Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 23 * Số 6* 2019 Nghiên cứu Y học
Hội Nghị Khoa Học BV. Truyền máu Huyết học 329
ĐÁNH GIÁ CÁC BẤT THƯỜNG VỀ ĐÔNG MÁU 
DỰA TRÊN ĐƯỜNG CONG PHẢN ỨNG CỦA XÉT NGHIỆM 
ĐO THỜI GIAN THROMBOPLASTIN HOẠT HÓA TỪNG PHẦN 
(APTT - ACTIVATED PARTIAL THROMBOPLASTIN TIME) 
Trần Thanh Tùng*, Hoàng Thị Thúy Hà*, Nguyễn Thị Thảo*, Nguyễn Thị Thanh Thẳng*, 
Nguyễn Công Doanh*, SaPiDah*, Nguyễn Thị Bích Trâm*, Cao Thị Trang*, Nguyễn Tự* 
TÓM TẮT 
Mục tiêu: Nghiên cứu nhằm khảo sát và đánh giá các bất thường về đông máu dựa trên đường cong phản 
ứng của xét nghiệm đo thời gian thromboplastin hoạt hóa từng phần (APTT - Activated Partial Thromboplastin 
Time) trên máy đông máu tự động ACL TOP 750 CTS. 
Đối tượng và phương pháp nghiên cứu: Thực hiện xét nghiệm APTT trên 95 mẫu huyết tương của hai 
nhóm nghiên cứu. Nhóm đối chứng bao gồm 40 mẫu người khỏe mạnh, và nhóm bệnh lý bao gồm 55 mẫu của 
bệnh nhân có bất thường về đông cầm máu, trong đó gồm thiếu hụt yếu tố VIII, yếu tố IX hoặc có kháng thể 
kháng đông lupus. Nghiên cứu ghi nhận sự xuất hiện và hình dạng của đường cong đạo hàm bậc hai của xét 
nghiệm APTT ở những mẫu bệnh phẩm nghiên cứu, theo phương pháp cắt ngang mô tả, từ ngày 10/01/2018 
đến ngày 20/06/2018, trên máy đông máu tự động ACL TOP 750 tại khoa Huyết học Bệnh viện Chợ Rẫy. 
Kết quả: Nghiên cứu cho thấy với thuốc thử APTT chứa silica hoạt hóa (APTT-SP), đường cong đạo 
hàm dạng bất thường liên quan đến các rối loạn về đông máu như thiếu hụt yếu tố VIII hoặc IX hoặc có chất 
kháng đông lupus lưu hành. Trong nhóm bệnh lý, có 46/55 mẫu có đường cong đạo hàm bất thường với độ 
nhạy là 83,6%. 
Kết luận: Sự hiện diện của đường cong đạo hàm dạng bất thường trong xét nghiệm APTT đã chứng tỏ đây 
là một công cụ rất đơn giản và hữu ích để sàng lọc và chẩn đoán sớm các bất thường về rối loạn đông máu như 
thiếu hụt yếu tố nội sinh hoặc sự hiện diện của chất kháng đông máu để đảm bảo thực hiện thêm các xét nghiệm 
khác để kiểm tra. 
Từ khóa: xét nghiệm APTT, đường cong đạo hàm dạng bất thường, thiếu hụt yếu tố, kháng đông lupus 
ABSTRACT 
AN EVALUATION OF HEMOSTASIC ABNORMALITIES IN PATIENTS ACCORDING TO THE 
WAVEFORM PLOT OF ACTIVATED PARTIAL THROMBOPLASTIN TIME (APTT) 
Tran Thanh Tung, Hoang Thi Thuy Ha, Nguyen Thi Thao, Nguyen Thi Thanh Thang, 
Nguyen Cong Doanh, SaPiDah, Nguyen Thi Bich Tram, Cao Thi Trang, Nguyen Tu 
* Ho Chi Minh City Journal of Medicine * Supplement of Vol. 23 – No. 6 - 2019: 329 – 334 
Objectives: The study aimed to evaluate the efficacy of using the reaction curve of APTT test (Activated 
Partial Thromboplastin Time) to investigate hemostasic abnormalities on ACL TOP 750 CTS analyzer. 
