Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ bản Tập 22 * Số 1 * 2018 Nghiên cứu Y học
Chuyên Đề Mắt – Tai Mũi Họng 21
ĐÁNH GIÁ ĐỘ CHÍNH XÁC TRONG DỰ ĐOÁN CÔNG SUẤT KÍNH 
NỘI NHÃN CỦA HAI THIẾT BỊ ĐO SINH TRẮC BẰNG QUANG HỌC 
Nguyễn Thị Thủy Tiên*, TrầnAnh Tuấn** 
TÓM TẮT 
Mục tiêu: Đánh giá độ chính xác trong dự đoán công suất kính nội nhãn của thiết bị đo sinh trắc sử dụng 
phương pháp đo phản xạ quang học kết hợp sóng ngắn (máy Lenstar LS900) và thiết bị đo sinh trắc sử dụng 
phương pháp đo giao thoa kết hợp từng phần (máy IOL Master). 
Đối tượng - Phương pháp nghiên cứu: Nghiên cứu tiến cứu, trên 132 mắt của 94 bệnh nhân, được chia 
thành hai nhóm. Các thông số sinh trắc (chiều dài trục nhãn cầu, công suất giác mạc, độ sâu tiền phòng) được ghi 
nhận bằng cả máy Lenstar LS900 và máy IOL Master. Công suất kính nội nhãn được tính theo 5 công thức SRK 
II, SRK/T, Hoffer Q, Holladay 1, Haigis. Tất cả bệnh nhân được phẫu thuật nhũ tương hóa thủy tinh thể bởi 
cùng 1 phẫu thuật viên. Sau mổ 3 tháng, sai biệt đại số và sai biệt tuyệt đối trung bình của khúc xạ dự đoán được 
tính và so sánh giữa hai thiết bị đo sinh trắc sử dụng hai phương pháp khác nhau. 
Kết quả: Mỗi nhóm có 66 mắt. Chiều dài trục nhãn cầu đo bởi hai máy tương tự nhau (p > 0,05). Công 
suất giác mạc và độ sâu tiền phòng đo bởi máy Lenstardẹt hơn và sâu hơn so với máy IOL Master, khác biệt 
có ý nghĩa thống kê (p > 0,05). Sai biệt đại số và tuyệt đối trung bình của khúc xạ dự đoán ở nhóm Lenstar 
lần lượt là -0,14 ± 0,34D; 0,29 ± 0,22D; ở nhóm IOL Master lần lượt là -0,10 ± 0,41D; 0,31 ± 0,27D.Không 
có sự khác biệt có ý nghĩa thống kê về hai sai biệt này giữa hai nhóm. Tỷ lệ sai biệt tuyệt đối < 0,5D chiếm 
86,3% ở nhóm Lenstar và 75,8% ở nhóm IOL Master. Các công thức tính công suất kính nội nhãn không 
khác biệt về sai biệt khúc xạ dự đoán. 
Kết luận: Thiết bị đo sinh trắc sử dụng phương pháp đo phản xạ quang học kết hợp sóng ngắn (máy Lenstar 
LS900) và thiết bị đo sinh trắc sử dụng phương pháp đo giao thoa kết hợp từng phần (máy IOL Master) có sự 
tương hợp tốt trong đo lường các thông số sinh trắc nhãn cầu và có độ chính xác cao trong dự đoán công suất 
kính nội nhãn. 
Từ khóa: đo sinh trắc nhãn cầu, công suất kính nội nhãn, sai biệt khúc xạ dự đoán 
ABSTRACT 
ACCURACY OF INTRAOCULAR LENS POWER PREDICTABILITY USING TWO 
OPTICAL BIOMETRIC DEVICES 
Nguyen Thi Thuy Tien, Tran Anh Tuan 
* Y Hoc TP. Ho Chi Minh * Supplement Vol. 22 - No 1- 2018: 21- 28 
Objectives: To evaluate the accuracy of intraocular lens power predictability using an optical low coherence 
reflectometry biometer (Lenstar LS900) and a partial coherence interferometry biometer (IOL Master). 
