Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 22 * Số 3 * 2018
 224
ĐÁNH GIÁ HÌNH THÁI VÁCH XƯƠNG TRONG QUANH RĂNG KHÔN 
HÀM DƯỚI LỆCH GẦN 
Nguyễn Phúc Anh Duy*, Nguyễn Thị Bích Lý** 
TÓM TẮT 
Mục tiêu: Nghiên cứu khảo sát hình thái vách xương trong của răng khôn hàm dưới lệch gần trên hình ảnh 
CBCT và đánh giá mối liên quan giữa hình thái vách xương trong với vị trí răng theo chiều ngang và chiều đứng. 
Đối tượng và phương pháp: Nghiên cứu cắt ngang mô tả khảo sát 100 hình ảnh CBCT hiện đang lưu trữ 
tại Bộ môn Tia X được chụp từ các bệnh nhân đến khám và điều trị tại Khoa Răng Hàm Mặt, Đại học Y Dược 
Thành phố Hồ Chí Minh. 
Kết quả: Tại vị trí 1/3 chóp và 1/3 giữa chân răng, các răng thuộc nhóm phân loại C có độ dày trung bình 
vách xương trong và xương vỏ trong mỏng hơn so với phân loại A và B; tuy nhiên, sự khác biệt không có ý nghĩa 
thống kê với p>0,05. Tại vị trí chóp răng, các răng có phân loại I và II có độ dày trung bình vách xương trong 
mỏng hơn có ý nghĩa so với các răng có phân loại III, sự khác biệt có ý nghĩa thống kê với p<0,05. Tại vị trí chóp 
chân xa, độ dày vách xương và xương vỏ trong ở các răng có phân loại I mỏng hơn có ý nghĩa so với các răng có 
phân loại II và III với p<0,05. 
Kết luận: Có mối liên quan giữa độ dày vách xương trong và xương vỏ trong quanh răng khôn hàm dưới 
lệch gần với vị trí răng theo chiều ngang. 
Từ khoá: Vách xương phía trong, răng khôn hàm dưới lệch gần, conebeam CT. 
ABSTRACT 
ASSESSING LINGUAL PLATE MORPHOLOGY OF MESIALLY IMPACTED MANDIBULAR 
THIRD MOLAR 
Nguyen Phuc Anh Duy, Nguyen Thi Bich Ly * Y Hoc TP. Ho Chi Minh * Vol. 22 - No 3- 2018: 224 - 231 
Objectives: The aim of this study was to evaluate the lingual plate morphology of mesially impacted 
mandibular third molar and the relationship between the horizontal and vertical position of mesially impacted 
mandibular third molar and lingual plate of mandible. 
Materials and Methods: A cross-sectional study of 100 CBCT images examined in the Oral Radiology 
Department, Faculty of Odonto-Stomatology, University of Medicine and Pharmacy, Ho Chi Minh City. 
Results: At the middle third and the coronal third of the root, the average bone thickness of lingual plate and 
lingual cortex in Class C were thinner than those in Class A and Class B, but the difference was not significant 
(p> 0.05). At the apex of the root, the average bone thickness of lingual plate and lingual cortex in Class I and 
Class II were significantly thinner than those in Class III with P-value less than 0,05. At the apex of the distal 
root, the average bone thickness of lingual plate and lingual cortex in Class I were significantly thinner than those 
in Class II and Class III (p< 0.05). 
Conclusion: There was a significant association found between the bone thickness of lingual plate, lingual 
cortex and the horizontal position of mesially impacted mandibular third molar. 
Keywords: Lingual plate, mesially impacted mandibular third molar, conebeam CT. 
* Khoa RHM, Đại học Y Dược TP.HCM 
** Bộ môn Phẫu Thuật Miệng - Khoa RHM, Đại học Y Dược TP.HCM 
Tác giả liên lạc: BS. Nguyễn Phúc Anh Duy ĐT: 01225839480 Email: 
[email protected] 
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 22 * Số 3 * 2018 Nghiên cứu Y học
 225
MỞ ĐẦU 
Răng khôn hàm dưới là răng có tỉ lệ mọc lệch 
cao nhất do sự thiếu chỗ xương hàm dưới hoặc 
răng bị cản trở khi mọc. Khi mọc lệch, răng 
thường gây ra các biến chứng như viêm quanh 
thân răng, nang hoặc u do răng, tiêu xương hoặc 
tiêu chân các răng lân cận. Do đó, răng khôn 
hàm dưới mọc lệch thường được chỉ định nhổ. 
