Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 23 * Số 2 * 2019 
Chuyên Đề Ngoại Khoa 53
ĐÁNH GIÁ HIỆU QUẢ KỸ THUẬT CẮM NIỆU QUẢN 
VÀO BÀNG QUANG TÂN TẠO THEO PHƯƠNG PHÁP ABOL-ENEIN 
TRONG ĐIỀU TRỊ UNG THƯ BÀNG QUANG 
Ngô Xuân Thái*, Phạm Đức Minh*, Thái Kinh Luân** 
TÓM TẮT 
Mục tiêu: Phẫu thuật tạo hình bàng quang bằng hồi tràng là điều trị tiêu chuẩn trên bệnh nhân ung thư 
bàng quang được cắt bàng quang tận gốc. Kỹ thuật cắm niệu quản vào bàng quang tân tạo cần có cơ chế chống 
ngược dòng giúp bảo vệ được đường tiết niệu trên. Chúng tôi báo cáo hiệu quả của kỹ thuật cắm niệu quản bằng 
cách tạo đường hầm ngoài thành mạc theo phương pháp Abol-Enein. 
Đối tượng và phương pháp nghiên cứu: Tất cả các trường hợp (TH) được phẫu thuật cắt bàng quang 
tận gốc, tạo hình bàng quang bằng hồi tràng và cắm niệu quản vào bàng quang tân tạo theo phương pháp 
Abol-Enein tại bệnh viện Chợ Rẫy từ 1/2012 đến 12/2017. Các biến số ghi nhận gồm: tuổi, giới tính, BMI, 
giai đoạn ung thư bàng quang, chỉ số creatinin huyết thanh. Kết quả phẫu thuật gồm các biến chứng sớm 
phẫu thuật cắm niệu quản, chức năng thận, tỷ lệ ngược dòng bàng quang – niệu quản, hẹp niệu quản sau 6 tháng. 
Kết quả: Mẫu nghiên cứu gồm 33 trường hợp. Tuổi trung bình 57,4 9,6. Tỷ lệ nam nữ 5,6. Chỉ số khối cơ 
thể trung bình 21,11 2,22 kg/m2. Chỉ số Creatinin huyết thanh trước và sau mổ thay đổi không đáng kể. Không 
có TH nào bị suy thận cấp sau mổ, không TH nào bị hẹp niệu quản hay rò nước tiểu qua miệng nối niệu quản 
ruột sau mổ. Chúng tôi theo dõi được 22/33 TH, trong đó có 2 TH tử vong trước 6 tháng, những TH còn lại tiếp 
tục theo dõi. Thời gian theo dõi trung bình 31,49 22,19 tháng. Một TH suy thận trong quá trình theo dõi. Tỷ lệ 
ngược dòng bàng quang niệu quản là 5,1% và tỷ lệ hẹp niệu quản là 2,6% tính theo số đơn vị thận – niệu quản. 
Kết luận: Kỹ thuật cắm niệu quản có cơ chế chống ngược dòng bằng cách tạo đường hầm ngoài thanh mạc 
theo Abol-Enein có hiệu quả tốt. Phương pháp này giúp bảo vệ đường tiết niệu trên thông qua cơ chế chống 
ngược dòng bàng quang niệu quản và tỷ lệ hẹp niệu quản thấp, tương đương với các phương pháp không chống 
ngược dòng khác. 
Từ khóa: cắm niệu quản, bàng quang tân tạo, Abol-Enein 
ABSTRACT 
RESULTS OF URETERAL REIMPLANTATION WITH SEROUS-LINED EXTRAMURAL TUNNEL IN 
ORTHOTOPIC ILEAL NEOBLADDER: PROCEDURE OF ABOL-ENEIN 
Ngo Xuan Thai, Pham Duc Minh, Thai Kinh Luan 
* Ho Chi Minh City Journal of Medicine * Supplement of Vol. 23 - No 2- 2019: 53 - 58 
Objective: Orthotopic ileal neobladders have become the standard of care after radical cystectomy in patients 
with bladder cancer. To protect the upper urinary tract, ureteral reimplantation technique needs an antireflux 
mechanism. We report the results of ureteral reimplantation with serous-lined extramural tunnel, Abol-Enein 
procedure, in orthotopic ileal neobladder. 