Methods: A prospective study of 132 eyes from 94 patients that were divided into two groups. Biometric 
measurements (axial length, keratometry, anterior chamber depth) were obtained with Lenstar LS900 and IOL 
Master. Intraocular lens power was calculated by five various IOL formulas (SRK II, SRK / T, Hoffer Q, Holladay 
* Đại Học Y Dược TP. Hồ Chí Minh 
** BM. Mắt Đại Học Y Dược TP. Hồ Chí Minh - BM Mắt Đại học Y khoa Phạm Ngọc Thạch 
Tác giả liên lạc: BS. Nguyễn Thị Thủy Tiên ĐT: 01203102528 Email: 
[email protected] 
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ bản Tập 22 * Số 1 * 2018
Chuyên Đề Mắt – Tai Mũi Họng 22
1, Haigis). All patients underwent phacoemulsification surgery by only one surgeon. After 3 months, the mean 
prediction error and the mean absolute error were calculated and the two different biometry methods were 
compared. 
Results: Each group had 66 eyes. The axial length readings were similar (p > 0.05). The keratometry 
readings and the anterior chamber depth measurements obtained by Lenstar were slightly flatter and deeper than 
those obtained by IOL Master, significantly different (p < 0.05). The mean prediction error and the mean absolute 
error were -0.14 ± 0.34D; 0.29 ± 0.22D, respectively in the Lenstar group; were-0.10 ± 0.41D; 0.31 ± 0.27D, 
respectively in the IOL Master group. The mean differences for these errors were not statistically significant 
between two groups. The absolute errors<0.5D were 86.3% in the Lenstar group and 75.8% in the IOL Master 
group. There were not significantly different between five various IOL formulas about the prediction errors. 
Conclusions: The optical low coherence reflectometry biometer (Lenstar LS900) and the partial coherence 
interferometry biometer (IOL Master) agreed well in biometric measurements and had high accuracy of 
intraocular lens power predictability. 
Keywords: biometry, IOL power, refractive prediction error 
ĐẶT VẤN ĐỀ 
Tính toán chính xác công suất kính nội nhãn 
là một bước quan trọng giúp đạt được kết quả 
khúc xạ mong muốn sau phẫu thuật điều trị đục 
thủy tinh thể(11). Việc đo lường chính xác các 
thông số sinh trắc trước phẫu thuật, chọn lựa 
công thức tính công suất kính nội nhãn thích 
hợp giúp tăng khả năng dự đoán chính xác công 
suất kính nội nhãn(15).Năm 1999, thiết bị đo sinh 
trắc bằng quang học IOL Master (Carl Zeiss 
Meditec AG, Jena, Đức) ra đời. Thiết bị này sử 
dụng phương pháp đo giao thoa kết hợp từng 
phần để đo chiều dài trục nhãn cầu kết hợp đo 
công suất giác mạc tự động và độ sâu tiền 
phòng. Đây là một thiết bị đo sinh trắc không 
tiếp xúc, nhanh, có độ chính xác trong dự đoán 
công suất kính nội nhãn tương đương(8,13) hay tốt 
hơn(1,9) so với siêu âm. 
Gần đây, một thiết bị đo sinh trắc bằng 
quang học mới ra đời là máy Lenstar (Haag-
Streit AG, Koeniz, Thụy Sĩ). Thiết bị này sử dụng 
phương pháp đo phản xạ quang học kết hợp 
sóng ngắn, không những đo được chiều dài trục 
nhãn cầu, độ dày trung tâm giác mạc, độ sâu tiền 
phòng mà còn đo được độ dày thủy tinh thể và 
độ dày võng mạc (4). Các nghiên cứu trên thế giới 
cho thấy hai thiết bị đo sinh trắc sử dụng hai 
phương pháp khác nhau này cho kết quả đo 
lường các thông số sinh trắc(2,10,16) vàtính công 
suất kính nội nhãn(7,12,15) tương đương nhau. 
Tại Việt Nam, máy IOL Master đã được ứng 
dụng nhiều trên lâm sàng.Trong khi đó, máy 
Lenstar mới được sử dụng gần đây. Nghiên cứu 
này được thực hiện nhằm đánh giá độ chính xác 
trong dự đoán công suất kính nội nhãn của hai 
thiết bị đo sinh trắc bằng quang học sử dụng hai 
phương khác nhau, từ đó, cung cấp thêm cho các 
bác sĩ lâm sàng một phương tiện hữu ích để 
chuẩn bị tiền phẫu tốt cho bệnh nhân đục thủy 
tinh thể. 
