Tài liệu Đánh giá chức năng nhận thức ở bệnh nhân động kinh: Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 22 * Số 1 * 2018 Nghiên cứu Y học
Chuyên Đề Nội Khoa 237
ĐÁNH GIÁ CHỨC NĂNG NHẬN THỨC Ở BỆNH NHÂN ĐỘNG KINH
Phạm Thành Lũy*, Cao Phi Phong**
TÓM TẮT
Mở đầu: Động kinh là một rối loạn thần kinh thường gặp. Suy giảm chức năng nhận thức góp phần làm gia
tăng mức độ nghiêm trọng của bệnh động kinh, ảnh hưởng sự phát triển trí tuệ ở trẻ em, chức năng và chất
lượng cuộc sống của người lớn.
Mục tiêu nghiên cứu: Xác định tỉ lệ và các yếu tố liên quan gây suy giảm nhận thức ở bệnh nhân động kinh
Phương pháp nghiên cứu: Mô tả cắt ngang được thực hiện trên những bệnh nhân động kinh ≥ 18 tuổi
được điều trị động kinh tại Trung tâm y tế Thành Phố Cà Mau. Đối tượng tham gia nghiên cứu được phỏng vấn
và khám lâm sàng. Nhận thức được đánh giá theo thang điểm MoCA (Montreal cognitive assessment).
Kết quả: Nghiên cứu gồm 201 bệnh nhân, tuổi trung bình là 39,33 (±15,05), điểm MoCA trung bình là
19,26 (±8,98). So với người động kinh không suy giả...
7 trang |
Chia sẻ: Đình Chiến | Ngày: 10/07/2023 | Lượt xem: 319 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Đánh giá chức năng nhận thức ở bệnh nhân động kinh, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 22 * Số 1 * 2018 Nghiên cứu Y học
Chuyên Đề Nội Khoa 237
ĐÁNH GIÁ CHỨC NĂNG NHẬN THỨC Ở BỆNH NHÂN ĐỘNG KINH
Phạm Thành Lũy*, Cao Phi Phong**
TÓM TẮT
Mở đầu: Động kinh là một rối loạn thần kinh thường gặp. Suy giảm chức năng nhận thức góp phần làm gia
tăng mức độ nghiêm trọng của bệnh động kinh, ảnh hưởng sự phát triển trí tuệ ở trẻ em, chức năng và chất
lượng cuộc sống của người lớn.
Mục tiêu nghiên cứu: Xác định tỉ lệ và các yếu tố liên quan gây suy giảm nhận thức ở bệnh nhân động kinh
Phương pháp nghiên cứu: Mô tả cắt ngang được thực hiện trên những bệnh nhân động kinh ≥ 18 tuổi
được điều trị động kinh tại Trung tâm y tế Thành Phố Cà Mau. Đối tượng tham gia nghiên cứu được phỏng vấn
và khám lâm sàng. Nhận thức được đánh giá theo thang điểm MoCA (Montreal cognitive assessment).
Kết quả: Nghiên cứu gồm 201 bệnh nhân, tuổi trung bình là 39,33 (±15,05), điểm MoCA trung bình là
19,26 (±8,98). So với người động kinh không suy giảm nhận thức, người động kinh có suy giảm nhận thức có
điểm trung bình các lĩnh vực nhận thức theo MoCA đều thấp hơn (p< 0,001). Tỉ lệ suy giảm nhận thức chung là
61,19%. Các yếu tố liên quan suy giảm nhận thức bao gồm tuổi, nhóm tuổi khởi phát động kinh, tần suất cơn
động kinh và sử dụng thuốc phenobarbital (p < 0,05).
Kết luận: Suy giảm chức năng nhận thức là thường gặp ở bệnh nhân động kinh, các yếu tố liên quan gồm
tuổi, nhóm tuổi, tần suất cơn giật và sử dụng thuốc phenobarbital.
Từ khóa: Động kinh, suy giảm nhận thức, các yếu tố ảnh hưởng
ABSTRACT
ASSESSING COGNITIVE FUNCTION IN EPILEPTIC PATIENTS
Pham Thanh Luy, Cao Phi Phong
* Y Hoc TP. Ho Chi Minh * Supplement Vol. 22 - No 1- 2018: 231 - 237
Background: Epilepsy is a common neurological disorder, Cognitive impairment significantly increases
epileptic severity, affect intellectual development of children and Function and quality of life of adults.
