Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 21 * Số 1 * 2017 Nghiên cứu Y học
Nhi Khoa 271
ĐẶC ĐIỂM LÂM SÀNG, CẬN LÂM SÀNG VÀ KẾT QUẢ ĐIỀU TRỊ 
BỆNH PHỔI MÔ KẼ TẠI KHOA HÔ HẤP BỆNH VIỆN NHI ĐỒNG 1 
TỪ THÁNG 06/2010 ĐẾN THÁNG 06/2016 
Trần Thị Thùy Dung*, Trần Anh Tuấn*, Trịnh Hồng Nhiên*, Phan Hữu Nguyệt Diễm** 
TÓM TẮT 
Mục tiêu nghiên cứu: Mô tả đặc điểm lâm sàng, cận lâm sàng và kết quả điều trị bệnh phổi mô kẽ tại khoa 
Hô Hấp Bệnh viện Nhi Đồng 1. 
Phương pháp nghiên cứu: Chúng tôi thực hiện nghiên cứu mô tả loạt ca về đặc điểm lâm sàng, cận lâm 
sàng và kết quả điều trị trẻ dưới 15 tuổi bị bệnh phổi mô kẽ tại khoa Hô Hấp Bệnh viện Nhi Đồng 1 từ tháng 
06/2010 đến tháng 06/2016. 
Kết quả: Trong thời gian từ tháng 06/2010 đến tháng 06/2016, chúng tôi nghiên cứu 65 trường hợp bệnh 
phổi mô kẽ tại khoa Hô Hấp Bệnh viện Nhi Đồng 1. Có 52,3% trẻ dưới 2 tuổi, tỷ lệ nam/nữ: 1,6/1. Triệu chứng 
lâm sàng đa dạng là ho kéo dài 92,3%, khò khè 46,2%, thở nhanh và rút lõm lồng ngực/co kéo liên sườn 96,9%, 
ran phổi 98,9%, suy hô hấp 96,9%, ngón tay dùi trống 6,2%, tím 24,6%. Có 13,8% tăng bạch cầu ái toan; trên 
HRCT ngực: 96,9% tổn thương mô kẽ lan tỏa (56,9% kính mờ, 53,9% dày vách, 12,3% lưới, 18,5% nốt, 6,2% 
nốt lưới, 3,1% xơ phổi dạng tổ ong), tổn thương mô kẽ khu trú 3,1%. Phân loại nhóm BPMK xác định được 
nguyên nhân 78,5% (gồm 6 nhóm sau: nhiễm khuẩn 30,8%, bệnh phổi tăng bạch cầu ái toan 13,8%, bệnh phổi 
hít mãn tính 12,3%, rối loạn chức năng surfactant 7,7%, bệnh do u tân sinh 9,2%, BPMK liên quan bệnh hệ 
thống 4,6%); 21,5% chưa tìm được nguyên nhân. Có 14 trẻ được sinh thiết phổi (7 trẻ VPMK lympho bào, 4 trẻ 
VPMK không đặc hiệu, 2 trẻ VPMK dạng bong tróc, 1 trẻ xơ hóa phổi tự phát). Có 86,2% được hỗ trợ hô hấp, 
kháng sinh 100%, corticoids 41,5%, ức chế miễn dịch 6,2%. 38/65 trẻ xuất viện, 11/65 trẻ chuyển viện, 9/65 trẻ 
nặng xin về, 7/65 trẻ tử vong. 
Kết luận: Nhiễm khuẩn là nguyên nhân hay hặp nhất ở trẻ BPMK. Cân nhắc làm sinh thiết phổi sớm hơn để 
có hướng điều trị kịp thời hơn. Cần tiến hành nghiên cứu với cỡ mẫu và phạm vi lớn hơn để nhằm xác định 
nguyên nhân được đầy đủ, từ đó xây dựng lưu đồ tiếp cận chẩn đoán nguyên nhân của BPMK ở trẻ em. 
Từ khóa: bệnh phổi mô kẽ. 
ABSTRACT 
CLINICAL AND PARACLINICAL CHARACTERISTICS OF INTERSTITIAL LUNG DISEASE IN 
CHILDREN AND IT’S TREATMENT RESULT AT RESPIRATORY DEPARTMENT IN CHILDREN’S 
HOSPITAL No1 FROM JUNE 2010 TO JUNE 2016 
Tran Thi Thuy Dung, Tran Anh Tuan, Trinh Hong Nhien, Phan Huu Nguyet Diem 
* Y Hoc TP. Ho Chi Minh * Supplement of Vol. 21 - No 1 - 2017: 271 - 277 
Objectives: To describe the clinical and paraclinical characteristics of interstitial lung disease (ILD) in 
children and it’s treatment result at Respiratory Department in Children’s Hospital No1. 