Method: We performed APTT tests on 95 citrated plasma samples of two groups. The control group 
included 40 healthy human samples. The pathology group consisted of 55 samples with hemostatic disorders 
including factor VIII or factor IX deficiency or lupus anticoagulant antibodies. We documented the prevalence 
and types of APTT derivative curves in these patients. The study was cross-sectional, from January 10th, 2018 to 
*Bệnh viện Chợ Rẫy 
Tác giả liên lạc: TS.BS. Trần Thanh Tùng ĐT: 0918683267 Email: 
[email protected] 
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 23 * Số 6 * 2019
Hội Nghị Khoa Học BV. Truyền máu Huyết học 330
June 20th, 2018, using the automatic coagulation analyzer ACL TOP 750 CTS at the Department of Hematology 
in Cho Ray Hospital. 
Results: The study has shown that with APTT reagents containing activated silica (APTT-SP), atypical 
derivative curves are associated with coagulation abnormalities such as factor deficiency or Lupus anticoagulants. 
In the pathological group, there were 46/55 samples with atypical derivative curves and the sensitivity of such 
presence to identify hemostatic disorders was 83.6%. 
Conclusion: The presence of atypical derivative curves proved to be a very simple and useful tool for 
screening and early diagnosis of hemostasic abnormalities such as intrinsic factor deficiency or presence of 
anticoagulants, which require further investigation tests. 
Keywords: APTT test, atypical derivative curve, factor deficiency, lupus anticoagulation 
TỔNG QUAN 
Các rối loạn đông máu có thể gặp trên thực 
tế lâm sàng của nhiều chuyên khoa và là một 
trong những nguyên nhân gây tử vong của bệnh 
nhân. Bên cạnh khai thác tiền sử, thăm khám 
phát hiện triệu chứng lâm sàng (xuất huyết, 
huyết khối), việc tiến hành các xét nghiệm đông 
cầm máu một cách hợp lý đóng vai trò quan 
trọng trong phát hiện sớm, chẩn đoán và xử trí 
kịp thời các rối loạn đông cầm máu. Chẩn đoán 
chính xác các rối loạn đông cầm máu và đánh 
giá mức độ nghiêm trọng của bệnh là điều cần 
thiết cho chiến lược điều trị phù hợp của bệnh 
nhân. Một quy trình chẩn đoán tối ưu bao gồm 
các phương pháp sàng lọc có độ nhạy - độ đặc 
hiệu tốt và xét nghiệm cụ thể để chẩn đoán 
chính xác các rối loạn đông máu(4). 
Thời gian thromboplastin hoạt hoá từng 
phần (APTT) và thời gian prothrombin (PT) 
thường được sử dụng thường quy trong phòng 
xét nghiệm đông máu và đóng vai trò là các xét 
nghiệm đánh giá đông máu huyết tương giai 
đoạn một. Xét nghiệm APTT kéo dài có thể do 
nhiều nguyên nhân: sự hiện diện của kháng thể 
kháng đông lupus (LA), sự hoạt động quá mức 
của các protein kháng đông, thiếu hụt yếu tố 
đông máu trong con đường nội sinh (yếu tố VIII, 
IX, XI và XII), bệnh nhân đang được điều trị 
bằng thuốc chống đông, bệnh nhân có rối loạn 
chức năng gan,  
Với sự ra đời và phát triển của các máy phân 
tích đông máu tự động đã cung cấp hình ảnh 
đường cong phản ứng đông máu trong các xét 
nghiệm, trong đó có xét nghiệm APTT. Đường 
cong phản ứng là hình ảnh trực quan cho phản 
ứng đông máu xảy ra trong cóng phản ứng trên 
thiết bị. Đây là một công cụ có giá trị trong việc 
phân tích các kết quả bất thường hoặc nghi ngờ. 
Hình 1. Mô hình đường cong phản ứng đông máu 
Các thành phần của đường cong phản ứng 
bao gồm(1): 
Trục Y thể hiện sự thay đổi hấp thụ ánh sáng 
trong suốt quá trình phản ứng, trục X thể hiện 
thời gian tăng dần từ trái sang phải. Giai đoạn cơ 
sở, giai đoạn này bắt đầu sau khi các mẫu và 
thuốc thử được trộn với nhau. Trong suốt giai 
đoạn này mức độ thay đổi quang học rất ít, bắt 
đầu cho đến khi hình thành cục máu đông fibrin. 