Mặc dù nhổ răng khôn hàm dưới mọc lệch là 
một phẫu thuật phổ biến nhưng vẫn còn gặp 
nhiều khó khăn nhất là ở các răng ngầm sâu 
trong xương, chân răng bất thường hoặc răng 
nằm gần ống răng dưới. Các biến chứng thường 
gặp trong và sau phẫu thuật răng khôn hàm 
dưới mọc lệch như nhiễm trùng, há miệng hạn 
chế, chấn thương thần kinh xương ổ dưới, thần 
kinh lưỡi(2,7). Biến chứng thủng vách xương trong 
khi phẫu thuật gây chấn thương thần kinh lưỡi 
hoặc di lệch răng, mảnh gãy chân răng vào các 
khoang mô mềm lân cận đã được báo cáo bởi 
nhiều tác giả(1,2,6). Đây là biến chứng nguy hiểm 
nếu không phát hiện và xử trí kịp thời. Nguyên 
nhân của biến chứng này có thể do độ lệch của 
răng, khiếm khuyết lớp xương vỏ trong, sử dụng 
lực quá mức khi phẫu thuật(3,5,11). Do đó, đánh giá 
hình thái vách xương trong của răng khôn hàm 
dưới mọc lệch trước phẫu thuật là rất quan 
trọng. Ngày nay, với sự ra đời của Cone Beam 
Computed Tomography (CBCT) trong lĩnh vực 
Răng Hàm Mặt, các nhà lâm sàng đã có thể khảo 
sát hình thái xương hàm theo chiều ngoài-trong. 
Bên cạnh đó, phim CBCT có nhiều ưu điểm hơn 
phim X quang truyền thống do có độ phân giải 
cao, khảo sát đa lát cắt, loại bỏ sự chồng hình(8). 
Vì vậy, chúng tôi thực hiện nghiên cứu với 
mục tiêu khảo sát hình thái vách xương trong 
của răng khôn hàm dưới lệch gần trên phim 
CBCT và mối liên quan với vị trí răng theo chiều 
ngang và chiều đứng. 
ĐỐI TƯỢNG - PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU 
Thiết kế nghiên cứu 
Nghiên cứu cắt ngang mô tả. 
Mẫu nghiên cứu 
100 hình ảnh CBCT răng khôn hàm dưới lệch 
gần hiện đang lưu trữ tại Bộ môn Tia X được 
chụp từ các bệnh nhân đến khám và điều trị tại 
Khoa Răng Hàm Mặt, Đại học Y Dược Thành 
phố Hồ Chí Minh. 
Tiêu chuẩn chọn mẫu 
- Răng khôn hàm dưới lệch gần theo phân 
loại của Winter(4). 
- Chân răng phát triển hoàn toàn. 
- Hình ảnh CBCT rõ, có thể đo đạc được. 
Tiêu chuẩn loại trừ 
- Răng kèm theo nang, u, gãy xương. 
- Ngoại tiêu, nội tiêu chân răng 
- Sâu vỡ lớn răng khôn hoặc răng 7. 
Phương tiện nghiên cứu 
- Phim CBCT từ máy CBCT Galileos (Sirona, 
Đức, sản xuất tháng 7/2010) tại bộ môn Tia X, 
khoa Răng Hàm Mặt, Đại Học Y Dược thành 
phố Hồ Chí Minh. 
- Thông tin máy CBCT: 
Hiệu điện thế: 200 - 240 V, tần số 50/60 Hz, 
cường độ dòng điện: 6A 
Thời gian chụp: 14 giây. 
Kích cỡ voxel: 0,15 mm 
- Đĩa trắng lưu trữ dữ liệu hình ảnh CBCT. 
