Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ bản Tập 21 * Số 3 * 2017
Hội Nghị Khoa Học Kỹ Thuật Trường Đại Học Y Khoa Phạm Ngọc Thạch năm 2017 152
ĐÁNH GIÁ HIỆU QUẢ BƯỚC ĐẦU PHƯƠNG PHÁP CHÂM NHU MÔ TRƯỚC 
KẾT HỢP GHÉP MÀNG ỐI ĐIỀU TRỊ BỆNH LÝ GIÁC MẠC BỌNG 
Nguyễn Thụy Đan*, Trần Anh Tuấn*, Diệp Hữu Thắng* 
TÓM TẮT 
Mục tiêu: Xác định hiệu quả điều trị và độ an toàn của việc kết hợp 2 phương pháp châm nhu mô trước và 
ghép màng ối trong điều trị bệnh lý giác mạc bọng đau nhức. 
Phương pháp: thử nghiệm lâm sàng, không nhóm chứng, khảo sát 34 mắt (34 bệnh nhân) bệnh giác mạc 
bọng đau nhức dai dẳng, không đáp ứng với các phương pháp điều trị bảo tồn. Đầu tiên, lớp biểu mô giác mạc 
lỏng lẻo được lột bỏ, sau đó châm nhu mô và ghép một lớp màng ối với mặt đáy hướng lên trên. Với 6 tháng theo 
dõi sau điều trị, các yếu tố được phân tích bao gồm: cảm giác đau, mức độ chảy nước mắt, thời gian lành biểu mô, 
tình trạng bọng giác mạc, tình trạng màng ối sau ghép và sự thay đổi thị lực. 
Kết quả: Tuổi trung bình là 62,41 ± 14,02. Mức độ đau giảm nhiều sau phẫu thuật 1 tuần, giảm đáng kể 
đến thời điểm 1 tháng, ổn định ở các thời điểm 3 tháng-6 tháng. Tỉ lệ bệnh nhân hết đau hoàn toàn ở tháng thứ 6 
sau mổ đạt 88,2% (tỉ lệ thành công). Mức độ chảy nước mắt sau phẫu thuật giảm có ý nghĩa thống kê so với trước 
phẫu thuật. Thời gian tái biểu mô hóa giác mạc trung bình là 6,91 ± 1,8 ngày. Tỉ lệ tái phát bọng tăng chậm dần. 
Cuối thời điểm theo dõi, có 9 trường hợp (26,5%) tái phát bọng. Tình trạng màng ối sau phẫu thuật: 29,4% 
(10/34 mắt) tan hoàn toàn, 55,9% (19/34 mắt) tan một phần, còn nguyên vẹn 14,7% (5/34 mắt). Thị lực phần lớn 
không thay đổi sau phẫu thuật. Không có biến chứng nào được ghi nhận. 
Kết luận: Châm nhu mô trước kết hợp với ghép màng ối là một phương pháp điều trị hiệu quả và an toàn 
cho những bệnh nhân bệnh giác mạc bọng đau nhức không đáp ứng với các phương pháp điều trị bảo tồn, chưa có 
điều kiện được ghép giác mạc. 
Từ khóa: châm nhu mô, màng ối, giác mạc bọng. 
ABSTRACT 
COMBINED ANTERIOR STROMAL PUNCTURE 
AND AMNIOTIC MEMBRANE TRANSPLANTATION FOR BULLOUS KERATOPATHY 
Nguyen Thuy Dan, Tran Anh Tuan, Diep Huu Thang 
* Y Hoc TP. Ho Chi Minh * Supplement Vol. 21 - No 3 - 2017: 152 - 161 
Objective: To evaluate the therapeutic efficacy and safety of combined anterior stromal puncture (ASP) and 
amniotic membrane transplantation (AMT) in the management of symptomatic bullous keratopathy (BK). 
Methods: This prospective, un-controlled, non-comparative trial included 34 eyes (34 patients) suffering 
from intractably painful bullous keratopathy which is unresponsive to conservative measures (medicine, contact 
lens). After epithelial debridement, all eyes had ASP, followed by AMT with the basement membrane upward. 
During a follow-up of 6 months after treatment, pain relief, epiphora reduction, epithelial healing, amniotic 
membrane retention, bullae recurrence, and visual changes were analyzed. 
Results: Among 34 patients, there were 18 men and 16 women. The mean age of the population was 62.41 ± 
14.02. Pain level decreased sharply at week 1 after surgery, continued to decline more remarkably at week 4, and 
then plateaued to month 3 and month 6. Complete pain relief was achieved in 30 patients (88.2%) after the 6-
*Bộ môn Mắt, Trường Đại học Y khoa Phạm Ngọc Thạch. 
Tác giả liên lạc: BS. Nguyễn Thụy Đan ĐT: 0909650515 Email: 
[email protected] 
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ bản Tập 21 * Số 3 * 2017 Nghiên cứu Y học
Hội Nghị Khoa Học Kỹ Thuật Trường Đại Học Y Khoa Phạm Ngọc Thạch năm 2017 153
month follow-up. Bullae were resolved in all but 9 eyes, all of which were in smaller areas. Epiphora significantly 
lessened, ranging from grades 3-5 before treatment to grades 0-3 after surgery (Munk’s scale). The mean time for 
complete re-epithelialization was 6.91 ± 1.8 days. Amnion was completely absorbed in 10 eyes (29.4%), partially 
absorbed in 19 eyes (55.9%), and remained intact in 5 eyes (14.7%). The visual acuity was mostly stable after 
treatment. No complications were recorded. 