Objective: To identify the prevalence of cognitive impairment and associated factors with cognitive
impairment in epileptic patients.
Methods: An observational cross-sectional study was conducted on patients aged 18 years and over who
were treated at Ca Mau Health center. Eligible participants were clinically examined and interviewed. Patients’
cognitions were assessed using MoCA (Montreal Cognitive assessment).
Results: A sample of 201 patients were recruited. The mean age was 39.33 (± 15.05). MoCA’s mean score
was 19.26 ± 8.98. Compared to epileptic patients without cognitive impairment, those with cognitive impairments
had lower scores in MoCA (p < 0.001). The prevalence of cognitive impairment was 61.19%. Age, age of onset,
frequency of seizures and phenobarbital use were associated with cognitive impairment (< 0.05).
Conclusion: Cognitive impairment is frequent in epileptic patients. Associated factors with cognitive
impairment were age, age of onset, frequency of seizure and phenobarbital use.
Keywords: epilepsy, cognitive impairment, influencing factors
* BV. Tỉnh Cà Mau Bộ môn Thần Kinh. Đại Học Y Dược TP. HCM
Tác giả liên lạc: BS. Phạm Thành Lũy Email: luyphambvcm@gmail.com ĐT: 0939959664
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 22 * Số 1 * 2018
Chuyên Đề Nội Khoa 238
ĐẶT VẤN ĐỀ
Động kinh là một rối loạn thần kinh thường
gặp, ước tính chiếm khoảng 1% dân số(16). Đặc
trưng để xác định động kinh là cơn động kinh
khởi phát đột ngột và có xu hướng lặp lại, ngoài
cơn động kinh thì người bệnh còn phải gánh chịu
nhiều hậu quả khác, trong đó suy giảm chức năng
nhận thức là biểu hiện thường gặp góp phần quan
trọng làm tăng gánh nặng của bệnh động kinh.
Suy giảm chức năng nhận thức thoáng qua là biểu
hiện của rối loạn chức năng não trong cơn động
kinh hoặc giữa cơn động kinh, tuy nhiên suy giảm
chức năng nhận thức có thể là hậu quả thứ phát
của động kinh mãn tính, ảnh hưởng đến nhiều
lĩnh vực nhận thức như : chú ý, trí nhớ, ngôn ngữ,
chức năng điều hành(9). Những hậu quả này đôi
khi còn nặng nề hơn chính bản thân cơn động
kinh, làm giảm chất lượng cuộc sống của người
bệnh, mặc dù nguyên nhân chính xác gây suy
giảm nhận thức trong động kinh còn chưa được
hiểu rỏ, nhưng có ba yếu tố liên quan là nguyên
nhân gây động kinh, yếu tố liên quan lâm sàng
cơn động kinh và can thiệp điều trị cũng được
xem là yếu tố góp phần quan trọng, trong đó
thuốc chống động kinh được xem là phương
pháp điều trị chủ yếu nhưng thuốc chống động
kinh ngoài việc kiểm soát cơn động kinh cũng ảnh
hưởng lên quá trình nhận thức(3). Nhận biết các
yếu tố trên là rất quan trọng trong quản lý bệnh
động kinh nhưng thực tế hiện nay bác sỉ điều trị
động kinh chỉ nhằm mục đích kiểm soát cơn động
kinh chưa quan tâm đánh giá chức năng nhận
thức. Để cải thiện và quản lý người bệnh động
kinh được tốt hơn thì đánh giá chức năng nhận
thức là một nhu cầu thực sự cần thiết. Từ những
lý do trên chúng tôi thực hiện nghiên cứu này
nhằm các mục tiêu sau:
1. Xác định tỉ lệ suy giảm nhận thức bằng
thang điểm MoCA ở bệnh nhân động kinh tại
TP. Cà Mau.
2. Xác định mối liên quan giữa suy giảm
nhận thức với các yếu tố dịch tễ, lâm sàng, và
điều trị ở bệnh nhân động kinh.
PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
Dân số mục tiêu và dân số chọn mẫu gồm
những bệnh nhân động kinh ≥ 18 tuổi được quản
lý và điều trị động kinh tại Trung tâm y tế
(TTYT) TP. Cà Mau. Thời gian từ tháng 1 năm
2017 đến tháng 4 năm 2017. Loại trừ các đối
tượng đã có sa sút trí tuệ trước động kinh, chậm
phát triển tâm thần từ nhỏ, khiếm thị và mù chữ.
Nghiên cứu mô tả cắt ngang, các biến số thu
thập trong nghiên cứu bao gồm: tuổi, giới, nơi cư
trú, nghề nghiệp, trình độ học vấn, tiền sử bệnh,
tuổi khởi phát cơn động kinh, loại cơn động
kinh, tần số cơn giật, loại thuốc và số thuốc đang
điều trị, thời gian điều trị.
Bệnh nhân (BN) phù hợp với tiêu chuẩn
chọn mẫu sẽ được tiến hành phỏng vấn và khám
lâm sàng, thu thập các biến số, sau đó đánh giá
chức năng nhận thức qua thang điểm MoCA.
Các biến số định tính được mô tả bằng tần số và
tỉ lệ phần trăm, các biến định lượng được mô tả
bằng giá trị trung bình và độ lệch chuẩn. Xét mối
liên quan giữa các biến số dịch tễ, biến số lâm
sàng cơn động kinh và điều trị với thang điểm
MoCA bằng kiểm định chi bình phương, so sánh
điểm trung bình các lĩnh vực nhận thức giữa
người động kinh nhận thức bình thường và
giảm nhận thức bằng kiểm định t, phân tích hồi
qui logistic mối liên quan dịch tễ, lâm sàng cơn
động kinh và điều trị với suy giảm nhận thức
(SGNT), độ mạnh mối liên quan được đánh giá
qua tỉ số chênh (OR) với giá trị p < 0,05 được xem
là có ý nghĩa thống kê, xử dụng phần mềm
thống kê STATA 12.0.
KẾT QUẢ
Tỉ lệ suy giảm nhận thức đánh giá bằng thang
điểm MoCA ở bệnh nhân động kinh ≥ 18 tuổi
tại TP. Cà Mau
Mẫu nghiên cứu của chúng tôi gồm 201 bệnh
nhân có tuổi trung bình 39,33±15,02 nhóm tuổi có
bệnh nhân chiếm đa số 18-40 tuổi, 115 nam
(57,2%) 86 nữ (42,8%), 114 BN có cơn động kinh
toàn thể nguyên phát (56,72%), 12 BN có cơn
động kinh cục bộ đơn giản (5,97%), 14 BN cơn
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 22 * Số 1 * 2018 Nghiên cứu Y học
Chuyên Đề Nội Khoa 239
động kinh cục bộ phức tạp (6,97%), 61 BN cơn
động kinh toàn thể thứ phát (30,34%). Tỉ lệ suy
giảm nhận thức chung theo đánh giá thang điểm
MoCA là 61,19%.
Liên quan giữa đặc điểm dịch tễ, lâm sàng và
điều trị với suy giảm nhận thức ở bệnh nhân
động kinh
Yếu tố dịch tễ
Nhóm tuổi có tỉ lệ SGNT cao nhất là nhóm
41-60 và trên 60, nhóm tuổi có tỉ lệ SGNT thấp
nhất là 18-40. Nguy cơ SGNT tỉ lệ nghịch với
trình độ học vấn, nhóm có trình độ học vấn càng
thấp nguy cơ SGNT càng cao. nhóm BN lao
động chân tay và thất nghiệp nguy cơ SGNT cao
hơn nhóm lao động trí óc (Bảng 1).
Yếu tố lâm sàng cơn động kinh
Tần suất cơn, tuổi khởi phát, thời gian bệnh
tỉ lệ nghịch với SGNT. Tần suất cơn trung bình
và cơn dày, tuổi khởi phát cơn càng nhỏ và Thời
gian bệnh càng dài thì tỉ lệ SGNT càng tăng
(Bảng 2).
