Tài liệu Công nghệ nuôi trồng nấm: CÔNG NGHỆ NUÔI TRỒNG NẤM 
1. Thế mạnh của nghề nuôi trồng nấm 
 Việt Nam là một đất nước nhiệt đới có 4 mùa có những điều kiện thời tiết khí đặc 
trưng, trong mùa hè nước ta có thể trồng nấm rơm cho sản lượng cao 
 Vào vụ đông các tỉnh phía bắc có thể nuôi trồng nấm mỡ phục vụ cho xuất khẩu. 
Trong 3 năm trở lại đây 1 năm có tỉnh phía Bắc có thể sản xuất được 5-20 tấn, nhưng 
số lượng phục vụ cho xuất khẩu còn hạn chế khoảng 9 tấn, cho thấy thị trường nội địa 
phát triển tương đối mạnh. Do đó cần có các biện pháp tăng cường cho xuất khẩu 
 Vào mùa xuân và mùa thu nhiệt độ từ 25-300C thích hợp cho việc trồng mộc nhĩ, 
ngoài ra có thể trồng nấm sò, nấm linh chi, nấm chân dài, nấm kim châm, nấm đầu khỉ 
 Tóm lại, các loại nấm có giá trị xuất khẩu lớn trên thế giới Việt Nam đều có thể trồng 
được, 
 Thế mạnh về nguyên liệu: rơm rạ 1 năm nước ta có khoảng 30-40 triệu tấn nguyên 
liệu, sử dụng 10% lượng này 1 năm có thể sản xuất được 10 tấn , hiện nay nước ta mới 
sử dụng ...
                
              
                                            
                                
            
 
            
                
24 trang | 
Chia sẻ: hunglv | Lượt xem: 1782 | Lượt tải: 3
              
            Bạn đang xem trước 20 trang mẫu tài liệu Công nghệ nuôi trồng nấm, để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
CÔNG NGHỆ NUÔI TRỒNG NẤM 
1. Thế mạnh của nghề nuôi trồng nấm 
 Việt Nam là một đất nước nhiệt đới có 4 mùa có những điều kiện thời tiết khí đặc 
trưng, trong mùa hè nước ta có thể trồng nấm rơm cho sản lượng cao 
 Vào vụ đông các tỉnh phía bắc có thể nuôi trồng nấm mỡ phục vụ cho xuất khẩu. 
Trong 3 năm trở lại đây 1 năm có tỉnh phía Bắc có thể sản xuất được 5-20 tấn, nhưng 
số lượng phục vụ cho xuất khẩu còn hạn chế khoảng 9 tấn, cho thấy thị trường nội địa 
phát triển tương đối mạnh. Do đó cần có các biện pháp tăng cường cho xuất khẩu 
 Vào mùa xuân và mùa thu nhiệt độ từ 25-300C thích hợp cho việc trồng mộc nhĩ, 
ngoài ra có thể trồng nấm sò, nấm linh chi, nấm chân dài, nấm kim châm, nấm đầu khỉ 
 Tóm lại, các loại nấm có giá trị xuất khẩu lớn trên thế giới Việt Nam đều có thể trồng 
được, 
 Thế mạnh về nguyên liệu: rơm rạ 1 năm nước ta có khoảng 30-40 triệu tấn nguyên 
liệu, sử dụng 10% lượng này 1 năm có thể sản xuất được 10 tấn , hiện nay nước ta mới 
sử dụng được một vài phần trăm, rơm rạ thu về chủ yếu đốt gây lãng phí. 
 Vấn đề bảo quản nguyên liệu rơm rạ sau thu hoạch cũng rất cần chú y vì lượng nguyên 
liệu tương đối lớn, nếu bảo quản nguyên liệu bằng việc phơi khô thì diện tích bảo quản 
tương đối lớn. Do đó một trong những hướng sản xuất đó là sau khi nguyên liệu thu 
hoạch xong phải chuyển ngay vào sản xuất làm cho lượng nguyên liệu gọn nhẹ, tận 
dụng nguồn nguyên liệu tối đa ngay tại chỗ. Tránh tình trạng lúc cần đến thì nguyên 
liệu trên thị trường khan hiếm. 
 Để giải quyết vấn đề này đòi hỏi địa phương phải có xưởng chế biến nguyên liệu để 
tập kết nguyên liệu. 
 Thị trường tiêu thụ: hiện nay Trung Quốc là nước sản xuất nấm lớn nhất thế giới, tổng 
sản lượng nấm của toàn thế giới 18 triệu tấn/năm làm cho giá cả nấm trên thế giới tụt 
xuống bất thường, do đó khả năng cạnh tranh của chúng ta với Trung Quốc rất khó 
khăn, do đó chúng ta cần tập trung vào thế mạnh của mình (xem mình có thế mạnh gì). 
Đối với nấm của nước ta không có chất bảo quản, do đó là thế mạnh của ta để cạnh 
tranh so với Trung Quốc trên thị trường thế giới. 
 Lao động nguồn lao động dồi dào, lao động nông thôn sẵn, giá thuê lao động rẻ 
 Chúng ta đã có được một quy trình công nghệ nuôi trồng nấm của riêng mình. So với 
trước đi chúng ta trồng nấm sử dụng công nghệ nuôi trồng của người khác. Ngoài ra 
chúng ta có nguồn gen giống nấm tương đối hoàn chỉnh và tương đối đa đạng đặc biệt 
là những loại nấm thị trường thế giới hiện nay đang ưa chuộng. Do đó chúng ta không 
phải phụ thuộc vào bên ngoài quá nhiều. 
 Bên cạnh đó cơ chế chính sách của Nhà nước, từ quan chức của chính Phủ, đến những 
người biết, đều rót vốn đầu tư cho ngành nuôi trồng nấm. Đặc biệt là việc đầu tư cho 
các địa phương và các trung tâm nghiên cứu trong quá trình xây dựng cơ sở vật chất, 
trang bị kỹ thuật và kiến thức nuôi trồng nấm. 
2. Hạn chế 
 Hiện nay, những loại nấm đang rất cần cho giới thượng lưu thì chúng ta lại tiêu thụ với 
giá cả rất đắt. Từ tháng 4 đến tháng 8 lượng nấm tiêu thụ trên thị trường Hà Nội rất 
lớn một ngày 15 tấn, có thể lên tới 40 tấn lượng nấm tiêu thụ đó được vận chuyển từ 
Trung Quốc sang so với giá sản xuất tại Trung Quốc rẻ hơn nhiều khi bán tại Việt 
Nam. 
 Đội ngũ các nhà chuyên gia kỹ thuật nắm vững về công nghệ nuôi trồng nấm ở Việt 
Nam không nhiều. Ví dụ 10 xí nghiệp sản xuất nấm ở quy mô công nghiệp, đang cần 
tuyển dụng cán bộ kỹ thuật với lương rất cao 15 triệu đồng/tháng. 
 Hoạt động sản xuất nhỏ lẻ, manh mún, đơn độc, không có liên kết giữa những người 
trồng nấm. Đối với sản xuất nấm lượng nấm sản xuất ra càng lớn giá bán càng cao. Do 
giảm được chi phí vận chuyển tăng lên khi vận chuyển nhiều đợt nấm với số lượng ít ở 
từng cơ sở nuôi trồng nấm. Với giá cao hạn chế trong việc tiêu thụ nấm trên thị 
trường. 
 Khu vực trồng nấm còn chưa được quy hoạch thành từng vùng rộng lớn, mà phần lớn 
trồng ở gia đình, do đó chỉ trồng được một vụ, vụ sau do ô nhiễm giảm năng suất của 
nấm. Do trình độ dân trí thấp, sản xuất ở quy mô nhỏ, chưa quy hoạch thành những 
vùng trồng nấm với quy mô lớn. So với các nước trên thế giới thì họ sản xuất có quy 
hoạch ở quy mô lớn tận dụng tối đa diện tích và các phế phẩm của ngành trồng nấm. 
Câu hỏi: Bằng hiểu biết của mình anh (chị) hãy phân tích những thuận lợi khó khăn trong 
việc phát triển ngành nấm ở Việt Nam. Theo anh (chị) để ngành nấm phát triển bền vững 
trong môi trường cạnh tranh cao thì các nhà quản lí, các nhà khoa học, các doanh nghiệp 
của Việt Nam cần phải đưa ra những chiến lược phát triển như thế nào? 
CÔNG NGHỆ NUÔI TRỒNG NẤM RƠM 
I. Đặc tính sinh học 
 Nhiệt độ: 
- Giai đoạn nuôi sợi 28-420C, trường hợp < 280C tốc độ sợi phát triển chậm và ít, nhiệt 
độ dưới 150C sợi nấm ngừng phát triển. Nhiệt độ lớn hơn 420C sức đề kháng của sợi 
nấm kém, khả năng nhiễm bệnh tăng, nhiệt độ lớn hơn 460C kéo dài sợi nấm sẽ chết. 
- Nhiệt độ ra quả thể: nhiệt độ tốt nhất là từ 30-380C, nhiệt độ lớn hơn 380C tốc độ phát 
triển của quả thể nhanh, khả năng tích luỹ kém, quả thể nhanh già, nhiệt độ dưới 240C 
quả thể phát triển không bình thường có hiện tượng quả thể bị khuyết đầu. 
 Thời gian sinh trưởng phát triển; thời gian từ khi cấy giống cho đến khi sợi nấm thuần 
thục trung bình kéo dài từ 7-9 ngày, tuỳ thuộc vào nhiệt độ môi trường nguyên liệu. 
Thời điểm từ khi hình thành quả thể khi quả thể hình thành (quả thể đinh ghim cho 
đến khi quả thể hình trứng) kéo dài thông thường từ 3-5 ngày. 
 Độ ẩm: 
- Độ ẩm nguyên liệu: nấm rơm nuôi trường trong môi trường mở không cho vào bao 
đựng nên độ ẩm nuôi trồng nấm rơm rất cao trung bình từ 72-75%. Vắt mạnh nắm 
rơm nước chảy nhỏ giọt liên tục 
- Độ ẩm môi trường xung quanh (nhà nuôi) chia làm 3 giai đoạn: 
∗ Ngày thứ 1 đến ngày thứ 3 cần môi trường khô ráo tốt nhất ẩm độ môi trường là 
65-70% hạn chế được nấm tạp 
∗ Từ ngày 4 đến thứ 9: cần độ ẩm tương đối cao từ 75-85% 
∗ Thời điểm ra quả thể từ ngày thứ 9 trở đi: đây là thời điểm cần ẩm độ cao nhất độ 
ẩm không khí 85-95% 
 Độ thông thoáng: nồng độ CO2 trong không khí đối với đa số các loại nấm cần sự 
thông thoáng tốt, pha sợi nồng độ CO2 < 0.2%, đến thời điểm ra quả thể cần nồng độ 
CO2 , 0.4%. 