Materials and method: We performed the descriptive cases series study of the clinical and paraclinical 
characteristics of ILD and it’s treatment result in children aged under 15 with ILD at Respiratory Department in 
Children Hospital No1 from June 2010 to June 2016. 
* Bệnh viện Nhi đồng 1, ** Bộ môn Nhi, Đại học Y Dược TP.HCM 
Tác giả liên lạc: BS. Trần Thị Thùy Dung ĐT: 0935545131 Email: 
[email protected] 
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 21 * Số 1 * 2017
Chuyên Đề Sức Khỏe Sinh Sản – Bà Mẹ Trẻ Em 272
Results: We enrolled 65 children with ILD at Respiratory Department in Children’s Hospital No1 from 
June 2010 to June 2016. There were 52.3% cases under 2 years old and male/female ratio was 1.6/1. Clinical 
manifestations are variable including persistent cough (92.3%), wheezing (46.2%), tachypnea and chest wall 
recession/ intercostal retraction (96.9%), rales (98.9%), respiratory distress (96.9%), clubbing (6.2%), cyanosis 
(24.6%). Eosinophilia was encountered in 13.8% of cases. On thoracic high resolution computed tomography 
(HRCT): 96.9% diffuse interstitial lesions (56.9% frosted glass, 53.9% wall thickness, 12.3% reticular lesions, 
18.5% nodular lesions, 6.2% reticulonodular lesions, 3, 1% honeycomb fibrosis) and 3.1% local interstitial 
lesions. They were classified as ILD of known causes 78.5% including 6 groups: 30.8% infections, 13.8% 
eosinophilia pulmonary disease, 12.3% chronic aspiration pneumonia, 7.7% disorder of surfactant function, 9.2% 
neoplasm, 4.6% ILD associated with systemic diseases and ILD of unknown causes 21.5%. There was 14 cases of 
lung biopsy consisting of lymphocytic interstitial pneumonia (7 cases), nonspecific interstitial pneumonia (4 
cases), desquamative interstitial pneumonia (2 cases), idiopathic pulmonary fibrosis (1 case). There were 86.2% of 
requiring respiratory support, using antibiotics 100%, using corticosteroids 41.5% and immunosuppressive 
drugs 6.2%. There were 38 among 65 cases discharged, 11 among 65 cases transferred, 9 among 65 cases were 
severe that their parents ask to stop treatment, 7 among 65 cases died. 
Conclusions: Infection is the most common cause of ILD in children. Lung biopsy are considered earlier for 
the better treatment. The further study is required in the future to determine the complete causes of ILD in 
children and then to build a flowchart approach in order to make the diagnosis the causes of ILD in children. 
Keywords: interstitial lung disease. 
ĐẶT VẤN ĐỀ 
Bệnh phổi mô kẽ là một dạng bệnh phổi tuy 
hiếm gặp nhưng lại rất phức tạp, dễ bị bỏ sót và 
chẩn đoán nhầm. Hiện nay, trên thế giới có vài 
công trình nghiên cứu liên quan đến BPMK ở trẻ 
em. Năm 1997, Fan và Kozinetz nghiên cứu hồi 
cứu ở 99 trẻ BPMK trong vòng 15 năm tại 
Denver, Colorado; tỷ lệ tử vong ở 24, 48, 60 
tháng sau khi xuất hiện triệu chứng ban đầu lần 
lượt là 83%, 72%, 64%; VPMK dạng tróc vảy và 
những rối loạn mạch máu phổi có tiên lượng xấu 
hơn(7). Năm 2004, Hiệp Hội Hô Hấp Châu Âu đã 
nghiên cứu hồi cứu 185 trẻ BPMK, có 31% là trẻ 
dưới 02 tuổi. Năm 2007, tác giả Deutsch ở Bắc 
Mỹ đã áp dụng phân loại bệnh từ sinh thiết phổi 
với 186 trẻ BPMK từ 11 trung tâm trong thời gian 
05 năm ở trẻ dưới 02 tuổi, tỷ lệ tử vong là 30%, 
ghi nhận hơn 50% rối loạn phổ biến ở 
thời kỳ nhũ nhi(1). 
Tại Việt Nam, có một nghiên cứu về BPMK 
tại BVNĐ2 từ tháng 06/2012 đến 06/2014, có 31 
trẻ BPMK chiếm tỷ lệ 0,17% tổng số trẻ nhập 
khoa Hô Hấp(10). Ngoài ra, cũng có một nghiên 
cứu về BPMK tăng bạch cầu ái toan tại BVNĐ2 
từ tháng 01/2008 đến tháng 05/2010 chiếm tỷ lệ 
0,9% tổng số trẻ nhập khoa Hô Hấp(6). Tuy nhiên, 
những nghiên cứu này lại không đề cập đến sinh 
thiết phổi như là tiêu chuẩn vàng để chẩn đoán 
BPMK. Do đó sẽ bỏ sót nhiều trường hợp bệnh 
và nhiều loại BPMK, chỉ điều trị dựa vào kinh 
nghiệm lâm sàng, chưa có một phác đồ thống 
nhất để giúp điều trị kịp thời được tốt(8). 