ĐỐI TƯỢNG - PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU 
Nghiên cứu tiến cứu, mô tả có phân tích, 
được thực hiện trên 132 mắt của 94 bệnh nhân 
đến khám tại khoa Kỹ Thuật Cao bệnh viện Mắt 
thành phố Hồ Chí Minh, thỏa các tiêu chuẩn: 
được chẩn đoán đục thủy tinh thể, đo được các 
thông số sinh trắc để tính công suất kính nội 
nhãn bằng cả hai máy IOL Master và máy 
Lenstar, đồng ý tham gia nghiên cứu. Tiêu chuẩn 
loại trừ: loạn thị giác mạc >1D, chiều dài trục 
nhãn cầu 28mm, có tiền căn phẫu 
thuật trên giác mạc hay nội nhãn, tiền căn chấn 
thương, các bệnh lý về mắt khác như glôcôm, 
tăng nhãn áp, bệnh lý giác mạc, màng bồ đào, 
dịch kính, võng mạc, thần kinh thị với tiên lượng 
thị lực kém sau mổ, có biến chứng trong và sau 
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ bản Tập 22 * Số 1 * 2018 Nghiên cứu Y học
Chuyên Đề Mắt – Tai Mũi Họng 23
phẫu thuật nhũ tương hóa thủy tinh thể. 
Bệnh nhân được đo thị lực không chỉnh kính 
và chỉnh kính bằng bảng thị lực Snellen, khám 
mắt tổng quát bằng kính sinh hiển vi, phân loại 
độ đục thủy tinh thể theo LOCS III, soi kiểm tra 
đáy mắt. Sau đó, bệnh nhân được đo bằng cả hai 
máy IOL Master và máy Lenstar, ghi nhận các 
thông số sinh trắc gồm: chiều dài trục nhãn cầu, 
công suất giác mạc, độ sâu tiền phòng; tính công 
suất kính nội nhãn theo các công thức SRK II, 
SRK/T, Hoffer Q, Holladay 1, Haigis dựa vào các 
thông số sinh trắc đo được và hằng số A của 
kính nội nhãn đã được chuẩn hóa theo từng 
công thức. Bệnh nhân được phân hai nhóm: 
nhóm đặt kính nội nhãn có công suất được đo 
bằng máy IOL Master (nhóm IOL Master) và 
nhóm đặt kính nội nhãn có công suất được đo 
bằng máy Lenstar (nhóm Lenstar). Công suất 
kính nội nhãn được chọn tùy vào chiều dài trục 
nhãn cầu: trục nhãn cầu < 22 mm chọn theo công 
thức Hoffer Q, trục nhãn cầu > 22mm chọn theo 
thức SRK/T. Khúc xạ mục tiêu sau mổ là chính 
thị. Mỗi kết quả công suất kính nội nhãn sẽ đi 
cùng độ khúc xạ dự đoán sau phẫu thuật tính 
theo độ cầu tương đương. Tiến hành phẫu thuật 
nhũ tương hóa thủy tinh thể với đường rạch nhỏ 
giác mạc phía thái dương, đặt 1 trong 4 loại kính 
nội nhãn đơn tiêu (SAL302A, Aspira A, Hoya 
PY6, Overview) trong bao bởi một phẫu thuật 
viên. Theo dõi bệnh nhân 1 ngày, 1 tuần, 1 tháng, 
3 tháng sau mổ. Ghi nhận thị lực không chỉnh 
kính, thị lực chỉnh kính, độ khúc xạ tại thời điểm 
sau mổ 1 tháng và 3 tháng. 
Số liệu được nhập, xử lý và trình bày bằng 
phần mềm thống kê SPSS 20.0. Sự khác biệt có ý 
nghĩa thống kê khi p < 0,05. 
KẾT QUẢ 
Nghiên cứu được tiến hành từ tháng 
5/2016 đến tháng 07/2016, có 94 bệnh nhân với 
132 mắt được chia thành hai nhóm, với 66 mắt 
cho mỗi nhóm. Tuổi trung bình của bệnh nhân 
trong mẫu nghiên cứu là 63,19 ± 7,66 tuổi (42 
đến 79 tuổi). Bệnh nhân nữ chiếm 71,3%, nam 
chiếm 28,7%. 
Về đặc điểm dịch tễ (tuổi, giới) và lâm sàng 
(độ đục thủy tinh thể theo hệ thống phân loại 
đục thủy tinh thể III, thị lực logMAR không 
chỉnh kính và chỉnh kính trước mổ) ở hai nhóm 
không khác biệt có ý nghĩa thống kê (p > 0,05).Cả 
hai nhóm đều có độ đục màu sắc nhân và mờ 
đục nhân từ độ 3 đến độ 5, đục vỏ từ độ 2 đến độ 
4, không có đục dưới bao sau độ 4, độ 5. 
