Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 23 * Số 1 * 2019
Chuyên Đề Ngoại Khoa 22
ĐẶC ĐIỂM HÌNH ẢNH CỘNG HƯỞNG TỪ 
CỦA RÒ ĐỘNG-TĨNH MẠCH MÀNG CỨNG NỘI SỌ 
Bùi Thị Song Hạnh*, Đỗ Hải Thanh Anh**, Phạm Ngọc Hoa*** 
TÓM TẮT 
Mở đầu: Chụp mạch máu số hóa xóa nền (DSA) luôn là tiêu chuẩn vàng trong chẩn đoán và đánh giá rò 
động-tĩnh mạch màng cứng nội sọ (DAVFs). Tuy nhiên hiện nay MRI đã được nhiều nghiên cứu cho thấy là một 
phương tiện chẩn đoán hình ảnh không xâm lấn có giá trị trong gợi ý chẩn đoán và đánh giá DAVFs cũng như 
tổn thương nhu mô não đi kèm. 
Mục tiêu nghiên cứu: Mô tả đặc điểm hình ảnh MRI của DAVFs nội sọ và vai trò của MRI trong chẩn 
đoán và đánh giá DAVFs nội sọ. 
Đối tượng và phương pháp nghiên cứu: Mô tả báo cáo loạt ca 59 bệnh nhân được chẩn đoán DAVFs nội 
sọ trên DSA và có chụp MRI trước can thiệp tại bệnh viện Đại học Y dược từ 1/2013-8/2018. Khảo sát MRI 
bằng máy từ trường cao 1,5 Tesla và 3 Tesla trên các chuỗi xung TOF 3D, CE-MRA và time-resolved CE-MRA, 
SWI, T2W, T1 3D CE. Mô tả các đặc điểm hình ảnh MRI của DAVFs trên các chuỗi xung và đánh giá vai trò 
của từng chuỗi xung trong chẩn đoán DAVFs, xác định vi trí và kiểu dẫn lưu tĩnh mạch. 
Kết quả: Giá trị chẩn đoán DAVFs của các chuỗi xung TOF 3D, CE-MRA, time-resolved CE-MRA 
(TWIST), SWI, T2W, T1 3D CE lần lượt là: 90%, 96%, 100%, 88% (ngoài xoang hang), 32% và 39%. Trong 
xác định vị trí DAVFs, TOF 3D, CE-MRA và time-resolved CE-MRA (TWIST) có độ đồng thuận rất mạnh với 
DSA (k lần lượt = 0,83; 0,86; 1). Trong phân loại kiểu dẫn lưu tĩnh mạch vỏ não theo Cognard, MRI thường qui 
có độ đồng thuận mạnh trong khi chuỗi xung time-resolved CE-MRA có độ đồng thuận rất mạnh với DSA (k lần 
lượt = 0,71 và 0,88). 
Kết luận: Tuy DSA vẫn là tiêu chuẩn vàng trong chẩn đoán và đánh giá DAVFs, MRI là phương tiện chẩn 
đoán hình ảnh không xâm lấn có giá trị cao trong chẩn đoán, xác định vị trí và kiểu dẫn lưu tĩnh mạch của 
DAVFs, cũng như những tổn thương nhu mô não đi kèm. 
Từ khóa: DAVFs, dấu hiệu hình ảnh MRI của DAVFs, time-resolved CE-MRA trong DAVFs, SWI trong 
phát hiện thông nối động tĩnh mạch 
ABSTRACT 
MAGNETIC RESONNANCE FINDINGS OF INTRACRANIAL DURAL ARTERIOVENOUS FISTULAS 
Bui Thi Song Hanh, Do Hai Thanh Anh, Pham Ngoc Hoa 
* Ho Chi Minh City Journal of Medicine * Supplement of Vol. 23 - No 1- 2019: 22-28 
Background: Digital subtraction angiography (DSA) is always considered as the gold standard in diagnosis 
and evaluation Intracranial Dural Arteriovenous Fistulas (DAVFs). However, nowadays many studies has 
proven that MRI is a valuable non-invasive technique in detection and evaluation of DAVFs as well as the brain 
lesion caused by the shunt. 
Purpose: Describe MRI findings of intracranial DAVFs and MRI role in detection and evaluation of 
intracranial DAVFs. 
Materials and methods: A case series of 59 patients diagnosed with intracranial DAVFs by DSA and 
*BM Chẩn Đoán Hình Ảnh, Đại học Y Dược TP. Hồ Chí Minh 
**Hội Chẩn Đoán Hình Ảnh TP. Hồ Chí Minh 
Tác giả liên lạc: BS. Bùi Thị Song Hạnh ĐT: 0909147523 Email: 
[email protected] 
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 23 * Số 1 * 2019 Nghiên cứu Y học
Chuyên Đề Ngoại Khoa 23
underwent MRI examinations before intervention in University Medical Center from 1/2013 to 8/2018. The 
patients were evaluated by 1.5 Tesla and 3 Tesla magnetic field with TOF 3D, CE-MRA, time-resolved CE-
MRA, SWI, T2W and T1 3D CE. Describe MRI findings of intracranial DAVFs on each sequences and 
calculate the role of each sequences in detection and localization of DAVFs, as well as in identification the 
venous drainage patterns. 
