Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 23 * Số 5 * 2019
Chuyên Đề Y Tế Công Cộng 124
ĐẶC ĐIỂM CỦA NGƯỜI MẸ LIÊN QUAN ĐẾN SUY DINH DƯỠNG 
CẤP TÍNH NẶNG CỦA TRẺ TỪ 6 THÁNG ĐẾN 59 THÁNG 
TẠI HAI HUYỆN KRÔNG PA VÀ KÔNG CHRO TỈNH GIA LAI NĂM 2016 
Phạm Văn Doanh*, Nguyễn Song Tú**, Huỳnh Nam Phương** 
TÓM TĂT 
Đặt vấn đề: Tháng 9/2016, tại hai huyện Krông Pa và huyện Kông Chro chúng tôi đã phát hiện 97 trường 
hợp SDDCTN tại cộng đồng. Các giải pháp can thiệp hỗ trợ kịp thời tại các vùng có nguy cơ cao, nhằm giảm tỉ lệ 
SDDCTN là hết sức cần thiết. 
Mục tiêu: Tìm hiểu một số đặc điểm từ bà mẹ liên quan đến trẻ SDDCTN. 
Phương pháp nghiên cứu: Chúng tôi tiến hành nghiên cứu bệnh chứng với tỉ lệ ghép cặp 1 bà mẹ có trẻ bị 
SDDCTN và 2 bà mẹ có trẻ không bị SDD tiêu chí là trẻ cùng tuổi, cùng giới, cùng dân tộc, cùng tình trạng 
kinh tế và cùng xã nơi sống. 
Kết quả: Kết quả thái độ của người mẹ khi chăm sóc trẻ biếng ăn, trẻ bị bệnh tiêu chảy hoặc NKHHC tại 
nhóm chứng tốt hơn nhóm bệnh, sự khác biệt có ý nghĩa thống kê giữa nhóm học vấn của người mẹ, bà mẹ khám 
thai ≥ 3 lần trong thời kỳ mang thai (p <0,05), các bà mẹ có học vấn càng cao, khám thai trên 3 lần trong thời kỳ 
mang thai thì tỉ lệ SDDCTN của trẻ càng giảm. 
Kết luận: Cần tăng cường công tác truyền thông, giáo dục bà mẹ về cách chăm sóc trẻ, đặc biệt tại các vùng 
sẩy ra các thiên tai và vùng sâu vùng xa, vùng đồng bào dân tộc. 
Từ khóa: suy dinh dưỡng cấp tính nặng 
ABSTRACT 
THE CHARACTERISTICS OF THE MOTHERS ASSOCIATED WITH SEVERE ACUTE 
MALNUTRITION OF THE CHILDREN 6-59 MONTHS OF AGE IN KRONG PA AND KONG CHRO 
DISTRICTS, GIA LAI PROVINCE IN 2016 
Pham Van Doanh, Nguyen Song Tu, Huynh Nam Phuong 
 * Ho Chi Minh City Journal of Medicine * Supplement of Vol. 23 – No. 5 - 2019: 124 – 128 
Background: In September 2016, 97 children 6-59 months old with severe acute malnutrition have been 
detected in Krong Pa and Kong Chro district, reducing the incidence of the severe acute malnutrition in the 
disadvantaged areas were essential. 
Objectives: This study aimed to identify the characteristics of the mothers associated with the severe acute 
malnutrition. 
Methods: A matched case-control study was conducted in mothers with their severe acute malnutrition 
children and mothers without their severe acute malnutrition children with the rate 1:2 matched by age, gender, 
ethnicity, economic status, residence area of the children. 
Results: The study findings showed the attitudes of the mother when caring her anorexic child, children with 
diarrhea or acute respiratory infection in controls were better than cases. There was a statistically significant 
difference of the rate of the severe acute malnutrition children among mother’s education level, ≥3 times of 
pregnancy examination. 