Materials and Methods: 33 cases were performed Abol-Enein ureteral reimplantation in orthotopic ileal 
neobladder following radical cystectomy from 1/2012 to 12/2017 at Cho Ray hospital. We analyze the 
demographic data, BMI, preoperative and postoperative serum creatinin, complications, vesicoureteral reflux and 
*Bộ môn Tiết Niệu Học, Đại học Y Dược TP. Hồ Chí Minh **Bệnh viện Chợ Rẫy, TP. Hồ Chí Minh 
Tác giả liên lạc: BS. Phạm Đức Minh ĐT: (+84) 937 392 789 Email: 
[email protected] 
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 23 * Số 2 * 2019
Chuyên Đề Ngoại Khoa 54
ureteral stricture rate. 
Results: Mean age 57.4 9.6, ratio of male/female 5.6, mean BMI 21.11 2.22 kg/m2. Preoperative and 
postoperative serum creatinin did not change stastically. There was no acute renal failure, ileoureteral stricture or 
ileoureteral leakage. Twenty two patients ware followed up, 2 cases died before 6 months. Mean follow up was 
31.49 22.19 months. One case had renal failure. Ureteral reflux was observed in 2 renal units (5.1%), 
ileoureteral stricture in 1 renal unit (2.6%). 
Consclusions: Abol-Enein procedure of ureteral reimplation with serous-lined extramural tunnel in 
ileal orthotopic neobladder has good results. This technique can protect the upper urinary tract via 
vesicoureteral antireflux and low rate of ileoureteral stricture, comparable with reflux ureteral reimplatation methods. 
Keywords: ureteral implantaion, orthotopic neobladder, Abol-Enein 
ĐẶT VẤN ĐỀ 
Phẫu thuật tạo hình bàng quang bằng hồi 
tràng ngày càng được chọn lựa trên những bệnh 
nhân được cắt bàng quang do bệnh lý ung thư 
bàng quang. Phương pháp này dần thay thế 
những hình thức chuyển lưu khác và trở thành 
điều trị tiêu chuẩn tại các trung tâm Tiết Niệu 
lớn trên thế giới(16). Một trong những mục tiêu 
quan trọng nhất của phương pháp tạo hình là 
phải bảo vệ được chức năng đường tiết niệu 
trên. Vì vậy, trên bàng quang bằng hồi tràng có 
áp lực thấp thì có cần cơ chế chống ngược dòng 
khi cắm lại niệu quản vẫn còn đang tranh cãi. 
Nhiều phương pháp cắm niệu quản có cơ 
chế chống ngược dòng đã được phát triển theo 
thời gian và chứng minh được tính hiệu quả như 
làm giảm tỷ lệ suy thận, nhiễm khuẩn ngược 
dòng và sẹo trên thận(5). Tuy nhiên, cũng có 
nhiều bằng chứng cho thấy không có sự khác 
biệt giữa có hay không có cơ chế chống ngược 
dòng khi cắm lại niệu quản trên bàng quang hồi 
tràng(4,17), mặt khác nó còn có nguy cơ gây hẹp 
miệng nối niệu quản – bàng quang(11,13). 
Năm 2001, tác giả Abol-Enein đã phát triển 
kỹ thuật cắm niệu quản vào bàng quang hồi 
tràng bằng cách tạo đường hầm ngoài thanh 
mạc cho thấy những kết quả khả quan. Tỷ lệ 
ngược dòng bàng quang - niệu quản từ 0% đến 
3% và tỷ lệ hẹp miệng nối niệu quản từ 0,5% đến 
3,8%(2,9), tương đương với hầu hết các kỹ thuật 
không chống ngược dòng khác(11). 