Giai đoạn tăng tốc, đại diện cho giai đoạn hình 
thành fibrin. Trong thời gian này, sự thay đổi độ 
hấp thụ quang diễn ra nhanh chóng, dẫn tới độ 
dốc đường cong lên cao. Khi cục máu đông hình 
thành nhiều thì tốc độ chậm lại sẽ được hiển thị 
như là một đường cong có độ dốc giảm dần. Giai 
đoạn giảm tốc, ngay sau giai đoạn tăng tốc và 
đại diện cho giai đoạn giảm tốc độ hình thành 
cục máu đông. Trong giai đoạn này, tất cả 
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 23 * Số 6* 2019 Nghiên cứu Y học
Hội Nghị Khoa Học BV. Truyền máu Huyết học 331
fibrinogen có sẵn đã chuyển thành fibrin và do 
đó ít thay đổi quang học, độ dốc phản ứng 
xuống lại. Cục máu đông yếu hình thành từ các 
mẫu có lượng fibrinogen ít có thể thể hiện sự 
giảm nhẹ trong giai đoạn này là do cục máu 
đông hình thành mong manh, dễ bị phá vỡ. 
Điểm cuối: điểm tại đó hệ thống dừng ghi nhận 
dữ liệu. 
Bên cạnh khả năng hiển thị đường cong 
phản ứng đông máu, nhiều dòng máy phân tích 
hiện nay đã tự động tính toán dữ liệu độ hấp thụ 
cho phép hiển thị đồng thời đường cong đạo 
hàm bậc một và bậc hai(1). Điểm cuối của quá 
trình đông máu được lấy làm đỉnh vận tốc và gia 
tốc lần lượt của đạo hàm bậc một và bậc hai. 
Dựa trên các thuật toán của máy, ba loại đường 
cong được hiển thị trong màn hình của hệ thống 
máy phân tích là đường cong phản ứng đông 
máu đo thời gian APTT, tương ứng với sự hình 
thành fibrin. Thứ hai là đạo hàm đầu tiên của độ 
hấp thụ, tương ứng với tốc độ của quá trình 
đông máu. Thứ ba là đạo hàm thứ hai (bậc hai) 
của độ hấp thụ, tương ứng với gia tốc của quá 
trình đông máu(2). 
Đường cong đạo hàm bậc hai đặc trưng là 
đường cong chỉ có một đỉnh, trong khi đường 
cong đạo hàm bậc hai bất thường có nhiều đỉnh, 
và được phân loại thành hai mô hình. Mô hình 
đầu tiên có một đỉnh vai thứ cấp trên đường 
cong đạo hàm bậc hai trong khi đó mô hình thứ 
hai được hiển thị là một đường cong đạo hàm 
bậc hai với một đỉnh đôi. Việc ghi nhận tần suất 
xuất hiện và đánh giá hình dạng của đường 
cong đạo hàm bậc hai bất thường trong xét 
nghiệm APTT được báo cáo là hữu ích để sàng 
lọc và chẩn đoán sớm các bất thường về rối loạn 
đông máu như thiếu hụt yếu tố nội sinh hoặc sự 
hiện diện của chất kháng đông máu để đảm bảo 
thực hiện thêm các xét nghiệm khác để kiểm 
tra(2,3). 
Từ các ứng dụng hiện đại trên của các máy 
đông máu tự động, trong nghiên cứu của Solano 
và cộng sự tác đã kết luận sự hiện diện các 
đường cong đạo hàm dạng bất thường, thường 
dự đoán sự thiếu hụt yếu tố hoặc có kháng thể 
lupus. Do đó, chúng tôi quyết định thực hiện đề 
tài nghiên cứu khảo sát và đánh giá các bất 
thường về đông máu dựa trên đường cong đạo 
hàm bậc hai của xét nghiệm thời gian 
thromboplastin hoạt hoá từng phần (APTT - 
Activated Partial Thromboplastin Time) trên 
máy đông máu tự động ACL TOP 750 CTS tại 
Bệnh viện Chợ Rẫy. 
ĐỐI TƯỢNG - PHƯƠNG PHÁP 
Thiết kế nghiên cứu 
Cắt ngang mô tả. 