*Viện Vệ sinh dịch tễ Tây Nguyên Viện Dinh dưỡng Quốc gia 
Tác giả liên lạc: ThS. Phạm Văn Doanh ĐT: 0905560068 Email: 
[email protected] 
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 23 * Số 5 * 2019 Nghiên cứu Y học
Chuyên Đề Y Tế Công Cộng 125
Conclusions: We are a need to enhance the risk communication and health education for the mothers about 
the child care, especially in remote, minorities and disaster affected areas. 
Keywords: severe acute malnutrition 
ĐẶT VẤN ĐỀ 
Theo số liệu của Tổ chức Y tế Thế giới, hiện 
nay trên Thế giới có khoảng 20 triệu trẻ bị suy 
dinh dưỡng cấp tính nặng (SDDCTN) và ước 
tính gây ra 1 triệu ca tử vong hàng năm. Nguy 
cơ tử vong liên quan đến SDDCTN chiếm tỷ lệ 
cao hơn khoảng 9 lần so với các thể SDD khác và 
cao gấp từ 5 - 20 lần so với trẻ bình thường. 
SDDCTN có thể là nguyên nhân trực tiếp gây tử 
vong ở trẻ hoặc có thể đóng vai trò gián tiếp làm 
tăng nhanh nguy cơ tử vong ở những trẻ bị mắc 
các bệnh phổ biến(5,6). Một trong những nguyên 
nhân gián tiếp làm cho trẻ có nguy cơ cao bị 
SDDCTN là do rào cản của các tập quán lạc hậu, 
do kiến thức thấp, do thái độ chăm sóc trẻ của bà 
mẹ chưa đúng cách(3). 
Năm 2015-2016, hiện tượng El Nino đã ảnh 
hưởng đến khu vực Tây Nguyên, UBND tỉnh 
Gia Lai đã công bố tình trạng hạn hán với cấp độ 
rủi ro là cấp 1. Trong đó có 8/17 huyện thị, chịu 
ảnh hưởng nặng bởi đợt hạn hán. Tháng 9/2016, 
tại hai huyện Krông Pa và huyện Kông chro dựa 
vào Chương trình cứu trợ khẩn cấp của tổ chức 
UNICEF chúng tôi đã phát hiện 97 trường hợp 
SDDCTN để điều trị tại cộng đồng. Nhằm nắm 
bắt một số yếu tố khách quan từ bà mẹ làm trẻ 
có nguy cơ bị SDDCTN tại hai huyện, kịp thời 
đưa ra các giải pháp can thiệp hỗ trợ tại các vùng 
có nguy cơ cao, nhằm giảm tỉ lệ SDD đặc biệt là 
SDDCTN. Chúng tôi tiến hành nghiên cứu bệnh 
chứng “Đặc điểm của người mẹ liên quan đến 
suy dinh dưỡng cấp tính nặng của trẻ từ 6 tháng 
đến 59 tháng tại hai huyện Krông pa và huyện 
Kông Chro tỉnh Gia Lai năm 2016”. 
ĐỐI TƯỢNG - PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU 
Đối tượng nghiên cứu 
Đối tượng tham gia trong nghiên cứu là 
những bà mẹ của trẻ có độ tuổi từ 6 tháng đến 59 
tháng, có ngày sinh từ 28/8/2011 đến ngày 
28/01/2016 đang sinh sống tại hai huyện. 
Tiêu chuẩn loại trừ 
Bà mẹ có trẻ bị SDDCTN biến tính, bị bệnh 
như HIV, bị Down, bà mẹ không có năng lực 
trả lời câu hỏi. 
Định nghĩa ca bệnh 
Nhóm bệnh 
Bà mẹ có trẻ bị SDDCTN thỏa điều kiện chu 
vi vòng cánh tay (MUAC) <11,5cm hoặc Z-score 
cân nặng/chiều cao (CN/CC) <-3 hoặc % CN /CC 
của quần thể chuẩn <70%(4). 