Vì vậy, với mong muốn chẩn đoán sớm và 
điều trị kịp thời để làm giảm tỷ lệ biến chứng, di 
chứng, tử vong; chúng tôi thực hiện đề tài này 
nhằm xác định đặc điểm lâm sàng, cận lâm sàng 
và kết quả điều trị BPMK để nhằm có một cái 
nhìn tổng quan hơn về BPMK ở trẻ em. 
Mục tiêu tổng quát 
Mô tả đặc điểm lâm sàng, cận lâm sàng và 
kết quả điều trị bệnh phổi mô kẽ tại khoa Hô 
Hấp Bệnh viện Nhi Đồng 1 từ tháng 06/2010 đến 
tháng 06/2016. 
Mục tiêu chuyên biệt 
Tất cả trẻ ≤ 15 tuổi bị bệnh phổi mô kẽ ở khoa 
Hô Hấp Bệnh viện Nhi Đồng 1 từ tháng 06/2010 
đến tháng 06/2016, chúng tôi tiến hành: 
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 21 * Số 1 * 2017 Nghiên cứu Y học
Nhi Khoa 273
Xác định tỷ lệ bệnh phổi mô kẽ trong số các 
bệnh nhi nhập khoa Hô Hấp. 
Xác định tỷ lệ đặc điểm dịch tễ, lâm sàng, 
cận lâm sàng và nguyên nhân các trường hợp 
bệnh phổi mô kẽ. 
Xác định tỷ lệ và kết quả sinh thiết phổi các 
trường hợp bệnh phổi mô kẽ. 
Xác định tỷ lệ kết quả điều trị các trường hợp 
bệnh phổi mô kẽ. 
ĐỐI TƯỢNG - PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU 
Thiết kế nghiên cứu: 
Nghiên cứu hồi cứu và tiền cứu, mô tả hàng 
loạt ca. 
Đối tượng nghiên cứu: 
Tất cả các trẻ ≤ 15 tuổi đủ tiêu chuẩn chẩn 
đoán bệnh phổi mô kẽ điều trị nội trú tại khoa 
Hô Hấp Bệnh viện Nhi Đồng 1 từ tháng 06/2010 
đến tháng 06/2016. 
Tiêu chuẩn chọn mẫu 
Tiêu chuẩn chọn vào 
Trẻ ≤ 15 tuổi nằm điều trị tại khoa Hô Hấp 
Bệnh viện Nhi Đồng 1 được chẩn đoán bệnh 
phổi mô kẽ khi có từ 3/4 tiêu chuẩn sau (tiêu 
chuẩn thứ 4 bắt buộc), với các triệu chứng kéo 
dài ít nhất 01 tháng(12): 
Triệu chứng hô hấp: ho, thở nhanh hoặc 
không dung nạp với gắng sức. 
Triệu chứng thực thể: ran phổi, ngón tay dùi 
trống hoặc co kéo liên sườn. 
Áp suất oxy trong máu thấp hay giảm 
oxy máu. 
Bất thường nhu mô lan tỏa trên chẩn đoán 
hình ảnh (HRCT ngực: do bác sĩ chẩn đoán hình 
ảnh có kinh nghiệm đọc kết quả). 
Tiêu chuẩn loại trừ 
Những bệnh khác giải thích được các biểu 
hiện lâm sàng trên, như: suyễn, tim bẩm sinh 
cao áp phổi. 
Phương pháp nghiên cứu: 
Công cụ: phiếu thu thập dữ liệu. 
Thu thập số liệu từ hồ sơ bệnh án các trường 
hợp bệnh nhi thỏa mãn tiêu chí chọn mẫu. 
Xử lý số liệu 
Nhập và xử lý số liệu bằng phần mềm SPSS 
16.0. 
Biến số định tính, tính tần số và tỷ lệ 
phần trăm. 
Biến số định lượng, tính trung bình và độ 
lệch chuẩn. 
KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU 
Từ tháng 06/2010 đến tháng 06/2016, tại khoa 
Hô Hấp Bệnh viện Nhi Đồng 1, có 65 trẻ thỏa 
tiêu chuẩn chọn mẫu được đưa vào nghiên cứu. 
Tỷ lệ bệnh phổi mô kẽ nhập viện tại khoa Hô 
Hấp: chiếm 0,07% trẻ nhập khoa cùng thời gian. 