Results: TOF 3D, CE-MRA, time-resolved CE-MRA (TWIST), SWI, T2W, T1 3D CE detect 
intracranial DAVFs by 90%, 96%, 100%, 88% (exclude the cavernous sinus), 32% and 39% consecutively. 
About fistula site, TOF 3D, CE-MRA and time-resolved CE-MRA (TWIST) all have excellent intermodality 
agreements with DSA (k = 0.83; 0.86; 1 consecutively). In identification venous drainage patterns, 
convetional MRI has good agreements with DSA while time-resolved CE-MRA has excellent agreements (k 
= 0.71 và 0.88 by consecutively). 
Conclusion: DSA remains as the gold standard for diagnosis and evaluation intracranial DAVFs. However 
MRI is a non-invasive imaging technique with high value in detection, localization and identification venous 
drainage patterns of intracranial DAVFs, as well as the brain damage. 
Key words: DAVFs, MRI findings of DAVFs, radiological patterns of intracranial DAVFs, time-resolved 
CE-MRA in DAVFs, SWI in high-flow detection. 
ĐẶT VẤN ĐỀ 
Rò động-tĩnh mạch màng cứng nội sọ 
(Intracranial Dural Arteriovenous Fistulas: 
DAVFs) là sự thông nối bất thường giữa các 
nhánh động mạch màng cứng với các xoang tĩnh 
mạch màng cứng và/hoặc các tĩnh mạch vỏ não. 
DAVFs chiếm khoảng 10-15% các trường hợp 
bất thường động-tĩnh mạch não(10,14). DAVFs gây 
ứ trệ tuần hoàn tĩnh mạch bị rò và từ đó gây ra 
triệu chứng của các cơ quan mà tĩnh mạch đó 
dẫn lưu. Lâm sàng DAVFs có thể thay đổi từ 
hoàn toàn không triệu chứng hoặc gây xuất 
huyết nặng đe dọa tính mạng. Vì vậy việc chẩn 
đoán và đánh giá DAVFs là hết sức cần thiết. 
Cho đến nay chụp mạch máu số hóa xóa nền 
(Digital subtraction angiography: DSA) là tiêu 
chuẩn vàng trong chẩn đoán và đánh giá 
DAVFs. Tuy nhiên đây là một kĩ thuật xâm lấn, 
có thể gây ra những biến chứng thần kinh 
nghiêm trọng. Bệnh nhân còn phải phơi nhiễm 
với một lượng lớn tia X. Vì vậy việc chọn lọc 
bệnh nhân cho thủ thuật DSA là rất quan trọng, 
tránh cho bệnh nhân một cuộc chụp DSA không 
cần thiết. Hơn nữa, DSA không thể đánh giá 
được thương tổn nhu mô não, một trong những 
yếu tố quan trọng để quyết định điều trị. Cộng 
hưởng từ sọ não (Magnetic resonance imaging: 
MRI) có thể khảo sát hệ thống mạch máu não và 
đặc biệt là các tổn thương nhu mô não đi kèm, là 
phương tiện chẩn đoán hình ảnh được lựa chọn. 
Hiện nay trên thế giới đã có nhiều nghiên 
cứu về hình ảnh MRI trong DAVFs, tuy nhiên 
các nghiên cứu này chỉ khảo sát hình ảnh MRI 
trên một hoặc hai kỹ thuật. Tại Việt Nam cho 
đến thời điểm này chưa có công trình nghiên 
cứu nào về cộng hưởng từ rò động tĩnh mạch 
màng cứng nội sọ. Trên cơ sở đó chúng tôi tiến 
hành nghiên cứu “Mô tả đặc điểm hình ảnh cộng 
hưởng từ của rò động tĩnh mạch màng cứng nội 
sọ” với mục tiêu: Mô tả đặc điểm hình ảnh 
cộng hưởng từ của rò động-tĩnh mạch màng 
cứng nội sọ, đồng thời đánh giá vai trò của 
cộng hưởng từ trong chẩn đoán rò động-tĩnh 
mạch màng cứng nội sọ, xác định vị trí rò và 
kiểu dẫn lưu tĩnh mạch. 
ĐỐI TƯỢNG - PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU 
Thiết kế nghiên cứu 
Mô tả báo cáo loạt ca. 
Dối tượng nghiên cứu 
Những bệnh nhân được chẩn đoán DAVFs 
nội sọ trên DSA và có chụp MRI trước can 
thiệp tại bệnh viện Đại học Y Dược TP. Hồ Chí 
Minh từ 1/2013-8/2018, loại trừ những bệnh 
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 23 * Số 1 * 2019
Chuyên Đề Ngoại Khoa 24
nhân có tổn thương mạch máu nội sọ khác đi 
kèm hoặc có tiền căn can thiệp mạch máu nội sọ. 