Về đặc điểm các thông số đo lường và tính 
công suất kính nội nhãnbởi hai máy được trình 
bày trong bảng 1. 
Bảng 1. Các chỉ số sinh trắc nhãn cầu và công suất kính nội nhãn được đo bởi hai máy 
Chỉ số (N=132) Máy Lenstar Máy IOL Master 
Khác biệt TB+ ĐLC 
(Lenstar - IOL Master) 
p 
CDTNC (mm) 23,08 ± 0,94 23,08 ± 0,93 0,00 ± 0,03 0,593** 
K1 (D) 44,26 ± 1,50 44,31 ± 1,48 -0,05 ± 0,16 0,001* 
K2 (D) 44,83 ± 1,52 44,89 ± 1,50 -0,06 ± 0,20 0,000* 
K (D) 44,55 ± 1,50 44,61 ± 1,48 -0,06 ± 0,15 0,000* 
ĐSTP (mm) 2,94 ± 0,33 2,91 ± 0,34 0,03 ± 0,09 0,000* 
CSKNN (D) 21,51 ± 2,38 21,46 ± 2,37 0,05 ± 0,18 0,000** 
* Kiểm định T-student, ** Kiểm định Wilcoxon 
Trong mẫu nghiên cứu, nhóm chiều dài trục 
nhãn cầu (CDTNC) trung bình (22-24,5 mm) 
chiếm tỷ lệ cao nhất 90,2%; chiều dài trục nhãn 
cầu ngắn (<22 mm) chiếm 7,5%; chiều dài trục 
nhãn cầu dài (>24,5 mm) chiếm ít nhất 2,3%. 
Không có sự khác biệt có ý nghĩa thống kê trong 
kết quả đo chiều dài trục nhãn cầu giữa hai máy 
(p>0,05). Máy Lenstar đo công suất giác mạc dẹt 
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ bản Tập 22 * Số 1 * 2018
Chuyên Đề Mắt – Tai Mũi Họng 24
hơn so với máy IOL Master ở cả K1, K2 và K 
trung bình, khác biệt có ý nghĩa thống kê 
(p<0,05). Độ sâu tiền phòng (ĐSTP) đo bởi máy 
Lenstar sâu hơn đo bởi máy IOL Master, khác 
biệt có ý nghĩa thống kê (p<0,05). Công suất kính 
nội nhãn tính bởi hai máy khác biệt có ý nghĩa 
thống kê, sai lệch trong khoảng ± 0,5D chiếm 
97,7%. 
Biểu đồ 1. Biểu đồ Bland-Altman cho thấy sự tương hợp tốt giữa máy Lenstar và máy IOL Master trong đo 
lường các chỉ số sinh trắc nhãn cầu. 
Về kết quả biểu hiện sau phẫu thuật, thị lực 
LogMar không chỉnh kính trung bình sau mổ 1 
tuần (p = 0,232), 1 tháng (p = 0,299) và 3 tháng (p 
= 0,221) khác biệt không có ý nghĩa thống kê giữa 
hai nhóm. Biểu đồ 2 cho thấy sự thay đổi độ 
khúc xạ dự kiến của bệnh nhân sau khi lấy thủy 
tinh thể (tương đương công suất kính nội nhãn 
cần đặt để đạt chính thị sau mổ) so với độ khúc 
xạ bệnh nhân thật sự cần để có thị lực tối ưu sau 
mổ (tương đương độ khúc xạ dự kiến cộng với 
độ cầu tương đương sau mổ). Có 3 trường hợp 
(1 trường hợp ở nhóm Lenstar và 2 trường hợp ở 
nhóm IOL Master) có độ khúc xạ dự kiến nhiều 
hơn 1D so với độ khúc xạ tối ưu, nghĩa là khiến 
cho khúc xạ sau mổ cận hơn 1D so với mong đợi. 
Tuy nhiên, các trường hợp còn lại sự khác biệt 
đều nằm trong khoảng ± 1D. 