Nhóm chứng 
Bà mẹ của trẻ hoàn toàn bình thường không 
SDD thỏa điều kiện chu vi vòng cánh tay 
(MUAC) ≥ 125 mm và Z-score cân nặng/chiều 
cao CN/CC ≥ -2 và ≤ 2SD. 
Phương pháp nghiên cứu 
Thiết kế nghiên cứu 
Nghiên cứu bệnh - chứng ghép cặp theo tỉ lệ 
1: 2, tức là 1 bà mẹ có trẻ bị SDDCTN và hai bà 
mẹ có trẻ không SDD. Các yếu tố được sử dụng 
ghép cặp là dựa vào trẻ có cùng tuổi, cùng giới, 
cùng dân tộc, cùng tình trạng kinh tế gia đình và 
cùng xã nơi trẻ sống. 
Cỡ mẫu 
Nhóm bệnh là 97 bà mẹ của 97 trẻ SDDCTN 
đã được phát hiện, nhóm chứng là 194 bà mẹ 
của 194 trẻ không SDD. 
Thời gian, địa điểm, đối tượng nghiên cứu 
Thời gian triển khai từ tháng 8 -10/2016 tại 
hai huyện Krông Pa và Huyện Kông Chro tỉnh 
Gia Lai. 
Phương pháp thu thập số liệu 
Sử dụng bộ câu hỏi đã được thiết kế sẵn, tất 
cả các điều tra viên đã được tập huấn về mục 
đích, mục tiêu, phương pháp nghiên cứu và các 
kỹ thuật liên quan đến nghiên cứu, kỹ thuật 
phỏng vấn. 
Có 97 bà mẹ có trẻ đã được phát hiện bị 
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 23 * Số 5 * 2019
Chuyên Đề Y Tế Công Cộng 126
SDDCTN thông qua khám sàng lọc, được điều 
trị tại cộng đồng, phù hợp với tiêu chuẩn 
nghiên cứu. Nhóm nghiên cứu điền đầy đủ 
các thông tin vào phiếu khám sàng lọc, sau 
đó cán bộ phỏng vấn, sử dụng bộ phiếu đã 
được thiết kế sẵn để phỏng vấn mẹ của trẻ 
tại hộ gia đình. Dựa vào 97 trẻ SDDCTN, 
nhóm nghiên cứu tiến hành chọn ngẫu 
nhiên hệ thống 194 trẻ không SDD có cùng 
tuổi, cùng giới, cùng dân tộc, cùng tình trạng 
kinh tế gia đình và cùng xã nơi trẻ bị SDDCTN 
sống theo tỉ lệ 1:2, sau đó tiến hành các bước 
phỏng vấn các bà mẹ như đối với 97 bà mẹ 
có trẻ bị SDDCTN tại hộ gia đình. 
Phương pháp xử lý và phân tích số liệu 
Số liệu được làm sạch và được mã hóa trước 
khi nhập vào máy tính, xử lý bằng phần mềm 
STATA 12. Sử dụng các test thống kê mô tả, sử 
dụng hồi quy logistic với OR khoảng tin cậy 95% 
trong nghiên cứu bệnh-chứng ghép cặp, mô tả 
thái độ hành vi của các bà mẹ và tìm mối quan 
hệ nhân quả, giữa các yếu tố nguy cơ của bà mẹ 
liên quan đến SDDCTN. 