Tại Việt Nam, vẫn chưa có nhiều nghiên cứu 
chứng minh tính hiệu quả của kỹ thuật này(8,21). 
Qua nhiều năm áp dụng phương pháp Abol-
Enein và theo dõi bệnh nhân tại bệnh viện Chợ 
Rẫy, chúng tôi báo cáo những kết quả đạt được 
để đánh giá tính an toàn và hiệu quả của 
phương pháp này. 
ĐỐI TƯỢNG- PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU 
Đây là báo cáo mô tả hàng loạt trường hợp. 
Tất cả bệnh nhân ung thư bàng quang được chỉ 
định cắt bàng quang tận gốc và được tạo hình 
bàng quang bằng hồi tràng và cắm lại niệu quản 
theo phương pháp Abol-Enein tại bệnh viện Chợ 
Rẫy từ 01/01/2012 đến 31/12/2017. 
Các biến số ghi nhận gồm: tuổi, giới tính, 
BMI, giai đoạn ung thư bàng quang, chỉ số 
creatinin huyết thanh. Kết quả phẫu thuật gồm 
các biến chứng sớm phẫu thuật cắm niệu quản, 
chức năng thận, tỷ lệ ngược dòng bàng quang – 
niệu quản, hẹp niệu quản sau 6 tháng. 
Trường hợp bệnh nhân có triệu chứng bế tắc 
đường tiểu dưới hoặc thể tích nước tiểu tồn lưu 
cao (RUV>100ml): thăm dò niệu đạo, soi niệu 
đạo bàng quang để đánh giá hẹp niệu đạo, hẹp 
miệng nối niệu đạo bàng quang hay bướu bàng 
quang tái phát. 
Ngược dòng bàng quang – niệu quản: xác 
định bằng phim chụp niệu đạo bàng quang khi 
rặn tiểu (VCUG) sau khi loại trừ nguyên nhân bế 
tắc đường tiểu dưới (nếu có). 
Hẹp niệu quản: khi giãn niệu quản tăng lên 
so với trước phẫu thuật hoặc tăng creatinin sau 
phẫu thuật, bệnh nhân được soi bàng quang 
để loại trừ nguyên nhân bế tắc đường tiết niệu 
dưới nếu thể tích tồn lưu cao và chụp phim 
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 23 * Số 2 * 2019 Nghiên cứu Y học
Chuyên Đề Ngoại Khoa 55
niệu đạo bàng quang không thấy hình ảnh 
ngược dòng bàng quang - niệu quản, xác định 
bằng CT-scan dựng hình hệ niệu và xạ hình 
thận với thuốc lợi tiểu. 
Các biến số được phân tích bằng phần 
mềm thống kê SPSS 22.0, khác biệt có ý nghĩa 
khi p<0,05. 
KẾT QUẢ 
Trong thời gian nghiên cứu từ 1/2012 đến 
12/2017, tại bệnh viện Chợ Rẫy, có 33 trường hợp 
(TH) được cắm niệu quản vào bàng quang tân 
tạo theo phương pháp Abol-Enein. 
Độ tuổi trung bình 57,4 9,6 (39-81) tuổi. 
Nam giới chiếm ưu thế với 28/33 TH (84,8%), nữ 
giới chiếm 5/33 TH (15,2%). Chỉ số khối cơ thể 
trung bình 21,11 2,22 kg/m2(16,65-24,97). 
Chúng tôi đánh giá giai đoạn trước phẫu 
thuật chủ yếu trên các phương tiện hình ảnh 
học: soi bàng quang, siêu âm và đặc biệt là CT-
scan hoặc MRI. Trong số 33 TH, không có TH 
nào ở giai đoạn T1, có 26 TH (78,8%) ở giai đoạn 
T2 và 7 TH (21,3%) giai đoạn T3. Tuy nhiên sau 
mổ, kết quả giải phẫu bệnh trong nhóm nghiên 
cứu có 1 TH giai đoạn chưa xâm nhập Ta, 10 TH 
(30,3%) giai đoạn T1, 18 (54,5%) giai đoạn T2, 1 
TH (3%) giai đoạn T3 và 3 TH giai đoạn T4a. Tỷ 
lệ đánh giá đúng giai đoạn T trước và sau mổ là 
14/33 TH (42,4%). Trước mổ có 2 TH (6,1%) di 
căn hạch giai đoạn N1, sau mổ chúng tôi phát 
hiện thêm 2 trường hợp di căn hạch chậu bịt. 