Đặc điểm dịch tễ 
Bảng 1: Đặc điểm dịch tễ 
Đặc điểm Kết quả 
Tuổi trung bình 39,4 ± 5,4 tháng 
Trẻ dưới 2 tuổi 52,3% 
Tỷ lệ nam: nữ 1,6: 1 
Trẻ có tiền căn viêm phổi 55,4% 
Đặc điểm lâm sàng 
Bảng 2: Đặc điểm lâm sàng 
Đặc điểm Tần suất (trẻ) Tỷ lệ (%) 
Ran phổi 64 98,9 
Thở nhanh 63 96,9 
RLLN/co kéo liên sườn 63 96,9 
Ho kéo dài 60 92,3 
Sốt 54 83,1 
Khò khè 30 46,2 
Tím 16 24,6 
Thở mệt khi gắng sức 11 16,9 
Hạch to 8 12,3 
Ngón tay dùi trống 4 6,2 
Viêm khớp 2 3,1 
Suy hô hấp 63 96,9 
Trẻ có bệnh nền 31 47,7 
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 21 * Số 1 * 2017
Chuyên Đề Sức Khỏe Sinh Sản – Bà Mẹ Trẻ Em 274
Đặc điểm cận lâm sàng 
Bảng 3: Đặc điểm cận lâm sàng 
Đặc điểm Tần suất (trẻ) Tỷ lệ (%) 
Huyết học 
Tăng bạch cầu ái toan 9 13,8 
X-quang phổi 
Tổn thương mô kẽ 73,8 
Tổn thương mô kẽ và phế 
nang 
 15,4 
Tổn thương phế nang 10,8 
HRCT ngực 
Kính mờ 37 56,9 
Dày vách 35 53,9 
Nốt 12 18,5 
Dải xơ mô kẽ 12 18,5 
Lưới 8 12,3 
Nốt lưới 4 6,2 
Xơ phổi dạng tổ ong 2 3,1 
Hạch 25 38,5 
Nguyên nhân 
Bảng 4: Phân nhóm nguyên nhân 
Nguyên nhân Tần suất (trẻ) Tỷ lệ (%) 
Nhiễm khuẩn 20 30,8 
Bệnh phổi tăng bạch cầu ái toan 9 13,8 
Bệnh phổi hít mãn tính 8 12,3 
Bệnh do u tân sinh 6 9,2 
Rối loạn chức năng surfactant 5 7,7 
BPMK liên quan bệnh hệ thống 3 4,6 
Chưa tìm được nguyên nhân 14 21,5 
Tỷ lệ và kết quả sinh thiết phổi: có 14 trẻ (chiếm 
21,5%) được sinh thiết phổi. 
Bảng 5: Kết quả sinh thiết phổi 
Phân loại Tần số (trẻ) 
VPMK lympho bào 7 
VPMK không đặc hiệu 4 
VPMK dạng bong tróc 2 
Xơ hóa phổi tự phát 1 
Bảng 6: Phân loại nguyên nhân theo kết quả sinh 
thiết phổi 
Phân loại (n = 14) Nguyên nhân Tần số (trẻ) 
VPMK lympho bào Nhiễm khuẩn 3 
Bệnh phổi hít mãn tính 1 
Bệnh phổi tăng bạch cầu ái 
toan 
1 
Không rõ nguyên nhân 2 
VPMK không đặc 
hiệu 
Nhiễm khuẩn 3 
Bệnh phổi hít mãn tính 1 
Phân loại (n = 14) Nguyên nhân Tần số (trẻ) 
VPMK dạng bong 
tróc 
Bệnh phổi tăng bạch cầu ái 
toan 
1 
Không rõ nguyên nhân 1 
Xơ hóa phổi tự phát Không rõ nguyên nhân 1 
Đặc điểm điều trị 
Bảng 7: Đặc điểm điều trị 
Đặc điểm Tỷ lệ (%) 
Hỗ trợ hô hấp 86,2 
Sử dụng kháng sinh 100 
Sử dụng corticoids 41,5 
Sử dụng thuốc ức chế miễn dịch 6,2 
Kết quả điều trị: thời gian nằm viện trung 
bình là 52 ± 5,2 ngày. Kết quả là 38/65 ca xuất 
viện (58,5%), 11/65 ca chuyển viện chiếm 
16,9% (5 ca theo dõi lao, 2 ca u lympho, 2 ca 
bệnh hệ mô bào langerhans, 1 ca bạch cầu cấp, 
1 ca bị HIV), 9/65 ca nặng xin về (13,8%), 7/65 
ca tử vong (10,8%). 
BÀN LUẬN 
Trong khoảng thời gian từ tháng 06/2010 đến 
tháng 06/2016, chúng tôi ghi nhận có 65 trường 
hợp thỏa tiêu chí được chọn (chiếm tỷ lệ 0,07%). 