KẾT QUẢ 
Một số đặc điểm thực hành chăm sóc trẻ của bà mẹ 
Bảng 1: Kênh tư vấn việc chăm sóc trẻ và lợi ích của 
sữa mẹ 
Kênh tư vấn 
Nhóm chứng 
(n,%) 
Nhóm bệnh 
(n,%) 
CBYT thôn/ CTV dinhdưỡng/ 
CB 
128 (66) 18 (18,6) 
Nữ hộ sinh/ Y tá/ Bác sĩ/ Y sĩ 64 (33) 21 (21,6) 
Thành viên trong gia đình 9 (4,6) 10 (10,3) 
Không nhận được tư vấn 54 (27,8) 38 (39,2) 
Khi mang thai và cho con bú các bà mẹ tại 
nhóm chứng nhận được lời tư vấn chăm sóc trẻ 
và lợi ích của sữa mẹ cao hơn nhóm bệnh, cụ thể 
nhóm chứng nhận tư vấn từ cán bộ y tế 33,0%, 
từ cán bộ y tế thôn 66,0%, nhóm bệnh lần lượt là 
21,6% và 18,6%. Bên cạnh đó một tỉ lệ rất cao của 
hai nhóm là không nhận được lời tư vấn nào cụ 
thể nhóm chứng là 27,8%, nhóm bệnh có 39,2% 
bà mẹ (Bảng 1). 
Bảng 2: Thái độ của người mẹ khi chăm sóc trẻ biếng ăn 
Đặc điểm 
Nhóm chứng 
(n,%) 
Nhóm bệnh 
(n,%) 
Ép buộc, quát mắng trẻ để trẻ 
ăn 
79 (40,7) 35 (36,1) 
Dỗ dành, vừa cho con ăn vừa 
nói chuyện 
95 (49) 21 (21,7) 
Chế biến, thay đổi thức ăn, cho 
ăn thức ăn mà trẻ thích 
21 (10,8) 3 (3,1) 
Mua sữa, thực phẩm bổ sung 
cho trẻ 
9 (4,6) 7 (7,2) 
Không làm gì cả 33 (17) 35 (36,1) 
Khi trẻ biếng ăn thái độ chăm sóc trẻ của 
người mẹ tại nhóm chứng tốt hơn nhóm bệnh, 
cụ thể nhóm bệnh 40,7% bà mẹ ép cho trẻ ăn, 
49% vừa ăn vừa dỗ dành, 10,8% biết cách chế 
biến thức ăn mà trẻ thích. Nhóm chứng lần lượt 
là 36,1%; 21,7%; 3,1%. Ngược lại tỉ lệ bà mẹ 
không quan tâm đến trẻ khi trẻ biếng ăn của 
nhóm bệnh là 36,1% cao hơn nhiều nhóm chứng 
17,0% (Bảng 2). 
Bảng 3: Thái độ của người mẹ khi chăm sóc trẻ bị bệnh 
Đặc điểm Nhóm chứng Nhóm bệnh 
Cho trẻ đến cơ sở y tế 159 (82,0%) 56 (57,7%) 
Tự điều trị tại nhà 27 (13,9%) 23 (23,7%) 
Khác 8 (4,1%) 16 (16,5%) 
Khi trẻ bị bệnh như tiêu chảy, NKHHC các 
bà mẹ biết đưa trẻ đến cơ sở y tế khám tại nhóm 
chứng là 82,0% cao hơn nhóm bệnh là 57,7%. 
Ngược lại tự điều trị tại nhà của nhóm bệnh là 
23,7% cao hơn nhóm chứng 13,9%, một tỉ lệ 
không nhỏ bà mẹ không quan tâm đến trẻ khi bị 
bệnh (Bảng 4). 