Bảng 1: Đặc điểm của mẫu nghiên cứu ở người bị động kinh giữa hai nhóm suy giảm nhận thức và có nhận thức
bình thường (n=201)
Yếu tố dịch tễ
Suy giảm nhận thức
(MoCA < 26) (n=123)
Nhận thức bình thường
(MoCA ≥26) (n=78)
Giá trị p
Nhóm tuổi
18-40 67 (54,47%) 56 (45,53%)
0,049 41-60 41 (71,93%) 16 (28,07%)
>60 15 (71,43%) 6 (28,57%)
Giới
Nam 67 (58,26%) 48 (41,74%)
0,328
Nữ 56 (65,12%) 30 (34,88%)
Nơi cư trú
Thành thị 65 (57,02%) 49 (42,98%)
0,164
Nông thôn 58 (66,67%) 29 (33,33%)
Trình độ
học vấn
Cấp 1 95 (92,23) 8 (7,77%)
<0,001 Cấp 2 23 (39,66%) 35 (60,34%)
Cấp 3 5 (12,5%) 35 (87,5%)
Nghề nghiệp
Lao động trí óc 5 (20%) 20 (80%)
<0,001 Lao động chân tay 44 (50%) 44 (50%)
Thất nghiệp 74 (84,09%) 14 (15,91%)
Kiểm định chi bình phương
Bảng 2: Loại cơn, tần suất cơn, tuổi khởi phát, thời gian bệnh ở người động kinh giửa hai nhóm suy giảm nhận
thức và có nhận thức bình thường (n=201)
Yếu tố lâm sàng
Suy giảm nhận thức
(MoCA<26) (n=123)
Nhận thức bình thường
(MoCA≥26) (n=78)
Giá trị p
Loại cơn
Toàn thể nguyên phát 70 (60,87%) 45 (39,13%)
0,856
cục bộ đơn giản 7(63,64%) 4 (36,36%)
Cục bộ phức tạp 10 (71,43%) 4 (28,57%)
Toàn thể thứ phát 36 (59,02%) 25 (40,98%)
Tần suất cơn
Cơn thưa (< 1 cơn/tháng) 40 (51,95 %) 37 (48,05%)
0,019 Cơn trung bình (≤ 7 cơn/tuần – 1 cơn/tháng) 76 (64,96%) 41 (35,04%)
Cơn dày (≥7 cơn/tuần) 7 (100 %) 0 (0)
Tuổi khởi phát
cơn
1 – 5 tuổi 31 (88,57%) 4 (11,43%)
0,001 6 – 17 tuổi 34 (58,62%) 24 (41,38%)
≥ 18 tuổi 58 (53,7%) 50 (46,3%)
Thời gian bệnh
< 5 năm 7 (36,84%) 12 (63,16%)
<0,001 5 – 10 năm 22 (44,9%) 27 (55,1%)
> 10 năm 94 (70.68%) 39 (29,32%)
Kiểm định chi bình phương
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 22 * Số 1 * 2018
Chuyên Đề Nội Khoa 240
Yếu tố điều trị
Loại thuốc và phối hợp thuốc có liên quan
đến SGNT, Liên quan đến thuốc Phenobarbital
(PB) khi sử dụng đơn trị hoặc đa trị đều có tỉ lệ
SGNT cao hơn so với đơn trị hoặc đa trị thuốc
Phenytoin, Valproic acid (VPA), Topiramate
(TPM). Liên quan đến các thuốc còn lại thì đơn
trị có tỉ lệ SGNT thấp hơn đa trị. Thời gian điều
trị tỉ lệ nghịch với SGNT, thời gian điều trị càng
dài tỉ lệ SGNT càng tăng (Bảng 3).
Bảng 3: Thuốc, thời gian điều trị ở người động kinh giửa hai nhóm suy giảm nhận thức và có nhận thức bình
thường(n=201)
Yếu tố điều trị
Suy giảm nhận thức
(MoCA<26) (n=123)
Nhận thức bình thường
(MoCA≥26) (n=78)
Giá trị p
Thuốc Đơn trị PB 98 (66,22%) 50 (33,78%)
0,002
Đa trị PB 14 (70%) 6 (30%)
Đơn trị: PHT,VPA, TPM 4 (23,53%) 13 (76,47%)
Đa trị: PHT, VPA, TPM 7 (43,75%) 9 (56,25%)
Thời gian điều
trị
< 5 năm 14 (42,42%) 19 (57,58%)
0,006 5-10 năm 37 (55,22%) 30 (44,78%)
>10 năm 72 (71,29%) 29 (28,71%)
Kiểm định chi bình phương
Khả năng đánh giá của thang điểm MoCA
Nghiên cứu của chúng tôi cho thấy SGNT ở
bệnh nhân động kinh có giảm rỏ nhiều lĩnh vực
nhận thức khác nhau như chức năng điều hành,
gọi tên, sự chú ý, ngôn ngữ, trừu tượng, trí nhớ,
định hướng (Bảng 4).