Phương tiện nghiên cứu 
Khảo sát MRI bằng máy từ trường cao 1,5 
Tesla và 3 Tesla trên các chuỗi xung TOF 3D, CE-
MRA và time-resolved CE-MRA, SWI, T2W, T1 
3D CE. 
Sơ đồ nghiên cứu 
1. Phòng DSA: Hồi cứu các bệnh nhân đã 
được chẩn đoán DAVFs từ 1/1/2013-31/07/2018 
tại bệnh viện Đại học Y Dược TP. Hồ Chí Minh. 
2. Phòng hồ sơ: Thu thập thông tin từ hồ sơ 
bệnh án. Chọn những bệnh nhân có chụp MRI 
trước can thiệp và thỏa tiêu chí chọn mẫu. 
3. Phòng đọc phim: Thu thập dữ liệu hình 
ảnh MRI từ hệ thống PACS, đĩa CD lưu trữ. 
4. Phân tích số liệu: Số liệu được thu thập 
bằng bảng thu thập số liệu, nhập và xử lý số liệu 
bằng phần mềm SPSS 20. Xác định mối liên quan 
bằng phép kiểm Chi bình phương. Nếu có trên 
20% số các giá trị vọng trị < 5 hoặc có giá trị vọng 
trị <1 thì dùng phép kiểm chính xác Fisher. Tính 
độ đồng thuận giữa hai kỹ thuật chẩn đoán bằng 
giá trị kappa. Mối liên quan có ý nghĩa thống kê 
nếu p<0,05. 
KẾT QUẢ 
Nghiên cứu hồi cứu trong thời gian từ năm 
2013 đến năm 2018, chúng tôi thu thập 59 trường 
hợp DAVFs được chẩn đoán tại bệnh viện Đại 
học Y Dược TP. Hồ Chí Minh thỏa các tiêu 
chuẩn nghiên cứu. Qua thu thập và phân tích dữ 
liệu được, chúng tôi thu được các kết quả được 
trình bày dưới đây. 
Phân tích hình ảnh TOF 3D trên 59 bệnh 
nhân ghi nhận các dấu hiệu: đường hoặc nốt tín 
hiệu cao sát thành cấu trúc tĩnh mạch và tăng tín 
hiệu trong cấu trúc tĩnh mạch. Mỗi dấu hiệu 
chẩn đoán lần lượt hiện diện trong 81,36% và 
89,83% số bệnh nhân, cả hai dấu hiệu đều trên 
80%. Toàn bộ các trường hợp có đường cong 
hoặc nốt tín hiệu cao đều có tăng tín hiệu trong 
cấu trúc tĩnh mạch, trong khi có 5 trường hợp có 
tăng tín hiệu trong cấu trúc tĩnh mạch mà không 
thấy các đường cong hoặc nốt tín hiệu cao. Vì 
vậy tỉ lệ chẩn đoán DAVFs của chuỗi xung TOF 
3D trong nghiên cứu là 89,83%, cũng chính là tỉ 
lệ chẩn đoán của dấu hiệu tăng tín hiệu trong 
cấu trúc tĩnh mạch. Có 6 bệnh nhân chuỗi xung 
TOF 3D không thể phát hiện bất cứ DAVFs nào. 
Trong 28 ca được chụp CE-MRA đúng thì, 
dấu hiệu cấu trúc tĩnh mạch bắt thuốc sớm trên 
thì động mạch gợi ý chẩn đoán DAVFs. 
Qua 44 ca được chụp với chuỗi xung SWI 
ghi nhận 2 dấu hiệu: tăng tín hiệu trong cấu trúc 
tĩnh mạch hoặc sung huyết tĩnh mạch vỏ não. 
Dấu hiệu sung huyết nhạy hơn và dấu hiệu tăng 
tín hiệu đặc hiệu hơn trong chẩn đoán dẫn lưu 
tĩnh mạch vỏ não. 
Các dấu hiệu gợi ý DAVFs trên hình T2W ở 
59 ca là các flow-voids bất thường của tĩnh mạch 
vỏ não, chỉ gặp trong trường hợp có dẫn lưu tĩnh 
mạch vỏ não và trên hình T1 3D CE là các tĩnh 
mạch vỏ não ngoằn nghoèo, tăng về kích thước 
hoặc số lượng. 