Bảng 4: Mối liên quan giữa một số đặc điểm của bà mẹ với SDDCTN 
Đặc điểm Biến 
Nhóm bệnh Nhóm chứng 
OR (95%CI) p 
n % n % 
Nhóm tuổi 
≤ 20 tuổi 17 17,5 31 16,0 1 
21-30 tuổi 52 53,6 111 57,2 0,85 (0,43- 1,68) 0,648 
≥ 31 tuổi 28 28,9 52 26,8 0,98 (0,46 – 2,07) 0,962 
Học vấn 
Mù chữ 44 45,4 45 23,2 1 
Lớp 1 - 5 15 15,5 54 27,8 0,28 (0,14 – 0,58) 0,000 
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 23 * Số 5 * 2019 Nghiên cứu Y học
Chuyên Đề Y Tế Công Cộng 127
Đặc điểm Biến 
Nhóm bệnh Nhóm chứng 
OR (95%CI) p 
n % n % 
Lớp 6-9 29 29,9 70 36,1 0,42 (0,23 – 0,77) 0,001 
≥ Lớp 10 9 9,3 25 12,9 0,37 (0,15- 0,88) 0,024 
Nghề nghiệp 
Nông dân 92 94,9 186 95,9 1 
0.689 
Khác 5 5,2 8 4,1 1,26 (0,40- 3,97) 
Khám thai 
Không 23 23,7 32 16,5 1 
1-2 lần 31 32,0 45 23,2 0,95 (0,47 -1,94) 0,906 
≥ 3 lần 43 44,3 117 60,3 0,51 (0,27 – 0,97) 0,040 
( 1: reference) 
Bà mẹ ở nhóm tuổi càng cao thì trẻ có nguy 
cơ bị SDDCTN giảm, cụ thể nhóm 21-30 tuổi 
nguy cơ bị SDDCTN bằng 0,85 lần, nhóm ≥31 
tuổi nguy cơ bị SDDCTN bằng 0,98 lần so với 
nhóm bà mẹ ≤ 20 tuổi, tuy nhiên sự khác biệt 
không có ý nghĩa thống kê (p >0,05). Mẹ có học 
vấn càng cao, thì trẻ có nguy cơ bị SDDCTN 
giảm, sự khác biệt này có ý nghĩa thống kê 
(p<0,05). Nghề nghiệp chủ yếu của người mẹ là 
làm nông và tỉ lệ nhỏ làm các công việc khác như 
buôn bán, nội trợ. Sự khác biệt nghề nghiệp giữa 
hai nhóm không có ý nghĩa thống kê. Trong thời 
kỳ mang thai, người mẹ đi khám thai nhiều lần 
thì trẻ có nguy cơ bị SDDCTN giảm, sự khác biệt 
này có ý nghĩ thống kê, ở bà mẹ khám thai ≥ 3 
lần trong thời kỹ mang thai (p <0,05) (Bảng 4). 
BÀN LUẬN 
Huyện Krông Pa, huyện Kông Chro là 2 
huyện nghèo của tỉnh Gia Lai, đây là các huyện 
có khí hậu khắc nghiệt, đặc biệt là nguồn nước 
khan hiếm và khí hậu khô khan. Tỷ lệ số dân là 
người đồng bào dân tộc thiểu số chiếm trên 65%, 
tỉ lệ hộ nghèo của 2 huyện trên 35%. Đáng nói đa 
số tỷ lệ hộ nghèo là người dân tộc thiểu số. 
Đường xá đi lại khó khăn nên người dân khó 
tiếp cận với các dịch vụ y tế. Kinh tế sống chủ 
yếu dựa vào các loại cây nông nghiệp ngắn 
ngày, như cây mía, sắn cao sản (củ mì), ngô lai, 
lúa là nhưng cây nông nghiệp có giá trị kinh tế 
thấp. Trong nghiên cứu này tỉ lệ mù chữ của cả 
hai nhóm tương đối cao tại nhóm bệnh tỉ lệ mù 
chữ của các bà mẹ là 45,4% nhóm chứng là 
23,2%, tỉ lệ nông dân chiếm ngưỡng 95% ở cả hai 
nhóm (Bảng 4). Những yếu tố trên làm ảnh 
hưởng đến kiến thức, thực hành, chăm sóc, nuôi 
dưỡng trẻ của các bà mẹ sống tại hai huyện này. 