- Máy vi tính cài phần mềm SIDEXID, 
GALILEOS Viewer với độ phân giải màn hình 
1920×1080 pixels 
Phương pháp nghiên cứu 
Qui trình thực hiện 
Hình ảnh CBCT thoả điều kiện lựa chọn mẫu 
được quan sát trên màn hình máy tính độ phân 
giải 1920×1080 pixels với phần mềm SIDEXID và 
GALILEOS Viewer. 
Trên mặt phẳng toàn cảnh trong chương 
trình GALILEOS Viewer, vị trí răng theo chiều 
đứng và chiều ngang được phân loại theo Pell 
và Gregory(4). 
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 22 * Số 3 * 2018
 226
A: Mặt nhai răng khôn ngang hoặc hơi dưới 
mặt nhai răng 7 cùng bên. 
B: Mặt nhai răng khôn nằm giữa mặt nhai và 
cổ răng 7 cùng bên. 
C: Mặt nhai răng khôn nằm dưới cổ răng 7 
cùng bên. 
I: Khoảng cách giữa răng 7 và bờ trước cành 
đứng xương hàm dưới lớn hơn đường kính gần-
xa thân răng khôn. 
II: Khoảng cách giữa răng 7 và bờ trước cành 
đứng xương hàm dưới nhỏ hơn đường kính 
gần-xa thân răng khôn. 
III: Không có khoảng trống giữa răng 7 và bờ 
trước cành đứng. 
Chọn mặt phẳng tiếp tuyến thấy rõ nhất trục 
răng khôn. Xoay và trượt mặt phẳng cắt ngang 
theo chiều trước sau trên mặt phẳng tiếp tuyến 
sao cho thấy rõ cả chóp chân răng gần và xa. 
Hình 1. Mặt phẳng cắt ngang đi qua chóp gần và xa 
răng khôn. (Hình trái: mặt phẳng tiếp tuyến. Hình phải: 
mặt phẳng cắt ngang). 
Trên mặt phẳng tiếp tuyến, ta chia chân răng 
thành 3 phần bằng nhau: phần ba chóp, phần ba 
giữa và phần ba cổ. Cách chia như sau: 
Xác định đoạn thẳng a đi qua 2 điểm nối 
men xê măng phía gần và phía xa răng khôn. A 
là trung điểm đoạn thẳng a. Mặt phẳng cắt 
ngang cắt bờ ngoài chóp răng xa và gần lần lượt 
tại 2 điểm B1 và B2. Điểm B là trung điểm đoạn 
thẳng b (nối B1 và B2). Nếu răng có một chân thì 
điểm B là chóp chân răng. 
Vẽ đoạn thẳng c đi qua 2 điểm A và B. 
Chia đoạn thẳng c thành 3 đoạn bằng nhau 
bởi 2 đoạn thẳng d, e (song song với mặt phẳng 
cắt ngang). 
Hình 2. Hình ảnh minh họa các vị trí đo đạc. 
Lần lượt cho mặt phẳng cắt ngang đi qua 3 
đoạn thẳng b, d, e tương ứng với 3 vị trí: chóp 
răng, 1/3 chóp và 1/3 giữa chân răng. 
Trên mặt phẳng cắt ngang đi qua đoạn 
thẳng b (chóp răng), tiến hành đo độ dày vách 
xương trong và độ dày xương vỏ trong ở chân 
răng gần và chân răng xa. Nếu răng có 1 chân, 
vẽ đường thẳng nằm ngang chia đôi chân răng 
và lần lượt đo độ dày vách xương phía gần và 
phía xa chân răng. 
Xác định trên mô răng điểm A là điểm nằm 
phía trong nhất 
Hình 3. Đo độ dày xương trong mặt phẳng cắt 
ngang(10). 
Vẽ đường thẳng nằm ngang đi qua điểm A 
cắt bờ trong và bờ ngoài lớp xương vỏ trong 
lần lượt tại 2 điểm B, C. Đo độ dài đoạn AC ta 
được độ dày vách xương trong. Đo độ dài 
đoạn BC ta được độ dày lớp xương vỏ trong 
tại vị trí chóp răng. 