Bảng 1: Tóm tắt giá trị của từng chuỗi xung MRI trong chẩn đoán, xác định vị trí của kiểu dẫn lưu tĩnh mạch 
của DAVFs 
Tên xung 
Chẩn đoán (Theo từng 
bệnh nhân) 
Đồng thuận với DSA 
trong xác định vị trí rò 
Phát hiện dẫn lưu tĩnh 
mạch vỏ não 
Đồng thuận với DSA trong 
phân type dẫn lưu tĩnh mạch 
(Borden và Cognard) 
TOF 3D 90% Rất mạnh k = 0,83 Sens = 64%, Spec = 100% 
0,81 và 0,71 
CE-MRA 96% Rất mạnh k = 0,86 Sens = 77%, Spec = 93% 
SWI 88% (ngoài xoang hang) Sens = 90%, Spec = 91% 
T2W 32% Sens = 73%, Spec = 100% 
T1 Vibe 3D 39% Sens = 81%, Spec = 94% 
TWIST 100% Rất mạnh k = 1 Sens = 100%, Spec = 94% 0,91 và 0,88 
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 23 * Số 1 * 2019 Nghiên cứu Y học
Chuyên Đề Ngoại Khoa 25
Đối với 23 ca được chụp với chuỗi xung 
time-resolved CE-MRA (TWIST): cấu trúc tĩnh 
mạch bắt thuốc sớm trên thì động mạch. 
TWIST có độ phân giải thời gian cao và chụp 
liên tục nên có thể đánh giá chiều lưu thông 
của dòng máu, giúp chẩn đoán và đánh giá 
DAVFs chính xác hơn. 
BÀN LUẬN 
Chuỗi xung TOF 3D 
Về tỉ lệ chẩn đoán DAVFs của từng dấu 
hiệu trên TOF 3D, kết quả của chúng tôi có 
chút thay đổi so với nghiên cứu của Noguchi 
(n=15)(12) và của Meckel (n=12)(8). Cả hai nghiên 
cứu này đều ghi nhận dấu hiệu đường cong 
hoặc nốt tín hiệu cao sát thành một cấu trúc 
tĩnh mạch xuất hiện nhiều hơn dấu hiệu tăng 
tín hiệu trong cấu trúc tĩnh mạch, trong khi 
nghiên cứu của chúng tôi ghi nhận ngược lại. 
Chúng tôi nhận thấy dấu hiệu đường cong 
hoặc nốt tín hiệu cao khó ghi nhận trong 
những trường hợp rò trực tiếp vào tĩnh mạch 
vỏ não hoặc rò vùng xoang hang. Trong 
nghiên cứu của chúng tôi, những trường hợp 
không ghi nhận được dấu hiệu này phần lớn là 
rò vùng xoang hang (4 trường hợp) hoặc rò 
trực tiếp vào tĩnh mạch vỏ não (4 trường hợp). 
Nghiên cứu của Noguchi không thực hiện trên 
bệnh nhân rò xoang hang hoặc rò trực tiếp vào 
tĩnh mạch vỏ não, nghiên cứu của Meckel 
cũng không thực hiện trên bệnh nhân rò xoang 
hang. Có lẽ chính điều này cộng với cỡ mẫu 
khác nhau dẫn đến sự khác biệt về tỉ lệ xuất 
hiện dấu hiệu nói trên. Tỉ lệ chẩn đoán DAVFs 
trên TOF 3D của chúng tôi tương đồng với tác 
giả Meckel, thấp hơn so với tác giả Noguchi và 
Azuma. Nghiên cứu của Minako Azuma (n = 
26)(1) và Noguchi cho thấy tỉ lệ chẩn đoán của 
chuỗi xung TOF lên đến 100%. Điều này khả 
năng do trong hai nghiên cứu này chuỗi xung 
TOF 3D được quét từ lỗ chẩm đến hết não, 
trong khi nghiên cứu của chúng tôi và Meckel 
chỉ quét đến trần não thất. 
Trong 58 DAVFs được phát hiện, chuỗi 
xung TOF 3D xác định đúng vị trí rò trong 
54/59 trường hợp, tương ứng 91,53%, chỉ số 
kappa là 0,83 (0,77–0,89) cho thấy mức độ 
đồng thuận rất mạnh giữa chuỗi xung TOF 3D 
và DSA trong xác định vị trí DAVFs. Tỉ lệ xác 
định đúng vị trí DAVFs của chúng tôi khá 
tương đồng với nghiên cứu của Chen (n=7)(2) 
và Azuma (n=26)(1), khác biệt với nghiên cứu 
của Meckel (n=7). Nghiên cứu của Meckel có tỉ 
lệ chẩn đoán đúng vị trí rò thấp chỉ có 57%. 
Điều này có khả năng do Meckel chia vị trí rò 
chi tiết hơn, như chia rõ rò ở xoang ngang, 
xoang sigma, tĩnh mạch cảnh, trong khi trong 
nghiên cứu của chúng tôi những vị trí này đều 
xét chung là rò xoang ngang – sigma. 
Vai trò của chuỗi xung TOF 3D trong chẩn 
đoán dẫn lưu tĩnh mạch vỏ não rất khác nhau 
trong các nghiên cứu. Trong nghiên cứu của 
chúng tôi (n = 59), chuỗi xung TOF 3D có độ 
nhạy 62% và độ đặc hiệu 100%. Trong nghiên 
cứu của Noguchi (n = 15) có 5 bệnh nhân có dẫn 
lưu vào tĩnh mạch vỏ não, TOF 3D không phát 
hiện được ca nào. Trong khi nghiên cứu của 
Minako TOF 3D chẩn đoán được dẫn lưu tĩnh 
mạch vỏ não ở 16/16 bệnh nhân tương đương 
100%. Độ đặc hiệu của chuỗi xung TOF 3D cũng 
giống nhau ở cả 2 nghiên cứu đều đạt 100%. 