trẻ không được chăm sóc tốt, không được tiếp 
xúc với các dịch vụ y tế. Giai đoạn trẻ nhỏ là giai 
đoạn khó khăn nhất trong cuộc đời của một đứa 
trẻ vì chúng phụ thuộc hoàn toàn vào chăm sóc 
của cha mẹ, dần thôi bú mẹ, bắt đầu tập ăn, các 
thức ăn của người lớn, nhạy cảm với các yếu tố 
môi trường bên ngoài, nhất là các vi sinh vật gây 
bệnh, đường hô hấp, đường tiêu hóa(5). Trong 
nghiên cứu của chúng tôi nhận thấy các bà mẹ 
tại nhóm chứng các bà mẹ khi mang thai và cho 
con bú nhận được lời tư vấn chăm sóc trẻ và lợi 
ích của sữa mẹ cao hơn nhóm bệnh (Bảng 1). Khi 
trẻ bị ốm, trẻ ăn ít hơn, do trẻ không có cảm giác 
thèm ăn, trẻ mệt, nôn hoặc đau bụng. Khi đó cần 
khuyến khích trẻ bú và ăn, kể cả khi trẻ không 
muốn ăn. Tăng số lần cho trẻ bú và cho ăn làm 
nhiều bữa, cho trẻ ăn thức ăn mềm, dễ tiêu. 
Trong nghiên cứu này điều cần đáng phải quan 
tâm là một tỉ lệ không nhỏ các bà mẹ tại hai 
nhóm có thái độ chăm sóc trẻ không tốt hoặc 
không quan tâm khi trẻ biếng ăn hoặc bị bệnh, 
nghiên cứu cũng chỉ ra thái độ chăm sóc trẻ của 
người mẹ tại nhóm chứng tốt hơn thái độ chăm 
sóc trẻ của người mẹ tại nhóm bệnh khi trẻ biếng 
ăn hoặc bị bệnh (Bảng 2, 3). Những bà mẹ trong 
khi có thai, lao động nặng nhọc, không được 
nghỉ ngơi đầy đủ, bệnh tật và đẻ thiếu tháng là 
yếu tố ảnh hưởng tới cân nặng sơ sinh hay gọi là 
SDD bào thai. Chăm sóc trẻ chưa đúng cách, do 
rào cản của các tập quán lạc hậu, đặc biệt khi trẻ 
bị bệnh. Bà mẹ thường kiêng khem, như kiêng 
nước, kiêng ăn, cúng bái, ảnh hưởng tới tình 
trạng dinh dưỡng của trẻ. 
Mẹ có học vấn càng cao, thì trẻ có nguy cơ 
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 23 * Số 5 * 2019
Chuyên Đề Y Tế Công Cộng 128
bị SDDCTN, càng giảm. Sự khác biệt này có ý 
nghĩa thống kê (p <0,05) (Bảng 4). Tương tự các 
nghiên cứu khác đã triển khai như một nghiên 
cứu bệnh chứng trẻ từ 6-59 tháng tuổi, được 
triển khai tại Bệnh Viện phía bắc Ấn Độ cho 
thấy: khi phân tích đa biến, trình độ học vấn 
của người mẹ là yếu tố liên quan đến SDD cấp 
tính(2). Một nghiên cứu bệnh chứng khác, trẻ từ 
6 đến 59 tháng tuổi tại Konso Miền Nam 
Ethiopia, được tiến hành trên 300 trẻ SDD cấp 
tính nặng và 531 trẻ em không bị SDD, nhận 
thấy rằng học vấn người mẹ liên quan đến 
SDDCTN(1). Chăm sóc người phụ nữ khi có 
thai nhằm đảm bảo thai nghén bình thường và 
sinh đẻ an toàn cho cả mẹ lẫn con. Vì thế, khi 
có thai, người mẹ cần đến trạm y tế hoặc nhà 
hộ sinh đăng ký để được nhân viên y tế khám 
và theo dõi. Nên thực hiện việc khám thai định 
kỳ, ít nhất 3 lần trong suốt thời kỳ thai nghén, 
nếu khám được nhiều lần hơn càng tốt, nhất là 
ba tháng cuối, mỗi tháng nên khám một lần. 