Thực hiện tương tự khi đo độ dày xương tại 
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 22 * Số 3 * 2018 Nghiên cứu Y học
 227
các vị trí 1/3 chóp, 1/3 giữa chân răng. 
Hình 4. Phân loại vị trí chóp răng so với xương vỏ 
trong(9) 
Trên mặt phẳng cắt ngang, chia vị trí giữa 
chóp răng và lớp xương vỏ trong thành 3 loại 
sau: 
Loại A: Không tiếp xúc. 
Loại B: Răng tiếp xúc với lớp xương vỏ trong 
nhưng không đâm thủng bờ ngoài lớp xương vỏ 
trong. 
Loại C: Răng đâm thủng bờ ngoài lớp xương 
vỏ trong (chỉ ghi nhận loại C khi răng đâm thủng 
bờ ngoài lớp xương vỏ trong xuất hiện trên cả 
mặt phẳng cắt ngang và mặt phẳng ngang). 
Xử lý số liệu 
Số liệu thu thập được phân tích và xử lý 
thống kê bằng phần mềm SPSS 20. 
KẾT QUẢ 
Trong 100 hình ảnh CBCT, có 52 nam và 48 
nữ. Có 51 răng khôn hàm dưới bên trái và 49 
răng khôn hàm dưới bên phải. Tất cả các răng 
đều thoả tiêu chuẩn chọn mẫu. 
Độ dày vách xương và xương vỏ trong 
Bảng 1. Độ dày vách xương và xương vỏ trong tại các mức chân răng gần và chân răng xa 
Vị trí 
Chân gần Chân xa 
Vách xương Xương vỏ Vách xương Xương vỏ 
Chóp 1,29±0,13mm 0,78±0,06mm 1,44±0,12mm 0,94±0,06mm 
1/3 Chóp 0,94±0,09mm 0,63±0,06mm 1,21±0,08mm 0,93±0,06mm 
1/3 Giữa 1,22±0,78mm 0,95±0,06mm 1,45±0,07mm 1,67±0,5mm 
Tại vị trí chóp, độ dày trung bình xương vỏ 
trong quanh chân gần là 0,78±0,06mm mỏng hơn 
so với độ dày xương vỏ trong quanh chân xa với 
độ dày trung bình là 0,94±0,06mm. Sự khác biệt 
có ý nghĩa thống kê với p<0,05. 
Tại vị trí 1/3 chóp và 1/3 giữa chân răng, vách 
xương trong và xương vỏ trong quanh chân gần 
mỏng hơn có ý nghĩa so với độ dày vách xương 
trong và xương vỏ trong quanh chân xa với 
p<0,05. Tại vị trí 1/3 chóp, sự khác biệt về độ dày 
xương vỏ trong rõ rệt hơn với p<0,001. 
Tại chân gần, vách xương trong và xương 
vỏ trong tại 1/3 chóp mỏng hơn có ý nghĩa so 
với tại chóp và 1/3 giữa chân răng với p<0,05. 
Sự khác biệt rõ nhất giữa chóp răng và 1/3 
chóp với p<0,001. 
Tại chân xa, vách xương trong tại vị trí 1/3 
chóp mỏng hơn có ý nghĩa so với tại chóp và 1/3 
giữa với p<0,05. Sự khác biệt rõ nhất giữa 1/3 
chóp và 1/3 giữa với p<0,001. 
Độ dày trung bình vách xương trong và xương 
vỏ trong của chân răng nằm trong nhất 
Vách xương trong và xương vỏ trong tại 1/3 
chóp mỏng hơn có ý nghĩa so với tại chóp và 1/3 
giữa. Sự khác biệt có ý nghĩa với p<0,05. 