Conclusions: ASP combined with AMT can be considered to be an effective and safe alternative in 
symptomatic BK treatment. It can be helpful for those who are unresponsive to conservative measures, and live in 
places where corneal transplantation is not available or unaffordable. 
Key words: anterior stromal puncture, amniotic membrane, bullous keratopathy. 
ĐẶT VẤN ĐỀ 
Bệnh lý giác mạc bọng (bulous keratopathy-
BK) là bệnh gây ra bởi tình trạng mất bù nội mô, 
biểu hiện qua phù nhu mô, bọng biểu mô giác 
mạc(2). Bệnh xảy ra do nhiều nguyên nhân: mất 
bù nội mô thứ phát sau can thiệp phẫu thuật 
(phẫu thuật TTT có hoặc không đặt kính nội 
nhãn), chấn thương, glôcôm,dẫn tới nhìn mờ, 
đau nhức, chảy nước mắt. 
Các phương pháp điều trị bao gồm: điều trị 
bảo tồn – thuốc nhỏ mắt(11), đặt kính áp tròng(4); 
hay phẫu thuật - phủ vạt kết mạc(1), châm nhu 
mô trước giác mạc(5,7,17), ghép màng ối(15) Trong 
đó, ghép giác mạc được xem là phương pháp 
điều trị triệt để nhất nhờ cải thiện thị lực và triệu 
chứng đi kèm(8). Tuy nhiên, khi ghép giác mạc 
không thể thực hiện được như ở những nơi 
nguồn cung cấp giác mạc khan hiếm, hoặc thị 
lực tiềm năng rất kém,thì mục tiêu chủ yếu 
của việc điều trị là làm giảm triệu chứng khó 
chịu cho người bệnh. 
Châm nhu mô, ghép màng ối là những 
phương pháp không những đơn giản, tiết kiệm 
chi phí mà còn làm giảm triệu chứng lâm sàng 
hiệu quả khi bệnh nhân không đáp ứng với các 
phương pháp điều trị bảo tồn. Các nghiên cứu 
cho thấy, châm giác mạc tạo phản ứng lành 
sẹo(5,7) nhờ vậy tăng sự kết dính biểu mô lên bề 
mặt nhu mô trước và giúp giảm đau lên tới 60% - 
70% bệnh nhân(5,7,17). Trong khi đó, ghép màng ối 
giúp làm giảm viêm, điều hòa quá trình lành sẹo 
và tạo màng đáy chắc chắn cho biểu mô bò lên 
giúp biểu mô bám chặt hơn vào mô bên dưới, 
qua đó giảm sự hình thành bọng, giảm triệu 
chứng đến 66% - 90%(15). 
Tuy vậy, việc còn tồn tại cảm giác đau nhiều 
sau quá trình châm nhu mô, hay tình trạng tái 
phát bọng sớm sau phẫu thuật sau ghép màng ối 
cũng không phải hiếm gặp. Từ đó, các nghiên 
cứu kết hợp 2 phương pháp trong điều trị bệnh 
giác mạc bọng đã được thực hiện, dựa trên 
mong muốn cơ chế tác dụng khác nhau của hai 
phương pháp sẽ cho hiệu quả hiệp đồng trong 
việc giảm hình thành bọng biểu mô(6,16). Tại Việt 
Nam, chưa có công trình nào tìm hiểu về hiệu 
quả của việc châm nhu mô kết hợp ghép màng 
ối trong điều trị bệnh giác mạc bọng. Vì vậy, 
chúng tôi thực hiện đề tài này nhằm: mô tả đặc 
điểm dịch tễ và lâm sàng nhóm bệnh nhân bệnh 
giác mạc bọng ở bệnh viện Mắt TPHCM, xác 
định hiệu quả điều trị của phương pháp này 
trong 06 tháng đầu sau phẫu thuật và xác định 
độ an toàn của phương pháp. 
ĐỐI TƯỢNG - PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU 
Thiết kế nghiên cứu 
Thừ nghiệm lâm sàng, không nhóm chứng. 
Dân số nghiên cứu 
Bệnh nhân (BN) có bệnh giác mạc bọng đau 
nhức kéo dài, thất bại với điều trị bảo tồn, có nhu 
cầu giảm triệu chứng, đến khám tại khoa Giác 
mạc- Bệnh viện Mắt TPHCM đáp ứng các tiêu 
chuẩn chọn mẫu trong thời gian nghiên cứu từ 
tháng 1/2015 đến tháng 1/2016. 
Tiêu chuẩn chọn mẫu 
BN được chẩn đoán bệnh giác mạc bọng có 
triệu chứng (đau nhức, cộm xốn, chảy nước 
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ bản Tập 21 * Số 3 * 2017
Hội Nghị Khoa Học Kỹ Thuật Trường Đại Học Y Khoa Phạm Ngọc Thạch năm 2017 154
mắt,) kéo dài (≥ 06 tháng). 
BN có nhu cầu cải thiện triệu chứng, đã điều 
trị bảo tồn ≥ 06 tháng (nhỏ thuốc, đặt kính áp 
tròng) nhưng triệu chứng không cải thiện hoặc 
cải thiện không đáng kể. 
Thị lực (đã chỉnh kính) ≤ ĐNT 1m. 