Nghiên cứu của Noguchi không phát hiện được 
dẫn lưu tĩnh mạch vỏ não khả năng do trong 
nghiên cứu không có rò Borden type III. Trong 
type này vì DAVFs là thông nối trực tiếp giữa 
động mạch và tĩnh mạch vỏ não nên vận tốc 
trong các tĩnh mạch sẽ nhanh hơn, dễ hiện hình 
trên TOF hơn khi trào ngược từ xoang tĩnh 
mạch. Trong nghiên cứu của chúng tôi TOF 3D 
ghi nhận dẫn lưu tĩnh mạch vỏ não ở 5/7 bệnh 
nhân Borden type III, trong khi chỉ ghi nhận ở 
11/19 ca Borden type II. Nghiên cứu của Minako 
có tỉ lệ phát hiện cao khả năng cũng do trường 
quét phủ hết não, tăng khả năng chẩn đoán dẫn 
lưu tĩnh mạch vỏ não ở vùng xoang dọc trên. 
Chuỗi xung CE-MRA 
Trong nghiên cứu của chúng tôi có 28 bệnh 
nhân được chụp đúng thì. CE-MRA chẩn đoán 
được DAVFs ở 27/28 trường hợp, chiếm tỉ lệ 96%. 
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 23 * Số 1 * 2019
Chuyên Đề Ngoại Khoa 26
Trong những DAVFs được phát hiện, CE-
MRA chẩn đoán đúng vị trí 28/30 DAVF tương 
ứng tỉ lệ 93%, giá trị kappa là 0,86 cho thấy 
mức độ đồng thuận rất mạnh giữa CE-MRA 
và DSA trong chẩn đoán vị trí DAVFs. Kết quả 
này cao hơn so với kết quả của Cohen SD 
(n=26)(3) cho thấy CE-MRA first pass có độ 
nhạy là 50%. Khác biệt này khả năng do trong 
nghiên cứu của Samuel có cả những ca CE-
MRA chụp muộn khi thuốc đã vào các xoang 
tĩnh mạch. Nghiên cứu của chúng tôi cho thấy 
nếu được chụp đúng thì, giá trị chẩn đoán và 
đánh giá DAVFs của CE-MRA rất cao. Hiện 
chúng tôi chưa tìm được nghiên cứu so sánh 
CE-MRA và time-resolved CE-MRA trong 
chẩn đoán và đánh giá DAVFs nội sọ. 
CE-MRA phát hiện dẫn lưu tĩnh mạch vỏ 
não ở 10/13 trường hợp với độ nhạy 77% và độ 
đặc hiệu 93%, cho thấy CE-MRA có độ nhạy 
cao và đặc hiệu cao trong chẩn đoán dẫn lưu 
vào tĩnh mạch vỏ não. Trên thế giới có rất ít 
nghiên cứu khảo sát riêng vai trò của CE-MRA 
trong DAVFs. Phần lớn các nghiên cứu khảo 
sát trên CE-MRA động học (time-resolved CE-MRA). 
Chuỗi xung SWI 
Nghiên cứu của chúng tôi cho thấy có sự 
khác biệt có ý nghĩa thống kê giữa tỉ lệ phát hiện 
DAVFs của chuỗi xung SWI tại xoang hang và 
ngoài xoang hang. Nếu chỉ tính trong nhóm rò 
ngoài xoang hang, tỉ lệ chẩn đoán DAVFs của 
chuỗi xung SWI trong nghiên cứu của chúng tôi 
là 88%, phù hợp với nghiên cứu của Jagadeesan 
(n=29)(5) và Jain (n=26)(6). Điều này khả năng do 
xoang hang nằm cạnh nhiều cấu trúc xương, 
tăng tín hiệu trong xoang hang dễ bị che lấp bởi 
ảnh giả nhạy từ. 
Chẩn đoán dẫn lưu tĩnh mạch vỏ não trên 
SWI khi có tăng tín hiệu trong tĩnh mạch vỏ 
não hoặc sung huyết các tĩnh mạch này. Trong 
44 ca được chụp chuỗi xung SWI trong nghiên 
cứu của chúng tôi, có 21 ca có dẫn lưu tĩnh 
mạch vỏ não. Dấu hiệu tăng tín hiệu trong tĩnh 
mạch vỏ não có độ nhạy 67% và độ đặc hiệu 
100%. Dấu hiệu sung huyết tĩnh mạch vỏ não 
có độ nhạy 90% và độ đặc hiệu 91%. Kết hợp 
cả hai dấu hiệu, chuỗi xung SWI có độ nhạy 
90% và đặc hiệu 91% trong phát hiện tình 
trạng này. Tỉ lệ chẩn đoán dẫn lưu tĩnh mạch 
vỏ não của chúng tôi phù hợp với tác giả Jain 
(n=25) và Nakagawa (n=17)(9), thấp hơn trong 
nghiên cứu của Noguchi (n = 10)(13); tỉ lệ các 
dấu hiệu khác biệt với cả Noguchi và 
Nakagawa. Tuy nhiên kết quả của cả 4 nghiên 
cứu đều cho thấy chuỗi xung SWI có giá trị cao 
trong chẩn đoán DAVFs và tình trạng dẫn lưu 
tĩnh mạch vỏ não. 