Nghiên cứu chúng tôi nhận thấy trong thời kỳ 
mang thai trẻ, bà mẹ đi khám thai nhiều lần, 
thì trẻ có nguy cơ bị SDDCTN giảm, mối liên 
quan có ý nghĩ thống kê (p <0,05). Việc khám 
khai không phải là yếu tố trực tiếp làm trẻ bị 
SDDCTN nhưng nó là yếu tố gián tiếp tác 
động đến ý thức, bà mẹ không đi khám thai 
hoặc ít khám thai thì không thể nhận biết được 
tình trạng thai nhi, không nhận được các lời 
khuyên của y bác sỹ. Những yếu tố này là 
nguyên nhân gián tiếp làm cho trẻ có nguy cơ 
bị SDDCTN. 
KẾT LUẬN 
Khi mang thai và cho con bú các bà mẹ 
nhóm chứng nhận được nhiều lời tư vấn từ cán 
bộ y tế hơn nhóm bệnh. Khi trẻ biếng ăn, trẻ bị 
bệnh tiêu chảy hoặc NKHHC thái độ chăm sóc 
trẻ của người mẹ tại nhóm chứng tốt hơn nhóm 
bệnh, tuy nhiên tại hai nhóm vẫn còn một tỉ lệ 
không nhỏ các bà mẹ không quan tâm đến trẻ 
khi bị bệnh. 
Sự khác biệt có ý nghĩa thống kê giữa 
nhóm học vấn của người mẹ, bà mẹ khám thai 
≥3 lần trong thời kỳ mang thai (p <0,05), các bà 
mẹ có học vấn càng cao, khám thai trên 3 lần 
trong thời kỳ mang thai thì tỉ lệ SDDCTN của 
trẻ càng giảm. 
Cần tăng cường công tác truyền thông, giáo 
dục các bà mẹ về cách chăm sóc trẻ. Đặc biệt các 
vùng xảy ra các thiên tai và vùng sâu vùng xa, 
vùng đồng bào dân tộc. 
Cảm ơn: Nghiên cứu này sử dụng số liệu 
điều tra sàng lọc ban đầu của Chương trình 
Unicef và Kinh phí của đề tài NCKH cơ sở của 
viện Vệ sinh dịch tễ Tây nguyên năm 2016-2017. 
TÀI LIỆU THAM KHẢO 
1. Agedew E (2016). Determinant of Severe Acute Malnutrition 
among Children Aged 6-59 Months in Konso, Southern 
Ethiopia: Case Control Study. Quality in Primary Care, 
2. Mishra K, Kumar P, Basu S, Rai K, Aneja S (2013). Risk factors 
for severe acute malnutrition in children below 5 y of age in 
India: a case-control study. Indian J Pediatr, 81(8):762-5. 
3. Nguyễn Thị Hải Anh và Lê Thị Hợp (2006). Tình trạng dinh 
dưỡng và một số yếu tố liên quan đến suy dinh dưỡng trẻ em 
dưới 5 tuổi tỉnh Lào Cai năm 2005. Tạp chí Dinh dưỡng và Thực 
phẩm, 2(3+4):29-35. 
4. UNICEF (1998). The State of the World’s Children, Oxford 
University Press. 
5. Viện Dinh dưỡng (2013). Tài liệu tập huấn quản lý suy dinh 
dưỡng cấp tính. Viện Dinh dưỡng, pp.3-7-8-11-16-20-22-23. 
6. WHO (2010). Nutrition Landscape Information System (NLIS) 
country profile indicators. World Health Organization. 
Ngày nhận bài báo: 15/08/2019 
Ngày phản biện nhận xét bài báo: 31/08/2019 
Ngày bài báo được đăng: 15/10/2019