Tiêu chuẩn loại trừ 
Bệnh nhân có nhu cầu cải thiện thị lực sau 
phẫu thuật. Nhãn áp > 21mmHg. Có tình trạng 
bệnh lý giác mạc, viêm nhiễm khác ở mắt cùng 
tồn tại. 
Qui trình nghiên cứu 
Sau khi các BN thỏa tiêu chí nghiên cứu 
được giải thích rõ ràng, kí vào cam kết đồng ý 
thực hiện phẫu thuật, BN được xác định các 
thông tin về dịch tễ gồm tuổi, giới, mắt bệnh, nơi 
cư trú; và các thông tin về lầm sàng gồm nguyên 
nhân gây bệnh giác mạc bọng, thời gian tồn tại 
triệu chứng bệnh, tiền sử điều trị bệnh. Sau đó 
BN được tiến hành phẫu thuật. Mắt bệnh được 
gây tê hậu cầu bằng Lidocain 2%, lớp biểu mô 
giác mạc lỏng lẻo được lột bỏ bằng tăm bông 
hoặc bằng dao 15 ở những vùng biểu mô bám 
chặt. Sau đó, nhu mô trước được châm đều 
(khoảng 200 vết châm) bằng kim châm nhu mô 
số 25, chừa một khoảng- cách rìa 1mm. Sau khi 
giác mạc được thấm khô, một lớp màng ối được 
ghép với mặt màng đáy hướng lên trên (kiểm tra 
bằng dụng cụ hoặc tăm bông). Màng ối được 
khâu vào nhu mô GM bằng mũi chỉ rời hình đa 
giác cách rìa 1mm với chỉ Nylon 10.0. Cắt gọn 
màng ối sao cho màng ối nằm trong vùng biểu 
mô bị lột bỏ. Đặt kính áp tròng mềm O2 Optix 
(ưa khí, ưa nước) cho tới khi giác mạc được biểu 
mô hóa hoàn toàn. 
Sau phẫu thuật, bệnh nhân được điều trị với 
kháng sinh nhỏ, nước mắt nhân tạo 4 lần/ngày 
cho tới khi tháo kính áp tròng. bệnh nhân được 
theo dõi 6 tháng sau phẫu thuật, ghi nhận các 
biến số về kết quả phẫu thuật gồm mức độ đau 
(đánh giá bằng 2 thang điểm: thang điểm số NRS 
(0-10) và thang điểm bằng lời nói VRS (không 
đau, đau ít, đau vừa, đau nhiều)), mức độ chảy 
nước mắt, tình trạng lành biểu mô giác mạc, tình 
trạng bọng, tình trạng màng ối, thị lực, nhãn áp; 
về độ an toàn của phương pháp gồm tỉ lệ tái 
phát bọng, và biến chứng ở các thời điểm 1 tuần, 
1 tháng, 3 tháng và 6 tháng. Tháo kính áp tròng 
và cắt chỉ giác mạc khi giác mạc đã biểu mô hóa 
hoàn toàn (thường ở thời điểm 1 tháng). 
Xử lý và phân tích số liệu 
Số liệu được nhập, xử lý và phân tích với 
phần mềm thống kê SPSS 20.0. Dữ liệu được 
trình bày dưới dạng tỉ lệ % (biến định tính) 
hoặc giá trị trung bình (biến định lượng). Do 
các biến định lượng trong nghiên cứu đều 
phân phối không chuẩn, nên các số trung 
bình, cũng như các giá trị tỉ lệ (%) trước và sau 
can thiệp của một nhóm ở 2 thời điểm trước-
sau được so sánh bằng test Wilcoxon, và ở 
nhiều thời điểm trước-sau được so sánh bằng 
test Friedman. Phân tích hậu kiểm với phương 
pháp kiểm định Bonferroni. 
KẾT QUẢ 
Nghiên cứu khảo sát 34 mắt của 34 bệnh 
nhân (18 nam và 16 nữ), tuổi trung bình là 62,41 
± 14,02 (từ 23-85 tuổi), với tỉ lệ bệnh nhân ≥ 70 
tuổi chiếm tỉ lệ cao nhất (32,4%). Số bệnh nhân 
đến từ tỉnh (67,6%) nhiều hơn 2,1 lần so với các 
bệnh nhân đến từ TP.HCM (32,4%). 
Bảng 1: Đặc điểm lâm sàng của mẫu nghiên cứu 
Đặc điểm 
Số lượng 
(n=93) 
Tỉ lệ 
% 
Nguyên 
nhân gây 
GM bọng 
PT TTT 
có đặt kính nội nhãn 
15 44,1 
PT TTT 
không đặt kính nội nhãn 
2 5,9 
CBCM 4 11,8 
PT BVM + silicon 1 2,9 
ICE 2 5,9 
Loạn dưỡng GM Fuch’s 2 5,9 
Thải ghép sau Ghép GM 1 2,9 
Chấn thương 
(rách GM xuyên) 
7 20,6 
Thời gian 
tồn tại triệu 
chứng 
Trung bình 
19,79 ± 6,64 
tháng 
Dài nhất 12 tháng 
Ngắn nhất 40 tháng 
Tiền sử 
điều trị 
Sử dụng thuốc 34 100 
Đặt kính áp tròng 26 76,5 
Phẫu thuật 0 0 
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ bản Tập 21 * Số 3 * 2017 Nghiên cứu Y học
Hội Nghị Khoa Học Kỹ Thuật Trường Đại Học Y Khoa Phạm Ngọc Thạch năm 2017 155
Các đặc điểm lâm sàng của nhóm nghiên 
cứu như nguyên nhân gây bệnh giác mạc bọng, 
thời gian tồn tại triệu chứng bệnh, và tiền sử 
điều trị bệnh được trình bày trong bảng 1. 