Chuỗi xung T2W và T1 3D CE 
Trong nghiên cứu của chúng tôi, dấu hiệu 
flow-voids bất thường của các tĩnh mạch vỏ 
não trên T2W chỉ có trong trường hợp DAVFs 
có dẫn lưu vào tĩnh mạch vỏ não, điều này 
phù hợp với nghiên cứu của Meckel(8). Dấu 
hiệu flow-voids trên T2W chẩn đoán được 
19/26 trường hợp có dẫn lưu tĩnh mạch vỏ não, 
có độ nhạy 73% và đặc hiệu 100%, tương đồng 
với kết quả nghiên cứu của Kitajima (n=21)(7) 
và Noguchi (n=14)(12) đều trong khoảng từ 70-
80%. Độ đặc hiệu của chuỗi xung T2W trong 
chẩn đoán dẫn lưu tĩnh mạch vỏ não cũng phù 
hợp với 2 nghiên cứu trên đều đạt 100%. 
Trong nghiên cứu của chúng tôi, dấu hiệu 
mạch máu bất thường trên T1W 3D CE gặp 
trong 23/59 ca, chiếm tỉ lệ 38,98%, cho thấy dấu 
hiệu này kém nhạy trong chẩn đoán DAVFs. 
Tuy nhiên trong chẩn đoán dẫn lưu tĩnh mạch 
vỏ não, dấu hiệu này có độ nhạy và đặc hiệu 
khá cao lần lượt là 81% và 94%. Dấu hiệu này 
phần lớn cũng chỉ xuất hiện trên những bệnh 
nhân có dẫn lưu vào tĩnh mạch vỏ não, giải 
thích cho tỉ lệ chẩn đoán DAVFs thấp trong 
nghiên cứu của chúng tôi. Dấu hiệu mạch máu 
bất thường trên T1W 3D CE nhạy hơn nhưng 
kém đặc hiệu hơn so với dấu hiệu flow-voids 
bất thường trên T2W trong chẩn đoán dẫn lưu 
tĩnh mạch vỏ não. Kết quả này của chúng tôi 
phù hợp với nghiên cứu của Kitajima (n = 21) 
cho thấy chuỗi xung T1W 3D CE chẩn đoán 
được 85,7% trường hợp, nhạy hơn chuỗi xung 
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 23 * Số 1 * 2019 Nghiên cứu Y học
Chuyên Đề Ngoại Khoa 27
T2W trong chẩn đoán dẫn lưu vào tĩnh mạch 
vỏ não. Độ đặc hiệu của chuỗi xung T1W 3D 
CE trong nghiên cứu của chúng tôi là 94%, 
cũng khá phù hợp với nghiên cứu của Kitajima 
dấu hiệu này có độ đặc hiệu 90%. 
Chuỗi xung time-resolved CE-MRA (TWIST) 
Trong nghiên cứu của chúng tôi có 23 bệnh 
nhân được chụp chuỗi xung TWIST. Dấu hiệu 
cấu trúc tĩnh mạch bắt thuốc sớm trong thì động 
mạch hiện diện trong 23/23 bệnh nhân, tỉ lệ chẩn 
đoán là 100%. Điều này phù hợp với nhiều 
nghiên cứu nước ngoài về chuỗi xung TR CE-
MRA đều có tỉ lệ chẩn đoán là 100% như nghiên 
cứu của Meckel (n=13)(8), Farb (n=20)(4) và 
Nishimura (n=18)(11). Riêng nghiên cứu của 
Noguchi (n=15)(12) chuỗi xung TR CE-MRA có độ 
nhạy chỉ là 88% tức 13/15 ca, bỏ sót 2 vị trí rò lưu 
lượng thấp. Điều này có thể do trong nghiên cứu 
của Noguchi độ phân giải thời gian là 4 giây cho 
mỗi loạt hình, trong khi trong nghiên cứu của 
chúng tôi cũng như những nghiên cứu nước 
ngoài khác độ phân giải thời gian cao hơn, 
khoảng từ 1,5-2 giây. Ngoài ra tốc độ bơm thuốc 
không đủ nhanh chỉ 1,5 ml/giây trong nghiên 
cứu của Noguchi cũng có thể là một nguyên 
nhân cho sự bỏ sót hai DAVFs lưu lượng thấp 
này. Nghiên cứu của chúng tôi cũng như của 
Meckel, Farb và Nishimura đều có tốc độ bơm 
thuốc từ 2 ml/giây trở lên. Trong nghiên cứu của 
chúng tôi, chuỗi xung time-resolved CE-MRA 
(TWIST) bỏ sót 1 vị trí rò trên 1 bệnh nhân có rò 
xoang hang hai bên. 
