y tế cơ sở. Đến năm 2007, Y tế dự phòng đã cung cấp được các dịch vụ sau: (1) Tuyên truyền phòng chống các bệnh truyền nhiễm do vi sinh vật: - Tiêm chủng tiêm chủng mở rộng cho trẻ em và bà mẹ có thai. - Phòng chống HIV/AIDS. - Phòng chống sốt xuất huyết. - Phòng chống sốt rét và bệnh ký sinh trùng. - Phòng chống bệnh Lao. (2) Bảo vệ sức khoẻ bà mẹ, trẻ em, chăm sóc sức khoẻ sinh sản, phòng chống suy dinh dưỡng trẻ em: - Nâng cao nhận thức dẫn đến thay đổi hành vi. - Giảm sinh, giảm nạo phá thai. - Làm mẹ an toàn. - Hạn chế các bệnh nhiễm khuẩn và lây nhiễm qua đường tình dục (STDs), phòng chống lây nhiễm HIV/AIDS...và chăm sóc sức khoẻ người cao tuổi. - Đảm bảo sức khoẻ sinh sản cho người cao tuổi tốt hơn, đặc biệt là phụ nữ. Phát hiện và điều trị sớm ung thư vú và các ung thư khác. - Cải thiện tình hình sức khoẻ sinh sản, sức khoẻ tình dục của vị thành niên thông qua giáo dục, tư vấn và cung cấp các dịch vụ CSSKSS phù hợp với lứa tuổi. - Nâng cao hiểu biết của phụ nữ và nam giới về giới tính và tình dục để thực hiện đầy đủ quyền và trách nhiệm sinh sản. Xây dựng quan hệ tình dục an toàn, có trách nhiệm, bình đẳng và tôn trọng lẫn nhau, nhằm nâng cao SKSS và chất lượng cuộc sống. - Người dân được nâng cao kiến thức và thực hành dinh dưỡng hợp lý. - Cải thiện tình hình quản lý sức khoẻ trẻ em thông qua việc xây dựng mô hình quản lý sức khoẻ trẻ em ở nhà trẻ, mẫu giáo và các nhóm trẻ gia đình. Khám và hướng dẫn tại gia đình cho những bà mẹ có trẻ nguy cơ cao biết cách nuôi dưỡng, chăm sóc và theo dõi trẻ tại gia đình. (3) Cung cấp nước sạch và vệ sinh môi trường. (4) Vệ sinh an toàn thực phẩm: Cấp giấy chứng nhận và kiểm soát thường xuyên các chỉ số cơ bản về vệ sinh an toàn thực phẩm cho các cơ sở ăn uống công cộng, các khách sạn, nhà hàng và cơ sở kinh doanh, chế biến thức ăn đường phố, đảm bảo an toàn về sức khoẻ, tính mạng cho người tiêu dùng. (5) Y tế lao động: Phát triển mạng lưới an toàn vệ sinh lao động tại doanh nghiệp sản xuất. Đầu tư trang thiết bị phục vụ các hoạt động vệ sinh lao động và phòng chống bệnh nghề nghiệp. Lập được hồ sơ quản lý sức khỏe và tổ chức và khám sức khoẻ định kỳ cho người lao động. (6) Chăm sóc, bảo vệ sức khoẻ học sinh các trường tiểu học, trung học và các nhà trẻ, mẫu giáo: Đẩy mạnh các chương trình chăm sóc sức khoẻ học sinh như phòng chống sâu răng, viêm lợi, phòng chống tai nạn thương tích học đường, phòng chống cận thị, gù vẹo cột sống…Giảm tỷ lệ học sinh bị tử vong, bị thương do tai nạn thương tích khi đi học. (7) Các hoạt động truyền thông, giáo dục sức khoẻ khác: Nhằm giảm số người hút thuốc lá, số người nghiện rượu, bia xuống và số người tử vong do tai nạn giao thông trên toàn tỉnh; giảm tỷ lệ tai nạn lao động, tỷ lệ tai nạn sinh hoạt nhằm tạo môi trường lành mạnh an toàn cho nhân dân. 2.3.2 Về dịch vụ khám chữa bệnh và phục hồi chức năng Mạng lưới khám chữa bệnh từ tỉnh đến cơ sở được củng cố kiện toàn, hoạt