Kết quả điều trị 
Hình 1: Mức độ đau của bệnh nhân các thời điểm trước và sau điều trị tính theo thang điểm số NRS 
Hình 2: Mức độ đau đánh giá bằng thang đo lời nói VRS 
Mức độ đau tính theo thang điểm NRS 
(numeric rating scale) và VRS (verbal rating 
scale) đều cho thấy bệnh nhân giảm đau đáng kể 
sau phẫu thuật. Ở cả 2 thang đo, kiểm định phi 
tham số Friedman cho thấy sự giảm đau qua các 
thời điểm là có ý nghĩa thống kê với p < 0,001. 
Phân tích hậu kiểm Bonferroni cho thấy, sự khác 
biệt của từng cặp thời điểm đều có ý nghĩa thống 
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ bản Tập 21 * Số 3 * 2017
Hội Nghị Khoa Học Kỹ Thuật Trường Đại Học Y Khoa Phạm Ngọc Thạch năm 2017 156
kê (p < 0,001), trừ kết quả giữa 3 cặp thời điểm 1 
tháng-3 tháng, 1 tháng-6 tháng, và 3 tháng-6 
tháng khác biệt mức độ đau không có ý nghĩa 
thống kê (p>0,05/10). 
Tỉ lệ BN hết đau hoàn toàn đến cuối thời 
điểm theo dõi là 88,2%. 
Bảng 2: Mức độ chảy nước mắt trước và sau phẫu thuật 
Chảy nước mắt Độ 0 Độ 1 Độ 2 Độ 3 Độ 4 Độ 5 
Trước mổ 0 0 0 20 (58,8) 12 (35,3) 2 (5,9) 
Sau mổ 6 tháng 26 (76,5) 5 (14,7) 2 (5,9) 1 (2,9) 0 0 
Mức độ chảy nước mắt (theo phân loại 
Munk) ở thời điểm 6 tháng sau mổ giảm đáng kể 
so với trước khi điều trị. Kiểm định Wilcoxon 
cho thấy sự giảm chảy nước mắt này có ý nghĩa 
thống kê với p < 0,001. Sau điều trị, tình trạng 
giảm chảy nước mắt được xem là hiệu quả khi 
mức độ chảy nước mắt về độ 0-1. Như vậy tỉ lệ 
bệnh nhân giảm chảy nước mắt hiệu quả của 
nghiên cứu sau 6 tháng phẫu thuật là 91,2% 
(31/34 trường hợp). (bảng 2). 
Toàn bộ (100%) các trường hợp trong nghiên 
cứu đều có biểu mô mọc lên trên màng ối. Thời 
gian trung bình để lành biểu mô giác mạc hoàn 
toàn sau phẫu thuật của nghiên cứu là 6,91 ± 1,8 
ngày. Trong đó, có 31/34 BN lành biểu mô hoàn 
toàn trong vòng 1 tuần đầu sau phẫu thuật 
(91,2%); 3 mắt biểu mô hóa giác mạc hoàn toàn 
trong tuần thứ 2 (8,8%). 
Ở thời điểm 6 tháng sau phẫu thuật, tình 
trạng màng ối của các BN trong nghiên cứu như 
sau: 19 trường hợp (55,9%) tan một phần, tan 
hoàn toàn trong 10 trường hợp (29,4%), 5 trường 
hợp màng ối còn nguyên vẹn (14,7%). 
Hình 3: Tình trạng bọng giác mạc trước và sau phẫu thuật 
Trong 6 tháng theo dõi hậu phẫu, tình trạng 
giác mạc không bọng luôn chiếm tỉ lệ cao nhất. 
Không có trường hợp nào xuất hiện bọng (+++) ở 
các thời điểm theo dõi sau phẫu thuật. Tất cả các 
trường hợp xuất hiện bọng sau PT đều có mức 
độ nhỏ hơn so với mức độ bọng thời điểm trước 
PT. Kiểm định Friedman cho thấy, sự giảm mức 
độ bọng qua các thời điểm theo dõi có ý nghĩa 
thống kê với p < 0,001. Phân tích hậu kiểm 
Bonferroni cho kết quả, sự khác biệt có ý nghĩa ở 
các cặp thời điểm trước mổ so với từng thời 
điểm sau mổ (p<0,001). Tuy nhiên tình trạng 
bọng khác biệt không có ý nghĩa giữa các cặp 
thời điểm sau mổ như: sau mổ 1 tuần-1 tháng, 1 
tuần-3 tháng, 1tuần-6 tháng, 1 tháng-3 tháng, 1 
tháng-6 tháng, 3 tháng-6 tháng, với giá trị p lần 
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ bản Tập 21 * Số 3 * 2017 Nghiên cứu Y học
Hội Nghị Khoa Học Kỹ Thuật Trường Đại Học Y Khoa Phạm Ngọc Thạch năm 2017 157
lượt là 0,083, 0,053, 0,015, 0,157, 0,053, 0,405. (p > 0,05/10). 