Bảng 2. Độ dày vách xương và xương vỏ quanh chân 
răng trong nhất tại các mức chân răng 
Vị trí 
Độ dày vách xương 
trong 
Độ dày xương vỏ 
trong 
Chóp 1±0,11mm 0,63±0,06mm 
1/3 Chóp 0,69±0,08mm 0,45±0,05mm 
1/3 Giữa 0,95±0,06mm 0,76±0,05mm 
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 22 * Số 3 * 2018
 228
Thủng vách xương trong 
Biểu đồ 1. Phân bố vị trí răng so với xương vỏ trong ở các mức chân răng 
Tại các vị trí chóp, 1/3 chóp và 1/3 giữa 
chân răng, đa số chân răng có tiếp xúc với 
xương vỏ trong, tỉ lệ này cao nhất tại vị trí 1/3 
giữa (75%) và thấp nhất tại vị trí chóp răng 
(49%). Tỉ lệ chân răng đâm thủng vách xương 
trong cao nhất tại vị trí 1/3 chóp (36%) và thấp 
nhất tại vị trí 1/3 giữa (16%). 
Tại vị trí chóp và 1/3 chóp, khả năng thủng 
vách xương trong cao hơn tại vị trí 1/3 giữa; sự 
khác biệt có ý nghĩa thống kê với p<0,05. 
Ở nam, có 25 trường hợp thủng xương vỏ 
trong tại ít nhất 1 vị trí cao hơn so với ở nữ là 23 
trường hợp. Tuy nhiên sự khác biệt này không 
có ý nghĩa thống kê. 
Có 25 trường hợp răng khôn hàm dưới phải 
thủng vách xương trong tại 1/3 chóp cao hơn so 
với con số này ở hàm dưới trái là 11 trường hợp. 
Sự khác biệt này có ý nghĩa thống kê với p<0,05. 
Nghiên cứu của chúng tôi không thấy mối 
liên quan giữa giới tính với sự thủng vách 
xương trong. 
Độ dày xương liên quan với phân loại răng theo chiều đứng 
Bảng 3. Độ dày xương liên quan phân loại răng theo chiều đứng 
Vị trí chân răng 
Chân gần Chân xa 
Vách xương Xương vỏ Vách xương Xương vỏ 
Chóp 
A 0,91±0,15mm 0,7±0,09mm 1,34±0,13mm 0,93±0,08mm 
B 1,5±0,25mm 0,84±0,11mm 1,6±0,24mm 0,96±0,11mm 
C 1,34±0,31mm 1,02±0,23mm 1,4±0,41mm 0,88±0,2mm 
1/3 Chóp 
A 0,85±0,11mm 0,62±0,08mm 1,15±0,1mm 0,94±0,08mm 
B 1,17±0,19mm 0,7±0,11mm 1,4±0,17mm 0,99±0,11mm 
C 0,54±0,24mm 0,4±0,17mm 0,73±0,19mm 0,63±0,19mm 
1/3 Giữa 
A 1,25±0,93mm 0,97±0,08mm 1,4±0,11mm 1,1±0,94mm 
B 1,26±0,15mm 0,98±0,11mm 1,57±0,11mm 1,29±0,09mm 
C 0,96 ± 0,22mm 0,8 ± 0,18mm 1,16 ± 0,21mm 0,96 ± 0,18mm 
Ở các răng có phân loại A 
Ở cả 3 vị trí chóp răng, 1/3 chóp, 1/3 giữa 
chân răng, vách xương trong quanh chân xa dày 
hơn chân gần, tuy nhiên sự khác biệt này không 
có ý nghĩa thống kê với p>0,05. 
Ở các răng có phân loại B 
Tại vị trí 1/3 giữa, độ dày trung bình xương 
vỏ trong quanh chân gần là 0,98 ± 0,11mm, mỏng 
hơn xương vỏ trong quanh chân xa với độ dày 
trung bình là 1,29±0,09mm. Sự khác biệt này có ý 
nghĩa thống kê với p<0,05. 
Độ dày trung bình xương vỏ trong quanh 
chân xa tại vị trí 1/3 chóp là 0,96±0,11mm, mỏng 
hơn so với độ dày xương vỏ trong quanh chân 
xa tại vị trí 1/3 giữa với độ dày trung bình là 
1,29±0,09mm. Sự khác biệt này có ý nghĩa thống 
kê với p<0,05. 