Bảng 4: So sánh các lĩnh vực nhận thức theo MoCA
giữa bệnh nhân động kinh có suy giảm nhận thức và
có nhận thức bình thường(n=201)
MoCA
Suy giảm nhận
thức (MoCA<26)
(n=123)
Nhận thức bình
thường (MoCA≥ 26)
(n=78)
p
Điều hành 1,54 ± 1,64 4,56 ± 0,81 <0,001
Gọi tên 1,28 ± 1,02 2,83 ± 0,04 <0,001
Sự chú ý 3,51 ± 2,1 5,92 ± 0,26 <0,001
Ngôn ngữ 1,12 ± 1,01 2,47 ± 0,5 <0,001
Trừu tượng 0,2 ± 0,57 1,55 ± 0,73 <0,001
Trí nhớ 1.39 ± 1,40 3,80 ± 0,72 <0,001
Định hướng 3,97 ± 2,08 5,94 ± 0,35 <0,001
Kiểm định t
Mối liên quan dịch tễ, lâm sàng, điều trị với
MoCA theo mô hình hồi qui Logistic
Hồi quy logistic đa biến cho thấy nhóm tuổi,
tần suất cơn động kinh, nhóm tuổi khởi phát
động kinh, loại thuốc sử dụng có liên quan tới
mức độ nhận thức của người động kinh (r2=18%,
p<0,001) (Bảng 5).
Bảng 5: Hồi qui Logistic đa biến giữa nhóm tuổi, giới
tính, tần suất cơn động kinh, nhóm tuổi khởi phát và
điều trị ở người động kinh với mức độ suy giảm nhận
thức (kém và bình thường) (n=201)
Nhận thức
(kém và bình thường)
OR Giá trị
p
KTC 95%
Nhóm tuổi 18-40 tuổi 1
41-60 tuổi 0,32 0,007 0,14 0,73
≥ 61 tuổi 0,22 0,012 0,07 0,72
Giới tính Nữ 1
Nam 0,95 0,881 0,49 1,85
Tần suất cơn
động kinh
Thưa 1
Trung bình/ dày 0,30 0,001 0,14 0,62
Nhóm tuổi
khởi phát
động kinh
1-5 tuổi 1
6-17 tuổi 5,90 0,005 1,70 20,45
≥ 18 tuổi 10,74 <0,001 2,95 39,13
Điều trị Đơn trị bằng PB 1
Đa trị bằng PB 0,83 0,757 0,26 2,67
Đơn trị thuốc khác 5,57 0,009 1,54 20,07
Đa trị thuốc khác 2,44 0,151 0,72 8,23
Hồi qui logistic đa biến
BÀN LUẬN
Động kinh là một tập hợp các rối loạn thần
kinh phức tạp ảnh hưởng đến sức khỏe con
người, là một rối loạn xuất phát từ não do đó có
tác động lên sự phát triển và duy trì chức năng
nhận thức, bệnh nhân động kinh có thể suy giảm
nhiều lĩnh vực nhận thức gây khó khăn trong việc
học tập, ảnh hưởng việc làm, giảm chất lượng
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 22 * Số 1 * 2018 Nghiên cứu Y học
Chuyên Đề Nội Khoa 241
cuộc sống, tăng gánh nặng cho gia đình và xã hội.
Cùng với tiến bộ của xã hội và cải thiện liên tục
chất lượng chăm sóc y tế, điều trị động kinh
không chỉ dừng lại ở mức kiểm soát cơn động
kinh mà chuyển dần đến chăm sóc sức khỏe tinh
thần, do đó SGNT ở bệnh nhân động kinh cần
được quan tâm nghiên cứu nhiều hơn nhằm nâng
cao chất lượng cuộc sống cho người bệnh.