Như vậy tổng số TH di căn hạch chậu trong 
nghiên cứu là 4 TH, chiếm 12,1%. 
Giải phẫu bệnh ung thư bàng quang trong 
nghiên cứu chủ yếu là carcinoma niệu mạc tại 
bàng quang, chiếm 90,9%, trong đó 25 TH 
(75,8%) là độ ác cao và 5 TH (15,1%) là độ ác 
thấp. Có 3 TH (9,1%) có giải phẫu bệnh là 
carcinoma tế bào gai. 
Biến chứng sớm của phẫu thuật cắm niệu 
quản, chúng tôi không có TH nào bị suy thận 
cấp sau mổ, không có TH nào hẹp niệu quản hay 
rò nước tiểu qua miệng nối niệu quản ruột. 
Chúng tôi theo dõi được 22/33 TH (66,7%), 
trong đó có 2TH tử vong, 20 TH còn lại tiếp 
tục theo dõi đến thời điểm nghiên cứu. Thời 
gian theo dõi trung bình 31,49 22,19 tháng (3-
74). Chỉ số Creatinin huyết thanh thay đổi 
không đáng kể sau mổ và trong thời gian theo 
dõi. Có 1 TH suy thận trong quá trình theo dõi. 
Có 2 TH ngược dòng bàng quang niệu quản 1 
bên, 1 TH bị hẹp niệu quản, tuy nhiên các TH 
này chức năng thận đều trong giới hạn bình 
thường. Tỷ lệ ngược dòng bàng quang niệu 
quản là 5,1% và tỷ lệ hẹp niệu quản là 2,6% 
trên số đơn vị thận niệu quản. 
Hình 1. Chỉ số creatinin huyết thanh trước và sau 
phẫu thuật. 
BÀN LUẬN 
Những biến chứng trên niệu quản trong 
giai đoạn sớm cũng được ghi nhận trong y 
văn. Tác giả Hautmann cắm niệu quản theo 
phương pháp Le Duc ghi nhận 4TH (1,1%) rò 
miệng nối niệu quản – ruột, trong đó 3 TH 
phải can thiệp ngoại khoa; 11 TH (3%) bị hẹp 
niệu quản, tất cả đều phải can thiệp ngoại 
khoa(4). Tác giả Shaaban cắm niệu quản trực 
tiếp vào bàng quang tân tạo ghi nhận 1TH 
(1,7%) bị rò nước tiểu miệng nối niệu quản – 
ruột kéo dài cần phải dẫn lưu thận ra da tạm 
thời(14). Ngược lại, Studer với cách cắm vào 
đoạn ruột xuôi chiều hay Stein với phương 
pháp cánh tay chữ T lại ghi nhận không có 
bất kì biến chứng sớm nào liên quan đến 
phương pháp cắm niệu quản(18,20). Tương tự, 
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 23 * Số 2 * 2019
Chuyên Đề Ngoại Khoa 56
trong 450 TH cắm niệu quản bằng cách tạo 
đường hầm dưới thanh mạc, tác giả Abol-
Enein cũng không gặp biến chứng sớm nào 
trên niệu quản(2). 
Một TH có Creatinin huyết thanh trước và 
sau mổ là 1,42 – 1,48 mg/dL, theo dõi đến tháng 
thứ 16 chỉ số Creatinin huyết thanh tăng lên 1,57 
mg/dL. Bệnh nhân được siêu âm đánh giá cấu 
trúc 2 thận bình thường, không ứ nước. Mức 
thay đổi Creatinin này không nhiều lại trong 
thời gian dài nên nghĩ nguyên nhân do bệnh 
thận mạn, một phần bệnh nhân lớn tuổi, hiện tại 
đã bước sang tuổi 73, đồng thời mắc các bệnh lý 
nội khoa mạn tính như tăng huyết áp và đái tháo 
đường týp 2 hơn 10 năm. 