Hình 4: Biểu đồ phân tán thị lực trước mổ và sau mổ 6 tháng 
Hình 5: Nhãn áp trung bình trước và sau PT 6 tháng 
Thị lực sau mổ 6 tháng phần lớn giữ nguyên 
sau phẫu thuật (23/34 trường hợp (67,7%)), 6/34 
trường hợp (17,6%) giảm nhẹ, 5/34 trường hợp 
(14,7%) tăng nhẹ so với trước mổ. (hình 4). 
Nhãn áp trước và sau phẫu thuật thay đổi 
không có ý nghĩa thống kê với p=0,072. (hình 5). 
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ bản Tập 21 * Số 3 * 2017
Hội Nghị Khoa Học Kỹ Thuật Trường Đại Học Y Khoa Phạm Ngọc Thạch năm 2017 158
Độ an toàn của phương pháp 
Hình 6: Biểu đồ Kaplan Meier về tỉ lệ tái phát bọng tích lũy theo thời gian. 
Do biểu mô lỏng lẻo đã được lột bỏ trong lúc 
mổ nên ở thời điểm ngay sau PT, không trường 
hợp nào còn tồn tại bọng biểu mô giác mạc. 
Theo thời gian, tỉ lệ tái phát bọng tăng dần, 
với thời gian giác mạc không có bọng trung 
bình là 20,147 ± 1,277 tuần (theo phương pháp 
Kaplan Meier). 
Ở thời điểm 12 tuần (3 tháng) sau phẫu 
thuật, tỉ lệ giác mạc có bọng tái phát là 17,6% 
(6/34 trường hợp). Đến thời điểm 24 tuần (6 
tháng), có 9/34 trường hợp tái phát bọng (26,5%), 
trong đó chỉ 4 bệnh nhân than phiền có triệu 
chứng đau nhẹ. 
Bảng 3: Các biến chứng trong và sau phẫu thuật 
Biến chứng 
phẫu thuật 
Số lượng 
(N=34) 
Tỉ lệ (%) 
Thủng GM 0 0 
Viêm GM 0 0 
Phản ứng chi 0 0 
Không biến chứng nào liên quan đến phẫu 
thuật như thủng giác mạc, viêm giác mạc, phản 
ứng chỉ,.. được ghi nhận trong suốt quá trình 
theo dõi. 
BÀN LUẬN 
Đặc điểm bệnh nhân bệnh giác mạc bọng 
tại BV Mắt TPHCM 
Là bệnh đặc trưng bởi tình trạng phù nhu 
mô, bọng biểu mô/dưới biểu mô giác mạc, gây ra 
bởi việc mất bù hay tổn hại chức năng nội mô 
dai dẳng. Trường hợp bệnh tiến triển, nhu mô 
giác mạc có thể dày hơn 650 µm, có thể xuất hiện 
sợi hóa dưới biểu mô, tân mạch giác mạc, 
Bệnh giác mạc bọng có biểu hiện giảm thị lực 
do mất tính trong suốt giác mạc, đi kèm cảm giác 
đau, cộm xốn, chảy nước mắt do sự hình thành 
và vỡ bọng nước. 
Bệnh nhân giác mạc bọng dù có tiên lượng 
thị lực tốt hay không, khi có triệu chứng, đều 
gây ảnh hưởng hạn chế sinh hoạt hằng ngày vì 
cảm giác đau, sợ ánh sáng, dù thị lực mắt còn lại 
vẫn còn tốt. Khi bệnh tiến triển, những đợt khó 
chịu sẽ diễn ra thường xuyên hơn. 
Có nhiều phương pháp điều trị bệnh từ sử 
dụng chất bôi trơn, nước muối ưu trương, kính 
áp tròng, đến phương pháp phẫu thuật như 
châm nhu mô, ghép màng ối, cắt lớp giác mạc 
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ bản Tập 21 * Số 3 * 2017 Nghiên cứu Y học
Hội Nghị Khoa Học Kỹ Thuật Trường Đại Học Y Khoa Phạm Ngọc Thạch năm 2017 159
(PTK), Tất cả điều trị trên đều nhằm mục đích 
làm giảm đau cho bệnh nhân trong lúc chờ đợi 
ghép giác mạc - là phương pháp điều trị triệt để 
nhất. Bệnh giác mạc bọng là một nguyên nhân 
chính cho phẫu thuật ghép giác mạc ở nhiều 
vùng, nhiều quốc gia trên thế giới(12). 
Tuổi trung bình, tỉ số nam: nữ trong nghiên 
cứu của chúng tôi khá tương đồng với nghiên 
cứu của tác giả Paris(14) và Pires(15), Kasetauwan(9). 
Từ đó, có thể cho thấy không có sự khác biệt về 
giới tính trong bệnh lý này, cũng như bệnh giác 
mạc bọng thường dễ biểu hiện hơn ở những 
bệnh nhân lớn tuổi. 
Trong nghiên cứu của chúng tôi, số bệnh 
nhân đến từ tỉnh nhiều hơn số bệnh nhân đến từ 
TP.HCM có lẽ do, các bệnh nhân ở TP có ít nguy 
cơ mắc bệnh giác mạc bọng hơn, đặc biệt là nguy 
cơ mắc bệnh do tổn thương tế bào nội mô sau 
phẫu thuật. 