 Ánh sáng: nấm không quang hợp nên không cần ánh sáng mặt trời trực tiếp, chủ yếu 
cần ánh sáng tán xạ, nhưng cường độ chiếu sáng phải phân bố đồng đều ở mọi vị trí. 
Đặc biệt cho giai đoạn hình thành quả thể hoàn chỉnh 
 pH: đối với nấm rơm quả thể phát triển tốt trong môi trường trung tính đến kiềm yếu 
pH 7-8, 
 Dinh dưỡng: đa số các loại nấm sử dụng thức ăn chính là xellulo, do đó các nguyên 
liệu giàu cellulose đều có thể trồng được nấm. 
II. Thời vụ 
 Các tỉnh phía Nam có thể trồng được quanh năm 
 Các tỉnh phía Bắc thời vụ trồng từ 15/5-15/9. Nếu trồng vào mùa đông cần có tác động 
nhiệt thích hợp cho quả thể nấm sinh trưởng phát triển. 
III. Công nghệ 
 Xử lí nguyên liệu 
 Vào mô, cấy giống 
Nuôi sợi 
Chăm sóc thu hái 
Sơ chế sản phẩm 
1. Xử lí nguyên liệu 
 Nấm sử dụng nguyên liệu cellulose ở trạng thái trực tiếp nên xử lí nguyên liệu có tác 
dụng: 
- Điều chỉnh độ ẩm nguyên liệu thích hợp đối với từng loại nấm 
- Tiêu diệt những tạp khuẩn trong nguyên liệu 
- Hiệu chỉnh độ pH cho môi trường 
- Chuyển hoá một phần trong các phản ứng thuỷ phân để tạo thành những cellulose có 
mạch ngắn hơn. 
 Việc xử lí nguyên liệu có rất nhiều cách: có thể thanh trùng.. 
2. Vào mô, cấy giống 
 Giống nấm: 
- Chất lượng tốt, đúng độ tuổi 
- Không bị nhiễm bệnh, không lẫn các loại giống khác 
- Lượng giống phải đủ lớn: đối với trồng nấm rơm cần 12kg nấm giống trên 1 tấn 
nguyên liệu 
 Mặt bằng sản xuất 
- Mặt bằng nuôi trồng nấm rơm rất đa dạng có thể là các lán xưởng, các chân ruộng, 
làm ở ngoài vườn với các yêu cầu: 
∗ Khả năng thoát nước tốt 
∗ Mặt bằng trước khi làm phải được thanh trùng sạch 
∗ Đảm bảo được vấn đề về ánh sáng và độ thông thoáng 
∗ Diện tích trung bình cho 1 tấn nguyên liệu 70m2 
 Nguyên liệu 
- Phải đủ độ ẩm 
- Hạn chế tối đa nhiễm các tạp khuẩn 
- Nguyên liệu được để nguội 
 Ngoài ra cần có các khuôn và các dụng cụ dùng để che chắn. 
3. Nuôi sợi 
 Từ ngày thứ 1 cho đến ngày thứ 8 đây là thời điểm đặc biệt quan trọng, nếu khả năng 
đề kháng chống tác nhân gây bệnh thì dẫn đến năng suất thấp. Phụ thuộc chủ yếu vào 
việc chăm sóc ở giai đoạn nuôi sợi 
- Thời điểm nuôi sợi: mô nấm phải giữ được độ ẩm, nhưng hạn chế tối đa việc tưới trực 
tiếp 
- Khả năng tạo độ thông thoáng đối với bề mặt mô phải tốt 
- Duy trì được nhiệt độ ở giữa mô nấm từ 38-460C, dưới 380C năng suất thấp, trên 460C 
sợi nấm không ăn được vào giữa 
∗ Duy trì được độ ẩm 
∗ Duy trì được độ thông thoáng 
∗ Duy trì được nhiệt độ 
4. Chăm sóc, thu hái. 
 Thời điểm nấm bắt đầu ra đinh ghim sau ngày thứ 8, tuyệt đối không để gió lùa trực 
tiếp vào vùng nấm đang ra quả thể (thông thoáng và kín gió) nếu để gió lùa vào quả 
thể nấm mất nước dễ chết. 
 Từ khi bắt đầu ra quả thể cho đến khi quả thể bằng hạt ngô, hạt đỗ không được tưới 
trực tiếp nhưng vẫn phải giữ ẩm độ. 
 Xác định và khống chế nhiệt độ khu vực trồng nấm, nhiệt độ bề mặt mô phải duy trì 
được từ 30-380C thì quả nấm sẽ phát triển bình thường. Do đó phải che chắn và kích 
nhiệt 
 Xác định được thời điểm thu hái quả thể cho năng suất cao nhất. Quả thể nấm đầu tiên 
hình đinh ghim sau khoảng 36-48h quả thể phát triển thành hình hạt ngô và chuyển từ 
màu trắng sang màu nâu, màu xám sau khoảng 36-48h tiếp theo quả thể phát triển to 
bằng quả vải sau đó khoảng 6-8h quả thể tiếp tục tăng trưởng có kích thước bằng quả 
trứng gà nhỏ, sau khoảng 6-8h tiếp theo quả thể nở ô. Vấn đề thu hái nấm tuỳ thuộc 
vào điều kiện thời tiết, tuỳ thuộc vào khoảng cách thời gian từ khi thu hái đến khi tiêu 
thụ để xác định thời điểm thu hái nấm ở dạng nấm hình quả vải hay nấm hình quả 
trứng là chủ yếu. Do sau khi thu hái xong nấm rơm vẫn tiếp tục phát triển. Chu kỳ của 
nấm rơm ngắn 3 ngày. 
 Cách thu hái: hái quả thể trưởng thành nhưng hạn chế tác động đến quả thể nhỏ. Khi bị 
tác động làm hạn chế khả năng cung cấp dinh dưỡng từ nguyên liệu đến quả thể nhỏ 
làm quả thể bị teo và chết. 
 Sau một đợt thu hái nấm diễn ra trung bình khoảng 3 ngày, mô nấm sẽ kết thúc một 
đợt. Sau khi thu hái hết nấm ở trên mô cần có biện pháp vệ sinh mô nấm nhặt bỏ tất cả 
phần chân nấm, các quả thể nhỏ bị chết. Khi loại bỏ xong cần phải ngừng tưới để cho 
bề mặt mô se khô mục đích chính hạn chế tạp khuẩn và nấm mốc tấn công vào bề mặt, 
thời gian ngừng tưới kéo dài trung bình khoảng 1-2 ngày. Thời điểm này cửa nhà 
trồng nấm tạo thoáng tối đa để phát triển mô sợi, sau 2 ngày ta mới duy trì tưới phun 
sương trở lại để lấy lại độ ẩm cho mô nấm, sau khoảng 2-3 ngày nấm tiếp tục ra đợt 
thứ 2. Năng suất trung bình nấm rơm là 15-20% trên rơm rạ, khoảng 20-30% trên 
bông phế loại. 
 Bã phế loại sau khi trồng nấm rơm có thể phơi khô gom lại thành đống có thể dùng để 
trồng nấm mỡ 
 Khi vận chuyển nhiệt độ trung bình 150C trong quá trình bảo quản 
CÔNG NGHỆ NUÔI TRỒNG NẤM SÒ 
Bản chất của quá trình ủ là sử dụng hệ vi sinh vật trong tự nhiên giúp cho quá trình tăng nhiệt 
độ của đống ủ, phân giải một phần nguyên liệu, loại bỏ các tạp khuẩn, trong đống của sự phát 
triển của các vi sinh vật đó là nấm mốc và xạ khuẩn. Trong quá trình ủ theo thời gian vi sinh 
vật hoạt động sử dụng hết lượng không khí có trong đống ủ tạo ra môi trường yếm khí. Do đó 
ta phải đảo đống ủ để tạo điều kiện thông thoáng khí, nếu trong đống ủ có nhiều nước thì cũng 
làm cho đống ủ yếm khí vi sinh vật phân giải tạo ra môi trường axit. Khi môi trường yếm khí 
vi sinh vật hoạt động bất lợi, thì ta phải khắc phục môi trường nguyên liệu. Trong trường phát 
hiện đống ủ yếm khi chuyển màu đen thì phải 
 Dỡ đống ủ làm cho đống ủ tới xốp giải phóng các khí độc 
 Kiểm tra pH của môi trường bằng giấy quỳ 
 Khi nguyên liệu không còn quá ướt thì ta điều chỉnh pH bằng vôi bột, khi pH hơi kiềm 
có thể điều chỉnh bằng bột nhẹ 
 Chia đống ủ thành hai phần phần giữa yếm khí được đưa ra ngoài, phần ngoài có màu 
sáng hơn cho vào bên trong. Trong quá trình ủ trở lại không nên nẹn quá chẹt, để tạo 
cho vùng giữa độ xốp, kệ kê đống ủ cao hơn, đống ủ có mùi đặc trưng trở lại. 
Khi trồng nấm rơm có trường hợp đến ngày thứ 5-6 đã ra quả thể, đến ngày hôm sau thân nấm 
kéo dài đó là nấm dại nấm mực. Nấm mực phát triển tốt trong môi trường trái ngược với nấm 
rơm (thích hợp với môi trường yếm khí, độ ẩm ở giai đoạn nuôi sợi rất cao). Giải pháp: 
 Sau khi cấy giống vào mô nấm trong vòng khoảng 3 ngày đầu sợi nấm bắt đầu bung ra 
và bám vào nguyên liệu, nấm mực tấn công từ không khí vào và đa số sẽ phân bố trên 
bề mặt mô nấm. Hai loại nấm này sống chung với nhau cạnh tranh dinh dưỡng của 
nhau nhưng không làm ảnh hưởng đến nhau. Do đó cần phải làm cách hạn chế tối đa 
sự phát triển của nấm mực trên bề mặt mô nấm. Môi trường bề mặt có thể phù hợp cho 
nấm mực phát triển khi che phủ quá kỹ tạo ra độ ẩm quá cao do nước bốc hơi từ trong 
đống ủ lên bề mặt và điều kiện môi trường yếm khí. Bên trong sợi nấm rơm vẫn phát 
triển bình thường nhưng không phát triển lên bề mặt do nấm mực phát triển rất nhanh 
và che kín bề mặt mô nấm. Khi thấy ra quả thể sớm phải xử lí ngay. 
- Tạo điều kiện cho bề mặt thoáng 
- Làm cho bề mặt mô nấm khô quả thể nấm và sợi nấm mất nước đột ngột tiêu biến đi 
sau đó ta mới duy trì tưới ẩm trở lại, khi đó thì sợi nấm rơm từ phía trong sẽ phát triển 
ăn lên bề mặt 
Trồng nấm rơm, quả thể ra rất nhỏ và rất nhanh mở ô, năng suất thấp? 