Tỉ lệ suy giảm nhận thức theo thang điểm MoCA
Trong 201 bệnh nhân động kinh được quản
lý và điều trị tại TTYT TP. Cà Mau sau khi đánh
giá nhận thức bằng thang điểm MoCA, tỉ lệ
SGNT là 61,19%. Kết quả nghiên cứu của chúng
tôi cũng tương tự nghiên cứu của tác giả
Phabphal(13) đánh giá nhận thức bằng thang
điểm MoCA ở bệnh nhân động kinh căn nguyên
ẩn có điểm số MMSE trong giới hạn bình thường
tỉ lệ SGNT là 60%.
Liên quan giữa đặc điểm dịch tễ, lâm sàng và
điều trị với suy giảm nhận thức ở bệnh nhân
động kinh
Yếu tố dịch tễ
Tuổi và nhóm tuổi có liên quan SGNT khi
phân tích đơn biến và đa biến, ngoài tác động
của tuổi tác ảnh hưởng đến quá trình nhận thức
thì bệnh nhân tuổi cao phải chịu gánh nặng của
việc tích lũy nguy cơ càng nhiều như cơn giật, sử
dụng lâu dài thuốc chống động kinh. Theo
nghiên cứu của tác giả Sunmonu(14) và tác giả
Dodrill(2) cho rằng tuổi không liên quan đến
SGNT các tác giả lý giải rằng bệnh nhân động
kinh có tuổi thọ không cao nên ở thời điểm
nghiên cứu không gặp SGNT ở bệnh nhân cao
tuổi. Nhưng theo nghiên cứu của tác giả Miller(8)
nhận thấy rằng người cao tuổi động kinh SGNT
cao hơn và nguy cơ ảnh hưởng đến nhiều vùng
nhận thức hơn so với cùng độ tuổi không động
kinh và SGNT diễn tiến nhanh hơn so với sự lão
hóa bình thường của tuổi tác, giải thích vấn đề
này nghiên cứu của tác giả Breuer(1) cho rằng
diễn tiến nhận thức giảm dần theo độ tuổi
nhưng các yếu tố thúc đẩy (như tai biến mạch
não, động kinh, chấn thương sọ não) khiến cho
quá trình suy giảm nhận thức xảy ra nhanh hơn
và không hồi phục. Cùng với tuổi, trình độ học
vấn và nghề nghiệp có liên quan SGNT kết quả
nghiên cứu phù hợp y văn, theo nghiên cứu của
tác giả T. Sai(12) bệnh nhân có mức giáo dục cao
nhận thức tốt hơn so với mức giáo dục thấp do
cơ chế bảo tồn nhận thức, người có giáo dục cao
não đề kháng với tổn thương hơn so với người
có mức giáo dục thấp. Động kinh đa số khởi trẻ
em, cùng với việc điều trị không đầy đủ chính
hai yếu tố trên ảnh hưởng đến khả năng học tập
khi đến tuổi lao động đa số bệnh nhân có nghề
nghiệp đơn giản và thất nghiệp.
Yếu tố lâm sàng
Các yếu tố lâm sàng có liên quan SGNT gồm
tần suất cơn, tuổi khởi phát cơn và thời gian mắc
bệnh. Tần suất cơn giật đánh giá hiệu quả điều
trị, tần suất cơn giật cũng liên quan đến SGNT
kết quả phù hợp với nghiên cứu của tác giả
Nguyễn Văn Hướng(11), tác giả Vingerhoets(15) khi
tần suất xảy ra cơn dày thì tỉ lệ SGNT càng cao
và mức độ SGNT càng nặng theo y văn khi tích
lũy lâu dần có thể tổn thương não và gây SGNT
nhưng mối liên quan nhân quả vẫn còn là vấn đề
tranh cải. Tuổi khởi phát cơn động kinh liên
quan đến quá trình phát triển và hoàn thiện hệ
thống chức năng cao cấp của não bộ nói chung,
chức năng nhận thức của bệnh nhân nói riêng.
Thời gian mắc động kinh được tính từ thời điểm
khởi phát bệnh đến khi trưởng thành. Do đó khi
xét tuổi khởi phát động kinh không thể tách rời
với thời gian mắc bệnh, khởi phát bệnh sớm ảnh
hưởng đến sự phát triển và hoàn thiện của não
bộ, ngoài ra tuổi khởi phát càng sớm thời gian
mắc bệnh càng dài người bệnh động kinh chịu
tác động của các yếu tố khác như tần suất cơn,
thời gian dùng thuốc càng nhiều hơn do đó tỉ lệ
suy giảm nhận thức cao hơn. Theo tác giả Hoàng
Quốc Hải(4) có sự tương quan chặt chẻ thuận
chiều của tuổi khởi phát bệnh và IQ, tuổi khởi
phát sớm IQ thấp, có sự tương quan chặt chẽ
nghịch chiều giữa IQ và thời gian bị bệnh, bệnh
động kinh có thời gian bệnh dài thì IQ thấp.