Đối tượng nghiên cứu 
Nhóm chứng: Thực hiện các xét nghiệm: PT, 
APTT, Fibrinogen Clauss, định lượng yếu tố 
VIII, yếu tố IX và sàng lọc kháng thể lupus cho 
40 mẫu huyết tương nghèo tiểu cầu của người 
khỏe mạnh, đang khám sức khỏe tại Bệnh viện 
Chợ Rẫy làm nhóm chứng. 
Nhóm bệnh lý: bao gồm tất cả các bệnh nhân 
có kết quả xét nghiệm APTT kéo dài, nằm ngoài 
phạm vi tham chiếu của người bình thường, 
được xác định là thiếu hụt yếu tố đông máu VIII 
hoặc yếu tố IX hoặc có kháng thể lupus lưu 
hành. Dữ liệu được thu thập từ ngày 10/01/2018 
đến ngày 20/06/2018 tại Bệnh viện Chợ Rẫy. 
Thu thập số liệu 
Tất cả các xét nghiệm được thực hiện trên 
máy phân tích đông máu ACL TOP 750 CTS tại 
Khoa Huyết học của Bệnh viện Chợ Rẫy. Thu 
thập dữ liệu được thiết lập ở 120 giây. 
Ghi nhận tần suất xuất hiện và hình dạng 
của đường cong đạo hàm bậc hai là dạng đặc 
trưng hay dạng bất thường (bao gồm dạng 
đỉnh vai thứ cấp hoặc dạng đỉnh đôi trên 
đường cong đạo hàm bậc hai) trên hai nhóm 
chứng và bệnh lý. 
Khoảng giá trị bình thường của các thông số 
xét nghiệm theo hướng dẫn của nhà sản xuất 
(Bảng 1). 
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 23 * Số 6 * 2019
Hội Nghị Khoa Học BV. Truyền máu Huyết học 332
Xử lý số liệu 
Nhập liệu và tính toán độ nhạy, độ đặc hiệu, 
giá trị tiên đoán dương (PPV, Positive Predictive 
Value) và giá trị tiên đoán âm (NPV, Negative 
Predictive Value) của nghiên cứu bằng phần 
mềm Microsoft Excel 2010. 
Xác định sự liên quan giữa dạng đường cong 
đạo hàm bậc hai của xét nghiệm APTT với các 
nhóm nghiên cứu khác nhau bằng phương pháp 
kiểm định 2 (chi bình phương). 
Xác định phạm vi tham chiếu của các thông 
số: thời gian PT (giây), thời gian APTT (giây), 
nồng độ Fibrinogen Clauss (mg/dL), hoạt tính 
của yếu tố VIII, IX (% hoạt tính) và tỷ số bình 
thường của xét nghiệm sàng lọc kháng thể lupus 
(tỷ số LA Screen/LA Confirm) của nhóm chứng 
bằng phần mềm thống kê SPSS. 
Kiểm định phân phối chuẩn bằng biểu đồ 
Histogram và phép kiểm Shapiro-Wilk. Kết quả 
kiểm định Shapiro-Wilk cho thấy các thông số 
đều có mức ý nghĩa (Sig.) >0,05 chứng tỏ dữ liệu 
được coi là có phân phối chuẩn. 