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 22 * Số 3 * 2018 Nghiên cứu Y học
 229
Ở các răng có phân loại C 
Độ dày trung bình vách xương trong quanh 
chân xa tại vị trí 1/3 chóp là 0,73±0,19mm, mỏng 
hơn độ dày vách xương trong quanh chân xa tại 
vị trí 1/3 giữa với độ dày trung bình là 
1,16±0,21mm. Sự khác biệt này có ý nghĩa thống 
kê với p<0,05. 
Độ dày xương liên quan với phân loại răng theo chiều ngang 
Bảng 4. Độ dày xương liên quan phân loại răng theo chiều ngang 
Vị trí chân răng 
Chân gần Chân xa 
Vách xương Xương vỏ Vách xương Xương vỏ 
Vị trí Chóp 
I 1,03±0,26mm 0,77±0,17mm 0,89±0,21mm 0,61±0,15mm 
II 1,24±0,15mm 0,77±0,08mm 1,5±0,14mm 0,98±0,07mm 
III 2,1±0,38mm 0,92±0,19mm 1,75±0,34mm 1,31±0,28mm 
1/3 Chóp 
I 0,89±0,21mm 0,63±0,15mm 0,85±0,15mm 0,7±0,13mm 
II 0,89±0,11mm 0,61±0,07mm 1,24±0,1mm 0,95±0,07mm 
III 1,39±0,3mm 0,74±0,15mm 1,69±0,22mm 1,18±0,16mm 
1/3 Giữa 
I 1,23±0,2mm 0,88±0,12mm 1,16±0,5mm 0,98±0,13mm 
II 1,21±0,09mm 0,96±0,07mm 1,54±0,96mm 1,23±0,07mm 
III 1,32±0,21mm 1,02±0,16mm 1,36±0,16mm 1,24±0,18mm 
Tại vị trí chóp răng, các răng có phân loại I và 
phân loại II theo chiều ngang có độ dày trung 
bình vách xương trong mỏng hơn có ý nghĩa các 
răng có phân loại III với p<0,05. 
Tại vị trí chóp chân răng xa, độ dày vách 
xương và xương vỏ trong mỏng nhất ở các răng 
có phân loại I so với phân loại II và III, sự khác 
biệt này có ý nghĩa thống kê với p<0,05. 
Ở các răng có phân loại I 
Ở cả 3 vị trí chóp răng, 1/3 chóp, 1/3 giữa 
chân răng, vách xương trong quanh chân gần 
dày hơn chân xa, tuy nhiên sự khác biệt này 
không có ý nghĩa thống kê với p>0,05. 
Ở các răng có phân loại II 
Xương vỏ trong quanh chân xa tại vị trí 1/3 
giữa với độ dày trung bình là 1,23±0,07mm, dày 
hơn so với xương vỏ trong quanh chân xa tại 
chóp và 1/3 chóp với độ dày trung bình lần lượt 
là 0,98±0,07mm, 0,95±0,07mm. Sự khác biệt này 
có ý nghĩa thống kê với p<0,05. 
Tại vị trí 1/3 chóp, vách xương trong và 
xương vỏ trong quanh chân gần với độ dày 
trung bình lần lượt là 0,89±0,11mm và 
0,61±0,07mm, mỏng hơn chân xa với độ dày 
trung bình lần lượt là 1,24±0,1mm và 
0,95±0,07mm. Sự khác biệt này có ý nghĩa thống 
kê với p<0,05. 
Tại vị trí 1/3 giữa, độ dày trung bình vách 
xương trong quanh chân gần là 1,21±0,09mm, 
mỏng hơn vách xương trong quanh chân xa với 
độ dày trung bình là 1,54±0,96mm. Sự khác biệt 
này có ý nghĩa thống kê với p<0,05. 
Ở các răng có phân loại III 
Ở cả 3 vị trí chóp răng, 1/3 chóp, 1/3 giữa 
chân răng, xương vỏ trong quanh chân xa dày 
hơn chân gần, tuy nhiên sự khác biệt này không 
có ý nghĩa thống kê với p>0,05. 