Trong nghiên cứu của tác giả Nguyễn Văn
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 22 * Số 1 * 2018
Chuyên Đề Nội Khoa 242
Hướng(11) tuổi khởi phát bệnh trước 6 tuổi rối
loạn nhận thức gấp 11 lần so với nhóm khởi phát
bệnh từ 6 đến 17 tuổi và nhiều hơn 18 lần so với
nhóm khởi phát tuổi trưởng thành, theo tác giả
Korman(5) trẻ em có tuổi khởi phát động kinh
sớm nguy cơ cao trong tương lai có chỉ số trí tuệ
thấp so với trẻ có tuổi khởi phát muộn hơn.
Yếu tố điều trị
Ngoài tác động của các biến liên quan đến
cơn động kinh, chức năng nhận thức ở những
người bị động kinh cũng rất nhạy cảm với tác
dụng bất lợi của thuốc chống động kinh. Thuốc
chống động kinh là phương pháp chính để kiểm
soát cơn động kinh, nhưng thuốc chống động
kinh cũng mang nguy cơ tác dụng bất lợi lên
chức năng nhận thức qua cơ chế giảm kích thích
thần kinh tăng ức chế dẫn truyền thần kinh vì
vậy làm giảm tính hưng phấn thần kinh và gây
giảm nhận thức các tác dụng phụ rõ ràng nhất
của thuốc chống động kinh lên nhận thức gồm
làm chậm quá trình xử lý thông tin, ảnh hưởng
chú ý đặc biệt khả năng duy trì sự chú ý và chú ý
phức tạp, trí nhớ và ngôn ngữ. Nguy cơ ảnh
hưởng nhận thức tăng lên với sử dụng nhiều
thuốc và liều lượng thuốc sử dụng cũng như các
thuốc động kinh khác nhau có ảnh hưởng khác
nhau lên nhận thức, thuốc thế hệ cũ ảnh hưởng
nhiều hơn thuốc mới(9). Trong các thuốc chống
động kinh cổ điển thì nhóm barbiturate gồm
phenobarbital có ảnh hưởng lên nhận thức nhiều
hơn các thuốc còn lại. Trong nghiên cứu của tác
giả Meador và Loring(7) so sánh ảnh hưởng nhận
thức của 3 thuốc chống động kinh phenobarbital,
phenytoin, carbamazepine và valproic acid trên
59 người trưởng thành khỏe mạnh bình thường
tình nguyện tham gia nghiên cứu tác giả rút ra
kết luận không có sự khác biệt về tác dụng lên
nhận thức giữa phenytoin, carbamazepine và
valproic acid nhưng có sự khác biệt có ý nghĩa
đối với phenobarbital. Theo nghiên cứu ngẫu
nhiên mù đôi cắt ngang điều tra 3 thuốc chống
động kinh trên bệnh nhân động kinh cục bộ
phức tạp cho thấy không có sự khác biệt giữa
carbamazepine và phenytoin, trái lại
phenobarbital gây ảnh hưởng nhận thức nhiều
hơn hai thuốc trên(6). Ở trẻ em chỉ định
phenobarbital sau sốt cao co giật cho thấy chỉ số
IQ thấp hoặc giảm nhiều hơn so với nhóm
chứng, ảnh hưởng của phenobarbital còn kéo dài
sau 3 – 5 năm sau ngưng thuốc. Theo nghiên cứu
của tác giả Nguyễn Công Hoan(10) sử dụng
Gardenal trong điều trị động kinh làm giảm khả
năng nhận thức tổng quát. Theo nghiên cứu của
tác giả Nguyễn Văn Hướng(11) cho thấy rối loạn
trí nhớ ở nhóm sử dụng phenobarbital cao hơn
gấp 7,2 lần so với nhóm sử dụng các nhóm
kháng động kinh khác và ở nhóm thuốc kháng
động kinh mới chưa ghi nhận trường hợp nào
rối loạn trí nhớ. Kết quả nghiên cứu của chúng
tôi cũng tương tự như các nghiên cứu trên.