Năng suất nấm phụ thuộc vào 3 yếu tố: 
 Giống 
 Kỹ thuật 
 Môi trường xung quanh 
Hiện tượng trên là do nguyên nhân sau: 
 Để nấm cho năng suất cao thì sinh khối sợi phải lớn, mật độ sợi bao trùm toàn bộ mô 
nấm 
 Nhiệt độ: Nhiệt độ vùng giữa đống ủ cần phải đạt được 28-460C trong giai đoạn mô 
sợi, khi đó sợi nấm có thể đi được vào đến giữa mô, trong trong hợp nhiệt độ vùng 
giữa mô nấm lớn hơn 460C sợi nấm có xu hướng đi ra, khi đó sợi nấm có thể bện kết ở 
bề mặt mô trong ngày thứ 5-6, đến ngày thứ 7 thì đã xuất hiện quả thể hình đinh ghim, 
trong khi sợi nấm cho đủ lớn chưa ăn vào vùng giữa của mô nấm. Khi đó quả thể nấm 
nhỏ nhanh mở ô, năng suất thấp. 
 Độ ẩm: nguyên liệu đưa vào vắt mãi mới chảy 1-2 giọt làm cho mô nấm khô, khi đó 
tưới ẩm vào thì chỉ tưới được cho bề mặt xung quanh, liên kết sợi nấm giữa mô nấm 
rất kém mật độ sợi nấm rất thưa, phản ứng thuỷ phân cellulose kém. Hiện tượng này 
làm cho quả thể nấm nhỏ. 
 Độ thông thoáng: độ thông thoáng kém liên quan đến độ ẩm. Khi đưa nguyên liệu vào 
kiểm tra độ ẩm không chuẩn nước vắt ra chảy thành dòng, do đó tạo ra hiện tượng 
yếm khí ở vùng giữa mô nấm làm cho sợi nấm có xu hướng đi ra vùng giữa không có 
sợi nấm phát triển 
Cách khắc phục: 
 Nhiệt độ: do che chắn kín hoặc do mô nện chặt…do đó phải tạo độ xốp và thông 
thoáng khí cho mô nấm ở giữa bằng cách nhấc mô nấm lên xong lại hạ xuống. Việc 
này chỉ tiến hành khi sợi nấm tương đối tốt vào khoảng ngày thứ 4 thứ 5. 
 Độ ẩm: nếu độ ẩm giữa mô nấm khô thì ta cũng phải chọn thời điểm đến ngày thứ 5 
dùng các dùi nhọn bằng tre chọc lỗ từ trên xuống sau đó dùng biện pháp tưới tràn, một 
mặt nước có thể vào nguyên liệu và một mặt có thể bị đẩy ra ngoài. Sau khi tưới tràn 
thì phải để cho mô nấm thật thông thoáng tránh yếm khí. Tưới tràn bằng ô doa tránh 
phá vỡ hệ sợi nấm. 
I. Đặc tính sinh học 
II. Kỹ thuật nuôi trồng nấm sò 
Xử lí nguyên liệu 
 Đóng bịch cấy 
iố 
Nuôi sợi 
Chăm sóc thu hái 
Sơ chế sản phẩm 
1. Xử lí nguyên liệu 
 Nguyên liệu trồng nấm sò rất đa dạng người ta chia làm 2 nhóm: 
- Rơm rạ, bông phế loại vào mùa nhiệt độ trung bình <= 200C ủ theo phương pháp lên 
men tự nhiên. 
- Nhóm nguyên liệu mùn cưa, bã phế loại trồng linh chi, mộc nhĩ, hoặc bông phế loại đã 
được lưu giữ trong thời gian dài người ta dùng phương pháp thanh trùng bởi nhiệt độ 
sau khi đã được ủ bằng hình thức lên men tự nhiên. 
- Nhiệt độ trong đống ủ rơm rạ, bông phế loại có thể lên tới 65-800C đa số tạp khuẩn và 
nấm gây hại cho nấm sò sẽ bị tiêu diệt. Do đó khi cấy nguyên liệu người ta áp dụng 
luật số lớn dùng lượng giống nhiều đề lấn áp các tác nhân gây bệnh đối với trường hợp 
lên men tự nhiên. 
- Nhóm 2 dùng bông phế loại, mùn cưa, bã phế loại trong trường hợp đó khi ủ nguyên 
liệu nhiệt độ đống ủ vào khoảng 55-700C, do đó tạp khuẩn và mầm mống bệnh vẫn 
còn rất nhiều trong nguyên liệu nên khi cấy giống tỷ lệ nhiễm bệnh rất cao, nên người 
ta phải hấp nguyên liệu sau khi đóng bịch nhiệt độ cao 1050C. 
 Nguyên tắc: 
- Độ ẩm nguyên liệu trước khi cấy giống phải ở ngưỡng 60-62% trong trường hợp mùn 
cưa và bã phế loại 
- Nguyên liệu là rơm rạ hoặc bông phế loại độ ẩm trung bình của nguyên liệu từ 65-
67%. Nguyên liệu khi vắt rỉ kẽ tay nhưng không tạo thành giọt. 
- pH của nguyên liệu: nấm sò thích nghi trong môi trường kiềm yếu, nấm sò có khả 
năng điều chỉnh pH, nấm sò phát triển trong môi trường pH 7-8,5 
- Trong trường hợp vô trùng tuyệt đối nguyên liệu thì giống chỉ cần cấy một lớp trên bề 
mặt 
- Trường hợp ủ theo hình thức lên men tự nhiên thì giống phải cấy từ 3-4 lớp tuỳ theo 
kích thước của túi. 
- Tỷ lệ giống cấy trung bình từ 40-50kg trên 1 tấn nguyên liệu 
2. Đóng bịch 
 Kích thước của túi phụ thuộc vào 3 yếu tố: 
- Loại nguyên liệu 
- Điều kiện thời tiết 
- Phụ thuộc vào phương pháp thanh trùng 
 Trường hợp nguyên liệu là rơm rạ thì kích thước của túi ở dạng 30x40cm ở thời điểm 
nắng nóng, vào thời điểm lạnh kích thước túi 35x45cm. 
 Trường hợp nguyên liệu là bông phế loại người ta dùng loại túi có kích thước 
25x35cm, vào thời điểm nắng nóng trọng lọng bịch 1,4kg, thời điểm lạnh trọng lượng 
bịch 1,7-1,8kg 
 Nguyên liệu là mùn cưa hoặc bã phế loại người ta dùng túi có kích thước 19x37cm, 
trọng lượng của bịch 1,3-1,5kg 
3. Giai đoạn nuôi sợi 
 Nhà xưởng dùng để nuôi sợi yêu cầu: 
- Thông thoáng tốt, ánh sáng yếu, khô ráo, được thanh trùng trước mỗi lần ươm bịch 
 Phương pháp đặt bịch trong nhà ươm tuỳ từng điều kiện thời tiết mà khoảng cách bịch 
cách bịch là khác nhau, vào thời điểm lạnh nhiệt độ trung bình dưới 200C các bịch đặt 
sát nhau, trong trường hợp nhiệt độ cao trên 200C khoảng cách bịch cách bịch 3cm 
 Giai đoạn nuôi sợi duy trì khoảng 17-25 ngày tuỳ thuộc vào từng chủng loại nguyên 
liệu từng kích thước túi. Khi chúng ta quan sát thấy hệ sợi đã bao phủ kín hết bịch 
nguyên liệu thì ta để thêm khoảng 2 ngày cho sợi nấm thuần thục. 
 Những biểu hiện bất thường diễn ra trong giai đoạn ươm: 
• Nhiễm mốc 
- Dạng nhiễm mốc: nhiễm mốc trên bề mặt bịch nguyên nhân 
∗ Do nút bông bị ướt 
∗ Do các thao tác cấy, hoặc điều kiện của vùng đóng bịch cấy giống bị ô nhiễm 
∗ Do lán xưởng ươm bịch nhiễm bệnh 
- Nhiễm mốc điểm ở xung quanh bịch thường xảy ra với hiện tượng thủng túi. Nếu 
thủng vào vùng cấy giống làm cho giống nấm bị nhiễm mốc 
- Nhiễm mốc toàn bộ bịch: liên quan đến môi trường của nhà ươm bịch bất lợi về nhiệt, 
về mức độ thông thoáng. Nếu nhiệt độ trong nhà ươm vượt lên quá cao trên 300C kéo 
dài,.. làm cho sợi nấm sinh trưởng kém 
∗ Trong quá trình thao tác cấy giống lấy phải các bịch đã bị nhiễm mốc 
• Sau khi cấy giống khoảng 3-5 ngày hiện tượng sợi nấm co lại đặc biệt là vùng ở dưới 
đáy bịch, do 2 nguyên nhân chính 
∗ Do độ ẩm nguyên liệu quá cao 
∗ Do độ nén của người đóng bịch quá chặt do đó vùng dưới đáy bịch yếm khí 
trầm trọng sợi nấm co lại và chết. Khi đó dùng đũa nhọn tạo lỗ nhiều ở gần đáy 
bịch rút nước ra khỏi bịch và làm cho môi trường thông khí tốt. 
4. Chăm sóc và thu hái 
 Nhà xưởng chăm sóc thu hái yêu cầu: sạch, thông thoáng tốt, kín gió, độ ẩm cao, ánh 
sáng đủ người bình thường đọc sách (ánh sáng tán xạ), nhiệt độ duy trì dưới 300C 
 Những điểm lưu y trong quá trình chăm sóc: 
- Thời điểm trước khi nấm ra: không nên tưới trực tiếp vào bịch mà chủ yếu xả nước 
xuống nền để giữ ẩm và đồng thời chống hiện tượng gió, để những vết rạch đỡ bị mất 
nước. 
- Khi nấm bắt đầu ra quả thể: người ta phải tăng cường, tăng số lần tưới phun sương mù 
trực tiếp vào vùng ra quả thể sao cho cánh nấm đủ nước nhưng nước không ngấm vào 
trong bịch. Tưới trên giàn treo cho nước bám vào dây treo để cho nước rơi thành giọt 
từ trên rơi xuống. Số lần tưới trong ngày theo quan sát cánh nấm, nếu cánh nấm se khô 
thì phải tưới nước. 
- Thời điểm hái nấm: hái vào thời điểm đường kính mũ nấm phải dưới 4cm, nhưng tâm 
mũ nấm vẫn còn chúi xuống. Phải ngừng tưới trước khi hái từ 4-6h. 