Bảng 1. Hóa chất sử dụng và khoảng giá trị bình thường của các nhóm xét nghiệm theo hướng dẫn nhà sản xuất 
STT Nhóm Hóa chất sử dụng Giá trị bình thường theo nhà sản xuất 
1 Đối chứng 
HemosIL RecombiPlastin-2G 9,4 – 12,5 giây 
HemosIL APTT-SP (Liquid) 25,4 – 36,9 giây 
HemosIL Fibrinogen Clauss 238 – 498 mg/dL 
2 
Định lượng hoạt tính của 
các yếu tố đông máu 
HemosIL Factor VIII Deficient Plasma Nồng độ yếu tố 50 % hoạt tính 
HemosIL Factor IX Deficient Plasma Nồng độ yếu tố 65 % hoạt tính 
3 Kháng đông Lupus 
HemosIL dRVVT Screen 
HemosIL dRVVT Confirm 
Tỷ số bình thường (tỷ số LAC Screen/LAC 
Confirm) ≤ giới hạn ngưỡng (cut-off) là 1,2 
KẾT QUẢ 
Đặc điểm nhóm nghiên cứu 
Bảng 2. Đặc điểm mô tả của các nhóm nghiên cứu 
(n=95) 
Nhóm 
Số lượng 
nghiên cứu 
Giới tính 
(Nam:nữ) 
Độ tuổi 
trung bình 
Nhóm đối chứng 40 
Nhóm người khỏe 
mạnh bao gồm không 
thiếu hụt yếu tố VIII, 
IX và không có kháng 
đông lupus lưu hành 
40 22 : 18 36,1 (18 - 59) 
Nhóm bệnh lý 55 
Nhóm thiếu yếu tố VIII 26(47) 24 : 2 36,8 (2 – 78) 
Nhóm thiếu yếu tố IX 16(29) 13 : 3 42 (19 – 94) 
Nhóm có xét nghiệm 
LA dương tính 
13(24) 6 : 7 
30,4 (1 – 56) 
Nhóm bệnh lý trong nghiên cứu phần lớn 
thiếu hụt yếu tố đông máu nội sinh. Trong đó 
thiếu hụt yếu tố VIII cao nhất với 47%, thiếu hụt 
yếu tố IX là 29% còn lại là nhóm có kháng đông 
lupus lưu hành với tỉ lệ là 24% (Bảng 2). 
Các xét nghiệm trên nhóm chứng đều nằm 
trong giới hạn bình thường (Bảng 3). 
Kết quả APTT trung bình của nhóm bệnh lý 
là 65,2 giây, nông độ yếu tố VIII trung bình là 
15,2% và yếu tố IX là 17%. Nồng độ kháng đông 
lupus là 1,7 (Bảng 4). 
Bảng 3. Kết quả xét nghiệm của nhóm chứng (n=40) 
Xét nghiệm 
Trung 
bình 
Độ lệch 
chuẩn 
Phạm vi tham 
chiếu bình 
thường(
*
) 
Giá trị APTT (giây) 30,8 2,3 26,4 – 36,9 
Giá trị PT (giây) 10,8 0,6 9,7 – 12,7 
Giá trị Fibrinogen (mg/dL) 310,2 53,4 237,1 – 490,0 
Yếu tố VIII (% hoạt tính) 139,1 42,2 72,0 – 251,8 
Yếu tố IX (% hoạt tính) 108,6 21,6 75,2 – 168,5 
Tỷ số bình thường của xét 
nghiệm LA 
1,10 0,06 0,94 – 1,20 
*Mức độ tập trung của 95% dữ liệu từ bách phân vị 2,5 
đến 97,5 
Bảng 4. Kết quả xét nghiệm của nhóm bệnh 
Xét nghiệm 
Trung 
bình 
Độ lệch 
chuẩn 
Giá trị lớn 
nhất – Giá trị 
nhỏ nhất 
Giá trị APTT (giây) 
(n = 55) 
65,2 20,9 37,3 – 112,6 
Yếu tố VIII (% hoạt tính) 
(n = 26) 
15,2 14,0 0 – 42,4 
Yếu tố IX (% hoạt tính) 
(n = 16) 
17,0 14,2 0 – 47,6 
Tỷ số bình thường của xét 
nghiệm LA (n = 13) 
1,70 0,54 1,23 – 3,21 
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 23 * Số 6* 2019 Nghiên cứu Y học
Hội Nghị Khoa Học BV. Truyền máu Huyết học 333
Bảng 5. Kết quả khảo sát đường cong đạo hàm bậc 2 của xét nghiệm APTT (n = 95) 
Nhóm 
Số trường 
hợp (n) 
Đường cong 
đạo hàm đặc 
trưng n (%) 
Đường cong đạo hàm dạng bất thường 
Dạng đỉnh đôi (Doule 
peak) n (%) 
Dạng đỉnh vai 
(Shoulder peak) n (%) 
Nhóm đối chứng (n = 40) 
Nhóm người khỏe mạnh bao gồm không thiếu hụt 
yếu tố VIII, IX và không có kháng đông lupus lưu 
hành 
40 40 (100) 0 (0) 0 (0) 
Nhóm bệnh lý (n = 55) 
Nhóm thiếu yếu tố VIII 26 0 (0) 17 (65) 9 (35) 
Nhóm thiếu yếu tố IX 16 3 (19) 8 (50) 5 (31) 
Nhóm có xét nghiệm LA dương tính 13 6 (46) 4 (30) 3(24) 
Nghiên cứu ghi nhận ở nhóm đối chứng cho 
thấy cả 40/40 trường hợp đều không thấy sự 
xuất hiện đường cong đạo hàm dạng bất 
thường, với tỷ lệ âm tính thật là 100%. Điều này 
cho thấy đường cong đạo hàm dạng bất thường 
chỉ xuất hiện ở những bệnh nhân có rối loạn về 
đông máu. Có 39/42 trường hợp thiếu yếu tố 
đông máu VIII hoặc IX có hình dạng của đường 
cong đạo hàm bậc hai APTT bất thường, đặc biệt 
ở nhóm thiếu hụt yếu tố VIII, tất cả trường hợp 
đều có sự xuất hiện của đường cong đạo hàm 
bất thường. Do đó có thể dựa vào thời gian 
APTT (giây) kéo dài và hình dạng của đường 
cong đạo hàm bậc hai để chẩn đoán sớm bệnh lý 
thiếu yếu tố đông máu (Bảng 5). 