Trong nghiên cứu của chúng tôi, không ghi 
nhận TH nào có biến chứng rò nước tiểu qua 
miệng nối niệu quản – ruột hay hẹp niệu quản 
trong thời gian nằm viện. Kết quả này tương 
đồng với tác giả Trần Chí Thanh và các tác giả 
khác(12,14,21,22), thấp hơn tác giả Ali-El-Dein và 
Papadopoulos với tỷ lệ hẹp niệu quản lần lượt là 
0,5% và 4%(3,12). Theo chúng tôi, những biến 
chứng như hoại tử niệu quản hay rò niệu quản 
là do niệu quản thiếu máu nuôi. Ưu điểm của 
phương pháp Abol-Enien là niệu quản nằm 
trong đường hầm và được khâu vào 2 vạt ruột 
nên được cung cấp máu nuôi dồi dào. Ngoài ra, 
khi cắm vào bàng quang ruột, miệng niệu quản 
được xẻ rộng thêm làm giảm nguy cơ hẹp niệu 
quản sau mổ. 
Trong nghiên cứu của chúng tôi có 2 TH 
(10%) bệnh nhân bị ngược dòng bàng quang - 
niệu quản, tính theo đơn vị thận niệu quản thì 
tỷ lệ ngược dòng bàng quang - niệu quản là 
5,1%. Hai trường hợp này đều có hình ảnh 
thận ứ nước độ 1 trên siêu âm và chỉ số 
creatinin huyết thanh đều trong giới hạn bình 
thường. Kết quả này cao hơn so với tác giả 
Trần Chí Thanh và cộng sự thực hiện phẫu 
thuật tạo hình bàng quang bằng hồi tràng và 
cắm niệu quản vào bàng quang tân tạo kiểu 
thành ngoài thanh mạc của Abol-Enein cho 
thấy tỷ lệ ngược dòng bàng quang - niệu quản 
là 2,5% đơn vị thận niệu quản(21). 
Chính tác giả Abol-Enein cũng đã báo cáo 
kết quả phương pháp cắm niệu quản của mình 
trên 450 bệnh nhân, tỷ lệ ngược dòng bàng 
quang - niệu quản là 3% số đơn vị thận niệu 
quản(2). Tiếp nối sau đó, tác giả Turkolmez và 
Osman cũng đã thực hiện phương pháp cắm 
niệu quản của Abol-Enein vào bàng quang tân 
tạo trên bệnh nhân ung thư bàng quang cho thấy 
tỷ lệ ngược dòng bàng quang - niệu quản lần 
lượt là 3,7% và 2,6% đơn vị thận niệu quản(10,22). 
Trong nghiên cứu so sánh giữa phương pháp 
cắm niệu quản thành ngoài thanh mạc và 
phương pháp cánh tay hình chữ T, Abol-Enien 
và Yasser Osman cũng không ghi nhận trường 
hợp nào bị ngược dòng bàng quang - niệu quản 
trên tổng số 49 đơn vị thận niệu quản(9). 
So với các phương pháp cắm niệu quản 
khác, tỷ lệ ngược dòng bàng quang niệu quản 
trong nghiên cứu của chúng tôi tương đương 
với phương pháp cắm niệu quản theo Le Duc 
hay phương pháp Koch, và thấp hơn các 
phương pháp khác như cắm trực tiếp hay cánh 
tay hình chữ T(4,9,10,18). 
Trong nghiên cứu của chúng tôi chỉ có 1 TH 
hẹp niệu quản, tỷ lệ hẹp niệu quản là 2,6% số 
đơn vị thận niệu quản. Kết quả của chúng tôi 
tương đương với các nghiên cứu của tác giả 
khác. Tác giả Trần Chí Thanh ghi nhận tỷ lệ hẹp 
miệng nối niệu quản – bàng quang là 2,38%(21). 