- Hái nấm già khi bào từ nấm phát tán ra môi trường có những bất lợi: 
∗ Nấm dai, có mùi hôi 
∗ Do bào tử phát tán quá nhiều khi người hái hít phải bào tử ho khó thở, tức ngực 
∗ Môi trường trồng nấm sò nhanh bị ô nhiễm do bào tử bám vào môi trường chết 
làm dinh dưỡng cho các tạp khuẩn dẫn đến các tạp khuẩn phát triển vào trong 
nhà trồng nấm. 
∗ … 
5. Sơ chế sản phẩm 
Khi vào nhà nấm đã rạch bịch hàng tuần có hiện tượng các vết rạch chuyển sang màu vàng 
thấy một số bịch có ra quả thể nhưng quả thể không lớn. Người nông dân khẳng định do 
giống có vấn đề? Giải thích tại sao, cách khắc phục. 
 Lựa chọn thời điểm rạch không thích hợp vùng hình thành mô sẹo là vùng cấy giống 
sợi nấm ở đây dài nhất. Khi rạch bịch đa số người nông dân rạch ở chỗ mật độ rày đặc 
vùng có mô sẹo 
 Sau khi rạch xong không được tưới trực tiếp nếu tưới nước trực tiếp hoặc nước ngấm 
vào sẽ bị nhiễm khuẩn 
 Khi rạch bịch rạch nhẹ không đạt yêu cầu, khi rạch xong vết rạch khép vào tạo thành 
vùng yếm khí 
 Bị gió lùa: rạch xong để thông thoáng hoàn toàn gió lùa vào vết rạch bị khô, sợi nấm 
mất nước đột ngột 
 Có những trường hợp, rạch vào chỗ đọng nước (bịch nén không đều tạo thành những 
vùng gọi là túi đựng nước) làm cho chỗ rạch chuyển sang màu vàng. 
 Khắc phục bằng cách rạch lại nhưng tuỳ từng trường hợp mà chọn vị trí rạch: 
Khi thu hái nấm sò bình thường quả thể nấm chân ngắn, mập, mũ dày nấm ngon. Có những 
trường hợp chân dài, mũ nở. Nguyên nhân gây ra hiện tượng trên và cách khắc phục. 
 Do thiếu không khí, mật độ của bịch nấm trong một diện tích quá dày, hoặc mật độ 
cánh lớn trong một cụm nấm quá lớn, quá dầy, làm cho cánh nấm vươn ra chân dài ra 
cánh nấm xốp nhẹ. 
 Thiếu dinh dưỡng lần thu đầu tiên cánh nấm to, các lần thu hái tiếp theo… 
 Cung cấp độ ẩm không cần đối: nấm cần độ ẩm không khí cao chứ không cần nước do 
đó cần phải hạn chế khả năng mất nước đột ngột của nấm, cần phải tưới nước xuống 
nên nhà xưởng cung cấp đủ độ ẩm cho nấm. Ngoài ra còn có tác dụng giảm nhiệt độ. 
CÔNG NGHỆ NUÔI TRỒNG NẤM MỠ 
I. Đặc tính sinh học 
 Nhiệt độ: đối với nấm mỡ pha nuôi sợi nhiệt độ cho hệ sợi sinh trưởng phát triển bình 
thường 18-280C, thời điểm ra quả thể bình thường từ 13-200C. Nếu nóng kéo dài liên 
tục hoặc lạnh kéo dài liên tục thì nuôi trồng nấm mỡ gặp bất lợi, do nhiệt độ thích hợp 
cho 2 pha là khác nhau. Nếu nóng kéo dài liên tục thì nhiệt độ cho giai đoạn nuôi sợi 
gặp thuận lợi nhưng đối với giai đoạn ra quả thể gặp khó khăn. Quả thể nấm mỡ ra 
lần đầu tiên rất tốt nhưng lần thứ 2, 3 cần phải có giai đoạn tích tụ ở giai đoạn hệ sợi, 
nếu nhiệt độ kéo dài nấm ra quả thể nhỏ, chân dài, chất lượng kém. Để nuôi trồng nấm 
mỡ tốt thì 2 giai đoạn nuôi trồng hệ sợi và quả thể phải xen kẽ với nhau. 
 Độ ẩm: 
- Độ ẩm nguyên liệu: tùy theo chất loại nguyên liệu, mùn cưa 60-62%, bông phế loại 
65-67%, độ ẩm nguyên liệu 68-72% 
- Độ ẩm không khí: 
∗ Pha sợi: độ ẩm không khí tốt nhất tốt nhất là 65-80%, xét vào thời điểm nhiệt độ 
trung bình lớn hơn 200C nấm không ra quả độ ẩm không khí ở ngưỡng này tốt nhất 
∗ Pha ra quả thể cần độ ẩm không khí cao từ 85-90%, áp dụng cho trường hợp nhiệt 
độ nhỏ hơn 180C 
 Độ thông thoáng 
- Giai đoạn nuôi sợi < 0.2% 
- Giai đoạn quả thể < 0.1% 
 Ánh sáng: bình thường cần ánh sáng tối, càng tốt càng tốt 
 pH nguyên liệu: môi trường trung tính khoảng 6.5-7.5 
 Dinh dưỡng: nấm mỡ sử dụng cellulose ở trạng thái gián tiếp, trong công nghệ có thời 
gian ủ nguyên liệu tương đối dài. 
II. Thời vụ 
 Thời điểm cấy giống: thông thường bắt đầu từ 11-11 đến 15-12, thời gian ủ nguyên 
liệu tiến hành trước khoảng 25 ngày bắt đầu từ 5-10 cho đến 20-11. 
 Thời gian thu hái thường khoảng 1-12 cho đến 15-4 
III. Kỹ thuật nuôi trồng 
 Xử lý nguyên liệu 
 Vào luống, cấy giống 
Chăm sóc, nuôi sợi 
Phủ đất 
Chăm sóc, thu hái 
 Sơ chế, sản phẩm 
1. Xử lý nguyên liệu 
 Lên men chính 
- Công thức bổ sung phụ gia: đạm ure, supe, bột nhẹ bổ sung theo từng giai đoạn, đến 
lần đảo thứ ba bổ sung thêm supe lân, lần đảo thứ 4 không bổ sung thêm phụ gia 
- Số lần ủ đảo 
- Lượng nguyên liệu trên lần ủ 
- Diễn biến về nhiệt, pH của nguyên liệu 
- Chất lượng sau khi lên men chính 
 Lên men phụ: trước đây người ta lên men phụ ngay tại lán xưởng, sau khi kết thúc lên 
men chính người ta vào luống khoảng 30cm, sau khi lên men phụ 1 tuần mới bắt đầu 
cấy giống. Hạn chế sau khi lên men phụ xong một lỡ nguyên liệu vào các luống khác 
để cấy giống thì mất nhiều công. Nếu cứ để chiều cao 30cm để cấy giống hết vụ giống 
thì lượng nguyên liệu nấm sử dụng 40%, năng suất trước đây thấp 15%. 
- Hiện nay người ta lên men phụ: giải quyết: giải phóng tối ưu nhất hàm lượng NH3 
trong nguyên liệu 
- Tạo môi trường tối ưu cho xạ khuẩn hoạt động tốt nhất là nguồn dinh dưỡng cho quá 
trình phát triển của nấm về sau 
- Lên men phụ hiệu chỉnh độ ẩm cần thiết 
- Tiêu diệt tương đối triệt để các tạp khuẩn, nấm dại bất lợi đối với nấm mỡ. 
- Cách lên men phụ hiện nay: 
∗ Kích thước của đống ủ lên men phụ. Nếu đống ủ lên men phụ cao quá rộng quá thì 
nhiệt độ cao trên 650C hạn chế quá trình phát triển của xạ khuẩn, nên người ta tính 
toán để nhiệt độ trung bình đạ 55-650C. Người ta xác định độ rộng của đống ủ lên 
men phụ trung bình 1,2m, chiều cao trung bình khoảng 0.8m, giữa đống ủ lên men 
phải có hàng ống thông khí trung bình 1-1.2m lại cắm một cọc, dưới chân đống ủ 
có kệ. Người ta chỉ dùng tay để ấn chặt xung quanh ở giữa để xốp thoáng, để giải 
phóng khí tốt giúp cho vi sinh vật hoạt động tốt chận kệ phải để hở. 
∗ Độ ẩm: độ ẩm ở giai đoạn lên men phụ khống chế trung bình khoảng 72%, kiểm 
tra bằng cách vắt mạnh nước chảy thành giọt đứt đoạn. 
∗ Muốn có độ xốp tốt nguyên liệu phải được làm tơi 
∗ Khi ủ lên men phụ phải thường xuyên kiểm tra: nhiệt ở giữa đống nguyên liệu, 
nếu nhiệt độ ở ngưỡng dưới 650C đạt yêu cầu, nếu trên 650C ta lại phải đảo lại 
đống và lên men phụ lại. Kiểm tra về mùi: khi không còn mùi khai ở các vị trí 
khác nhau thì kết thúc giai đoạn lên men phụ. Kiểm tra về xạ khuẩn nếu đống ủ len 
phụ dỡ ra quan sát có lớp màu trắng cả ở giữa và bên ngoài thì đạt yêu cầu. Nếu ở 
giữa có mà ngoài không có thì hoặc là độ thông thoáng kém hoặc nhiệt độ quá cao. 
∗ Thời gian lên men phụ kéo dài trung bình từ 4-7 ngày tùy thuộc vào chất lượng 
nguyên liệu. 
Trong thực tế sản xuất có những đống ủ ngày vào luống có mùi khai, không có xạ khuẩn, 
đống nguyên liệu đen, có nấm mực phát triển mạnh. Giải quyết vấn đề? 
 Yếm khí 
 Xạ khuẩn kém 
 pH thấp 
 Rũ tơi đống nguyên liệu điều chỉnh lại độ ẩm để giải phóng hết các khí độc, rũ tơi kết 
hợp với để nguội 
 Bắt buộc phải kiểm tra độ pH, độ pH dao động trong khoảng 5,5-7. 
 Để xạ khuẩn hoạt động tốt, nguyên liệu không có màu đen chúng ta bổ sung bột nhẹ 
lượng bột nhẹ thường bổ sung vào nguyên liệu trung bình 15-20kg/tấn nguyên liệu và 
tiến hành lên men phụ lại. Lên men phụ lại càng để tơi xốp càng tốt, không nên để 
đống cao quá, rộng quá, làm sao cho đống nguyên liệu càng thông thoáng càng tốt. Bắt 
đầu vào ngày thứ 2, 3, 4 bắt đầu kiểm tra nhiệt độ, xạ khuẩn, thời gian kéo dài 3-5 
ngày thì đống ủ sẽ không còn mùi, hết màu, và có xạ khuẩn trở lại. 