Kết quả nghiên cứu cũng thể hiện ở nhóm 
bệnh lý thiếu yếu tố đông máu VIII hoặc IX thì 
dạng đường cong đạo hàm chiếm ưu thế là dạng 
đỉnh đôi (double peak), chiếm tỷ lệ lần lượt là 
65% và 50% đối với bệnh nhân thiếu hụt yếu tố 
VIII hoặc IX tương ứng. 
7/13 trường hợp ở nhóm có kháng đông 
lupus khảo sát có sự xuất hiện của đường cong 
đạo hàm bậc hai dạng bất thường (độ nhạy 
trung bình, khoảng 54%). 
Kết quả nghiên cứu cũng cho thấy ở nhóm 
có kháng đông lupus thì dạng đường cong đạo 
hàm đỉnh vai (shoulder peak) và đỉnh đôi 
(double peak) chiếm tỷ lệ xuất hiện tương 
đương nhau, tỷ lệ 30% và 24%. 
Tổng hợp các kết quả về độ nhạy và độ đặc 
hiệu của phương pháp sử dụng đường cong đạo 
hàm dạng bất thường (Bảng 6). 
Bảng 6. Độ nhạy và độ đặc hiệu của phương pháp sử 
dụng đường cong đạo hàm dạng bất thường 
 Nhóm bệnh 
lý 
Nhóm đối 
chứng 
Đường cong đạo hàm dạng 
bất thường 
46 0 
Đường cong đạo hàm dạng 
đặc trưng 
9 40 
Tỷ lệ dương tính thật (Sens) 83,6% (46/55) 
Tỷ lệ âm tính thật (Spec) 100% (40/40) 
Giá trị tiên đoán âm (NPV) 81,6% (40/49) 
Giá trị tiên đoán dương (PPV) 100% (46/46) 
Kiểm định 2 cũng cho thấy có sự liên quan 
giữa việc xuất hiện các dạng đường cong đạo 
hàm bậc hai của xét nghiệm APTT với các nhóm 
nghiên cứu khác nhau (p < 0,05). Trong đó, 
đường cong đạo hàm dạng bất thường ở nhóm 
bệnh lý có tỷ lệ xuất hiện cao, chiếm 83,6%. 
Chúng tôi thấy rằng phương pháp dựa vào thời 
gian APTT kéo dài và sự xuất hiện của các 
đường cong đạo hàm bậc hai bất thường của xét 
nghiệm APTT là phương pháp có độ nhạy và độ 
đặc hiệu cao, có thể sử dụng để sàng lọc sớm các 
bất thường về rối loạn đông cầm máu, ngay từ 
các xét nghiệm thường quy ban đầu. Nghiên cứu 
cho thấy sự xuất hiện đường cong đạo hàm dạng 
bất thường có độ nhạy cao đối với nhóm bệnh lý 
thiếu hụt yếu tố VIII (độ nhạy 100%), thiếu yếu 
tố IX đơn lẻ (độ nhạy 81%). 