BÀN LUẬN 
Hình thái giải phẫu của vách xương trong 
quanh răng khôn hàm dưới ngày càng được 
quan tâm nhiều hơn trong nha khoa, nhất là 
trong phẫu thuật răng khôn hàm dưới và cấy 
ghép implant. Nhiều nghiên cứu cho thấy mối 
liên quan giữa sự mỏng hay thủng vách xương 
trong quanh răng khôn liên quan đến những tai 
biến hậu phẫu như di lệch chóp chân răng vào 
mô mềm bên trong, nhiễm trùng thứ phát 
khoang dưới hàm, tổn thương thần kinh lưỡi. 
Độ dày trung bình vách xương trong tại 
chóp chân răng nằm trong nhất lần lượt là 1mm, 
nhỏ hơn so với nghiêng cứu của Wang(10) 
(1,39mm) và nghiên cứu của Ge(5) (1,58mm). 
Vách xương trong tại 1/3 chóp mỏng hơn có 
ý nghĩa so với tại chóp và 1/3 giữa với độ dày 
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 22 * Số 3 * 2018
 230
trung bình là 0,69mm. Kết quả nghiên cứu của 
chúng tôi khá giống với nghiên cứu của Emes(3) 
khi cho rằng vách xương trong mỏng nhất tại vị 
trí 1/2 chóp với độ dày trung bình là 0,65mm. 
Tại vị trí 1/3 chóp và 1/3 giữa chân răng, vách 
xương trong và xương vỏ trong quanh chân gần 
mỏng hơn có ý nghĩa so với chân xa, đặc biệt là 
tại vị trí 1/3 chóp với p<0,001. 
Từ các kết quả trên, chúng tôi nhận thấy 
vách xương trong tại vị trí 1/3 chóp mỏng hơn so 
với tại chóp và 1/3 giữa. 1/3 chóp cũng là vị trí 
mà độ dày xương quanh chân gần mỏng hơn rõ 
rệt so với chân xa. Mẫu nghiên cứu của chúng tôi 
được lấy từ những bệnh nhân có chỉ định chụp 
CBCT và phần lớn trong số đó có dấu hiệu nghi 
ngờ sự tiếp xúc giữa chân răng và ống răng dưới 
trên phim toàn cảnh. Hơn nữa, ở các răng 
nghiêng gần, chân răng gần sẽ liên quan nhiều 
hơn với ống răng dưới so với chân răng xa và độ 
dày vách xương trong quanh chân gần có thể sẽ 
bị ảnh hưởng bởi vị trí và hình dạng của ống 
răng dưới. Đây có thể là nguyên nhân dẫn đến 
sự khác biệt có ý nghĩa về độ dày xương quanh 
chân gần và chân xa. 
Tỉ lệ thủng vách xương trong tại vị trí chóp 
chân răng là 32%, gần tương đồng với nghiên 
cứu của Wang(10) với tỉ lệ là 32,97%. Tuy nhiên, 
kết quả này lại thấp hơn so với nghiên cứu của 
Tolstunov(9) với tỉ lệ lên đến 65,5%. 
Nghiên cứu của chúng tôi không thấy mối 
liên hệ có ý nghĩa giữa vị trí răng theo chiều 
đứng với độ dày vách xương trong. Trong khi 
đó, nghiên cứu của Wang(10) lại cho thấy độ sâu 
của răng khôn hàm dưới lệch gần có liên quan 
đến tỉ lệ thủng vách xương trong. Tuy nhiên, 
chúng tôi phát hiện có mối liên quan giữa độ dày 
xương và vị trí răng theo chiều ngang. Tại vị trí 
chóp răng, các răng có phân loại I và phân loại II 
có độ dày trung bình vách xương trong mỏng 
hơn có ý nghĩa so với các răng có phân loại III. So 
với các răng có phân loại I và II các răng có phân 
loại III nằm gần như hoàn toàn trong cành đứng 
xương hàm dưới hơn, bên cạnh đó, theo chiều từ 
trước ra sau, ống răng dưới đi từ dưới lên trên và 
từ ngoài vào trong đến lỗ gai Spix, đây có thể là 
nguyên nhân làm cho chân răng có khuynh 
hướng bị đẩy ra ngoài dẫn đến độ dày vách 
xương trong ở các răng có phân loại III tại vị trí 
chóp dày hơn có ý nghĩa so với các răng có phân 
loại I và II. Tuy nhiên, cần có thêm nhiều nghiên 
cứu về ảnh hưởng của vị trí và hình dạng ống 
răng dưới đến độ dày vách xương trong quanh 
răng khôn hàm dưới lệch gần. 