Các nghiên cứu về bệnh lý giác mạc bọng 
trên thế giới(6,9,15) cho kết quả tương đồng với 
nghiên cứu của chúng tôi về nguyên nhân 
thường gặp nhất gây ra bệnh lý giác mạc bọng 
chính là các phẫu thuật TTT có đặt kính nội 
nhãn. Từ đó, chúng tôi đưa ra khuyến cáo, tuy 
phẫu thuật đục TTT đã ngày một trở thành loại 
hình phẫu thuật phổ biến, được ứng dụng rộng 
rãi nhưng những biến chứng của phẫu thuật này 
(đặc biệt trong những trường hợp PT phức tạp) 
lại đem đến hậu quả vô cùng nặng nề. Vì vậy, 
việc không ngừng trau dồi, cập nhật những 
phương pháp và kỹ thuật tiên tiến nhất là điều 
hết sức cần thiết, nhằm đem lại kết quả tốt nhất 
cho người bệnh. 
Hiệu quả điều trị của phương pháp 
Năm 2003, cuộc họp lần 2 của tổ chức “Sáng 
kiến trong phương pháp, cách đo, và đánh giá 
cảm giác đau trong thử nghiệm lâm sàng” – 
IMMPACT (Initiative on Methods, 
Measurement, and Pain Assessment in Clinical 
Trials) của Hoa Kỳ đã đồng thuận đưa ra 
khuyến cáo chung cho việc đánh giá hiệu quả 
điều trị đau mạn tính trên lâm sàng là sử dụng 
thang đo NRS, và VRS(3). 
Theo nghiên cứu của chúng tôi, kết quả từ 
2 thang đo đều cho thấy sau phẫu thuật, triệu 
chứng đau của bệnh nhân giảm đáng kể sau 
thời gian 1 tuần, tiếp tục giảm mạnh đến thời 
điểm 1 tháng, và từ thời điểm này trở đi trở 
nên tương đối ổn định (do gần như đã hết đau 
từ thời điểm 1 tháng). Kết quả này khá tương 
đồng với nghiên cứu của tác giả Gomes(5). 
Trong bệnh giác mạc bọng, cơ chế chủ đạo gây 
ra đau nhức là do sự phơi bày những đầu tận 
thần kinh giác mạc khi bọng vỡ. Ở phẫu thuật 
này, biểu mô giác mạc được lột bỏ, và kỹ thuật 
dùng kim châm vào nhu mô sẽ gây cảm giác 
đau sau phẫu thuật. Tuy nhiên, lớp màng ối 
được ghép vào sau đó sẽ phủ bên trên giúp 
che chắn các đầu tận thần kinh giúp giảm đau 
phần nào cho bệnh nhân ngay sau mổ. Trong 
quá trình ghép, chúng tôi bao phủ màng ối lên 
nhu mô giác mạc nhiều nhất có thể, trừ vùng 
rìa. Sau đó tiến hành khâu giữ bờ màng ối vào 
lớp nhu mô giác mạc để cố định màng ối (đặc 
biệt trước động tác chớp mắt của bệnh nhân), 
đồng thời giúp biểu mô giác mạc mọc lên trên 
chứ không phải bên dưới màng ối. Quá trình 
châm nhu mô sẽ làm rạn màng Bowman, tăng 
những chất cấu tạo màng đáy, giúp lớp màng 
ối được ghép bám chắc hơn vào nhu mô lân 
cận đặc biệt tại vị trí vết châm. Trong khi đó, 
màng ối sẽ đóng vai trò một màng đáy vững 
chắc tạo môi trường thuận lợi thúc đẩy tế bào 
biểu mô di trú, và quan trọng hơn, cung cấp 
những chất kết dính giúp biểu mô bám chặt 
hơn vào màng đáy và nhu mô bên dưới, giảm 
sự hình thành bọng giác mạc qua đó làm giảm 
triệu chứng đau. Trong thời gian từ một tuần 
đến một tháng sau phẫu thuật, tình trạng bọng 
giác mạc được giải quyết, tất cả các giác mạc 
trong nghiên cứu đã được tái biểu mô hóa 
hoàn toàn dẫn đến cảm giác đau giảm đáng 
kể. Từ thời điểm một tháng trở đi, mức độ đau 
giảm không đáng kể do cảm giác đau hầu như 
không còn. Cũng trong thời gian này, quá 
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ bản Tập 21 * Số 3 * 2017
Hội Nghị Khoa Học Kỹ Thuật Trường Đại Học Y Khoa Phạm Ngọc Thạch năm 2017 160
trình hình thành sẹo, tạo chất nền ngoại bào 
mới từ giác mạc bào và tế bào đáy biểu mô 
dần đi vào ổn định, tăng sự kết dính biểu mô 
vào màng đáy và nhu mô bên dưới, giảm sự 
hình thành bọng. Ngoài ra quá trình hình 
thành sẹo sau phẫu thuật cũng phần nào giúp 
che phủ đầu tận thần kinh, giúp giảm cảm 
giác đau ngay cả khi bọng vỡ, nhờ vậy giúp 
duy trì tình trạng không triệu chứng sau phẫu 
thuật(6,13). 
Theo y văn, thời gian tái biểu mô hóa hoàn 
toàn của một giác mạc khỏe mạnh sau khi được 
lột toàn bộ lớp biểu mô trung bình là 3-4 ngày, 
và thường không kéo dài quá 01 tuần. Tuy 
nhiên, bệnh lý giác mạc bọng gây ra những thay 
đổi về mặt mô học, thay đổi cấu tạo màng đáy, 
chất nền ngoại bào, chất kết dính vì vậy làm tế 
bào biểu mô gắn kết lỏng lẻo với nhau, với màng 
đáy và nhu mô bên dưới, từ đó có thể dẫn đến 
sự chậm lành biểu mô giác mạc(10). 