Tác giả Abol-Enein ghi nhận trên 450 trường 
hợp tỷ lệ hẹp niệu quản là 3,8% đơn vị thận niệu 
quản(2). Nhiều tác giả sau đó cũng đã thực hiện 
kỹ thuật Abol-Enein và báo cáo tỷ lệ hẹp niệu 
quản vào khoảng 2 – 5%(9,12,22). 
Nhìn chung, phương pháp tạo đường hầm 
ngoài thanh mạc có tỷ lệ hẹp niệu quản tương 
đương với phương pháp không chống ngược 
dòng và thấp hơn các phương pháp chống 
ngược dòng khác(4,9,10,15,18). Ưu điểm của kỹ thuật 
này là không để niệu quản tiếp xúc trực tiếp với 
nước tiểu, tạo điều kiện miệng nối lành tốt, giảm 
nguy cơ hình thành huyết khối, tạo sẹo hay bị 
vôi hóa. Tác giả Abol-Enein đề nghị nên tránh để 
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 23 * Số 2 * 2019 Nghiên cứu Y học
Chuyên Đề Ngoại Khoa 57
lớp bao xơ của niệu quản phơi bày ra, nó sẽ bị 
kích thích liên tục của nước tiểu, kết quả là hình 
thành sẹo gây hẹp niệu quản. 
Một điểm cần lưu ý trong kỹ thuật là phải 
đảm bảo niệu quản được máu nuôi tốt, vì vậy 
trong quá trình bóc tách niệu quản không nên 
dùng dao điện, không bóc tách quá sát lớp 
thanh mạc niệu quản. Điều thuận lợi của 
phương pháp Abol-Enein là miệng nối niệu 
quản ruột được tiếp xúc với 2 vạt hồi tràng 
được cấp máu rất dồi dào(1). 
Đối với niệu quản không giãn, chúng tôi xẻ 
dọc đầu xa niệu quản để tạo thành hình vát để 
giảm nguy cơ hẹp miệng nối khi khâu nối niệu 
quản và 2 vạt hồi tràng. Kỹ thuật này cũng đã 
được nhiều tác giả áp dụng trong các phương 
pháp chống ngược dòng khác, với tỷ lệ hẹp 
niệu quản thấp khoảng 1-2%(15,19). Để đạt hiệu 
quả van chống ngược dòng, chúng tôi tôn 
trọng nguyên tắc của Paquin, chiều dài đoạn 
niệu quản nội thành là từ 2 – 4cm, và tỷ lệ 
chiều dài đường hầm so với đường kính niệu 
quản là 4-5:1(7), tức là với đường kính niệu 
quản khoảng 5mm thì chiều dài đường hầm 
của chúng tôi khoảng 2-3cm. Đây cũng là một 
ưu điểm của phương pháp Abol-Enein, thao 
tác khâu nối và tạo đường hầm vẫn rất thuận 
lợi khi niệu quản giãn lớn. 
Theo Paquin, một trong những yếu tố góp 
phần quan trọng trong thành công của kỹ thuật 
cắm niệu quản là chiều rộng đường hầm phải 
gấp 2-3 lần đường kính niệu quản(7). Khi tạo hình 
bàng quang bằng hồi tràng, đường kính đoạn 
ruột thường nhỏ, nhất là trên người châu Á, 
thêm vào đó đoạn ruột được xẻ dọc, sắp xếp và 
khâu nối lại sẽ dễ làm hẹp đường kính của 
đường hầm ngoài thanh mạc, đặc biệt khi niệu 
quản giãn lớn thì đường hầm sẽ hẹp tương đối 
so với niệu quản. Vì vậy, khi xẻ dọc đoạn hồi 
tràng, chúng tôi xẻ lệch một bên về phía niệu 
quản mà không ngay chính giữa bờ tự do. Điều 
này làm tăng kích thước cho 2 vạt hồi tràng để 
tạo đường hầm cho niệu quản. Kỹ thuật này 
được tác giả Turkolmez mô tả vào năm 2004 áp 
dụng cho những trường hợp niệu quản giãn lớn. 