 1 tấn rơm để trồng nấm rơm khi đống rơm ủ xong đạt 3,2 tấn, sau khi trồng nấm rơm 
xong thu được 1.6 tấn bã phế loại độ ẩm 72%, khi ở độ ẩm khô 400kg. 
 Nấm mỡ 1 tấn rơm khô khi ủ xong trung bình đạt 2,6 tấn đủ ẩm, lúc thu hoạch được 
1.2 tấn bã phế loại ở độ ẩm 70%, tương đương 280kg bã khô. 1 tấn nguyên liệu đạt 
550 kg nấm mỡ tươi. Theo lý thuyết trồng nấm rơm trên rơm rạ khô cho năng suất cao 
hơn, nhưng trong thực tế trồng nấm mỡ trên nguyên liệu rơm rạ đã trồng nấm rơm có 
năng suất tương đương với trồng trên rơm rạ khô. 
 Khi ủ nguyên liệu nhiệt độ ngoài trời là 370C thì 3 ngày đạt nhiệt độ 750C ở giữa đống 
ủ, …nhiệt độ ngoại cảnh không ảnh hưởng nhiều đến đống ủ. 
2. Vào luống, cấy giống 
 Nhà xưởng phải được vệ sinh thanh trùng trước khi đưa nguyên liệu vào 
 Diện tích sử dụng trung bình 40m2 thiết diện trên 1 tấn nguyên liệu 
 Độ cao của luống nguyên liệu 12-15cm 
 Khi vào luống thì độ nén của đống nguyên liệu chặt và phải phẳng mặt 
 Khi vào luống kiểm tra nhiệt độ, kiểm tra mùi khai và độ ẩm trước khi cấy giống, 
nhiệt độ dưới 280C có thể cấy giống, không còn mùi khai độ ẩm trung bình phải đạt 
70%, thời gian vào luống cho đến khi cấy giống tốt nhất là 1-3 ngày. 
 Giống nấm sử dụng: lượng trung bình dùng 0.4kg/m2 trung bình 15kg trên 1 tấn 
nguyên liệu, tuổi của giống trung bình từ 32-45 ngày tuổi. Đối với giống nấm có mùi 
thơm đặc trưng không có mùi chua, không bị nhiễm mốc. Mật độ hệ sợi phân bố đồng 
đều, màu sắc của giống nấm có màu trắng đặc trưng. 
 Lớp nguyên liệu từ 12-15cm, lớp giống phân bố trên bề mặt từ 2-5cm, khi cấy giống 
xong tuyệt đối không có hạt giống nào nổi trên bề mặt, không có giống sâu quá xuống 
dưới mà chỉ phân bố đều ở vùng 2-5cm. Giống nổi trên bề mặt hạt giống khô chết và 
bị nhiễm mốc, không bị khô bị ướt quá do tưới ẩm sẽ bị chết, lớp 2-5cm là lớp bảo vệ 
hạt giống. Trong trường hợp cấy sâu quá nhiệt độ cao > 280C giống sẽ suy yếu dần và 
chết 
 Cấy giống xong chăm sóc nuôi sợi 15 ngày đầu đây là giai đoạn quan trọng nhất, trong 
3 ngày đầu không tưới. Nếu lán xưởng thông thoáng quá thì nấm sẽ bị khô nên không 
để gió lùa vào nhà trồng nấm. Sau 3 ngày đến ngày thứ 4 khi kiểm tra thấy sợi nấm sợi 
bung ra và bắt đầu bám vào nguyên liệu thì ta có thể tưới phun sương mù nhẹ để giữ 
ẩm trên bề mặt, nhưng tuyệt đối không để nước ngấm thành từng giọt vào vùng cấy 
giống. Việc duy trì độ ẩm như trên kéo dài liên tục cho tới ngày thứ 15 khi đó sinh 
khối sợi đã đủ lớn và sợi nấm đã bám vào lớp nguyên liệu trên bề mặt ta tiến hành phủ 
đất trồng nấm mỡ. 
Trong 15 ngày nuôi sợi đến ngày thứ 7-8 xuất hiện những đám mốc trắng, một số có thể mốc 
điểm, mốc xanh. 
 Trong quá trình ủ nguyên qua giai đoạn lên men chính và lên men phụ không đồng 
đều, về cơ bản hết mùi khai có những vùng có mùi khai có những vùng có chỗ ướt quá 
dẫn tới nhiệt độ các vùng này cao, yếm khí xuất hiện những đám mốc trắng. Mốc xanh 
đã bị nhiễm lẫn với giống khi cấy giống có những điểm bị mốc xanh. Nhiệt độ vào 
thời điểm 280C, nếu nhiệt độ cao 320C các giống phía dưới bị chết và hình thành mốc 
xanh. 
 Trong trường hợp có những đám mốc trắngt hì khoanh vùng những đám mốc trắng 
không tưới nước vào đó để cho nấm trắng chết khô hết và chuyển sang màu vàng và 
bay đi mất. Từ bên dưới sợi nấm sẽ phát triển lên. Đối với mốc xanh để lớp bảo vệ 
2cm khô sau đó tiến hành bóc lớp 2cm đó ra và trơ ra những vùng mốc xanh, dùng 
nước vôi chấm vào những vùng mốc xanh (đánh dấu những vùng mốc xanh), sau khi 
chấm nước vôi dùng chậu nước đi đến đâu bốc vùng có mốc xanh bỏ vào chậu nước 
chống phát tán, cuối cùng đậy trở lại lớp bảo vệ duy trì tưới ẩm bình thường để mặt 
tương đối thoáng, vùng sợi đang phát triển tốt bên cạnh sẽ phát triển tiếp 
 Mốc xanh toàn bộ: nhiệt độ cao 310C, nấm mốc chết toàn bộ bị mốc xanh, khi có 
nhiều khí độc NH3 mà vẫn cấy giống làm cho giống chết bị mốc xanh toàn bộ. Trường 
hợp này ta xử lý bằng cách dỡ hết đống nguyên liệu ra phía ngoài rong tơi nguyên 
liệu, nhà trồng nấm mỡ thanh trùng lại, nguyên liệu được tiến hành lên men phụ lại, 
trong quá trình lên men phụ lại phải bổ sung bột nhẹ trung bình 15-20kg/tấn nguyên 
liệu, nhiệt độ cao sẽ tiêu diệt mầm mống bệnh, thời gian lên men phụ kéo dài 5-7 ngày 
sau đó vào luống cấy giống lại. 
 Vấn đề lựa chọn đất phủ phải có kết cấu viên, trong đất phủ phải có hàm lượng khoáng 
cao và mật độ vi sinh vật cao, những đất phủ này không phải ở vùng ô nhiễm nặng. 
Hiện nay đất phủ được lựa chọn tương đối phổ biến là đất màu ở tầng canh tác. Lượng 
đất phủ trung bình sử dụng 20-30kg đất phủ khô/1m2, tương ứng với độ dày của lớp 
đát phủ trên bề mặt luống 3cm, đường kính của 1 viên đất 0.4-1.5cm. 
 Nếu đất phủ mà là đất chua có độ pH dưới 6.5 thì ta phải bổ sung thêm bột nhẹ vào đất 
phủ để hiệu chỉnh pH đất phủ 7. 
5. Chăm sóc sau khi phủ đất 
 Phải bổ sung từ từ độ ẩm vào đất phủ bằng cách tưới phun sương mù nhiều lần trong 
ngày, thời gian bổ sung độ ẩm đủ cho đất phủ kéo dài khoảng 3 ngày. Khi tưới nhiều 
nước quá đất phủ bị vỡ ra tạo thành váng trên bề mặt dẫn đến hiện tượng yếm khi sợi 
nấm không thể bám vào lớp đất phủ được. Nếu tưới 1 tuần sau mới đủ ẩm thì nước từ 
nguyên liệu di chuyển lên lớp đất phủ thì sợi nấm trong nguyên liệu sẽ bị chết. 
 Bắt đầu từ ngày thứ 4 trở đi, chỉ duy trì độ ẩm cho bề mặt lớp đất phủ 1-2 ngày mới 
tưới nhẹ 1 lần. Sau 15 ngày nếu gặp được điều kiện thời tiết thuận lợi nhiệt độ < 180C 
kéo dài thì nấm bắt đầu ra quả thể. Nếu nhiệt độ > 200C nếu vẫn ở dạng sợi không 
phát triển thành dạng quả thể 
6. Giai đoạn chăm sóc thu hái 
 Sau ngày 15 nhiệt độ lớn hơn 200C tạo độ thoáng cho nhà trồng nấm hạn chế tối đa 
việc tưới nước vào nấm. Sợi nấm kéo dài nấm không ra quả thể, nấm dễ bị bệnh bã 
đậu. 
 Khi thời tiết < 180C ta phải mở hết các cửa cải thiện môi trường 
- Tích cực cung cấp độ ẩm bằng cách tưới phun sương mù nhiều lần 
- Đồng thời chúng ta giữ độ thoáng cho nhà trồng nấm 1 ngày. 
- Sau 1 ngày ta mới tiến hành đóng cửa các nhà trồng nấm lại không cho gió lùa trực 
tiếp. Nấm sẽ nhanh chóng hình thành quả thể. 
- Khi nấm đã hình thành quả thể: thời điểm bắt đầu ra quả ta phải tăng số lần tưới trong 
ngày để tạo độ ẩm không khí và giữ đủ ẩm cho đất phủ. Sau khoảng 3-4 ngày thì nấm 
mỡ bắt đầu cho thu hái. 
- Người ta xác định tuổi hái nấm mỡ là chiều cao chân nấm mỡ. Chiều cao lớp đất phủ 
đến 0.5cm thì tiến hành thu hái. 
- Thời gian thu hoạch một đợt phụ thuộc vào điều kiện thời tiết. Nếu một đợt lạnh kéo 
dài thì thời gian thu hoạch kéo dài, kết thúc của một đợt lạnh có hiện tượng nóng dần 
lên kết hợp với việc mang hơi nước quả thể nấm nhanh chóng nở ô và chân cao dễ bị 
bệnh. Khi nhiệt độ trung bình lớn hơn 200C chúng ta phải nhanh chóng hái hết quả thể 
nấm, bởi vì khi nhiệt độ > 200C quả thể nấm chuyển sang màu vàng và chết dễ bị 
nhiễm mốc. 
- Sau khi hái thì cần phải làm vệ sinh: nhặt bỏ chân nấm, quả thể nấm bị chết. Sau đó có 
một đợt nhiệt độ tăng 200C có thể lên tới 300C trong khoảng nhiệt độ này để sợi nấm 
tích lũy đủ dinh dưỡng việc đầu tiên là phải tạo thoáng nhà trồng nấm, hạn chế tối đa 
việc tưới nước để bề mặt lớp đất phủ se khô hạn chế bệnh tấn công. Đây là thời điểm 
để sợi nấm để tích tụ dinh dưỡng phía dưới chờ đợt lạnh tiếp theo cung cấp đủ ẩm để 
thu hoạch đợt 2. 