động chuyên môn theo sự phân tuyến của Bộ Y tế. Các bệnh viện từng bước được nâng cấp về cơ sở vật chất, trang thiết bị y tế, củng cố và thực hiện việc cấp cứu, điều trị bệnh nhân theo phân tuyến kỹ thuật. Việc thực hiện qui chế chuyên môn đã đi vào nề nếp, sử dụng thuốc hợp lý, an toàn, được bệnh nhân tin tưởng, yên tâm hơn khi vào khám và điều trị. Tại tuyến tỉnh đã áp dụng các tiến bộ khoa học kỹ thuật mới trong chẩn đoán và điều trị như: Chụp cắt lớp vi tính, nội soi dạ dày, nội soi phế quản, nội soi đại tràng, nội soi tiết niệu, mổ giải phóng máu tụ ở sọ não, mổ nội soi ổ bụng, u sơ tiền liệt tuyến, mổ giải phóng mù và đặt thể thuỷ tinh nhân tạo. Bảng 7: Kết quả thực hiện công tác khám chữa bệnh thời kỳ 2001-2007 STT Nội dung ĐV 2001 2002 2003 2004 2005 2006 2007 1 Tổng số lần khám bệnh Lần 854.900 870.300 903.200 917.150 928.000 931.000 937.000 2 Tổng số BN điều trị ngoại trú Người 138.250 139.560 141.390 144.550 147.010 150.120 154.320 3 Tổng số BN điều trị nội trú BN 101.413 106.104 106.770 109.964 113.358 118.927 123.116 4 Tổng số ngày điều trị của bệnh nhân nội trú Ngày 819.855 823.613 864.007 883.819 904.940 934.769 986.987 5 Công suất sử dụng GB % 105 106 111 114 116 119 121 6 Tổng số ca phẫu thuật Ca 10.810 11.010 11.360 11.448 11.608 11.867 12.006 7 Số người được cấp cứu, điều trị tai nạn thương tích Người 6.352 7.000 7.430 7.455 7.813 7.954 8.042 8 Tồng số lần xét nghiệm Lần 892.400 918.700 946.700 1.043.400 1.021.000 1.198.100 1.234.850 9 Tổng số lần chụp XQuang Lần 98.370 99.370 102.100 103.730 105.850 108.762 110.652 10 Tổng số lần siêu âm Lần 175.100 175.860 187.830 188.830 195.000 219.760 230.065 11 Số lần khám bệnh tại CĐ Lần 971.021 983.085 997.169 1.006.742 1.007.216 1.008.100 1.008.986 12 Số lượt BN điều trị tại các trạm y tế xã, phường BN 226.206 232.456 237.571 247.283 253.026 282.976 300.180 13 Tỷ lệ xã thực hiện KCB cho người có thẻ BHYT % 100 100 100 100 100 100 100 Nguồn: Sở Y tế tỉnh Hải Dương - Số lần khám bệnh trung bình/người/năm ở các tuyến là 1,42 lần; tuyến tỉnh 0,18 lần; huyện 0,54 lần; xã 0,7 lần. - Số lượt người điều trị ngoại trú tăng từ 138.250 lượt năm 2001 lên 154.320 lượt năm 2007 - Số lượt điều trị nội trú tại bệnh viện đạt 123.116 lượt người năm 2007. - Công suất sử dụng giường bệnh tăng từ 105% năm 2001 lên 121% năm 2007. - Số ca phẫu thuật tăng từ 10.810 ca năm 2001 lên 12.006 ca năm 2007. - Cấp cứu tai nạn thương tích tăng từ 6.352 ca năm 2001 lên 8.042 ca năm 2007. - Tổng số lần xét nghiệm tăng từ 892.400lần năm 2001 lên 1.234.850lần năm 2007. - Tổng số lần chụp X quang tăng từ 98.370 lần năm 2001 lên 110.652 lần năm 2007. - 100% người nghèo được khám chữa bệnh miễn phí thông qua thẻ BHYT. Tổng số người nghèo trong tỉnh hiện khoảng 200.000 người. - 100% trẻ em dưới 6 tuổi được khám chữa bệnh miễn phí tại các cơ sở y tế. Tổng số trẻ dưới 6 tuổi là 134.976 trẻ (chiếm 7,7% dân số). - Đến năm 2007, 100% số