Các nghiên cứu tìm hiểu về số phận của 
màng ối sau khi ghép sử dụng phương pháp hóa 
mô miễn dịch, kết hợp với các thiết bị hiện đại 
cho những hình ảnh có độ phân giải cao đều cho 
rằng, màng ối sau khi ghép, sẽ biến đổi dần về 
mặt cấu trúc, hòa tan, hợp thành một thể thống 
nhất với giác mạc người tại vị trí ghép(6,13). Kết 
quả của chúng tôi khá đồng thuận khi đối chiếu 
với nghiên cứu của tác giả Sharadini Vyas(18), cho 
thấy 100% màng ối sau ghép hợp nhất vào mô 
giác mạc. Tuy nhiên, nghiên cứu của Sharadini 
cho kết quả tình trạng màng ối hòa tan hoàn toàn 
trong mô giác mạc chiếm tỉ lệ cao nhất. Trong 
khi đó, nghiên cứu của chúng tôi nhận thấy tình 
trạng này có tỉ lệ không cao bằng tình trạng 
màng ối hòa tan một phần. Điều này có thể lý 
giải do thời gian theo dõi trung bình của họ dài 
hơn của chúng tôi, và với thời gian, màng ối sẽ 
tiếp tục hòa tan, hợp nhất vào mô giác mạc. 
Phương pháp kết hợp châm nhu mô và ghép 
màng ối này có hiệu quả rõ rệt trong việc giảm 
sự hình thành bọng biểu mô giác mạc. Ở thời 
điểm ngay sau mổ là thời điểm tình trạng bọng 
được cải thiện tốt nhất, lúc này giác mạc gần như 
không có bọng, do biểu mô lỏng lẻo đã được lột 
bỏ trong quá trình phẫu thuật. Khi quá trình tái 
biểu mô hóa giác mạc hoàn thành, một biểu mô 
mới được tạo nên. Nhờ hiệu quả của việc châm 
nhu mô và ghép màng ối, lớp biểu mô này sẽ 
gắn chặt hơn vào cấu trúc màng ối và nhu mô 
bên dưới, từ đó giúp hạn chế sự hình thành bọng 
giác mạc. Kết quả này tương đồng khi đối chiếu 
với các nghiên cứu sử dụng cùng phương pháp 
điều trị như nghiên cứu của các tác giả 
Gregory(6), Sonmez(16) và Sharadini(18). 
Trong nghiên cứu này, phần lớn bệnh nhân 
có thị lực không đổi sau phẫu thuật, tương đồng 
với nghiên cứu của tác giả Gregory(6). Điều này 
có thể được lý giải do, tuy phẫu thuật giúp cải 
thiện tình trạng phù giác mạc, giảm bọng biểu 
mô có thể làm tăng thị lực, nhưng đồng thời 
cũng tạo ra lớp sẹo dưới biểu mô do tác dụng 
của việc châm nhu mô và sự hiện diện của màng 
ối cũng là nguyên nhân gây giảm thị lực. 
Độ an toàn của phương pháp 
Mục đích chính của phương pháp điều trị 
này là làm giảm triệu chứng khó chịu của bệnh 
thông qua cơ chế củng cố, làm mạnh thêm lớp 
biểu mô bề mặt, giúp biểu mô bám chắc hơn vào 
màng đáy và nhu mô bên dưới qua đó giảm sự 
hình thành bọng. Tuy nhiên, phương pháp châm 
nhu mô và ghép màng ối không giải quyết được 
nguồn gốc gây ra bệnh từ sự mất bù của lớp nội 
mô giác mạc. Do vậy, sau phẫu thuật cơ chế gây 
bệnh vẫn sẽ tiếp diễn, dẫn đến việc tái phát triệu 
chứng cơ năng và lâm sàng là điều khó tránh 
khỏi. Biểu đồ 6 cho thấy tỉ lệ tái phát bọng tăng 
dần theo thời gian, nhưng diễn tiến chậm và tỉ lệ 
tái phát bọng tương đối thấp. Kết quả của chúng 
tôi khá tương đồng với Gregory(6), tuy nhiên thời 
gian theo dõi trong nghiên cứu của chúng tôi là 6 
tháng, trong khi nghiên cứu của Gregory là 16,7 
tháng. Điều này có thể do sự khác biệt về cỡ mẫu 
của 2 nghiên cứu. Mặc dù vậy, tỉ lệ này thấp hơn 
nhiều so với nghiên cứu của tác giả Sridhar(17) sử 
dụng phương pháp châm nhu mô đơn thuần. 
Qua đó phần nào cho thấy hiệu quả của tác động 
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ bản Tập 21 * Số 3 * 2017 Nghiên cứu Y học
Hội Nghị Khoa Học Kỹ Thuật Trường Đại Học Y Khoa Phạm Ngọc Thạch năm 2017 161
hiệp đồng khi kết hợp 2 phương pháp châm nhu 
mô và ghép màng ối. 