BÀN LUẬN 
Kết quả của nghiên cứu này tương tự với kết 
luận của Salano và cộng sự (2010). Tác giả đã thử 
nghiệm 179 mẫu huyết tương với bốn loại thuốc 
thử APTT khác nhau trên hệ thống máy đông 
máu ACL TOP bao gồm hai loại thuốc thử có 
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 23 * Số 6 * 2019
Hội Nghị Khoa Học BV. Truyền máu Huyết học 334
chất hoạt hóa là silica và hai thuốc thử có chất 
hoạt hóa là elagic axit. Kết quả cho thấy với 
thuốc thử APTT có chứa chất hoạt hóa là silica, 
đường cong đạo hàm dạng bất thường có liên 
quan đến các bất thường đông máu thực sự như 
thiếu hụt yếu tố đơn lẻ và kháng đông lupus 
(LA) với độ nhạy và độ đặc hiệu của phương 
pháp lần lượt là 91,8% và 95,6%(3). 
Katayama và cộng sự (2018) cũng phân tích 
các đường đạo hàm liên quan trong xét nghiệm 
APTT đối với các nhóm bệnh nhân Hemophilia 
có hoặc không có chất ức chế, nhóm bệnh nhân 
có xét nghiệm LA dương tính và nhóm bệnh 
nhân đang điều trị chống đông bằng warfarin. 
Kết quả cho thấy không có sự khác biệt đáng kể 
về các đường cong APTT giữa bệnh nhân 
Hemophilia và bệnh nhân dương tính với LA. 
Do đó, chẩn đoán phân biệt giữa bệnh 
Hemophilia và LA có thể khó khăn nếu chỉ dựa 
vào xét nghiệm APTT, nhưng giữa nhóm bệnh 
nhân Hemophilia có chất ức chế và LA tương 
đối dễ dàng do sự khác biệt về hình dạng của 
đường cong đạo hàm. Ngoài ra, ở bệnh nhân 
điều trị bằng warfarin, không có sự xuất hiện 
của đường cong đạo hàm dạng đỉnh kép đồng 
thời chiều cao bị giảm xuống và chiều rộng tăng 
lên trong biểu đồ đạo hàm. Do đó, đường cong 
đạo hàm trong xét nghiệm APTT tiềm năng 
không chỉ trong chẩn đoán xu hướng chảy máu 
mà còn theo dõi quá trình điều trị chống đông 
máu(2). 
KẾT LUẬN 
Nhóm nghiên cứu nhận thấy rằng với thuốc 
thử chứa silica hoạt hóa APTT-SP, sự hiện diện 
của đường cong đạo hàm dạng bất thường có 
liên quan đến các nhóm bệnh lý thiếu hụt yếu tố 
đông máu nội sinh và kháng đông lupus, trong 
đó ở nhóm bệnh lý thiếu yếu tố đông máu VIII 
hoặc IX thì đường cong đạo hàm dạng đỉnh đôi 
(double peak) chiếm ưu thế. Nghiên cứu đã 
chứng tỏ đây là một công cụ rất đơn giản và hữu 
ích để sàng lọc và chẩn đoán sớm các bất thường 
về rối loạn đông máu như thiếu hụt yếu tố nội 
sinh hoặc sự hiện diện của chất kháng đông máu 
để đảm bảo thực hiện thêm các xét nghiệm khác 
để kiểm tra. 
TÀI LIỆU THAM KHẢO 
1. Instrumentation Laboratory. Đặc điểm đường cong phản ứng 
đông máu ACL TOP – Máy xét nghiệm đông máu. 
2. Katayama H, Matsumoto T, Wada H, Fujimoto N, Toyoda J and 
Abe Y (2018). An Evaluation of Hemostatic Abnormalities in 
Patients with Hemophilia According to the Activated Partial 
Thromboplastin Time Waveform. Clinical and Applied 
Thrombosis/Hemostasis, 24(7): 1170-1176. 
3. Solano C, Zerafa P and Bird R (2010). A study of atypical APTT 
derivative curves on the ACL TOP coagulation analyser. 
International Journal of Laboratory Hematology, 33:67-78. 
4. Verbruggen B, Meijer P, Novákova I, et al (2008). Diagnosis of 
factor VIII deficiency. Haemophilia, 14(3):76–82. 
Ngày nhận bài báo: 15/07/2019 
Ngày phản biện nhận xét bài báo: 28/08/2019 
Ngày bài báo được đăng: 15/10/2019