- Có trường hợp nấm đang ra gặp nhiệt độ tăng cao hái nấm, nhặt hết các quả thể nấm 
do quả thể nấm nhanh chóng chuyển sang màu vàng, nhặt càng sớm càng tốt. Sau 
khoảng 2 ngày nấm sẽ bị thối nếu không nhặt kịp thời. 
- Trong trường hợp thu hái lặp đi lặp lại nhiều lần trung bình năng suất khoảng 15-20% 
(thu hoạch 2-3 đợt) sẽ có hiện tượng: 
- Luống nấm mỡ bị lún dần 
- Nguyên liệu ở phía dưới có độ xốp, thậm chí thiếu ẩm. Chúng ta lựa chọn vào thời 
điểm hết nấm làm công tác vệ sinh sạch bề mặt, bước 2 nén đều bề mặt luống nấm Æ 
sau khi nén dễ bí dùng cào nhỏ xới để tạo ra độ thông thoáng xới sâu xuống phần 
nguyên liệu để kích thích cho sự phân nhánh của hệ sợi Æ bổ sung thêm đất phủ, 
lượng đất phủ bổ sung thường 3-5 kg/1m2 bắt đầu đợt lạnh tới nấm tiếp tục cho ra đợt 
mới năng suất cao chất lượng tốt. 
- Tóm lại năng suất của nấm mỡ đạt trung bình 300-400kg nấm tươi/tấn nguyên liệu với 
thời gian thu hoạch khoảng 2.5-3 tháng phụ thuộc vào điều kiện thời tiết 
- Đất phủ cung cấp khoáng, tạo độ thoáng, 
CÔNG NGHỆ NUÔI TRỒNG MỘC NHĨ TRÊN GỖ 
I. Đặc tính sinh học 
 Mộc nhĩ là loại nấm chịu nhiệt, mọc ở mùa mưa đầu tháng 4. Trong thực tế sản xuất 
người ta chia làm 2 dạng: mộc nhĩ sản xuất trên mùn cưa trồng chủ yếu ở vụ thu đông, 
thời điểm tháng 4 tháng 8 người ta thường không trồng mộc nhĩ trên mùn cưa do dễ 
gặp bệnh, côn trùng 
II. Thời vụ 
 Mộc nhĩ trên gỗ nuôi trồng chủ yếu vào thời điểm 15-2 đến 15-4 
 Khi thác cành cây trồng gỗ thời điểm này mộc nhĩ phát triển tốt nhất năng suất cao. 
 Mộc nhĩ trồng trên gỗ có thể thu được 2-3 năm 
III. Kỹ thuật nuôi trồng 
Xử lý gỗ 
 Cấy giống 
 Nuôi sợi 
 Chăm sóc, thu hái 
1. Xử lý gỗ 
 Gỗ còn tươi những mất sức đề kháng. Các chủng gỗ trồng tốt, như sung, mít, bồ đề, 
ngái…Những loại gỗ có nhựa mủ màu trắng, không có tinh dầu 
 Chọn các loại gỗ có đường kính trung bình từ khoảng 7-20cm 
 Khi khai thác gỗ giữ nguyên vỏ, bảo vệ chống tác nhân gây bệnh giữ ẩm và làm giá đỡ 
cho quả thể phát triển 
 Khi cắt gỗ thành từng đoạn với chiều dài từ khoảng 1-1.5m, người ta dùng nước vôi 
đặc nhúng vào 2 đầu vết cắt và chấm nước vôi vào những vùng mất vỏ chống nấm 
mốc tấn công 
 Thời gian để gỗ cho đến khi cấy giống phụ thuộc vào từng chủng loại gỗ và kích 
thước của gỗ. Có những loại gỗ vỏ dầy lượng nhựa mủ trong gỗ lớn để thời gian dài. 
Tuy nhiên quan trọng nhất là độ ẩm trong thân gỗ cần phải đảm bảo ở ngưỡng 47-
55%. Lấy búa bổ vào thân gỗ thấy nước gỉ ướt vành lỗ những không đọng thành vũng 
ở dưới đáy lỗ thì độ ẩm đạt yêu cầu. Thời gian bắt đầu từ khi khai thác gỗ cho đến khi 
cấy giống từ 3-10 ngày. 
Khi khai thác gỗ muốn trồng ngay, người ta phơi gỗ: làm cho vỏ thân gỗ bung ra và thân gỗ 
không được bảo vệ 
Tại sao lại phải trồng trên gỗ tươi (so với ngoài tự nhiên mộc nhĩ mọc được trên gỗ mục): Gỗ 
tươi trồng mộc nhĩ đảm bảo các yếu tố: có lớp vỏ bảo vệ tốt, có độ ẩm lý tưởng đó là độ ẩm 
của nước sạch trong thân gỗ, có chất dinh dưỡng hòa tan. Gỗ mục ẩm ở phía bề ngoài có 
nhiều tác nhân gây bệnh. 
2. Cấy giống 
 Vấn đề giống: giống mộc nhĩ để trồng trên thân gỗ là giống làm trên cơ chất mùn cưa, 
với cơ chất này tuổi của giống thường 30-40 ngày tuổi. Những túi giống mộc nhĩ phải 
chưa có mầm mống quả thể, giống không bị mốc không có mùi chua, không bị lẫn sợi 
lạ. Tỷ lệ trung bình 1m3 khối gỗ dùng 3-3.5kg giống. 
 Vấn đề tạo lỗ vào thân gỗ có vai trò rất lớn quyết định năng suất của mộc nhĩ. Độ sâu 
của lỗ > 1.5cm tính từ sau lớp vỏ, nếu quá 1.5cm khi cấy giống vào lượng giống phải 
đủ lớn đến ăn vào bên trong, quan trọng nhất ở thời kỳ nuôi sợi sợi nấm phải ăn vào 
phía bên trong, nếu đục lỗ nông sợi nấm ở ngang, bề mặt. 
 Mật độ trung bình lỗ này cách lỗ kia 12cm, hàng này cách hàng kia 7-9cm 
 Khi tạo lỗ tạo lỗ xong thân gỗ nào cấy giống luôn để hạn chế việc mất ẩm của gỗ và 
các tạp khuẩn tấn công vào lỗ. 
 Khi cấy giống bẻ giống nấm thành những viên để cho vào các lỗ lượng giống cho vào 
khoảng 3/4 lỗ, ở phía trên cắt mỏng phoi gỗ để đậy lên phía trên, dùng xi măng đặc bịt 
kín lỗ, ngăn cản côn trùng (kiến) tấn công và ăn sợi, giữ ẩm cho phần giống ở phía bên 
trong 
3. Nuôi sợi 
 Sau khi cấy giống gỗ chuyển vào trong lán xưởng và xếp thành từng khối (xếp dọc, 
xếp ngang) yêu cầu khối gỗ xếp có chiều cao không quá 1.5m. Sau khi xếp xong dùng 
nilon quây kín xung quanh khối gỗ xếp. Trên bề có thể dùng lưới đen đậy lên để 
chống mất ẩm. 
 Thời gian ươm duy trì trung bình khoảng 1 tháng, trong giai đoạn ươm gỗ hàng ngày 
dùng vòi phun tưới nhẹ lên làm ẩm lớp lưới đen. Mục đích chính chống mất ẩm cho 
thân gỗ, sau 15 ngày ta tiến hành đảo lại đống gỗ 1 lần, hình thức đảo gỗ bên trong 
cho ra ngoài, ngoài vào trong, trên xuống dưới, dưới lên trên, mỗi khúc gỗ phải xoay 
một góc 900, làm cho những tia sợi phân bố một cách đồng đều, sau 1 tháng ươm gỗ 
bắt đầu kiểm tra thấy những sợi mộc nhĩ bện kết lại thành những nụ nhỏ màu trắng 
chuyển thành màu hồng phân bố đồng đều ở vỏ gỗ chuyển sang giai đoạn chăm sóc. 
4. Chăm sóc, thu hái 
 Vệ sinh vỏ gỗ, tất cả các khúc gỗ sau khi ươm được rửa sạch vỏ gỗ và chuyển vào lán 
xưởng dựng lên thành từng hàng, luống. Hàng ngày duy trì ẩm bề mặt vỏ gỗ, trong 
trường hợp mộc nhĩ phát triển nhanh trong môi trường có độ ẩm cao, kín gió và có độ 
thông thoáng tốt. Khi những cánh mộc nhĩ phát triển một cách cực đại và bắt đầu ở 
những viền ngoài mũ có những nếp nhăn thì ta có thể hái được những cánh đó (mộc 
nhĩ trồng trên gỗ hái tỉa) 
 Sau khi hái mộc nhĩ sau 1-2 đợt 50% ở phía dưới phát triển tốt, 50% ở phía trên phát 
triển kém, do đó sau 1-2 lần thu hái chọn những thân gỗ không còn đủ ẩm đảo lại đầu 
gỗ 
 Trong quá trình thu hái có những hiện tượng những cây gỗ xuất hiện bệnh (bệnh thối 
nhũn, bệnh nhiễm mốc trên bề mặt quả thể, bệnh rễ tre trên bề mặt thân gỗ xuất hiện 
nấm rễ trên ăn ngoằn ngoèo trên bề mặt). Khi gặp phải những bệnh trên ta cách ly 
ngay các khúc gỗ đó ra, đem những khúc gỗ vào nước sạch lấy bàn chải đánh sạch lớp 
vỏ tiến hành phơi ở ngoài nắng để cho vỏ gỗ khô toàn bộ nấm mốc, mang khúc gỗ trở 
lại trong nước để ngâm trong khoảng thời gian 2-3 tiếng, khúc gỗ lấy lại được độ và 
chuyển vào khu vực chăm sóc cho ra đợt mới. 
 Khi chúng ta gặp điều kiện thuận lợi nhiệt độ trung bình 20-280C, nấm mộc nhĩ ra liên 
tục hết đợt này đến đợt khác, có dấu hiện nguồn dinh dưỡng cạn kiệt, cánh mộc nhĩ 
mỏng có màu phớt trắng, tiến hành ngừng thu hái mang các khúc này rửa sạch để cho 
ráo vỏ xếp lại thành khối như giai đoạn ươm gỗ, thời gian để gỗ khi khoảng 15-20 
ngày. Mục đích để cho tích tụ dinh dưỡng, sau thời gian đó chuyển gỗ về nhà xưởng 
duy trì tưới ẩm cho ra đợt mới. 