Trong nghiên cứu của chúng tôi, có 9 trường 
hợp tái phát bọng nhưng chỉ có 4 trường hợp 
than phiền triệu chứng đau nhẹ. Kết quả này 
khá tương đồng với các tác giả Gregory(6) và 
Sridhar(17) khi có nhiều trường hợp có tái phát 
bọng biểu mô nhưng không ghi nhận triệu 
chứng khó chịu. Các tác giả cho rằng, có lẽ do tác 
dụng của quá trình xơ hóa dưới biểu mô tạo sẹo 
sau châm nhu mô, cũng như sự hòa nhập màng 
ối vào mô giác mạc, đóng vai trò như một lớp 
bảo vệ, che phủ đầu tận thần kinh, gây giảm cảm 
giác đau ngay cả khi bọng vỡ. 
Tương tự như trong báo cáo của tác giả 
Gregory(6), Sonmez(16), chúng tôi cũng không ghi 
nhận trường hợp nào có biến chứng liên quan 
đến phẫu thuật và quá trình theo dõi hậu phẫu 
như: thủng giác mạc, nhiễm trùng, phản ứng 
chỉ,Qua đó có thể thấy đây là phẫu thuật 
tương đối đơn giản, chỉ tác động từ bề mặt đến 
nhu mô trước giác mạc, không xâm lấn vào nội 
nhãn. Do đó, hầu như không có biến chứng nào 
gây ra bởi phẫu thuật. 
KẾT LUẬN 
Châm nhu mô trước kết hợp với ghép màng 
ối là một phương pháp điều trị hiệu quả và an 
toàn, giúp giảm đau nhức, giảm viêm, kích thích 
tiến trình lành biểu mô, giảm sự hình thành 
bọng cho những bệnh nhân bệnh giác mạc bọng 
đau nhức không đáp ứng với các phương pháp 
điều trị bảo tồn, chưa có điều kiện được ghép 
giác mạc. 
Cần thực hiện thêm nhiều nghiên cứu mới 
để làm sáng tỏ những yếu tố nguy cơ có khả 
năng liên quan đến tình trạng tái phát bệnh sau 
phẫu thuật, cũng như các nghiên cứu lâm sàng 
ngẫu nhiên có đối chứng để kết quả có độ tin cậy 
và giá trị cao. 
TÀI LIỆU THAM KHẢO 
1. Alino AM. (1998). “Conjunctival flaps”, Ophthalmology; 
105:1120-3. 
2. Aquavella JV (1984). Corneal edema. Corneal disorders: clinical 
diagnoses and management. In: Leibowitz HM, ed WB 
Saunders: 164-82. 
3. Dworkin RH (2004). International Association for the Study of 
Pain. Core outcome measures for chronic pain clinical trials: 
IMMPACT recommendations. Elsevier B.V, 10:1016. 
4. Gasset AR, Kaufman HE. (1971). “Bandage lenses in the 
treatment of bullous keratopathy”, Am J Ophthalmol; 72(2):376-
80. 
5. Gomes JA (2001). “Anterior stromal puncture in the treatment 
of bullous keratopathy: six-month follow-up”, Cornea; 20:570-2. 
6. Gregory ME. (2011). “Combined amniotic membrane 
transplant and anterior stromal puncture in painful bullous 
keratopathy: clinical outcome and confocal microscopy”, Can J 
Ophthalmol; 46: 169-74. 
7. Hsu JKW (1993). "Anterior stromal puncture - 
immunohistochemical studies in human corneas", Archives of 
ophthalmology, 111(8): 1057-63. 
8. Kang PC. (2005). “Trends in the indications for penetrating 
keratoplasty, 1980-2001”, Cornea; 24(7):801-3. 
9. Kasetsuwan N (2015). “Recurrent rates and risk factors 
associated with recurrent painful bullous keratopathy after 
primary phototherapeutic keratectomy”. Clinical 
Ophthalmology, 9: 1815-1819. 
10. Ljubimov AV. (1996). “Extracellular matrix alterations in 
human corneas with bullous keratopathy”. Invest Ophthalmol 
Vis Sci; 37:997-1007. 
11. Luxenberg MN, Green K. (1971). “Reduction of corneal edema 
with topical hypertonic agents”, Am J Ophthalmol; 71(4):847-53. 
12. Matthaei M (2016). “Changing Indications in Penetrating 
Keratoplasty: A Systematic Review of 34 Years of Global 
Reporting”. Transplantation. 
13. Nubile M (2011). “In vivo analysis of stromal integration of 
multilayer amniotic membrane transplantation in corneal 
ulcers”. Am J Ophthalmol; 151:809-22. 
14. Paris Fdos S (2013). “Amniotic membrane transplantation 
versus anterior stromal puncture in bullous keratopathy: a 
comparative study”. Br J Ophthalmol; 97(8):980–984. 
15. Pires RTF (1999). “Amniotic membrane transplantation for 
symptomatic bullous keratopathy”. Arch Ophthalmol; 
117(10):1291-7. 
16. Sonmez B. (2007). “Amniotic membrane transplantation with 
anterior stromal micropuncture for treatment of painful bullous 
keratopathy in eyes with poor visual potential”, Cornea; 
26(2):227-9. 
17. Sridhar MS, Vemuganti GK, et al. 
(2001).”Anteriorstromalpuncture in bullous keratopathy: a 
clinicopathologic study”, Cornea; 20: 573-9. 
18. Vyas S (2009). “Combined phototherapeutic keratectomy and 
amniotic membrane grafts for symptomatic bullous 
keratopathy”. Cornea; 28(9):1028-31. 
Ngày nhận bài báo: 29/12/2016 
Ngày phản biện nhận xét bài báo: 14/01/2017 
Ngày bài báo được đăng: 20/04/2017