KẾT LUẬN 
Không thấy mối liên hệ có ý nghĩa giữa vị 
trí răng theo chiều đứng với hình thái vách 
xương trong. 
Có mối liên quan giữa độ dày vách xương và 
xương vỏ trong với vị trí răng theo chiều ngang. 
Tại vị trí chóp răng, các răng có phân loại I và 
phân loại II có độ dày trung bình vách xương 
trong mỏng hơn có ý nghĩa so với các răng có 
phân loại III. 
Độ dày vách xương trong quanh răng khôn 
hàm dưới rất mỏng. Nguy cơ đẩy chóp răng vào 
trong cũng như chấn thương thần kinh lưỡi cao, 
đặc biệt ở những răng thủng vách xương trong. 
Tỉ lệ thủng vách xương trong tại vị trí chóp và 
1/3 chóp cao hơn so với 1/3 giữa. Do đó, phẫu 
thuật viên cần cẩn trọng khi can thiệp tại những 
vị trí này. 
TÀI LIỆU THAM KHẢO 
1. Aznar-Arasa L, Figueiredo R, Gay-Escoda C (2012). 
"Iatrogenic Displacement of Lower Third Molar Roots Into the 
Sublingual Space: Report of 6 Cases". Journal of Oral and 
Maxillofacial Surgery, 70(2):107-115 
2. Bataineh AB (2001). "Sensory nerve impairment following 
mandibular third molar surgery". J Oral Maxillofac Surg, 
59(9):1012-1017. 
3. Emes Y, Oncu B, Aybar B, Al-Badri N, Issever H, Atalay B, 
Yalcin S (2015). "Measurement of the Lingual Position of the 
Lower Third Molar Roots Using Cone-Beam Computed 
Tomography". J Oral Maxillofac Surg, 73:13-17. 
4. Fragiskos FD (2007). Surgical Extraction of Impacted Teeth. In 
Gabriele MS. Oral Surgery, 1,126. Springer, Heidelberg. 
5. Ge J, Zheng JW, Yang C, Qian WT (2016). "Variations in the 
buccal-lingual alveolar bone thickness of impacted 
mandibular third molar: our classification and treatment 
perspectives". Scientific Reports, 6:16375. 
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 22 * Số 3 * 2018 Nghiên cứu Y học
 231
6. Hutchinson D (1975). "An unusual case of lingual 
displacement of a mandibular third molar root apex". Oral 
Surg Oral Med Oral Pathol, 39(6):858-861. 
7. Kunkel M, Kleis W, Morbach T, Wagner W (2007). "Severe 
third molar complications including death-lessons from 100 
cases requiring hospitalization". J Oral Maxillofac Surg, 
65(9):1700-1706. 
8. Pauwels R (2015). "Technical aspects of dental CBCT: state of 
the art". Dentomaxillofac Radiol, 44(1):20140224. 
9. Tolstunov L, Brickeen M, Kamanin V, Susarla SM, Selvi F 
(2016). "Is the angulation of mandibular third molars 
associated with the thickness of lingual bone?". Br J Oral 
Maxillofac Surg, 54(8):914-919. 
10. Wang D, He X, Wang Y, Zhou G, Sun C, Yang L, Cheng J 
(2016). "Topographic relationship between root apex of 
mesially and horizontally impacted mandibular third molar 
and lingual plate: cross-sectional analysis using CBCT". 
Scientific Reports, 6:39268. 
11. Zhao S (2015). "Intraoral management of iatrogenically 
displaced lower third molar roots in the sublingual space: a 
report of 2 cases". Int J Clin Exp Med, 8(10):19591-19595 
Ngày nhận bài báo: 18/04/2018 
Ngày phản biện nhận xét bài báo: 23/04/2018 
Ngày bài được đăng: 10/05/2018