trạm y tế trong tỉnh đã triển khai khám BHYT. UBND tỉnh giao cho Sở Y tế quản lý và cấp giấy phép hành nghề cho các cơ sở cung cấp dịch vụ khám chữa bệnh. Năm 2006, số cơ sở hành nghề y tư nhân là 633 chỉ cung cấp dịch vụ khám chữa bệnh ngoại trú. Toàn tỉnh hiện chưa có bệnh viện tư và các trung tâm cung cấp dịch vụ khám chữa bệnh chất lượng cao. 2.3.3 Về dịch vụ khám chữa bệnh bằng y học cổ truyền Hải Dương có truyền thống lâu đời về YDHCT, có nhiều danh y nổi tiếng chữa bệnh bằng thuốc nam, châm cứu như: danh y Tuệ Tĩnh, Nguyễn Đại Năng, Phạm Công Bân..., có khu vườn dược sơn rộng lớn từ thời Trần có 180 loài với 480 cây thuốc quí chữa bệnh, trong nhân dân có nhiều bài thuốc gia truyền, bài thuốc kinh nghiệm ở từng vùng, từng địa phương, chữa bệnh có hiệu quả cao. Khám chữa bệnh bằng YDHCT đã và đang được địa phương đặc biệt chú trọng. 100% bệnh viện huyện có vườn thuốc đông y mẫu. Tỷ lệ trạm y tế có cán bộ phụ trách YHCT tăng từ 10% năm 2001 lên 100% năm 2006. Tỷ lệ trạm y tế có vườn thuốc đông y mẫu đủ 40 cây thuốc tăng từ 15% năm 2001 lên 60% năm 2006. Tổng số lượt khám chữa bệnh bằng y học cổ truyền tăng trong các năm gần đây, tăng từ 361.721 lượt người năm 2001 lên 843.721 lượt người năm 2006. Y học cổ truyền đã góp phần thực hiện chính sách xã hội và công bằng xã hội trong chăm sóc sức khoẻ cho nhân dân. Năm 2006 số lượt khám chữa bệnh ở các cơ sở y học cổ truyền ngoài công lập là 603.721 lượt chiếm khoảng 20% trong tổng số lượt khám chữa bệnh chung, các cơ sở y học cổ truyền ngoài công lập đã có đóng góp đáng kể vào công tác khám chữa bệnh bằng y học cổ truyền cho nhân dân. Bảng 8: Kết quả khám chữa bệnh YHCT hàng năm STT Nội dung 2001 2002 2003 2004 2005 2006 2007 1 Số lượt khám bệnh YHCT công lập 35.542 34.576 59.048 61.342 54.770 240.000 320.000 2 Số lượt KCB YHCT ngoài công lập 326.179 328.936 343.397 402.544 468.572 603.721 782.762 (Nguồn: Sở Y tế Hải Dương) Tỷ lệ dùng thuốc y học cổ truyền của y tế cơ sở còn thấp. Chỉ có 7,7% BVĐK huyện có khoa YHCT (1/3 bệnh viện có khoa Đông y riêng). Một bộ phận nhân dân kể cả cán bộ y tế còn chưa tin tưởng vào hiệu quả của thuốc YHCT. 2.3.4 Mạng lưới sản xuất, kiểm nghiệm và phân phối thuốc Trong những năm vừa qua, mạng lưới sản xuất, kiểm nghiệm và phân phối thuốc luôn đảm bảo cung ứng thường xuyên, kịp thời đủ thuốc với chất lượng tốt, đáp ứng được nhu cầu phòng và chữa bệnh cho nhân dân trong tỉnh. Ngành y tế tỉnh đã quán triệt và nghiêm túc thực hiện Chỉ thị 03/CT-BYT, Chỉ thị 05/CT-BYT, Thông tư 08/TT-BYT của Bộ Y tế về công tác cung ứng thuốc trong Bệnh viện, tăng cường sử dụng thuốc hợp lý, an toàn tiết kiệm. Công tác quản lý thuốc các bệnh xã hội, thuốc chương trình y tế được tăng cường nhằm đảm bảo sử dụng thuốc đúng mục đích và hiệu quả cao. Năm 2006, tổng số nhân lực có chuyên môn về dược là 705 người, trong số đó, dược sĩ đại học chiếm tỷ lệ 7,37% (52/705 người), dược sĩ có trình độ sau đại