Về kết quả khảo sát độ chính xác trong dự 
đoán công suất kính nội nhãn của hai máy được 
biểu hiện qua sai biệt đại số của khúc xạ dự đoán 
(giá trị đại số của độ cầu tương đương sau mổ 
trừ độ cầu tương đương dự đoán) và sai biệt 
tuyệt đối của khúc xạ dự đoán (trị tuyệt đối của 
sai biệt đại số). Sai biệt tuyệt đối càng nhỏ thì 
càng chính xác (Biểu đồ 2). 
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ bản Tập 22 * Số 1 * 2018 Nghiên cứu Y học
Chuyên Đề Mắt – Tai Mũi Họng 25
Biểu đồ 2. Biểu đồ phân tán độ khúc xạ dự kiến và độ 
khúc xạ tối ưu 
Sai biệt đại số và sai biệt tuyệt đối trung bình 
của khúc xạ dự đoán ở hai nhóm đều có trị số 
nhỏ, không có sự khác biệt có ý nghĩa thống kê 
(p > 0,05). Như vậy, có thể nói máy Lenstar và 
máy IOL Master đều có độ chính xác cao trong 
dự đoán công suất kính nội nhãn (Bảng 2). 
Sau mổ 3 tháng, tỷ lệ phần trăm tích lũy 
mắt có sai biệt tuyệt đối của khúc xạ dự đoán 
(tính theo công thức SRK/T hoặc Hoffer Q tùy 
theo trục nhãn cầu) đạt ≤ 0,5D; ≤ 1,0D lần lượt là 
86,3%; 98,4% ở nhóm Lenstar, 75,8%; 97% ở 
nhóm IOL Master. Cả hai nhóm đều có 100% 
sai biệt tuyệt đối ≤ 1,5D. 
Bảng 2. Sai biệt khúc xạ dự đoán ở hai nhóm sau mổ 
3 tháng 
Sai biệt khúc 
xạ (D) 
Nhóm Lenstar 
 (N=66) 
Nhóm IOL 
Master (N=66) p 
Đại số - 0,14 + 0,34 
(-1,21 đến 0,62) 
- 0,10 + 0,41 
(-1,28 đến 0,81) 
0,474* 
Tuyệt đối 
0,29 + 0,22 
(0,02 đến 1,21) 
0,31 + 0,27 
(0,01 đến 1,27) 
0,795** 
* Kiểm định T-student, ** Kiểm định Mann Whitney U 
Biểu đồ 3. Tỷ lệ sai biệt tuyệt đối ≤ 0,5D; ≤ 1,0D; ≤ 
1,5D sau mổ 3 tháng của hai nhóm 
Về kết quả khảo sát độ chính xác trong dự 
đoán công suất kính nội nhãn của từng công 
thức được trình bày trong bảng 3. 
Khi khảo sát sai biệt tuyệt đối giữa các công 
thức trong toàn bộ mẫu nghiên cứu tại thời 
điểm sau mổ 3 tháng, kiểm định phi tham số 
Friedman so sánh n số trung bình của mẫu phụ 
thuộc không tìm thấy sự khác biệt có ý nghĩa 
thống kê giữa các công thức, với p = 0,071. 
Bảng 3. Sai biệt tuyệt đối của khúc xạ dự đoán sau mổ 3 tháng giữa các công thức 
Công thức TB + ĐLC (D) Nhỏ nhất – Lớn nhất (D) Giá trị thứ 25% (D) Trung vị (D) Giá trị thứ 75% (D) 
SRK II 0,38 + 0,30 0,01 - 1,56 0,14 0,34 0,53 
SRK/T 0,30 + 0,25 0,01 - 1,28 0,10 0,25 0,41 
Holladay 1 0,30 + 0,23 0,01 - 1,28 0,11 0,27 0,45 
Hoffer Q 0,33 + 0,23 0,01 - 1,04 0,14 0,28 0,48 
Haigis 0,32 + 0,24 0,00 - 1,21 0,11 0,27 0,44 
Với nhóm chiều dài trục nhãn cầu ngắn (10 
mắt), sai biệt tuyệt đối trung bình của công 
thức Hoffer Q nhỏ nhất (0,33 + 0,20D), công 
thức SRK II lớn nhất (0,42 + 0,32D). Với nhóm 
chiều dài trục nhãn cầu trung bình (119 mắt), 
sai biệt tuyệt đối trung bình của công thức 
SRK/T (0,30 + 0,25 D) nhỏ nhất, công thức SRK 
II lớn nhất (0,37 + 0,29 D). Với nhóm chiều dài 
trục nhãn cầu dài (3 mắt), sai biệt tuyệt đối 
trung bình của công thức SRK/T nhỏ nhất (0,20 
+ 0,17 D), công thức SRK II lớn nhất (1,13 + 
0,30 D). Tuy nhiên không có sự khác biệt có ý 
nghĩa thống kê về sai biệt tuyệt đối trung bình 
giữa năm công thức ở cả 3 nhóm chiều dài trục 
nhãn cầu ngắn, trung bình, dài với p lần lượt 
là 0,658; 0,018; 0,076 (kiểm định phi tham số 
Friedman). 
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ bản Tập 22 * Số 1 * 2018
Chuyên Đề Mắt – Tai Mũi Họng 26
Biểu đồ 4. Sai biệt tuyệt đối của khúc xạ dự đoán sau mổ 3 tháng giữa các công thức theo phân nhóm chiều dài 
trục nhãn cầu 
BÀN LUẬN 
Chiều dài trục nhãn cầu của 132 mắt đo 
bởi hai máy không có sự khác biệt, tương 
đồng với Rabsilber(12) và Hui(6). Thiết bị đo sinh 
trắc theo nguyên lý đo giao thoa kết hợp từng 
phần (máy IOL Master) hay đo phản xạ quang 
học kết hợp sóng ngắn (máy Lenstar) đều dựa 
trên sự giao thoa ánh sáng để đo chiều dài trục 
nhãn cầu theo trục thị giác, tính khoảng cách 
từ đỉnh trước giác mạc tới lớp biểu mô sắc tố, 
và máy chỉ đo khi bệnh nhân đã định thị. Sự 
khác biệt công suất giác mạc tại kinh tuyến dẹt 
nhất, công suất giác mạc tại kinh tuyến dốc 
nhất, công suất giác mạc trung bình giữa hai 
máy cũng được ghi nhận trong nghiên cứu 
của Hui(6), Hoffer(3), Reiblat(14). Hoffer(3) báo cáo 
máy Lenstar có khả năng chính xác hơn máy 
IOL Master vì sử dụng nhiều điểm đo lường 
lặp lại. Tuy nhiên, sự khác biệt đo lường công 
suất giác mạc giữa hai máy trong nghiên cứu 
của chúng tôi rất nhỏ và không có ý nghĩa lâm 
sàng. Theo tác giả Huang(5)(2017), sai biệt 0,9 – 
1,4D trong tính toán công suất kính nội nhãn 
khi công suất giác mạc sai biệt 1,0D. Bên cạnh 
đó, Huang(5) phân tích tổng hợp 18 bài báo đo 
độ sâu tiền phòng của 1750 mắt đục thủy tinh 
thể và thủy tinh thể trong, cho kết quả không 
có sự khác biệt có ý nghĩa thống kê trong đo 
độ sâu tiền phòng giữa máy Lenstar và máy 
IOL Master. Tuy nhiên khi tác giả phân tích 
dưới nhóm chỉ với mắt đục thủy tinh thể, tìm 
thấy độ sâu tiền phòng đo bởi máy IOL Master 
hẹp hơn so với máy Lenstar có ý nghĩa thống 
kê, tương đồng với kết quả của chúng tôi. Dù 
vậy, tác giả cho rằng sự khác biệt này nhỏ và 
không có ý nghĩa lâm sàng. Sự khác biệt trong 
tính công suất kính nội nhãn trung bình giữa 
hai máy, không tương đồng với Rabsilber(12) và 
Hui(6) (sử dụng công thức SRK/T và Hoffer Q), 
có thể do sự khác biệt về công suất giác mạc 
trung bình trong nghiên cứu của chúng tôi 
nhiều hơn, dẫn đến sự khác biệt của công suất 
kính nội nhãn. Dù vậy, công suất kính nội 
nhãn sai lệch ± 0,5D giữa hai máy trong mẫu 
nghiên cứu chiếm 97,7%, tương đồng với kết 
quả của Rabsilber là 91%, Hui là 96,7%. 