Trong 27 DAVFs được phát hiện trên 
TWIST, chuỗi xung này xác định đúng vị trí rò 
trong 100% trường hợp. Giá trị kappa = 1 cho 
thấy mức độ đồng thuận rất mạnh giữa TWIST 
và DSA trong xác định vị trí DAVFs. Kết quả 
này cao hơn một chút với tác giả Meckel (n = 13) 
có tỉ lệ chẩn đoán đúng vị trí DAVFs là 88,9%. 
Tương tự chuỗi xung TOF 3D và CE-MRA, điều 
này khả năng do tác giả Meckel chia vị trí 
DAVFs chi tiết hơn so với các nghiên cứu khác. 
Kết quả nghiên cứu của chúng tôi phù hợp với 
kết quả của tác giả Nishimura có tỉ lệ chẩn đoán 
đúng vị trí là 100%, giá trị kappa là 1 cho thấy 
mức độ tương hợp rất mạnh. Nói chung, nghiên 
cứu của chúng tôi và của Meckel, Nishimura 
đều cho thấy chuỗi xung TR CE-MRA có độ 
chính xác rất cao trong chẩn đoán vị trí DAVFs. 
Trong nghiên cứu của chúng tôi chuỗi xung 
TWIST chẩn đoán được 7/7 trường hợp có dẫn 
lưu tĩnh mạch vỏ não, độ nhạy là 100%. Chúng 
tôi ghi nhận có 1 trường hợp dương tính giả, độ 
đặc hiệu là 93,75%. Kết quả này phù hợp với 
nghiên cứu của Noguchi (n=15), Farb (n=20) và 
Nishimura (n=18), trong đó chuỗi xung TR CE-
MRA đều có độ nhạy 100% trong chẩn đoán dẫn 
lưu tĩnh mạch vỏ não. Độ đặc hiệu của chúng tôi 
chỉ đạt 93,75%, thấp hơn 3 nghiên cứu trên có độ 
đặc hiệu của chuỗi xung TR CE-MRA đều đạt 
100%. Tuy nhiên trong nghiên cứu của Farb 
cũng ghi nhận 1 trường hợp mà 1 trong 3 nhà 
hình ảnh học nhận định có dẫn lưu tĩnh mạch vỏ 
não, trong khi DSA không ghi nhận (2 người còn 
lại đọc đúng). Nhìn chung các nghiên cứu đều 
cho thấy TR CE-MRA có giá trị rất cao trong 
chẩn đoán dẫn lưu tĩnh mạch vỏ não. 
Chuỗi xung TWIST phân type Borden 
chính xác trong 22 bệnh nhân chiếm 95,65%. 
Giá trị kappa = 0,91 (0,82–0,99) cho thấy độ 
đồng thuận rất mạnh giữa TWIST và DSA. 
Nghiên cứu của Farb (n=20) và Nishimura 
(n=18) có tỉ lệ phân type Borden đúng bằng 
chuỗi xung TR CE-MRA là 100%; chỉ số kappa 
trong nghiên cứu của Nishimura là 1. Tuy hơi 
thấp hơn nhưng tỉ lệ phân type Borden đúng 
trong nghiên cứu của chúng tôi cũng rất cao > 
95%, độ tương hợp rất mạnh giữa MRI và 
DSA, tương đồng với nghiên cứu của Farb và 
Nishimura. 
Chuỗi xung TWIST phân type Cognard 
chính xác trong 21 trường hợp, chiếm 91,3%. 
Giá trị kappa = 0,88 (0,8–0,96) cho thấy mức độ 
đồng thuận rất mạnh giữa chuỗi xung TWIST 
và DSA trong phân type Cognard của DAVFs. 
Kết quả này cao hơn so với nghiên cứu của 
Meckel có tỉ lệ chẩn đoán chính xác type 
Cognard là 85%. Điều này nhiều khả năng do 
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 23 * Số 1 * 2019
Chuyên Đề Ngoại Khoa 28
khác biệt cỡ mẫu giữa hai nghiên cứu nhưng 
nhìn chung tỉ lệ chẩn đoán đúng đều > 80%, 
cho thấy giá trị của TR CE-MRA trong phân 
type Cognard ở bệnh nhân DAVFs. Trong 
nghiên cứu của chúng tôi, chỉ số kappa giữa 
TWIST và DSA trong chẩn đoán type Borden 
cao hơn trong chẩn đoán type Cognard, điều 
này khả năng do TWIST còn gặp khó khăn 
trong chẩn đoán chiều dẫn lưu xoang màng cứng. 
Hình 1. Hình ảnh TWIST rò trực tiếp vào tĩnh mạch vỏ não vùng xoang dọc trên, tương ứng với hình ảnh trên 
DSA. “Nguồn: Bệnh nhân Nguyễn Thị Ngọc O., SNV: 18-0050629” 
KẾT LUẬN 
DSA là tiêu chuẩn vàng trong chẩn đoán và 
đánh giá DAVFs. Tuy nhiên cộng hưởng từ có 
điểm ưu việt là tính không xâm lấn, khả năng 
chẩn đoán tổn thương nhu mô não, những hậu 
quả do ứ trệ tĩnh mạch gây ra bởi DAVFs. 