Kết quả trong nghiên cứu của ông cho thấy tỷ lệ 
ngược dòng bàng quang - niệu quản là 3,7% và 
tỷ lệ hẹp niệu quản là 4,8%(22). 
KẾT LUẬN 
Kỹ thuật cắm niệu quản có cơ chế chống 
ngược dòng bằng cách tạo đường hầm ngoài 
thanh mạc theo Abol-Enein có hiệu quả tốt. 
Phương pháp này giúp bảo vệ đường tiết niệu 
trên thông qua cơ chế chống ngược dòng bàng 
quang niệu quản và tỷ lệ hẹp niệu quản thấp, 
tương đương với các phương pháp không chống 
ngược dòng khác. 
TÀI LIỆU THAM KHẢO 
1. Abol-Enein H and Ghoneim MA (1995), "Serous-lined 
extramural ileal valve as a new continent cutaneous urinary 
outlet: an experimental study in dogs", Urological Research, 
Vol. 23(3), pp. 193-199. 
2. Abol-Enein H and Ghoneim MA (2001), "Functional results of 
orthotopic ileal neobladder with serous-lined extramural 
ureteral reimplantation: experience with 450 patients", J Urol, 
Vol. 165(5), pp. 1427-32. 
3. Ali-el-Dein B, Shaaban AA, Abu-Eideh RH, el-Azab M, 
Ashamallah A, and Ghoneim MA (2008), "Surgical 
complications following radical cystectomy and orthotopic 
neobladders in women", J Urol, Vol. 180(1), pp. 206-10; 
discussion 210. 
4. Hautmann RE, de Petriconi R, Gottfried HW, Kleinschmidt K, 
Mattes R, and Paiss T (1999), "The ileal neobladder: 
complications and functional results in 363 patients after 11 
years of followup", J Urol, Vol. 161(2), pp. 422-7. 
5. Hautmann S, Chun KH, Currlin E, Braun P, Huland H, and 
Juenemann KP (2006), "Refluxing chimney versus 
nonrefluxing LeDuc ureteroileal anastomosis for orthotopic 
ileal neobladder: a comparative analysis for patients with 
bladder cancer", J Urol, Vol. 175(4), pp. 1389-93. 
6. Kristjansson A, Bajc M, Wallin L, Willner J, and Mansson W 
(1995), "Renal function up to 16 years after conduit (refluxing 
or anti-reflux anastomosis) or continent urinary diversion. 2. 
Renal scarring and location of bacteriuria", Br J Urol, 76(5), 
pp.546-50. 
7. Ngô Gia Hy (1983), "Sinh Lý Và Sinh Lý Bệnh Khúc Nối Niệu 
Quản Bọng Đái", trong Niệu Học Tập III: Sinh Lý Và Sinh Lý 
Bệnh Đường Tiểu, Nhà Xuất Bản Y Học Thành Phố Hồ Chí 
Minh, tr. 49-82. 
8. Nguyễn Ngọc Châu (2014), Đánh giá kết quả sớm phẫu thuật 
tạo hình bàng quang trực vị theo phương pháp Padua, Luận 
án Chuyên Khoa II, Ngoại - Tiết Niệu, Đại học Y Dược TP. Hồ 
Chí Minh. 
9. Osman Y, Abol-Enein H, El-Mekresh M, Gad H, Elhefnawy 
A, and Ghoneim M (2009), "Comparison between a serous-
lined extramural tunnel and T-limb ileal procedure as an 
antireflux technique in orthotopic ileal substitutes: a 
prospective randomized trial", BJU Int, 104(10), pp. 1518-21. 