Sai biệt đại số trung bình của khúc xạ dự 
đoán sau mổ 3 tháng ở hai nhóm đều cận nhẹ và 
không có sự khác biệt, tương đồng với Hoffer(3) 
khi so sánh sai biệt đại số của máy Lenstar và 
máy IOL Master sử dụng công thức Haigis. Sai 
biệt tuyệt đối trung bình của khúc xạ dự đoán ở 
nhóm Lenstar và nhóm IOL Master cũng không 
có sự khác biệt. Kết quả nghiên cứu cho thấy 
nhóm Lenstar có tỷ lệ phần trăm đạt ≤ 0,5D và ≤ 
1,0D cao hơn nhóm IOL Master, cả hai nhóm 
đều có 100% sai biệt tuyệt đối ≤ 1,5D. Tuy nhiên, 
không có sự khác biệt có ý nghĩa thống kê giữa 
hai nhóm về tỷ lệ phần trăm của sai biệt tuyệt 
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ bản Tập 22 * Số 1 * 2018 Nghiên cứu Y học
Chuyên Đề Mắt – Tai Mũi Họng 27
đối. Các nghiên cứu khác – so sánh giữa máy 
Lenstar và máy IOL Master (Hoffer(3)), máy 
Lenstar và siêu âm (Turhan(17)) hay máy IOL 
Master và siêu âm (Kiss(8)) – cho tỷ lệ phần trăm 
sai biệt tuyệt đối của khúc xạ dự đoán đạt ≤ 0,5D 
và ≤ 1,0D nhỏ hơn. Điều này có thể do tiêu chuẩn 
chọn mẫu, đặc tính nhãn cầu, công thức tính 
công suất kính nội nhãn, thời gian theo dõi khác 
nhau giữa các nghiên cứu. Bên cạnh đó, sự thành 
công của việc đạt được khúc xạ mục tiêu trong 
phẫu thuật đục thủy tinh thể liên quan đến rất 
nhiều yếu tố. 
Bảng 4. Phần trăm sai biệt tuyệt đối của khúc xạ dự 
đoán đo bởi hai máy giữa các nghiên cứu 
Máy Tác giả N < 0,5D < 1,0D < 1,5D 
Lenstar 
Hoffer (2010)
(3) 50 58% 94% 100% 
Turhan (2015)
(17) 310 74,2% 93,9% 98,5% 
N.T.T.Tiên 
(2017) 
66 86,3% 98,4% 100% 
IOL 
Master 
Kiss (2002)
(8) 45 55,6% 85% 100% 
Hoffer (2010)
(3) 50 56% 94% 100% 
N.T.T.Tiên 
(2017) 
66 75,8% 97,0% 100% 
Sai biệt tuyệt đối của khúc xạ dự đoán giữa 
các công thức trong cả mẫu nghiên cứu không 
có sự khác biệt. Chúng tôi tiến hành phân tích 
kỹ hơn, so sánh các công thức theo từng nhóm 
chiều dài trục nhãn cầu cũng không tìm thấy 
sự khác biệt. Với nhóm chiều dài trục nhãn 
cầu trung bình, kết quả này tương tự với 
Reiblat(14). Theo tác giả Hill, với chiều dài trục 
nhãn cầu trung bình từ 22,5 đến 24mm, công 
suất khúc xạ giác mạc từ 42 đến 45D và độ sâu 
tiền phòng bình thường, hầu hết các công thức 
tính công suất kính nội nhãn đều cho kết quả 
tốt như nhau. Trong hầu hết các nghiên cứu, 
so sánh giữa 5 công thức (SRK II, SRK/T, 
Holladay 1, Hoffer Q, Haigis) trong dự đoán 
công suất kính nội nhãn, công thức Haigis và 
Hoffer Q có độ chính xác cao với chiều dài 
trục nhãn cầu ngắn, công thức Haigis và 
SRK/T cho thấy sự ưu thế với chiều dài trục 
nhãn cầu dài. Với chiều dài trục nhãn cầu rất 
dài, công thức Haigis chính xác hơn các công 
thức khác. Nghiên cứu của chúng tôi số lượng 
mắt ở hai nhóm chiều dài trục nhãn cầu ngắn 
và dài ít nên có thể chưa tìm thấy sự khác biệt. 
KẾT LUẬN 
Thiết bị đo sinh trắc sử dụng phương pháp 
đo phản xạ quang học kết hợp sóng ngắn (máy 
Lenstar LS900) và thiết bị đo sinh trắc sử dụng 
phương pháp đo giao thoa kết hợp từng phần 
(máy IOL Master) có sự tương hợp tốt trong đo 
lường các thông số sinh trắc nhãn cầu và có độ 
chính xác cao trong dự đoán công suất kính nội 
nhãn. Vì vậy, bên cạnh máy IOL Master đã được 
sử dụng rộng rãi, máy Lenstar cũng là một chọn 
lựa hữu ích ở các cơ sở lâm sàng nhãn khoa 
trong việc đo lường các thông số sinh trắc và tính 
toán công suất kính nội nhãn trên bệnh nhân 
phẫu thuật đục thủy tinh thể. 