Trong nghiên cứu của chúng tôi, trẻ dưới 2 
tuổi chiếm tỷ lệ 52,3%. Con số này cũng gần 
tương đương với một vài nghiên cứu trên thế 
giới, đó là một nghiên cứu đa trung tâm của tác 
giả Nathan N. tại Pháp kéo dài hơn 3 năm ghi 
nhận 205 trẻ BPMK với tỷ lệ trẻ dưới 2 tuổi 
chiếm 50%(9); theo tác giả Paiva M.A. nghiên cứu 
hồi cứu trong vòng 20 năm tại Brazil thì trẻ bị 
BPMK dưới 2 tuổi cũng chiếm hơn phân nửa 
trong tổng dân số nghiên cứu(11). Tác giả Clemet 
A. nghiên cứu hồi cứu trong 5 năm tại Châu Âu 
báo cáo trên 2/3 trong tổng số 185 trẻ bị BPMK(4). 
Tuy nhiên, nghiên cứu của tác giả Nguyễn Thị 
Nhân Mỹ có tỷ lệ trẻ dưới 2 tuổi chiếm 90,3% là 
cao hơn rất nhiều so với nghiên cứu của chúng 
tôi(10). Điều này có thể lý giải là nghiên cứu này 
có lứa tuổi trung bình tham gia nghiên cứu thấp 
và đây chỉ là nghiên cứu một nhóm nhỏ nên có 
thể chưa đủ khái quát hóa. Giới nam chiếm tỷ lệ 
cao hơn (61,5%). Tỷ lệ nam: nữ là 1,6: 1. Dù chưa 
có tác giả nào giải thích được lý do nhưng hầu 
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 21 * Số 1 * 2017 Nghiên cứu Y học
Nhi Khoa 275
hết các nghiên cứu đều cho thấy tỷ lệ mắc BPMK 
ở nam cao hơn nữ. 
Các triệu chứng lâm sàng trong nghiên cứu 
của chúng tôi đa số là triệu chứng hô hấp như ho 
kéo dài chiếm 92,3%, khò khè 46,2%, thở nhanh 
và rút lõm lồng ngực hay co kéo liên sườn 96,9%, 
ran phổi bất kì 98,5%, thở mệt khi gắng sức 
16,9%, ngón tay dùi trống 6,2%. Kết quả này cho 
thấy có sự chênh lệch đáng kể ở một vài triệu 
chứng so với nghiên cứu của tác giả Nguyễn Thị 
Nhân Mỹ (triệu chứng ho kéo dài chiếm 96,7%, 
khò khè 96,%, thở nhanh 71%, thở rút lõm lồng 
ngực hay co kéo liên sườn 90,3%, ran phổi bất kỳ 
96,9%, thở mệt khi gắng sức 51,2%, không có 
ngón tay dùi trống)(10). Sở dĩ có sự khác biệt về 
một số triệu chứng lâm sàng giữa nghiên cứu 
của chúng tôi và tác giả Nguyễn Thị Nhân Mỹ có 
thể là do số trường hợp trong nghiên cứu của tác 
giả thấp hơn và có thể lứa tuổi tham gia nghiên 
cứu của chúng tôi cao hơn vì có một vài triệu 
chứng chỉ khảo sát được ở trẻ lớn. Ngoài ra, có 
47,7% trẻ có bệnh nền kèm theo. 
Nghiên cứu của chúng tôi có 13,8% tăng 
bạch cầu ái toan, con số này cũng gần giống 
với tác giả Nguyễn Thị Nhân Mỹ là 12,9%(10). 
Tất cả trẻ đều có hình ảnh bất thường trên X 
quang với kiểu tổn thương lan tỏa 2 bên. 
Trong đó có 73,8% trẻ có tổn thương mô kẽ 
gồm các hình ảnh kính mờ, lưới, nốt lưới; 
15,4% có tổn thương mô kẽ và phế nang, 
10,8% trẻ tổn thương phế nang. Tuy một trong 
những tiêu chuẩn chọn vào mẫu là có dấu 
hiệu bất thường nhu mô lan tỏa trên hình ảnh 
học, bao gồm trên X quang và HRCT ngực đều 
được, nhưng X quang ngực không phải là xét 
nghiệm tiện ích để xác định trẻ bị BPMK vì có 
độ đặc hiệu thấp, mà tiêu chuẩn để chẩn đoán 
và theo dõi điều trị BPMK về mặt hình ảnh 
học là HRCT ngực(3,13). 
Tất cả trẻ trong nghiên cứu đều được chụp 
HRCT ngực và 100% đều có tổn thương mô 
kẽ. Trong đó, 3,1% có tổn thương khu trú gồm 
1 trẻ tổn thương mô kẽ quanh trục mạch máu 
phế quản và 1 trẻ tổn thương ở đáy phổi 2 bên 
dạng kính mờ; 96,9% có tổn thương lan tỏa với 
hình ảnh kính mờ 56,9%, dày vách liên thùy 
và liên tiểu thùy 53,9%, 12,3% lưới, 18,5% nốt, 
6,2% nốt lưới, 3,1% xơ phổi dạng tổ ong, 18,5% 
dải xơ mô kẽ. Tỷ lệ này cao hơn nghiên cứu 
của tác giả Nguyễn Thị Nhân Mỹ có 80,6% tổn 
thương mô kẽ rải rác, 12,9% có tổn thương 
khu trú, tỷ lệ bên phổi phải so với bên trái là 
3/1, trong đó phổi phải là tổn thương mô kẽ, 
còn 1 trường hợp bên trái là kính mờ và kén 
khí, 6,5% có hình ảnh kính mờ lan tỏa, 16,1% 
có ứ khí kèm theo(10). Trong nghiên cứu của tác 
giả Chen H. Z. tại 11 bệnh viện ở Trung Quốc 
chỉ có 94,6% trẻ được chụp HRCT, trong đó 
63,6% có hình ảnh kính mờ, 30% có xuất hiện 
thể khảm, 1 trường hợp có hình ảnh nốt mờ có 
kích thước nhỏ lan tỏa, còn lại 1 trường hợp có 
hình ảnh nốt lưới mờ lan tỏa và có kén khí(5). 
Trong nghiên cứu của chúng tôi xác định 
được 6 nhóm nguyên nhân chiếm tỷ lệ 78,5% 
(nhiễm khuẩn, bệnh phổi hít mãn tính, rối loạn 
chức năng surfactant, bệnh phổi tăng bạch cầu ái 
toan, BPMK liên quan bệnh hệ thống và do u tân 
sinh) và 21,5% chưa tìm được nguyên nhân. 
Trong đó, nhiễm khuẩn là nguyên nhân chiếm tỷ 
lệ cao nhất 30,8%. Trong khi đó, nghiên cứu kéo 
dài 20 năm tại Brazil của tác giả Paiva M. A. xác 
định được 12 nhóm nguyên nhân(11). Hay nghiên 
cứu của tác giả Barbato A. trong vòng 2 năm tại 
Châu Âu ghi nhận có 14 nhóm nguyên nhân(2). 
Bên cạnh đó nghiên cứu của tác giả Nguyễn Thị 
Nhân Mỹ chỉ ghi nhận được 4 nhóm nguyên 
nhân(10). Sở dĩ tỷ lệ chưa tìm thấy nguyên nhân 
còn cao có thể là vì nghiên cứu của chúng tôi 
không làm được đầy đủ tất cả các xét nghiệm 
cần thiết để chẩn đoán bệnh và tìm nguyên nhân 
cho bệnh nhi vì những lý do chủ quan cũng như 
khách quan như: tình trạng sức khỏe của trẻ 
không đảm bảo, gia đình không đồng ý, 
thiếu trang thiết bị. 
Trong nghiên cứu có 14 trẻ được làm sinh 
thiết phổi (21,5%). Trong đó có 7 trường hợp 
VPMK lympho bào, 4 trường hợp VPMK 
không đặc hiệu, 2 trường hợp VPMK dạng 
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 21 * Số 1 * 2017
Chuyên Đề Sức Khỏe Sinh Sản – Bà Mẹ Trẻ Em 276
bong tróc và 1 trường hợp xơ hóa phổi tự 
phát. Khi đã có kết quả sinh thiết của những 
trẻ này thì sau đó có 11 trường hợp được điều 
trị bằng corticoids chiếm tỷ lệ 78,6%, trong đó 
có 8 trường hợp được điều trị corticoids đơn 
thuần và 3 trường hợp được điều trị corticoids 
trước rồi sau đó kết hợp thêm thuốc ức chế 
miễn dịch. Trong số 3 trường hợp còn lại 
không được điều trị corticoids gồm 1 trường 
hợp tử thiết với kết quả sinh thiết phổi là 
VPMK dạng bong tróc; 1 trường hợp tử vong 
trên trẻ có bệnh nền là tiêu thượng bì bóng 
nước bẩm sinh và suy dinh dưỡng mức độ 
nặng thể nhẹ cân với kết quả sinh thiết phổi là 
xơ hóa phổi tự phát; và 1 trường hợp có lâm 
sàng ổn định trước khi có kết quả sinh thiết 
phổi (VPMK lympho bào) nên sau đó trẻ được 
xuất viện và không điều trị gì thêm. Một 
nghiên cứu ở Trung Quốc trên 93 trẻ BPMK từ 
11 bệnh viện trong cả nước. Mỗi bệnh nhi đều 
được làm xét nghiệm cần thiết để chẩn đoán 
bệnh và tìm nguyên nhân, trong đó có 14 
trường hợp có làm sinh thiết phổi và 25 
trường hợp có làm nội soi phế quản. Kết quả 
ghi nhận được có 10 nguyên nhân được xác 
định, trong đó có 03 nguyên nhân thường gặp 
nhất là viêm tiểu phế quản tắc nghẽn (chiếm 
41,93%), bệnh phổi ứ sắt tự phát (41,93%), 
BPMK tự phát (chiếm 7,52%, gồm: VPMK 
không đặc hiệu, VPMK cấp tính, VPMK 
lympho bào, xơ hóa phổi tự phát); và 8,62% 
còn lại các nguyên nhân khác (gồm: BPMK thứ 
phát, viêm phổi quá mẫn, bệnh phổi nhiễm 
protein phế nang, bệnh phổi nhiễm lipid, viêm 
tiểu phế quản tắc nghẽn - viêm phổi tổ chức 
hóa, viêm toàn bộ tiểu phế quản lan tỏa, bệnh 
vi sỏi phế nang)(5). Qua kết quả sinh thiết phổi 
chúng tôi ghi nhận có 4 loại VPMK. Trong đó, 
nguyên nhân thường gặp của VPMK lympho 
bào là nhiễm khuẩn, bệnh phổi hít mãn tính, 
bệnh phổi tăng bạch cầu ái toan và có thể là 
không rõ nguyên nhân; VPMK không đặc hiệu 
nguyên nhân là nhiễm khuẩn và bệnh phổi hít 
mãn tính; VPMK dạng bong tróc nguyên nhân 
là bệnh phổi tăng bạch cầu ái toan và có thể là 
không rõ nguyên nhân; và còn lại xơ hóa phổi 
tự phát là không rõ nguyên nhân. Qua kết quả 
trên chúng tôi nhận thấy rằng nhiễm khuẩn 
vẫn là nguyên nhân thường gặp và hay gặp 2 
dạng VPMK là VPMK dạng lympho bào và 
VPMK không đặc hiệu. 
Trong nghiên cứu của chúng tôi có 86,2% 
được hỗ trợ hô hấp bằng nhiều phương pháp 
khác nhau. 100% trẻ đều được sử dụng kháng 
sinh dạng tĩnh mạch hoặc tĩnh mạch kết hợp với 
uống. Tuy nhiên, việc sử dụng kháng sinh chỉ 
trong giai đoạn nhiễm trùng, nếu trẻ được chẩn 
đoán là BPMK mà lúc này tình trạng nhiễm 
trùng ổn định chỉ còn là vấn đề suy hô hấp của 
trẻ thì đa phần trẻ sẽ chỉ dùng kháng sinh dạng 
uống hoặc không dùng kháng sinh tiếp mà cân 
nhắc việc điều trị BPMK. Theo nghiên cứu của 
tác giả Nguyễn Thị Nhân Mỹ, ghi nhận có 61,3% 
trẻ được điều trị corticoids và chỉ dùng dạng 
uống. Thời gian dùng corticoids là 16 ± 3 ngày tại 
khoa Hô Hấp, ngắn nhất là 3 ngày và dài nhất là 
36 ngày(10). Có 41,5% trẻ được sử dụng corticoids 
dạng uống hoặc tiêm tĩnh mạch kết hợp uống, tỷ 
lệ này thấp hơn tác giả Nguyễn Thị Nhân Mỹ là 
61,3% dạng uống đơn thuần. Sở dĩ có sự khác 
biệt này là do nghiên cứu của chúng tôi có thời 
gian lâu hơn và cũng có thể do đặc thù của 
BVND1. Nghiên cứu của tác giả Clement A. có tỷ 
lệ sử dụng corticoids cao hơn chúng tôi là 74,6% 
trẻ được điều trị bằng corticoids uống, 21,6% 
dạng tiêm tĩnh mạch, 18,4% uống kết hợp với 
tiêm tĩnh mạch(4). Trong khi đó nghiên cứu của 
chúng tôi chỉ có 20% trẻ được sử dụng đường 
uống và 21,5% trẻ dùng đường uống kết hợp 
tĩnh mạch. Có lẽ là do cỡ mẫu nghiên cứu chúng 
tôi nhỏ, và nghiên cứu của chúng tôi chỉ được 
thực hiện tại BVND1. Ngoài ra, có 4 trẻ được sử 
dụng ức chế miễn dịch chiếm tỷ lệ 6,2%. 
Thời gian nằm viện trung bình là 52 ± 5,2 
ngày, ngắn nhất là 4 ngày và dài nhất là 193 
ngày. Kết quả điều trị cuối cùng trong nghiên 
cứu của chúng tôi: ghi nhận 38 bệnh nhi được 
xuất viện (58,5%), 11 ca chuyển viện chiếm 16,9% 
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 21 * Số 1 * 2017 Nghiên cứu Y học
Nhi Khoa 277
(5 ca theo dõi lao, 2 ca u lympho, 2 ca bệnh hệ 
mô bào langerhans, 1 ca bạch cầu cấp, 1 ca bị 
HIV), 9 ca xin về (13,8%), 7 ca tử vong (10,8%). 
Qua đó, chúng tôi nhận thấy được số trẻ được 
sinh thiết phổi có kết quả điều trị tốt (xuất viện) 
có khuynh hướng tăng hơn so với số trẻ không 
được sinh thiết phổi. Do đó, chúng tôi đề nghị 
cần làm sinh thiết phổi sớm khi đã đủ tiêu chuẩn 
chẩn đoán BPMK như đã nêu ở trên để có hướng 
điều trị kịp thời hơn. Tuy nhiên, nghiên cứu của 
chúng tôi còn bị nhiều hạn chế như: cỡ mẫu nhỏ, 
thân nhân không đồng ý điều trị, thân nhân xin 
về hay những trường hợp chuyển viện. 
KẾT LUẬN 
Nhiễm khuẩn là nguyên nhân hay hặp nhất 
ở trẻ BPMK. Sinh thiết phổi được coi là tiêu 
chuẩn vàng để chẩn đoán BPMK nên cần cân 
nhắc làm sinh thiết phổi sớm hơn để có hướng 
điều trị kịp thời hơn. Cần tiến hành nghiên cứu 
với cỡ mẫu và phạm vi lớn hơn để nhằm xác 
định nguyên nhân được đầy đủ, từ đó xây dựng 
lưu đồ tiếp cận chẩn đoán nguyên nhân của 
BPMK ở trẻ em. 
TÀI LIỆU THAM KHẢO 
1. Annamalai M, Thula SA (2014), “A Clinical Approach To 
Childhood Interstitial Lung Disease”, The Paediatric Quarterly, 
5 (3), pp. 5-11. 
2. Barbato A, Panizzolo C, Cracco A, et al. (2000), “Interstitial 
lung disease in children: a multicentre survey on diagnostic 
approach”, Eur Respir J, 16 (3), pp. 509-513. 
3. Clement A, Eber E (2008), “Interstitial lung diseases in infants 
and children”, Eur Respir J, 31 (3), pp. 658-666. 
4. Clement A (2004), “Task force on chronic interstitial lung 
disease in immunocompetent children”, Eur Respir J, 24 (4), 
pp. 686-697. 
5. Chen HZ (2011), “Clinical study on interstitial lung disease in 
children of China”, Zhonghua Er Ke Za Zhi, 49 (10), pp. 734-
739. 
6. Đặng Thị Kim Huyên (2010), Đặc điểm bệnh phổi tăng bạch 
cầu ái toan tại khoa hô hấp bệnh viện Nhi Đồng 2, Luận văn 
Bác sĩ Chuyên khoa cấp 2 - Chuyên ngành Nhi khoa, Đại học Y 
Dược TP. Hồ Chí Minh. 
7. Fan LL, Kozinetz CA (1997), “Factors influencing survival in 
children with chronic interstitial lung disease”, Am J Respir 
Crit Care Med, 156 (3 Pt 1), pp. 939-942. 
8. Fan LL, Robin RD (2004), “Pediatric interstitial lung disease 
revisited”, Pediatr Pulmonol, 38 (5), pp. 369-378. 
9. Nathan N, Taam RA, Epaud R, et al. (2012), “A national 
internet-linked based database for pediatric interstitial lung 
diseases: the French network”, Orphanet J Rare Dis, 7:40. 
10. Nguyễn Thị Nhân Mỹ (2014), Đặc điểm bệnh phổi mô kẽ tại 
khoa hô hấp bệnh viện Nhi Đồng 2, Luận văn Thạc sĩ Y học - 
Chuyên ngành Nhi khoa, Đại học Y Dược TP Hồ Chí Minh. 
11. Paiva MA, Amaral SM (2007), “Chronic Interstitial Lung 
Disease in Children”, Jornal de Pediatric, 83 (3), pp. 233-240. 
12. Robin RD (2012), “New concepts in children’s interstitial lung 
disease and diffuse lung disease”, Kendig & Chernick’s 
Disorders of the Respiratory Tract in Children 8th edition, Elsevier 
Saunders, Philadelphia, pp. 796-799. 
13. Vece TJ, Fan LL (2011), “Diagnosis and management of diffuse 
lung disease in children”, Paediatr Respir Rev, 12 (4), pp. 238-
242. 
Ngày nhận bài báo: 24/11/2016 
Ngày phản biện nhận xét bài báo: 21/12/2016 
Ngày bài báo được đăng: 01/03/2017