KẾT LUẬN
Suy giảm nhận thức ở bệnh nhân động kinh
là biểu hiện thường gặp, ảnh hưởng nhiều lĩnh
vực nhận thức. Các yếu tố liên quan gồm tuổi,
tuổi khởi phát cơn động kinh, tần suất cơn động
kinh và điều trị thuốc phenobarbital.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Breuer LE, Boon P, Bergmans JW, et al. (2016), "Cognitive
deterioration in adult epilepsy: Does accelerated cognitive
ageing exist?", Neurosci Biobehav Rev, 64, pp. 1-11.
2. Dodrill CB (2004), "Neuropsychological effects of seizures",
Epilepsy Behav, 5 Suppl 1, pp. S21-4.
3. Elger CE, Helmstaedter C, Kurthen M (2004), "Chronic epilepsy
and cognition", Lancet Neurol, 3 (11), pp. 663-72.
4. Hoàng Quốc Hải, Trần Văn Tuấn, Đặng Hoàng Anh (2016), "Một
số đặc điểm lâm sàng và kết quả trắc nghiệm trí tuệ Raven ở
bệnh nhân động kinh cơn lớn tại Bệnh viện Trung ương Thái
Nguyên", Tạp Chí Thần Kinh Học, số 19, tr. 16-21.
5. Korman B, Krsek P, Duchowny M, et al (2013), "Early seizure
onset and dysplastic lesion extent independently disrupt
cognitive networks", Neurology, 81 (8), pp. 745-51.
6. Meador KJ, Loring DW, Huh K, et al (1990), "Comparative
cognitive effects of anticonvulsants", Neurology, 40 (3 Pt 1), pp.
391-4.
7. Meador KJ1, Loring DW, Moore EE, et al. (1995), "Comparative
cognitive effects of phenobarbital, phenytoin, and valproate in
healthy adults", Neurology, 45 (8), pp. 1494-9.
8. Miller LA, Galioto R, Tremont G, et al (2016), "Cognitive
impairment in older adults with epilepsy: Characterization and
risk factor analysis", Epilepsy Behav, 56, pp. 113-7.
9. Motamedi G, Meador K. (2003), "Epilepsy and cognition",
Epilepsy & Behavior, 4, pp. 25-38.
10. Nguyễn Công Hoan, Đặng Văn Mười (2014), "Nghiên cứu một số
đặc điểm về nhận thức tổng quát trên bệnh nhân động kinh cục
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 22 * Số 1 * 2018 Nghiên cứu Y học
Chuyên Đề Nội Khoa 243
bộ phức tạp ở người trưởng thành", Tạp chí y học thực hành, số 7,
tr. 47-49.
11. Nguyễn Văn Hướng (2012), "Nghiên cứu đặc điểm lâm sàng rối
loạn nhận thức và một số yếu tố liên quan trên bệnh nhân động
kinh là người trưởng thành”, Luận án Tiến sỹ Y học, Đại học Y Hà
Nội.
12. Pai MC, Tsai JJ (2005), "Is cognitive reserve applicable to
epilepsy? The effect of educational level on the cognitive decline
after onset of epilepsy", Epilepsia, 46 Suppl 1, pp. 7-10.
13. Phabphal K, Kanjanasatien J (2011), "Montreal Cognitive
Assessment in cryptogenic epilepsy patients with normal Mini-
Mental State Examination scores", Epileptic Disord, 13 (4), pp.
375-81.
14. Sunmonu TA, Komolafe MA, Ogunrin AO, et al (2009),
"Cognitive assessment in patients with epilepsy using the
Community Screening Interview for Dementia", Epilepsy Behav,
14 (3), pp. 535-9.
15. Vingerhoets G (2006), "Cognitive effects of seizures", Seizure, 15
(4), pp. 221-6.
16. World Health Organization (2005), "Atlas: Epilepsy Care in the
World", Geneva: World Health Organization, pp. 91.
Ngày nhận bài báo: 16/11/2017
Ngày phản biện nhận xét bài báo: 17/11/2017
Ngày bài báo được đăng: 15/03/2018
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- danh_gia_chuc_nang_nhan_thuc_o_benh_nhan_dong_kinh.pdf