học còn ít (6 người); DsTH chiếm 57,73% (407/705 người); Số lượng các cơ sở phân phối thuốc tăng từ 335 năm 2001 lên 556 cơ sở năm 2006. Năm 2006, toàn tỉnh có 100 nhà thuốc tư nhân, 6 doanh nghiệp kinh doanh thuốc, 227 đại lý thuốc, 223 quầy thuốc của các huyện, thành phố. 100% trạm y tế xã có quầy thuốc do cán bộ dược phụ trách; 100% bệnh viện có quầy thuốc phục vụ bệnh nhân ngoại trú. UBND tỉnh giao cho Công ty cổ phần Dược - Vật tư y tế Hải Dương thống nhất về giá cung ứng cho các cơ sở khám chữa bệnh trong tỉnh. Công ty cổ phần Dược - Vật tư y tế là đơn vị duy nhất tổ chức sản xuất thuốc trong tỉnh, công ty đã có nhiều cố gắng vừa tổ chức sản xuất vừa chuẩn bị điều kiện cơ sở sản xuất để đạt cơ sở “Thực hành sản xuất thuốc tốt” (GMP). Đến năm 2006, công ty đã đầu tư 40 tỷ đồng để cho 02 dây chuyền cô chiết tuần hoàn dưới áp suất giảm, 02 nồi cô áp suất giảm và dây chuyền sản xuất viên nang mềm, thuốc tiêm. Số mặt hàng thuốc được sản xuất tăng từ 30 mặt hàng (năm 2004) tăng lên là 80 mặt hàng (năm 2006) và 30 mặt hàng được sản xuất dưới dạng thuốc - thực phẩm. Các mặt hàng sản xuất ra đều được kiểm nghiệm đạt tiêu chuẩn chất lượng. Giá trị sản xuất và kinh doanh thuốc năm sau cao hơn năm trước: Bảng 9: Giá trị sản xuất và kinh doanh thuốc của Công ty Dược Đơn vị tính: Tỷ đồng STT Nội dung 2001 2002 2003 2004 2005 2006 2007 1 Giá trị sản xuất 4.3 6.1 11.5 15.6 18.7 20.6 23.8 2 Giá trị kinh doanh 57.7 78.5 123.8 154.3 187.9 191.4 219.5 3 Nộp ngân sách 0.48 0.66 1.04 1.29 1.57 1.65 1.8 Nguồn: Sở y tế Hải Dương - Giá trị sản xuất thuốc tăng từ 4,3 tỷ đồng năm 2001 lên 20,6 tỷ đồng năm 2006 và tăng đến 23,8 tỷ năm 2007. - Giá trị kinh doanh thuốc tăng từ 57,7 tỷ đồng năm 2001 lên 190 tỷ đồng năm 2006 và tăng 219.5 vào năm 2007. - Nộp ngân sách năm 2001 là 483,5 triệu đồng tăng lên 1 tỷ 650 triệu đồng năm 2006 và năm 2007 nộp 1 tỷ 800 triệu. - Giá trị sử dụng thuốc nội năm 2007 trung bình là 61%, trong đó tuyến tỉnh là 58%, tuyến huyện là 42%. Công tác giám sát, kiểm tra, thanh tra, hướng dẫn việc quản lý phân phối thuốc, thực hiện quy chế quản lý thuốc đặc biệt là thuốc gây nghiện, thuốc độc tất cả các hiệu thuốc, nhà thuốc, quầy thuốc và các cơ sở y tế trong toàn tỉnh được thực hiện thường xuyên, không có vi phạm lớn xảy ra. Việc kiểm tra kiểm nghiệm thuốc được tiến hành thường xuyên, trung bình khoảng 1.000 mẫu/năm. Trong những năm gần đây, theo kết quả kiểm tra chưa phát hiện thấy thuốc giả, thuốc ngoài danh mục, thuốc quá hạn dùng lưu hành trên địa bàn. Tuy nhiên hiện tượng lạm dụng thuốc đặc biệt là lạm dụng thuốc kháng sinh, thuốc vitamin, sử dụng thuốc ngoại còn khá phổ biến, chưa thực hiện nghiêm túc quy chế bán thuốc theo đơn. 2.4 NHẬN XÉT, ĐÁNH GIÁ VỀ THỰC TRẠNG PHÁT TRIỂN DỊCH VỤ Y TẾ CỦA TỈNH HẢI DƯƠNG 2.4.1 Những lĩnh vực mà dịch vụ y tế đã đạt được: Trong những năm qua, thực hiện quan điểm phát triển đa dạng hóa các loại hình cung cấp dịch vụ y tế, khuyến khích phát triển hành nghề y dược tư nhân, nhờ đó nhân dân được tiếp cận với dịch vụ y tế nhiều hơn, tốt hơn. Sự đảm bảo này được chứng minh bằng các con số về phát triển dịch vụ y tế dự phòng, dịch vụ khám chữa bệnh, thay đổi một cách căn bản về cơ sở vật chất, thiết bị y tế từ tuyến tỉnh đến trạm y tế xã, phường, thị trấn; phần lớn các chỉ tiêu tổng quát về sức khoẻ của nhân dân đều được cải thiện và tiến. Chính điều này cho thấy phát triển dịch vụ y tế trên địa bàn tỉnh Hải Dương bước đầu được đánh giá là đúng hướng, phù hợp với nhu cầu của thời đại. Dịch vụ y tế ngày một đa dạng; nhiều công nghệ kỹ thuật y học mới, hiện đại được nghiên cứu và ứng dụng; kết hợp y học cổ truyền với y học hiện đại trong việc cung cấp dịch vụ khám, chữa bệnh; cơ sở vật chất, điều kiện làm việc và phục vụ bệnh nhân được cải thiện; việc cung ứng thuốc và trang thiết bị y tế đã được đầu tư đáp ứng được nhu cầu thiết yếu cho công tác khám chữa bệnh và dự phòng. (1) Phát triển dịch vụ y tế dự phòng một cách sâu rộng: Xử lý tốt các ổ dịch, không để dịch lớn nghiêm trọng xảy ra. Tiêm chủng mở rộng luôn đạt trên 99%. Tiếp tục duy trì thành quả thanh toán bại liệt, loại trừ Uốn ván sơ sinh, thanh toán bệnh Phong, Bướu cổ, hạn chế tối đa các bệnh dịch có vắc xin phòng ngừa của trẻ em. Triển khai các dịch vụ của y tế dự phòng như: - Tuyên truyền phòng chống các bệnh truyền nhiễm do vi sinh vật. - Bảo vệ sức khoẻ bà mẹ, trẻ em, chăm sóc sức khoẻ sinh sản, phòng chống suy dinh dưỡng trẻ em. - Cung cấp nước sạch và vệ sinh môi trường. - Vệ sinh an toàn thực phẩm. - Y tế lao động. - Chăm sóc, bảo vệ sức khoẻ học sinh các trường tiểu học, trung học và các nhà trẻ, mẫu giáo. - Các hoạt động truyền thông, giáo dục sức khoẻ nhằm giảm số người hút thuốc lá, số người nghiện rượu, bia xuống và số người tử vong do tai nạn giao thông trên toàn tỉnh; giảm tỷ lệ tai nạn lao động, tỷ lệ tai nạn sinh hoạt nhằm tạo môi trường lành mạnh an toàn cho nhân dân. (2) Phát triển dịch vụ khám chữa bệnh và phục hồi chức năng: Về cơ bản đã đáp ứng được tỷ lệ giường bệnh/10.000 dân đạt 16,51 (năm 2006). Năm 2007 có 67,68% xã đạt Chuẩn quốc gia về y tế xã. Chất lượng dịch vụ y tế đã được nâng lên, phần nào đáp ứng nhu cầu dịch vụ y tế của nhân dân khi các cơ sở khám chữa bệnh thực hiện tốt quy chế bệnh viện. Áp dụng nhiều tiến bộ khoa học kỹ thuật mới trong chẩn đoán và điều trị. Tuyến tỉnh đã đầu tư được một số trang thiết bị hiện đại như: máy siêu âm Doppler, nội soi, chụp cắt lớp, mổ mắt bằng phương pháp Phaco... Cải tiến phương thức cung cấp dịch vụ vận chuyển cấp cứu. Đối tượng được hưởng lợi từ dịch vụ y tế cũng đã được mở rộng: 100% các đối tượng người nghèo, đối tượng người cao tuổi, có công với đất nước và trẻ em dưới 6 tuổi được cấp thẻ BHYT/thẻ khám chữa bệnh miễn phí. (3) Phát triển dịch vụ Y dược học cổ truyền: Hải Dương có truyền thống lâu đời về YDHCT, có khu vườn dược sơn rộng lớn