 Đối với những loại gỗ có đường kính trên 12cm, sau một vụ thu hoạch sẽ không hết, 
vào thời điểm nhiệt độ trung bình dưới 200C, các khúc gỗ này sẽ được rửa sạch để ráo 
vỏ xếp lại thành khối dùng nilon đậy kín lại, đây là thời điểm để cho gỗ nghỉ vào mùa 
xuân nhiệt độ trung bình trên 200C đem ngâm vào trong nước 8-12h, chuyển vào lán 
xưởng tiếp tục chăm sóc để cho nấm ra những đợt mới. 
 Năng suất trung bình mộc nhĩ trên gỗ đạt 20kg trên 1m3 
KẾ HOẠCH TỔ CHỨC SẢN XUẤT 
Ngày cấy giống 
Tên giống 
Cấp 3 hoặc cấp 
2 
Ngày nuôi trồng Ghi chú 
Nấm rơm 
(Vt, V1, V2, 
V115) 
3/5-3/9 15/5-15/9 ∗ Giống nấm rơm sau khi hệ 
sợi ăn kín đáy túi được ít 
nhất là 2 ngày tương ứng với 
12 ngày tuổi thì giống đến 
thời điểm nuôi trồng, thời 
hạn sử dụng của giống này 
kéo dài trung bình là 5 ngày 
trong điều kiện bình thường. 
∗ Nếu bảo quản giống nấm 
rơm ở nhiệt độ 15-200C thì 
thời hạn sử dụng kéo dài từ 
15-20 ngày 
∗ Giống nấm rơm già có biểu 
hiện toàn bộ phần giống ở 
xung quanh túi chuyển hết từ 
màu nâu đỏ sang màu nâu 
đen thì không làm. 
Nấm sò 
(F1, F2,.. màu 
trắng, chịu nhiệt, 
Hy1.. có màu 
tím, chịu nhiệt 
độ trung bình 15-
250C, OSI, OSI1 
màu xám lông 
chuột, cánh đơn, 
chịu lạnh nhiệt 
độ trung bình 13-
220C 
28/7-28/3 15/8-15/4 ∗ Giống nấm sò khi hệ sợi ăn 
kín đáy túi được 2 ngày trở 
lên 17 ngày tuổi thì giống 
đến tuổi nuôi trồng, thời hạn 
sử dụng của giống nấm sò 
kéo dài được 7 ngày trong 
điều kiện bình thường 
∗ Nếu bảo quản giống nấm sò 
ở nhiệt độ 5-100C thời hạn sử 
dụng kéo dài 30-45 ngày 
Trước khi mang giống nấm 
sò này ra nuôi trồng đưa về 
điều kiện bình thường 2-3 
ngày để sợi nấm phục hồi 
∗ Giống già có biểu hiện toàn 
bộ xung quanh túi xuất hiện 
những lớp màng dai cứng và 
chuyển sang màu vàng 
Nấm mỡ 
AI, ATQ, AL, 
AL1 
1/10-10/11 5/11-5/12 ∗ Giống nấm mỡ khi hệ sợi ăn 
kín đáy túi trung bình 
khoảng 4 ngày (35 ngày tuổi 
giống đến tuổi nuôi trồng). 
thời hạn sử dụng của giống 
kéo dài trung bình khoảng 15 
ngày trong điều kiện bình 
thường 
∗ Giống nấm mỡ bảo quản ở 
nhiệt độ 5-100C thời gian bảo 
quản có thể kéo dài 3 tháng. 
Trước khi mang giống bảo 
quản ra nuôi trồng đưa về 
điều kiện bình thường trước 
đó khoảng 2-3 ngày 
∗ Giống nấm mỡ già có biểu 
hiện sợi nấm bện kết lại xung 
quanh túi trở thành sợi 
khổng lồ và chuyển dần từ 
màu trắng sang màu nâu 
Mộc nhĩ 
Au, Au 1 loại 
mộc nhĩ có màu 
đen, T6, T61, 
T62 có màu nâu, 
AuT1 có màu 
trắng 
Giống trên cơ 
chất mùn cưa 
15/1-15/3 
Giống trên que 
sắn 
25/7-25/1 
Trồng trên gỗ 
15/2-15/4 
Trồng trên cơ chất 
mùn cưa, bã mía 
15/8-15/2 
∗ Giống trên nguyên liệu mùn 
cưa 
- Khi hệ sợi ăn kín đáy túi 
2 ngày trở lên (30 ngày 
tuổi giống đến tuổi nuôi 
trồng) 
- Thời hạn sử dụng của 
giống này kéo dài trung 
bình 10 ngày trong điều 
kiện bình thường 
∗ Giống trên cơ chất que sắn 
khi hệ sợi ăn kín đáy túi 
được 8 ngày trở lên (20 ngày 
tuổi) thì giống đến tuổi nuôi 
trồng. Thời hạn sử dụng kéo 
dài trung bình trong khoảng 
15 ngày điều kiện bình 
thường 
∗ Nếu bảo quản giống nấm ở 
điều kiện 10-150C thời hạn 
sử dụng của giống trên que 
sắn được 30 ngày và thời hạn 
sử dụng của giống trên cơ 
chất mùn cưa được 20 ngày 
∗ Giống mộc nhĩ già sẽ có biểu 
hiện xung quanh túi giống hệ 
sợi từ màu trắng chuyển sang 
màu nâu và xuất hiện những 
mầm mống quả thể 
Nấm linh chi 
DT, DT1 
DK, DK1, DNH, 
D5, D51 
Giống cấp 2 
trên chai thủy 
tinh hoặc chai 
nhựa, được sản 
xuất trước khi 
đưa vào nuôi 
trồng 20 ngày 
25/1-25/3 
Vụ xuân hè 
15/2-15/4 
Vụ thu đông 
15/8-15/9 
∗ Giống Linh chi khi hệ sợi ăn 
kín đáy được 1 ngày trở lên 
thì giống đến tuổi nuôi trồng, 
thời hạn sử dụng của giống 
này kéo dài trung bình 7 
ngày trong điều kiện bình 
thường. 
∗ Nếu bảo quản giống nấm ở 
25/7-25/8 nhiệt độ 10-150C thì thời hạn 
sử dụng từ 20-30 ngày 
∗ Giống linh chi già toàn bộ vỏ 
xung quanh của chai giống 
đều xuất hiện mầm mống 
quả thể (lớp màng dai). 
Trường hợp lớp màng dai ăn 
xuống tới đáy thì phải bỏ 
chai giống đó đi 
II. Sử dụng giống nấm 
 Giống nấm phải được mua về trước khi cấy giống ít nhất là từ 2-3 ngày để cho sợi 
nấm phục hồi 
 Ta phải có kế hoạch đặt mua giống nấm trước khi xử lý nguyên liệu 
 Chuẩn bị được một vị trí nuôi giống ở tại gia đình đảm bảo 
- Sạch 
- Khô 
- Ánh sáng yếu 
- Thông thoáng tốt 
- Chống chuột 
 Trong trường hợp vận chuyển giống đi xa quá 1 ngày đường thì phải có xe chuyên 
dùng, người ta khống chế nhiệt độ đạt ngưỡng trung bình 15-200C, yêu cầu những 
thùng đựng giống phải có hệ thống lỗ thoát nhiệt. 
 Không phải khi nào cũng có giống đủ độ tuổi phải có những nhà lạnh để bảo quản 
giống nấm. Túi giống già già từ trên xuống, già từ từ khi dùng giống già sau khi quá 
thời hạn 1 ngày trở lên mỗi ngày ta bỏ đi 1cm ở phía trên, phần giống ở phía dưới 
người ta bẻ thành từng viên to như hạt ngô để hạn chế những tổn thương khi cấy vào 
nguyên liệu sử dụng với lượng gấp 1.5 lần so với giống đúng độ tuổi. 
 Trường hợp giống non sợi chưa ăn tới đáy chỉ có phần dưới 1cm giống ở phía dưới 
(sợi nấm ở phần non sinh khối ít dinh dưỡng cao khi cấy vào nguyên liệu dễ nhiễm 
bệnh) bỏ đi khoảng 1cm lớp giống ở phía dưới, phần giống ở phía trên sử dụng bình 
thường như là giống đúng độ tuổi. 
 Giống trên que sắn đến 8 ngày tuổi mới đến tuối nuôi trồng (giống trồng trên mùn cưa 
gặp loại bệnh rệp trứng cá lây nhiễm qua 3 con đường do lán xưởng lưu cữu nhiều 
năm trong lán xưởng có những loại gỗ mục tiềm ẩn những ấu trùng gây bệnh, lây bệnh 
từ những que sắn do lưu cữu lâu ngày, lây nhiễm do những trang trại gần như thông 
qua nước, di chuyển, tham quan nhiệt độ tối thích cho các loại côn trùng này phát triển 
từ 280C trở lên) người trồng nấm phải xử lý 
- Nhà xưởng: thanh trùng 
- Tuổi giống: chỉ trồng cấy những túi giống đã qua 20 ngày tuổi, giả sử nếu xuất hiện bọ 
nhện thì sẽ xuất hiện ngay ở trên phần miệng túi (ấu trùng như trứng cá màu vàng nằm 
rải rác ở miệng túi, nếu túi giống có hiện tượng này nhanh chóng tiêu hủy và cách ly 
càng xa càng tốt). Những quả thể to nhỏ sau thời gian tiêu biến đi loại ấu trùng họ 
nhện này rất thích ăn quả thể nấm 
- Đối với que sắn 12 sợi nấm mới bám ở bên ngoài để thêm 8 ngày nữa sợi nấm mới ăn 
vào bên trong, nếu cắm vào sợi nấm trượt lên phía trên phần dưới đáy không có sợi 
III. Nguyên tắc làm nhà xưởng và vệ sinh khu vực trồng nấm 
1. Nguyên tắc. 
Năng suất phụ thuộc vào 3 yếu tố: giống, kỹ thuật, môi trường xung quanh 
 Không nên nuôi trồng nấm gần các khu vệ sinh công cộng, các bãi rác thải, các đường 
quốc lộ lớn, hoặc những nơi bị ô nhiễm. Trong trường hợp chúng ta phải tận dụng 
nuôi ở các khu vực này trong một thời gian ngắn thì bắt buộc lán xưởng trồng nấm 
thiết kế làm 2 lớp: lớp phía trong là nilon dày, lớp phía ngoài là các nguyên liệu phên 
lứa, lưới đen đồng thời cửa nhà trồng nấm không được quay về hướng có khu vực ô 
nhiễm. 
 Khi làm lán xưởng thì hướng của lán xưởng thường quay về hướng Đông Tây hướng 
mà ánh sáng mặt trời không xuyên sâu vào nhà, nấm không được sử dụng ánh sáng 
trực xạ, nếu ánh sáng trực xạ chiếu vào sẽ làm mô nấm và sợi nấm thoái hóa 
 Tùy thuộc vào mặt bằng, nguyên vật liệu, lao động và vị trí để thiết kế những lán 
xưởng trồng nấm theo một nguyên tắc: một đợt sản xuất từ 7-10 ngày phải phủ kín hết 
lán xưởng. Nếu như mật độ mô giống mật độ bịch nấm không đủ lớn trên một diện 
tích thì khả năng giữ ẩm kém. 