TÀI LIỆU THAM KHẢO 
1. Bhatt AB, Schefler AC, Feuer WJ, et al (2008). Comparison of 
predictions made by the intraocular lens master and 
ultrasound biometry. Arch Ophthalmol, 126 (7), pp. 929-33. 
2. Buckhurst PJ, Wolffsohn JS, Shah S, et al (2009). A new optical 
low coherence reflectometry device for ocular biometry in 
cataract patients. Br J Ophthalmol, 93 (7), pp. 949-53. 
3. Hoffer KJ, Shammas HJ, Savini G (2010). Comparison of 2 
laser instruments for measuring axial length. J Cataract Refract 
Surg, 36 (4), pp. 644-8. 
4. Holzer MP, Mamusa M, Auffarth GU (2009). Accuracy of a 
new partial coherence interferometry analyser for biometric 
measurements. Br J Ophthalmol, 93 (6), pp. 807-10. 
5. Huang J, McAlinden C, Huang Y, et al (2017). Meta-analysis 
of optical low-coherence reflectometry versus partial 
coherence interferometry biometry. Scientific Reports, 7, pp. 1-
10. 
6. Hui S, Yi L (2014). Comparison of two optical biometers in 
intraocular lens power calculation. Indian J Ophthalmol, 62 (9), 
pp. 931-4. 
7. Jasvinder S, Khang TF, Sarinder KK, et al (2011). Agreement 
analysis of LENSTAR with other techniques of biometry. Eye 
(Lond), 25 (6), pp. 717-24. 
8. Kiss B, Findl O, Menapace R, et al (2002). Refractive outcome 
of cataract surgery using partial coherence interferometry and 
ultrasound biometry: clinical feasibility study of a commercial 
prototype II. J Cataract Refract Surg, 28 (2), pp. 230-4. 
9. Landers J, Goggin M (2009). Comparison of refractive 
outcomes using immersion ultrasound biometry and 
IOLMaster biometry. Clin Experiment Ophthalmol, 37 (6), pp. 
566-9. 
10. Mylonas G, Sacu S, Buehl W, et al (2011). Performance of three 
biometry devices in patients with different grades of age-
related cataract. Acta Ophthalmol, 89 (3), pp. 237-41. 
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ bản Tập 22 * Số 1 * 2018
Chuyên Đề Mắt – Tai Mũi Họng 28
11. Norrby S (2008). Sources of error in intraocular lens power 
calculation. J Cataract Refract Surg, 34 (3), pp. 368-76. 
12. Rabsilber TM, Jepsen C, Auffarth GU, et al (2010). Intraocular 
lens power calculation: clinical comparison of 2 optical 
biometry devices. J Cataract Refract Surg, 36 (2), pp. 230-4. 
13. Raymond S, Favilla I, Santamaria L (2009). Comparing 
ultrasound biometry with partial coherence interferometry for 
intraocular lens power calculations: a randomized study. 
Invest Ophthalmol Vis Sci, 50 (6), pp. 2547-52. 
14. Reitblat O, Assia EI, Kleinmann G, et al (2015). Accuracy of 
predicted refraction with multifocal intraocular lenses using 
two biometry measurement devices and multiple intraocular 
lens power calculation formulas. Clin Experiment Ophthalmol, 
43 (4), pp. 328-34. 
15. Salouti R, Nowroozzadeh MH, Zamani M, et al (2011). 
Comparison of the ultrasonographic method with 2 partial 
coherence interferometry methods for intraocular lens power 
calculation. Optometry, 82 (3), pp. 140-7. 
16. Shen P, Zheng Y, Ding X, et al (2013). Biometric measurements 
in highly myopic eyes. J Cataract Refract Surg, 39 (2), pp. 180-7. 
17. Turhan SA, Toker E (2015). Predictive Accuracy of Intraocular 
Lens Power Calculation: Comparison of Optical Low-
Coherence Reflectometry and Immersion Ultrasound 
Biometry. Eye Contact Lens, 41 (4), pp. 245-51. 
Ngày nhận bài báo: 15/11/2017 
Ngày phản biện nhận xét bài báo: 23/11/2017 
Ngày bài báo được đăng: 28/02/2018