4 chuỗi xung TOF 3D, CE-MRA và TWIST, 
SWI đều có giá trị cao trong chẩn đoán, xác định 
vị trí và phát hiện tình trạng dẫn lưu tĩnh mạch 
vỏ não, đặc biệt là chuỗi xung TWIST. 
TÀI LIỆU THAM KHẢO 
1. Azuma M, Hirai T, Shigematsu Y, Kitajima M, Kai Y et al 
(2015). "Evaluation of Intracranial Dural Arteriovenous 
Fistulas: Comparison of Unenhanced 3T 3D Time-of-flight 
MR Angiography with Digital Subtraction Angiography". 
Magn Reson Med Sci, 14(4):pp. 285-93. 
2. Chen JC, Tsuruda JS, Halbach VV (1992). "Suspected dural 
arteriovenous fistula: results with screening MR angiography 
in seven patients". Radiology, 183(1):pp. 265-71. 
3. Cohen SD, Goins JL, Butler SG, Morris PP, Browne JD (2009). 
"Dural arteriovenous fistula: diagnosis, treatment, and 
outcomes". Laryngoscope, 119(2):pp. 293-7. 
4. Farb RI, Agid R, Willinsky RA, Johnstone DM, Terbrugge KG 
(2009). "Cranial dural arteriovenous fistula: diagnosis and 
classification with time-resolved MR angiography at 3T". 
AJNR Am J Neuroradiol, 30(8):pp. 1546-51. 
5. Jagadeesan BD, Delgado Almandoz JE, Moran CJ, Benzinger 
TL (2011). "Accuracy of susceptibility-weighted imaging for 
the detection of arteriovenous shunting in vascular 
malformations of the brain". Stroke, 42(1):pp. 87-92. 
6. Jain NK, Kannath SK, Kapilamoorthy TR, Thomas B (2017). 
"The application of susceptibility-weighted MRI in pre-
interventional evaluation of intracranial dural arteriovenous 
fistulas". J Neurointerv Surg, 9(5):pp. 502-507. 
7. Kitajima M, Hirai T, Korogi Y, Yamura M, Kawanaka K et al 
(2005). "Retrograde cortical and deep venous drainage in 
patients with intracranial dural arteriovenous fistulas: 
comparison of MR imaging and angiographic findings". 
AJNR Am J Neuroradiol, 26(6):pp. 1532-8. 
8. Meckel S, Maier M, Ruiz DS, Yilmaz H, Scheffler K et al. 
(2007). "MR angiography of dural arteriovenous fistulas: 
diagnosis and follow-up after treatment using a time-resolved 
3D contrast-enhanced technique". AJNR Am J Neuroradiol, 
28(5):pp. 877-84. 
9. Nakagawa I, Taoka T, Wada T, Nakagawa H, Sakamoto M et 
al. (2013). "The Use of Susceptibility-Weighted Imaging as an 
Indicator of Retrograde Leptomeningeal Venous Drainage 
and Venous Congestion With Dural Arteriovenous Fistula: 
Diagnosis and Follow-up After Treatment". Neurosurgery, 
72(1):pp. 47-55. 
10. Newton TH, Cronqvist S (1969). "Involvement of dural 
arteries in intracranial arteriovenous malformations". 
Radiology, 93(5):pp. 1071-8. 
11. Nishimura S, Hirai T, Sasao A, Kitajima M, Morioka M et al 
(2010). "Evaluation of dural arteriovenous fistulas with 4D 
contrast-enhanced MR angiography at 3T". AJNR Am J 
Neuroradiol, 31(1):pp. 80-5. 
12. Noguchi K, Melhem E R, Kanazawa T, Kubo M, Kuwayama 
N et al. (2004). "Intracranial dural arteriovenous fistulas: 
evaluation with combined 3D time-of-flight MR angiography 
and MR digital subtraction angiography". AJR Am J 
Roentgenol, 182(1):pp. 183-90. 
13. Noguchi K, Kuwayama N, Kubo M, Kamisaki Y, Kameda K 
et al. (2010). "Intracranial Dural Arteriovenous Fistula with 
Retrograde Cortical Venous Drainage: Use of Susceptibility-
Weighted Imaging in Combination with Dynamic 
Susceptibility Contrast Imaging". American Journal of 
Neuroradiology, 31(10):pp. 1903-1910. 
14. Osborn AG, Gary L, Karen L (2017). "CVMs with 
Arteriovenous Shunting", In: Osborn's Brain: Imaging, 
Pathology, and Anatomy, pp. 165-170. 
Ngày nhận bài báo: 08/11/2018 
Ngày phản biện nhận xét bài báo: 10/12/2018 
Ngày bài báo được đăng: 10/03/2019