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 23 * Số 2 * 2019
Chuyên Đề Ngoại Khoa 58
10. Osman Y, Abol-Enein H, Nabeeh A, Gaballah M, and Bazeed 
M (2004), "Long-term results of a prospective randomized 
study comparing two different antireflux techniques in 
orthotopic bladder substitution", Eur Urol, Vol. 45(1), pp. 82-6. 
11. Pantuck AJ, Han KR, Perrotti M, Weiss RE, and Cummings 
KB (2000), "Ureteroenteric anastomosis in continent urinary 
diversion: long-term results and complications of direct 
versus nonrefluxing techniques", J Urol, Vol. 163(2), pp. 450-5. 
12. Papadopoulos I and Weichert-Jacobsen K (2001), "Experiences 
with the entero-ureteral anastomosis via the extramural 
serous-lined tunnel: procedure of Abol-Enein", Urology, Vol. 
57(2), pp. 234-8. 
13. Roth S, van Ahlen H, Semjonow A, Oberpenning F, and 
Hertle L (1997), "Does the success of ureterointestinal 
implantation in orthotopic bladder substitution depend more 
on surgeon level of experience or choice of technique?", J Urol, 
Vol. 157(1), pp. 56-60. 
14. Shaaban AA, Abdel-Latif M, Mosbah A, Gad H, Eraky I, Ali-
El-Dein B, Osman Y, El-Mekresh M, Ibrahim E-H, and El-
Kappany H (2006), "A randomized study comparing an 
antireflux system with a direct ureteric anastomosis in 
patients with orthotopic ileal neobladders", BJU international, 
Vol. 97(5), pp. 1057-1062. 
15. Shaaban AA, Mosbah A, El-Bahnasawy MS, Madbouly K, 
and Ghoneim MA (2003), "The urethral Kock pouch: long-
term functional and oncological results in men", BJU Int, Vol. 
92(4), pp. 429-35. 
16. Skinner EC and Daneshmand S (2015), "Orthotopic Urinary 
Diversion", in Campbell - Walsh Urology, A.J. WEIN, Editor, 
11th ed., Elsevier, Philadelphia, pp. 2344 - 2368. 
17. Song C, Kang T, Hong JH, Kim CS, and Ahn H (2006), 
"Changes in the upper urinary tract after radical cystectomy 
and urinary diversion: a comparison of antirefluxing and 
refluxing orthotopic bladder substitutes and the ileal conduit", 
J Urol, Vol. 175(1), pp. 185-9; discussion 189. 
18. Stein JP, Dunn MD, Quek ML, Miranda G, and Skinner DG 
(2004), "The orthotopic T pouch ileal neobladder: experience 
with 209 patients", J Urol, Vol. 172(2), pp. 584-7. 
19. Steven K and Poulsen AL (2000), "The orthotopic Kock ileal 
neobladder: functional results, urodynamic features, 
complications and survival in 166 men", J Urol, Vol. 164(2), 
pp. 288-95. 
20. Studer UE, Burkhard FC, Schumacher M, Kessler TM, Thoeny 
H, Fleischmann A, and Thalmann GN (2006), "Twenty years 
experience with an ileal orthotopic low pressure bladder 
substitute--lessons to be learned", J Urol, Vol. 176(1), pp. 161-6. 
21. Trần Chí Thanh (2016), Nghiên Cứu Ứng Dụng Và Kết Quả 
Tạo Hình Theo Phương Pháp Abol-Enein Trong Điều Trị Ung 
Thư Bàng Quang, Luận án Tiến Sĩ Y Học, Ngoại - Tiết Niệu, 
Đại Học Y Hà Nội. 
22. Turkolmez K, Baltaci S, Gogus C, Beduk Y, and Gogus O 
(2004), "Results of the ureteral reimplantation with serous-
lined extramural tunnel in orthotopic ileal W-neobladder", Int 
J Urol, Vol. 11(6), pp. 368-73. 
Ngày nhận bài báo: 08/11/2018 
Ngày phản biện nhận xét bài báo: 10/12/2018 
Ngày bài báo được đăng: 10/03/2019