 Tuyệt đối không được vừa ươm bịch vừa chăm sóc cho nấm ra quả thể trong cũng một 
nhà xưởng tại một thời điểm 
 Tuyệt đối không nuôi trồng quá nhiều loại nấm (2 loại nấm trở lên) trong cùng một 
nhà xưởng tại một thời điểm vì mỗi một loại nấm có chu kỳ phát triển riêng có đặc 
tính sinh học khác nhau. 
 Tuyệt đối không được để quả thể nấm đã già, đã phát tán bào tử trong lán xưởng, đặc 
biệt là nấm sò, linh chi, nấm rơm 
 Tuyệt đối không được nuôi trồng một loại nấm lặp đi lặp lại quá 3 lần trong nhà 
xưởng mà bắt buộc ngoài công tác thanh trùng nhà xưởng thì phải ngừng sản xuất và 
cách ly hoặc chuyển sang nuôi trồng một loại nấm khác. 
2. Vệ sinh khu vực trồng nấm 
 Đối với những lán xưởng làm lần đầu tiên nhưng ở những khu vực không bị ô nhiễm 
thì người trồng nấm cần quan tâm tới tiêu diệt các loại côn trùng: kiến, mối, mọt đây 
là những loại côn trùng có thể trực tiếp ăn sợi nấm làm cho môi trường ô nhiễm nhẹ. 
 Đối với những lán xưởng làm lần thứ 2 trở đi hoặc làm lần đầu nhưng ở khu vực đã bị 
ô nhiễm thì ngoài việc dùng thuốc để tiêu diệt côn trùng và dùng nước cô đạm xử lý 
nền nhà tường nhà xưởng thì người trồng nấm cần dùng thêm foocmon HCHO 0.5-1% 
phun với tỷ lệ 1 lít 0.5-1%/3m2 tiết diện. Tùy thuộc vào độ ô nhiễm và độ thông 
thoáng của lán xưởng mà dùng nồng độ khác nhau. 
 Ngoài việc thanh trùng thì các lán xưởng trồng nấm sau 3 lần ta đều phải ngừng sản 
xuất ít nhất là 2 tháng để cách ly. Trong giai đoạn ngừng sản xuất thì lán xưởng phải 
được tháo dỡ các vách ngăn ở xung quanh tạo môi trường thoáng và khô để ánh sáng 
mặt trời chiếu trực tiếp vào 
 Đối với lán xưởng xa nguồn ô nhiễm ngoài việc thanh trùng theo phương pháp trên 
người ta còn thanh trùng theo phương pháp hun khói sau khi kết thúc một đợt sản 
xuất. 
 Phải có một cơ cấu mùa vụ hợp lý ví dụ ở Trung Quốc : lúa - nấm - rau sạch. 
 Đối với các khu vực cấy giống sau một số lần cấy liên tục dần dần các phòng cấy 
giống có: tỷ lệ nhiễm mốc và lẫn sợi nấm khác trên bề mặt nguyên liệu tỷ lệ này lớn 
hơn 5% thì phòng cấy đã bị ô nhiễm trong trường hợp đó thì người ta phải xông phòng 
cấy chủ yếu bằng cồn lưu huỳnh. Trung bình người ta dùng 100g cồn lưu huỳnh xông 
cho 40m3 phòng kín, sau khi xông xong người ta ngừng cấy giống khoảng 3 ngày thời 
gian đó phòng cấy giống đóng kín cửa và tuyệt đối không để giống nấm ở trong 
phòng. Sau 3 ngày mở cửa để khí SO2 bay đi hết lúc đó mới đưa nguyên liệu vào để 
cấy giống. 
Nuôi trồng nấm linh chi 
 Có thể trồng trên mùa cưa, bã mía, 
 Thành phần dinh dưỡng dựa vào chỉ số C/N dao động từ 20-28 tùy từng loại nguyên 
liệu bổ sung khác nhau: đối với mùa cưa cao su giàu dinh dưỡng người ta bổ sung: bột 
ngô 5%, cám gạo 5%, bột nhẹ 1,5% mùa cưa bồ đề bột ngô 7%, cám gạo 5%, bột nhẹ 
1.5%. Mùa cưa gỗ tạp mềm ngoài bổ sung bột ngô người ta còn bổ sung thêm bột đậu 
tương sẽ kích thích hình thành quả thể nhanh kích thích sợi phát triển tốt nhưng nếu bổ 
sung nhiều thì quả thể xốp phát triển không bình thường bột đậu tương bổ sung vào 
dao động tối đa 1-3%. Có những loại người ta bổ sung đường giúp cho hệ sợi phục hồi 
nhanh thường bổ sung 0.5% 
 Bã mía bổ sung cám gạo 0.5%, bột ngô 7%, bột nhẹ, không cần đường 
 Gỗ trồng linh chi thường cắt thành từng đoạn có chiều cao khoảng 20cm và người ta 
đóng thành những gói và có chất bổ sung bột ngô, cám gạo và cấy giống linh chi vào 
đầu tiên sợi nấm sử dụng dinh dưỡng ở ngoài sợi gỗ khi sinh khối đủ nấm thì sợi mới 
công phá được phía trong chuyển toàn bộ bịch thành khối sợi vùng lõi có sợi dần dần 
đi vào bên trong người ta mang những khối gỗ chôn xuống đất tạo thành từng luống và 
tạo thành vòm ở phía trên. Khúc gỗ có thể là bồ đề, cao su, sung 
 Tại sao quả thể nấm linh chi hình thành lại phân thùy nhiều: do giống và môi trường 
dinh dưỡng, môi trường xung quanh 
- Môi trường dinh dưỡng: cùng là giống DT trồng trên các môi trường khác nhau thì tỷ 
lệ phân thủy khác nhau nếu trồng trên mùn cưa cao su tỷ lệ phân thùy ít 45%, nếu 
trồng trên mùn cưa tạp tỷ lệ phân thùy lên tới 90%. Cùng trên môi trường cơ chất là 
mùn cưa tạp bổ sung 2% bột đậu tương, 0.5% đường thì giảm tỷ lệ phân thùy xuống từ 
còn 70%. 
- Môi trường xung quanh: ảnh hưởng của nhiệt độ đến phân thùy của nấm. Khi nấm linh 
chi đang ở dạng quả thể non, người ta tác động nhiệt độ không phải là 280C mà lên tới 
300C kéo dài trong 7 ngày, toàn bộ quả thể chuyển từ màu trắng sang màu vàng nâu 
(nhiệt độ cao khả năng già hóa của nấm linh chi cao), sau đó người ta đưa về nhiệt độ 
thích hợp nhất là 24±2, tất cả vị trí có màu vàng nứt ra hình thành mô sẹo ở các vị trí 
khác nhau hình thành 3-4-5 sừng hình thành 3-4-5 quả thể khác nhau. Do đó nhiệt độ 
có tác động đến quá trình phân nhánh. Người ta khống chế nhiệt độ ở ngưỡng 24±2, 
người ta lấy quả thể non và cho tác động của gió lùa từ một hướng, làm cho quả thể 
non có dấu hiệu mất nước đột ngột từ một phía thổi trong vòng 2 ngày thì chuyển sang 
màu vàng và quả thể bị lệch 
- Phải xác định thời điểm tháo nút bông, thời điểm tháo, lượng bông còn để lại ở bịch, 
người ta phải lấy phần bông ở giữa khi đậy vào bịch độ xốp và độ thoáng khí đều, làm 
cho sợi nấm bám vào bông đồng đều nhất, lương bông đậy chỉ chiếm ½ cổ nút và 
đúng thời điểm thì quả thể mọc to và kín miệng 
Nếu trồng nấm linh chi vào vụ xuân hè 15-2 đến 15-4 cho đến khi ra quả thể 15/3-15/4 và đến 
khi thu hái vào 15/4-15/5. Vụ thu đông trồng 15/8-15/9, ra quả thể 15/9-15/10 thu đợt 1 
15/10-15/11. Nếu ra vào thời điểm nóng quả thể nhanh già và nhỏ. Nếu bảo quản thì bảo quản 
bằng cách nào? 
Nếu nhiệt độ lớn hơn 300C kéo dài quả thể nhanh chóng chuyển sang màu vàng và bị già, nếu 
nhiệt độ nhỏ hơn 200C quả thể nhanh chóng chuyển sang màu vàng và hậu quả bị tóp. Nếu 
nhiệt độ nằm ngoài 2 ngưỡng này không tác động cho ra quả: 
 Thu hái ngay các quả thể này đi 
 Sau đó phải vệ sinh vết cắt để hạn chế nấm mốc tấn công bằng cách dùng vôi chấm 
vào vết cắt, và quyết định không cho ra quả bằng cách cho thoáng để không có độ ẩm 
không khí, không tưới để cho phía ngoài khô, giữ thành khối sợi ở phía trong để đỡ 
già hóa sợi phía trong để tối, chỉ để tối khi vết cắt đã khô để sợi nấm tiếp tục tích tụ 
dinh dưỡng phía trong những không hình thành quả thể. Chỉ chờ khi nhiệt độ về 
ngưỡng 20-280C ta tiếp tục giữ ẩm tốt, không cho gió lùa trực tiếp thì nấm tiếp tục ra 
quả thể 
B1: Lựa chọn làm sạch quả thể nấm 
B2: Mang quả thể nấm vào luộc chín. Vớt nấm ngâm vào nước lạnh và để ráo 
B3: Muốn dung dịch bão hòa 1kg nấm luộc cần 0.35-0.4kg muối ít hơn sẽ bị thối sau đó 
người ta để nấm ổn định trong vòng 15 ngày 
1kg nấm tươi 0.6kg nấm luộc, 0.64kg nấm muối 
 Đối với nấm khô được sấy hoặc phơi ở nhiệt độ mà protein không bị biến tính lựa 
chọn nấm đúng độ tuổi, trước khi sấy tách cánh bổ đổ để quả thể khô đều. Nhiệt độ 
sấy chỉ sấy trong nhiệt độ 42-600C, người ta sấy ở 3 giai đoạn: giai đoạn 1 nấm còn 
tươi độ ẩm trên 75%, sấy trong nhiệt độ 42-480C kéo dài trong 6h, giai đoạn 2 đưa 
nhiệt độ 48 lên 550C sấy trong 3 giờ, giai đoạn 3 sấy triệt để ngưỡng 55-600C sấy 
trong thời gian khoảng 1-2h. Tiêu chuẩn của nấm sấy 
- