Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 23 * Số 1 * 2019 Nghiên cứu Y học
Chuyên Đề Ngoại Khoa 71
ĐẶC ĐIỂM HÌNH ẢNH X QUANG CẮT LỚP VI TÍNH 
CỦA BÓC TÁCH ĐỘNG MẠCH CHỦ 
Lê Thị Nga My*, Trần Minh Hoàng*, Lê Quang Khang* 
TÓM TẮT 
Đặt vấn đề: Bóc tách động mạch chủ (BTĐMC) được định nghĩa là do rách lớp nội mạc làm máu chảy vào 
lớp trung mạc tạo thành lòng thật và lòng giả. Khi có nghi ngờ bóc tách động mạch chủ việc chẩn đoán, điều trị 
sớm quyết định khả năng sống còn và cải thiện tiên lượng của bệnh nhân. Các phương tiện chẩn đoán bệnh này 
gồm XQCLVT, cộng hưởng từ và siêu âm tim qua ngả thực quản. Trong đó, X quang cắt lớp vi tính (XQCLVT) 
có độ nhạy và độ đặc hiệu cao từ 98 – 100%. XQCLVT giúp xác định chẩn đoán bóc tách, các kỹ thuật tái tạo 
hình ảnh giúp đánh giá được biến chứng và tổn thương các nhánh mạch máu của động mạch chủ. 
Mục tiêu nghiên cứu: Mô tả đặc điểm hình ảnh XQCLVT của bóc tách động mạch chủ. 
Đối tượng và phương pháp nghiên cứu: Thiết kế nghiên cứu cắt ngang mô tả: Những bệnh nhân được 
chẩn đoán bóc tách động mạch chủ dựa vào hình ảnh X quang cắt lớp vi tính có tiêm thuốc cản quang trước điều 
trị tại bệnh viện Đại học Y Dược TP. Hồ Chí Minh và bệnh viện Chợ Rẫy trong thời gian từ 1/1/2016 đến 
31/3/2018. 
Kết quả: Từ tháng 1/2016 đến tháng 3/2018 trong mẫu nghiên cứu có 76 trường hợp thu thập tại bệnh viện 
Chợ Rẫy và bệnh viện Đại học Y Dược TP. Hồ Chí Minh trong đó có 33% BTĐMC loại A và 67% BTĐMC loại 
B. Tuổi trung bình là 57,7, tỉ lệ nam: nữ khoảng 4:1. Yếu tố nguy cơ THA và xơ vữa động mạch chiếm tỉ lệ 85,5 
% các trường hợp. Xác định được 214 lỗ rách lá nội mạc (trung bình 2,8 ± 1,3, trung vị 3, GTLN-GTNN 1-7), 
đường kính trung bình của lỗ rách 1,5 ± 0,5 cm, vị trí thường gặp nhất là động mạch chủ bụng. Đường kính 
động mạch chủ lên trung bình trong BTĐMC loại A là 5,0 cm, và 76% trường hợp đường kính <5,5cm. Đường 
kính động mạch chủ xuống trung bình trong BTĐMC loại B là 4,2cm và 82% trường hợp có đường kính nhỏ 
hơn 5,5cm. Tỉ lệ tràn máu màng tim là 14,5%, tràn máu màng phổi là 13,2% và tụ máu quanh động mạch chủ là 
15,8%. Dấu mỏ chim là dấu hiệu hữu ích nhất để xác định lòng giả trong BTĐMC cấp tính và mạn tính. Dấu 
hiệu đóng vôi thành ngoài mạch máu và đóng vôi lệch tâm lá nội mạc giúp nhận diện lòng thật. 
 Kết luận: Tất cả các bệnh nhân BTĐMC đều có thể xác đinh ít nhất 1 vị trí rách lá nội mạc bằng XQCLVT. 
Đa số các trường hợp có đường kính động mạch chủ < 5,5 cm và không nằm trong chỉ định điều trị chọn lọc thay 
động mạch chủ hay can thiệp để giảm nguy cơ tử vong do biến chứng bóc tách động mạch chủ. Dấu hiệu mỏ chim 
là dấu hiệu hữu ích nhất để phân biệt lòng thật- lòng giả. 
Từ khóa: bóc tách động mạch chủ, lỗ rách lá nội mạc, đóng vôi lệch tâm lá nội mạc, huyết khối trong lòng, 
đóng vôi thành ngoài mạch máu, dấu mỏ chim, dấu mạng nhện 
ABSTRACT 
CT IMAGING FEATURE OF AORTIC DISSECTION 
Le Thi Nga My, Tran Minh Hoang, Le Quang Khang 
* Ho Chi Minh City Journal of Medicine * Supplement of Vol. 23 - No 1- 2019: 71-77 
Introduction: Aortic dissection is a tearing through the intima into the aortic wall (intimal tear), resulting 
in the formation of a false lumen partitioned from the true lumen by the intimal flap. When aortic dissection is 
suspected, expedient and accurate confirmation of the diagnosis is important. Diagnostic methods available to 
diagnose aortic dissection include contrast-enhanced CT, MRI, TEE. CECT is highly accurate in diagnosing 
*Bộ Môn Chẩn Đoán Hình Ảnh, Đại học Y Dược TP. Hồ Chí Minh 
Tác giả liên lạc: BS Lê Thị Nga My ĐT: 0973740714 Email: 
[email protected] 
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 23 * Số 1 * 2019
Chuyên Đề Ngoại Khoa 72
aortic dissection, with a sensitivity and specifcity of 98% to 100%. Spiral (helical) CECT allows three-
dimensional reconstruction for evaluation of the dissection and branch vessels and is critical for planning 
endovascular repair. 
Purpose: To determine the CT feature of aortic dissection. 
Materials and Methods: CT scans from 76 patients with an unoperated aortic dissection and a patent 
false lumen were evaluated on a workstation of Chợ Rẫy hospital, University Medical Center HCMC. 
Results: From January 2016 to March 2018, 76 patients (25 patients with type A, 51 patients with type 
B) were enrolled in study. The mean age of all patients was 57.7 ± 14.4 years; 84% were male. A history of 
hypertension and atherosclerosis was present in 85.5% of patients. 214 tears were identified (mean 2.8 ± 1.3 
per patient, median 3, range 1–7), the mean width of intimal tear was 1.5 ± 0.5 cm, the most common 
locations for tears were the abdominal aortic artery. In type A aortic dissection, maximal ascending aortic 
diameters averaged 5 cm, 76% patients had aortic diameters <5.5 cm. The median aortic diameter at the level 
of acute type B aortic dissection was 4.0 cm (range 3.6–4.5cm), 82% of patients with acute type B aortic 
dissection had an aortic diameter <5.5 cm. Hemorrhage pericardial effusion was detected in 14.5%, periaortic 
hematoma is a complication present in 15.8%, and hemorrhagic pleural effusion was present in 13.2%. The 
beak sign were the most useful indicators of the false lumen for both acute and chronic dissections. Features 
generally indicative of the true lumen included outer wall calcification and eccentric flap calcification. 
Conclusions: All patients with an aortic dissection and a patent false lumen demonstrated one or more 
aortic intimal tears using spiral CT. The majority of patients aortic dissection present with aortic diameters 
5.5 cm and thus do not fall within current guidelines for elective aneurysm surgery, or elective descending 
thoracic aortic repair. Methods other than size measurement of the aorta are needed to identify patients at 
risk for dissection. The beak sign were the most useful indicators of the false lumen for both acute and chronic 
dissections. Features generally indicative of the true lumen included outer wall calcification and eccentric 
flap calcification. 
Keywords: aortic dissection, eccentric calcification, intimal tear, intramural hematoma, outerwall 
calcification, beak sign, cobweb sign 
ĐẶT VẤN ĐỀ 
Bóc tách động mạch chủ (BTĐMC) vẫn là 
nguyên nhân cấp cứu hay gặp nhất trong các 
bệnh lý động mạch chủ, gây ảnh hưởng nghiêm 
trọng đến tính mạng bệnh nhân. Tỉ lệ tử vong ở 
bệnh nhân bóc tách động mạch chủ cấp loại A 
trước khi được phẫu thuật rất cao, tăng > 1% mỗi 
giờ trong 48 giờ đầu tiên(2). Do đó việc chẩn 
đoán, điều trị sớm quyết định khả năng sống 
còn và cải thiện tiên lượng của bệnh nhân. Kỹ 
thuật chụp mạch máu bằng XQCLVT có thể 
chẩn đoán bóc tách, ngoài ra còn xác định được 
kích thước động mạch chủ và các biến chứng. 
Tại Việt Nam do hoàn cảnh kinh tế, điều kiện về 
trang thiết bị nên XQCLVT được chỉ định trong 
hầu hết các trường hợp nghi ngờ chẩn đoán bóc 
tách động mạch chủ. Hiện tại chưa có nghiên 
cứu nào về đặc điểm hình ảnh XQCLVT của bóc 
tách động mạch chủ ở Việt Nam, nên chúng tôi 
tiến hành nghiên cứu này nhằm góp phần cho 
cái nhìn tổng quát về một số đặc điểm hình ảnh 
XQCLVT trong bệnh lý bóc tách động mạch chủ. 
Mục tiêu nghiên cứu 
Mô tả đặc điểm hình ảnh của bệnh bóc tách 
động mạch chủ trên X quang cắt lớp vi tính. 
ĐỐI TƯỢNG - PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU 
Đối tượng nghiên cứu: Bệnh nhân được chẩn 
đoán bóc tách động mạch chủ dựa vào hình ảnh 
X quang cắt lớp vi tính có tiêm thuốc cản quang 
trước điều trị tại bệnh viện Đại học Y Dược TP. 
Hồ Chí Minh và bệnh viện Chợ Rẫy trong thời 
gian từ 1/1/2016 đến 31/3/2018. 
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 23 * Số 1 * 2019 Nghiên cứu Y học
Chuyên Đề Ngoại Khoa 73
Thiết kế nghiên cứu 
Cắt ngang mô tả. 
Phương pháp thu thập số liệu 
Quy trình thu thập số liệu được thực hiện 
trong thời gian từ tháng 11/2017 đến tháng 
3/2018. Tiến hành hồi cứu hồ sơ các trường hợp 
được chẩn đoán bóc tách động mạch chủ từ 
phòng hồ sơ thỏa tiêu chuẩn chọn mẫu và tiêu 
chuẩn loại trừ, thu thập các số liệu về tuổi, giới, 
triệu chứng lâm sàng, tiền căn. Hồi cứu hình ảnh 
cắt lớp vi tính thỏa điều kiện chọn mẫu, sau đó 
tiến hình phân tích đặc điểm hình ảnh. 
Xử lý số liệu 
Thống kê mô tả 
Các biến định lượng: dữ liệu được mô tả 
bằng trung bình ± độ lệch chuẩn khi ước lượng 
trung bình tổng thể, giá trị tối thiểu, giá trị tối đa. 
Các biến định tính: dữ liệu được mô tả bằng 
tần số, tỷ lệ phần trăm. 
Thống kê phân tích 
Sử dụng phép kiểm chi bình phương (χ2) để 
xét mối liên quan giữa phân loại BTĐMC theo 
Standford với đặc điểm dân số, đặc điểm lâm 
sàng và vị trí rách lá nội mạc, mối liên quan giữa 
đường kính động mạch chủ ngực đoạn lên với 
đặc điểm dân số, mối liên quan giữa đường kính 
động mạch chủ ngực xuống đoạn gần với đặc 
điểm dân số. Nếu trên 20% số các giá trị vọng trị 
< 5 hoặc có giá trị vọng trị < 1 thì sử dụng phép 
kiểm chính xác Fisher thay cho phép kiểm chi 
bình phương với ngưỡng ý nghĩa thống kê là 
0,05 (p-value < 0,05). 
Phép kiểm T-test được sử dụng để xác 
định mối liên quan đơn biến với ngưỡng ý 
nghĩa thống kê là 0,05 (p-value <0,05) khi biến 
số phân phối bình thường giữa tuổi với giới, 
giữa tuổi với phân loại đường kính, sử dụng 
phép kiểm phi tham số Mann-Whitney khi 
biến số phân phối không bình thường. Sử 
dụng mô hình hồi quy logistic tìm mối liên 
giữa phân loại đường kính với các đặc điểm 
dân số, đặc điểm lâm sàng với ngưỡng ý nghĩa 
thống kê là 0,05 (p-value < 0,05). 
KẾT QUẢ 
Thực hiện nghiên cứu tại Bệnh viện Đại học 
Y Dược TP. Hồ Chí Minh và Bệnh viện Chợ Rẫy 
trong thời gian từ tháng 1/2016 đến tháng 3/2018 
chúng tôi thu thập được 76 mẫu (với 46 trường 
hợp ghi nhận tại bệnh viện Chợ Rẫy và 30 
trường hợp thu thập tại Bệnh viện Đại học Y 
Dược TP. Hồ Chí Minh). Trong đó có 64 bệnh 
nhân nam chiếm tỉ lệ 84,2% và 12 bệnh nhân nữ 
chiếm tỉ lệ 15,8%. Như vậy bệnh xảy ra ưu thế 
hơn ở giới nam. Tuổi nhỏ nhất trong mẫu nghiên 
cứu là 25 tuổi và lớn nhất là 89 tuổi. Tuổi trung 
bình là 57,7 ± 14,4 tuổi. Trong đó bóc tách động 
mạch chủ tập trung chủ yếu ở nhóm tuổi 40-69 
tuổi với tỉ lệ 72 %, nhóm tuổi ≥ 70 tuổi chiếm tỉ lệ 
17% với 13/76 ca. Nhóm ≤ 39 tuổi chiếm tỉ lệ thấp 
nhất với 10,5%. 
Trong nghiên cứu mẫu 76 bệnh nhân bóc 
tách ghi nhận 214 lỗ rách lá nội mạc, ca có số vị 
trí rách lá nội mạc ít nhất là 1 vị trí, và nhiều 
nhất là 7 vị trí. Trung bình mỗi bệnh nhân có 
2,8 ± 1,3 lỗ rách. Kích thước trung bình của lỗ 
rách lá nội mạc là 1,5 cm. Không có sự khác 
biệt về số lượng lỗ rách giữa nhóm cấp tính và 
mạn tính trong mỗi phân loại BTĐMC 
(p>0,05). Động mạch chủ bụng là vị trí thường 
gặp nhất (94 lỗ rách lá nội mạc, 44%). Vị trí 
thường gặp tiếp theo là động mạch ngực 
xuống (89 vị trí, 42%). Đoạn gốc động mạch và 
cung động mạch chủ ít gặp nhất với 7 lỗ rách ở 
gốc động mạch chủ và 4 lỗ rách ở cung động 
mạch chủ). Trong BTĐMC loại A có 84% có vị 
trí rách lá nội mạc quan sát được ở động mạch 
chủ lên và đoạn gốc động mạch chủ nhiều hơn 
nhóm không quan sát thấy lỗ rách lá nội mạc 
16%, khác biệt có ý nghĩa thống kê (p<0,001). 
Bảng 1: Phân bố lỗ rách lá nội mạc theo vị trí các 
đoạn động mạch chủ 
Vị trí rách 
Số lượng lỗ rách 
(n=214) 
Tỉ lệ 
(%) 
Đoạn gốc động mạch chủ 7 3 
Động mạch chủ lên 20 9 
Cung động mạch chủ 4 2 
Đông mạch chủ xuống 89 42 
Động mạch chủ bụng 94 44 
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 23 * Số 1 * 2019
Chuyên Đề Ngoại Khoa 74
Trong nghiên cứu của chúng tôi, ở BTĐMC 
loại A đường kính động mạch chủ lên có giá 
trị trung bình 5,0 ± 1,04 cm với trung vị 4,6 cm, 
với 76% trường hợp có đường kính < 5,5 cm. 
Đường kính động mạch chủ ngực đoạn xuống 
trong BTĐMC loại B có giá trị trung bình là 4,2 
± 1,1 cm, trung vị 4,0 cm, với 82% trường hợp 
có đường kính < 5,5 cm. Các dấu hiệu gợi ý 
biến chứng vỡ-dọa vỡ động chủ trong bóc tách 
động mạch chủ là tràn máu màng tim chiếm tỉ 
lệ 14,5%, tràn máu màng phổi chiếm tỉ lệ 13,2% 
và dấu hiệu tụ máu quanh động mạch chủ 
chiếm tỉ lệ 15,8%. Đây là những dấu hiệu ít 
gặp, làm tăng nguy cơ tử vong ở bệnh nhân 
bóc tách động mạch chủ. Trong mẫu nghiên 
cứu của chúng tôi có 100% trường hợp 
BTĐMC gồm cả cấp tính và mạn tính có dấu 
hiệu mỏ chim, lòng giả chiếm tỉ lệ 100% và 
không gặp ở lòng thật. Dấu mạng nhện chỉ có 
lòng giả, không có ở lòng thật, trong khoảng 
33,9% BTĐMC cấp tính và 17,7% BTĐMC mạn 
tính. Những trường hợp BTĐMC có huyết 
khối lòng thật luôn kèm có huyết khối ở lòng 
giả. Trong bóc tách mạn tính, dấu hiệu này 
gặp nhiều hơn so với bóc tách cấp tính. Bóc 
tách cấp tính có dấu đóng vôi lệch tâm của nội 
mạc với 32,2% ở mặt lòng thật và 1,7% mặt 
lòng giả. Bóc tách mạn tính có 28,6% đóng vôi 
mặt lòng thật và 0% đóng vôi mặt lòng giả. 
Trong bóc tách cấp tính và mạn tính, dấu hiệu 
đóng vôi lệch tâm của nội mạc mặt lòng thật 
nhiều hơn lòng giả và sự khác biệt có ý nghĩa 
thống kê. BTĐMC cấp tính có 54,9% có đóng 
vôi thành ngoài lòng mạch lòng thật và 0% 
đóng vôi thành ngoài ở lòng giả. BTĐMC mạn 
tính có 90,9% có đóng vôi lòng mạch lòng thật 
và 0% lòng giả. Như vậy đóng vôi thành ngoài 
trong bóc tách cấp tính chỉ gặp ở lòng thật, và 
đóng vôi thành ngoài trong bóc tách mạn tính 
có thể gặp ở hai lòng với 6/76 trường hợp có 
đóng vôi ở cả hai lòng và không có trường hợp 
nào đơn độc chỉ có đóng vôi thành ngoài mặt 
lòng giả. Dấu mỏ chim có độ nhạy 100% và độ 
đặc hiệu 100%, dấu mạng nhện có độ nhạy 
30% và độ đặc hiệu 100%, huyết khối lòng 
mạch có độ nhạy 75% và độ đặc hiệu 93% giúp 
nhận diện lòng giả. Đóng vôi lớp nội mạc có 
độ nhạy 34%, độ đặc hiệu 94% và dấu hiệu 
đóng vôi thành ngoài có độ nhạy 63%, độ đặc 
hiệu 92% giúp nhận diện lòng thật. 
BÀN LUẬN 
Trong nghiên cứu của chúng tôi, tất cả các 
trường hợp đều có thể xác định được ít nhất 1 lỗ 
rách lá nội mạc, với số lượng lỗ rách lá nội mạc 
trung bình là 2, vị trí thường gặp nhất là động 
mạch chủ bụng. Không có sự khác biệt về số 
lượng lỗ rách ở mỗi bệnh nhân giữa hai nhóm 
bóc tách cấp tính và mạn tính trong mỗi phân 
loại (p>0,05), với 43% lỗ rách ở động mạch chủ 
ngực xuống. Tỉ lệ phân bố lỗ rách lá nội mạc 
theo vị trí trong nghiên cứu của chúng tôi phù 
hợp với nghiên cứu của tác giả Quint và cộng sự. 
Trong 394 bệnh nhân BTĐMC trong nghiên cứu 
của Hirst, 62% lỗ vào ở ĐMC lên và hầu hết nằm 
trong khoảng 4 cm phía trên xoang Valsava, là vị 
trí dòng máu có áp lực lớn nhất và xoáy nhất, 
16% lỗ vào nằm ở ngay sau chỗ xuất phát động 
mạch dưới đòn trái, sau đó quá trình bóc tách có 
thể tiến triển xuôi dòng về phía ĐMC xuống 
hoặc ngược dòng về phía ĐMC lên, 9% trường 
hợp BTĐMC còn lại có lỗ vào xuất phát từ quai 
ĐMC và hiếm khi xuất hiện ở ĐMC bụng, chỉ 
3%(6). Đường kính lỗ rách lá nội mạc trung bình 
trong nghiên cứu của chúng tôi là 1,5cm, tương 
đương với kích thước lỗ rách lá nội mạc của tác 
giả Lu Dong năm 2016 trên cả XQCLVT và DSA 
là 1,4 ± 0,5 cm và 1,5 ± 0,5 cm(13). Kích thước lỗ 
rách lá nội mạc giúp dự đoán sự chênh lệch áp 
lực giữa lòng thật và lòng giả, kích thước càng 
làm tăng sự cân bằng áp lực giữa hai lòng, lòng 
thật sẽ dễ bị chèn ép gây thiếu máu tạng từ các 
nhánh mạch máu xuất phát từ lòng thật(8). 
Đường kính động mạch chủ lên trong bóc 
tách loại A có đường kính trung bình 5,3 cm và 
trung vị là 5 cm trong nghiên cứu từ dữ liệu 
IRAD của Pape L năm 2007, 60% bệnh nhân có 
đường kính < 5,5 cm(7). Như vậy đường kính 
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 23 * Số 1 * 2019 Nghiên cứu Y học
Chuyên Đề Ngoại Khoa 75
động mạch chủ lên trong nghiên cứu của chúng 
tôi nhỏ hơn so với nghiên cứu của tác giả nước 
ngoài, điều này có thể giải thích do thể trạng 
người Việt Nam nhỏ hơn. Tuy nhiên có điểm 
chung là đa số các trường hợp bóc tách đều có 
đường kính ĐMC lên < 5,5 cm (76% trong 
nghiên cứu của chúng tôi và 60% của tác giả 
Pape L). Nghiên cứu từ dữ liệu IRAD của tác giả 
Trimarchi năm 2010 cho biết đường kính động 
mạch chủ ngực xuống trong BTĐMC loại B có 
giá trị trung bình 4,4 ± 1,35 cm, trung vị 4,1 cm(5). 
Tương tự với BTĐMC loại A, đường kính động 
mạch chủ ngực xuống trong nghiên cứu của 
chúng tôi nhỏ hơn so với nghiên cứu của tác giả 
nước ngoài, và phần lớn các trường hợp bóc tách 
đều đường kính ĐMC ngực xuống < 5,5 cm. 
Nguy cơ bóc tách động mạch chủ và vỡ động 
mạch chủ tăng khi đường kính động mạch tăng. 
Với phình động mạch chủ ngực, khi đường kính 
≥ 6 cm nguy cơ bóc tách hoặc vỡ tăng lên 6,9% và 
nguy cơ tử vong tăng 11,5% mỗi năm(3). Lựa 
chọn điều trị phình động mạch chủ ngực dự 
phòng biến chứng đe doạ tính mạng phụ thuộc 
vào từng bệnh nhân cụ thể, nhưng ngưỡng được 
chọn để phẫu thuật thay động mạch chủ hoặc 
đặt stent nội mạch được khuyến cáo khi đường 
kính gốc và động mạch chủ lên ≥ 5,5 cm, cung 
động mạch chủ ≥ 5,5 - 6 cm, động mạch chủ 
ngực xuống và động mạch chủ bụng ≥ 5,5 - 6 
cm(2,3,4,9). Từ nghiên cứu của IRAD của tác giả 
Pape L về đường kính động mạch chủ lên và tác 
giả Trimarchi cho thấy phần lớn bệnh nhân bóc 
tách có đường kính < 5,5 cm, như vậy đường 
kính động mạch trước biến cố bóc tách đa phần 
sẽ < 5,5 cm và không nằm trong nhóm điều trị 
chọn lọc. 
Nghiên cứu của chúng tôi cho thấy dấu mỏ 
chim (độ nhạy 100%, độ đặc hiệu 100%) dễ 
dàng nhận hiện trên hình ảnh XQCLVT cắt 
ngang là dấu hiệu đáng tin cậy giúp phân biệt 
hai lòng và dấu hiệu luôn luôn có trong mọi 
trường hợp bóc tách. Dấu mạng nhện là đường 
đậm độ thấp trên hình XQCLVT có tiêm thuốc 
tương phản do những sợi đàn hồi trong cấu 
trúc lá trung mạc rách không hoàn toàn khi 
bóc tách. Dấu hiệu này cũng chỉ gặp trong 
lòng giả với độ nhạy 30%, độ đặc hiệu 100%, 
được cho là khá đặc hiệu nhưng không nhạy 
để nhận diện lòng giả. Điều này phù hợp với 
nghiên cứu của tác giả Quint LE và cộng sự, 
trong nghiên cứu của nhóm tác giả này dấu 
mỏ chim được tìm thấy ở lòng giả trong tất cả 
các trường hợp, dấu mạng nhện có tỉ lệ hiện 
diện ở lòng giả thấp với tỉ lệ thấp hơn so với 
nghiên cứu của chúng tôi, 9% ở bóc tách cấp 
tính và 17% ở bóc tách mạn tính. Theo nghiên 
cứu của tác giả Hayashy năm 1995, XQCLVT 
phát hiện dấu mạng nhện với độ nhạy 30%, 
tương đương với độ nhạy trong nghiên cứu 
chúng tôi là 30%(1). Nghiên cứu năm 1997 của 
nhóm tác giả Do Yun Lee mô tả trên siêu âm 
nội mạch cho biết các dấu hiệu nhận biết lòng 
giả với dấu mỏ chim có độ nhạy 94% và độ đặc 
hiệu 100% và dấu mạng nhện có độ nhạy 23% 
và độ đặc hiệu 100%(12). 
Trong bóc tách động mạch chủ, huyết khối 
thường hiện diện ở lòng giả do các yếu tố 
đông máu tiếp xúc với các sợi trong lớp trung 
mạc và sự ứ trệ của dòng chảy chậm trong 
lòng giả. Huyết khối vẫn có thể có ở lòng thật 
trong trường hợp bệnh nhân phình mạch chủ 
trước bóc tách. Trong nghiên cứu của chúng 
tôi cho thấy huyết khối trong lòng mạch (độ 
nhạy 75%, độ đặc hiệu 93%) là yếu tố giúp 
nhận diện lòng giả trong cả bóc tách cấp với tỉ 
lệ 64% và mạn tính với tỉ lệ 97%. Kết quả này 
phù hợp với nghiên cứu của tác giả Quint LE 
và cộng sự. Nghiên cứu của nhóm tác giả Do 
Yun Lee cho biết dấu hiệu huyết khối lòng chỉ 
có ở lòng giả có độ nhạy 29% và độ đặc hiệu 
100%. Có sự khác biệt đặc điểm này so với 
nghiên cứu của chúng tôi và Quint LE có thể 
được giải thích bằng sự khác nhau trong hai 
phương pháp khảo sát của nghiên cứu là siêu 
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 23 * Số 1 * 2019
Chuyên Đề Ngoại Khoa 76
âm và XQCLVT. Huyết khối giai đoạn cấp sẽ 
đậm độ cao trên XQCLVT và đậm độ thấp 
trong lòng mạch ở các giai đoạn sau. 
Dấu hiệu đóng vôi thành ngoài gặp ở lòng 
thật nhiều hơn ở lòng giả trong BTĐMC. Tuy 
nhiên dấu hiệu này không tin cậy vì trong bóc 
tách mạn tính lòng giả có thể có đóng vôi với tỉ lệ 
6/76 trường hợp và không có sự khác biệt có ý 
nghĩa thống kê với đóng vôi thành ngoài mặt 
lòng thật trong nhóm này. Trong nghiên cứu của 
tác giả Quint trong bóc tách cấp tính không có 
dấu hiệu đóng vôi thành ngoài ở lòng giả, trong 
bóc tách mạn tính có đóng vôi thành ngoài lòng 
thật nhiều hơn lòng giả, sự khác biệt có ý nghĩa 
thống kê. Nghiên cứu của tác giả de Jon PA năm 
2014 cho thấy có đóng vôi thành ngoài mặt lòng 
giả ở cả bóc tách động mạch cấp và mạn tính(11). 
Điều này được giải thích do quá trình sự nội mạc 
hóa ở lòng giả hoặc theo nhóm tác giả 
Blumenthal và cộng sự đã đưa ra giả thiết và 
chứng minh bằng giải phẫu bệnh sự đóng vôi 
trong xơ vữa động mạch có xảy ra ở lớp trung 
mạc(10). Do đó, mặt ngoài lòng giả của lá nội mạc 
cũng có thể đóng vôi, trong nghiên cứu của 
chúng tôi dấu hiệu đóng vôi lá nội mạc mặt lòng 
giả chiếm tỉ lệ 8% (với 6/76 ca), không gặp trong 
bóc tách cấp tính. Đóng vôi lá nội mạc mặt lòng 
thật nhiều hơn so với lòng giả ở bóc tách cấp tính 
và mạn tính, sự khác biệt có ý nghĩa thống kê. 
Vậy trong các dấu hiệu chúng tôi chọn để 
phân biệt hai lòng trong bóc tách động mạch 
chủ, dấu mỏ chim là dấu hiệu đáng tin cậy nhất 
để xác định lòng giả, dấu mạng nhện chỉ có ở 
lòng giả và huyết khối trong lòng có thể giúp 
nhận diện lòng giả. Đóng vôi lá nội mạc có thể 
dự đoán lòng thật, đóng vôi thành ngoài được 
sử dung để dự đoán lòng thật trong trường hợp 
bóc tách động mạch cấp tính. 
KẾT LUẬN 
XQCTVT có thể nhận diện lỗ rách lá nội mạc, 
mỗi bệnh nhân bóc tách động mạch chủ có ít 
nhất 1 lỗ rách, trung bình khoảng 2-3 lỗ, đường 
kính trung bình lỗ rách là 1,5 ± 0,5 cm. Trong đó 
động mạch chủ ngực và động mạch chủ bụng là 
hai vị trí thường gặp nhất. Nhóm đường kính 
động mạch chủ ngực lên ở loại A < 5,5 cm và 
đường kính động mạch chủ xuống < 5,5 cm ở 
loại B chiếm đa số trong các trường hợp. Các dấu 
hiệu gợi ý biến chứng vỡ-dọa vỡ động chủ trong 
bóc tách động mạch chủ là tràn máu màng tim, 
tràn máu màng phổi và dấu hiệu tụ máu quanh 
động mạch chủ là những dấu hiệu ít gặp. Trong 
phân biệt lòng thật và lòng giả thì dấu mỏ chim 
là dấu hiệu đáng tin cậy nhất để xác định lòng 
giả. Dấu mạng nhện và huyết khối trong lòng có 
thể giúp nhận diện lòng giả. Đóng vôi lá nội mạc 
có thể dự đoán lòng thật, đóng vôi thành ngoài 
được sử dụng để dự đoán lòng thật trong trường 
hợp bóc tách động mạch cấp tính. 
TÀI LIỆU THAM KHẢO 
1. Anagnostopoulos CE, Manakavalan JS, Frederick KC (1972). 
"Aortic dissections and dissecting aneurysms". American 
Journal of Cardiology, 30(3):pp.263-273. 
2. Braunwald E (2018). "Diseases of aorta". Braunwald’s Heart 
Disease: A textbook of cardiovascular medicine, pp.1195-1322. 
3. Coady MA et al (1999). "Surgical intervention criteria for 
thoracic aortic aneurysms: a study of growth rates and 
complications". Ann Thorac Surg, vol 67(6), pp.1922-1953. 
4. Davies RR et al (2002). "Yearly rupture or dissection rates for 
thoracic aortic aneurysms: simple prediction based on size". 
Ann Thorac Surg, 73(1):pp.17-18. 
5. De Jong PA et al (2014). "Computed Tomography of Aortic 
Wall Calcifications in Aortic Dissection Patients". PLoS ONE, 
9(7):pp.1020. 
6. Elefteriades JA (2002). "Natural history of thoracic aortic 
aneurysms: indications for surgery, and surgical versus 
nonsurgical risks". Ann Thorac Surg, 74(5):pp.1877-1892 
7. Hayashi H et al (1995). "CT analysis of aortic cobwebs in 
aortic dissection". Nihon Igaku Hoshasen Gakkai Zasshi, 
55(6):pp.402-408. 
8. Hirst AE, Johns VJ, Kime SW (1958). "Dissecting aneurysm of 
the aorta: a review of 505 cases". Medicine (Baltimore), 
37(3):pp.217-279. 
9. Lee DY, Williams DM, Abrams GD (1997). "The dissected 
aorta: part II. Differentiation of the true from the false lumen 
with intravascular US". Radiology, 203(1):pp.32-36. 
10. Lu D et al (2017). "Diagnostic value of multislice 
computerized tomography angiography for aortic dissection: 
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 23 * Số 1 * 2019 Nghiên cứu Y học
Chuyên Đề Ngoại Khoa 77
A comparison with DSA". Experimental and Therapeutic 
Medicine, 13(2):pp.405-412 
11. Pape LA et al (2007). "Aortic diameter >or = 5.5 cm is not a 
good predictor of type A aortic dissection: observations from 
the International Registry of Acute Aortic Dissection (IRAD)". 
Circulation, 116(10):pp.1120-1127. 
12. Quint LE et al (2003)."Aortic intimal tears: detection with 
spiral computed tomography". J Endovasc Ther, 10(3):pp.505-510. 
13. Trimarchi S et al (2011). "Descending aortic diameter of 5.5 cm 
or greater is not an accurate predictor of acute type B aortic 
dissection". J Thorac Cardiovasc Surg, 142(3):pp.101-107. 
Ngày nhận bài báo: 08/11/2018 
Ngày phản biện nhận xét bài báo: 07/12/2018 
Ngày bài báo được đăng: 10/03/2019