từ thời Trần có 180 loài với 480 cây thuốc quí chữa bệnh, trong nhân dân có nhiều bài thuốc gia truyền, bài thuốc kinh nghiệm ở từng vùng, từng địa phương, chữa bệnh có hiệu quả cao. Tổng số lượt khám chữa bệnh bằng y học cổ truyền tăng đều trong các năm gần đây. Y học cổ truyền đã góp phần thực hiện chính sách xã hội và công bằng xã hội trong chăm sóc sức khoẻ cho nhân dân. Phát triển dịch vụ khám chữa bệnh bằng YDHCT đã và đang được địa phương đặc biệt chú trọng. (4) Phát triển mạng lưới sản xuất. kiểm nghiệm và cung ứng thuốc: Trong những năm gần đây, hoạt động dược đã đảm bảo cung ứng thường xuyên đủ thuốc và kịp thời với chất lượng tốt đáp ứng được nhu cầu phòng và chữa bệnh cho nhân dân trong tỉnh. Doanh số sản xuất kinh doanh tăng, nộp ngân sách vượt kế hoạch. 2.3.2 Những mặt còn hạn chế Bên cạnh những kết quả đạt được, phát triển dịch vụ y tế Hải Dương hiện vẫn đang phải đối mặt với nhiều tồn tại và thách thức như: Về dịch vụ y tế dự phòng: Mặc dù dịch vụ y tế dự phòng đã phát triển, các dịch vụ được triển khai ở tất cả các xã trong toàn tỉnh song chất lượng vẫn chưa đáp ứng được những yêu cầu đòi hỏi của thời đại nay. Nhiều loại bệnh dịch mới nguy hiểm xuất hiện và diễn biến phức tạp như: SARS, Vi rút H5N1; HIV/AIDS ngày càng gia tăng đặc biệt là trong nhóm thanh niên trẻ tuổi, tình hình ngộ độc thực phẩm diễn biến đa dạng khó kiểm soát; vệ sinh môi trường, vệ sinh lao động chưa được kiểm soát chặt chẽ... Công tác truyền thông giáo dục sức khoẻ còn nhiều hạn chế cả về nội dung và hình thức. Một bộ phận nhân dân chưa hình thành được ý thức, thói quen tự bảo vệ sức khoẻ. Về dịch vụ khám chữa bệnh và phục hồi chức năng: Do đời sống nhân dân được cải thiện nên nhu cầu khám chữa bệnh của nhân dân đã thay đổi cần được đáp ứng. Đó là nhu cầu khám chữa bệnh tại gia đình, khám chữa bệnh, kiểm tra sức khoẻ theo yêu cầu, khám chữa bệnh chất lượng cao trong khi đó một số bệnh viện tuyến tỉnh, tuyến huyện thường xuyên trong tình trạng quá tải. Khu vực điều trị của một số cơ sở khám chữa bệnh xuống cấp hoặc vẫn còn nhà cấp 4; 100% các cơ sở y tế không đủ trang thiết bị y tế cơ bản theo danh mục của Bộ Y tế, đặc biệt là Bệnh viện huyện và Trạm y tế xã. Tỷ lệ cán bộ Y tế/10.000 dân thấp hơn so với mức trung bình của cả nước. Tỷ lệ cán bộ chuyên môn có trình độ đại học và sau đại học còn thấp, đặc biệt là cán bộ dược và số nhân viên ở trạm y tế xã. Tinh thần phục vụ bệnh nhân của một bộ phận cán bộ y tế chưa được như mong đợi, làm ảnh hưởng đến chất lượng dịch vụ y tế. Vấn đề về rác thải y tế cũng là một tồn tại lớn với việc phát triển dịch vụ y tế: 100% bệnh viện không có kho lưu giữ chất thải y tế nguy hại; 10,5% bệnh viện chưa có lò đốt rác thải y tế (BV Phong và BV ĐKKV Nhị Chiểu); 26,3% bệnh viện chưa có hệ thống xử lý chất thải lỏng (BV Y học cổ truyền, BV Điều dưỡng và

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docxThS11.docx
Tài liệu liên quan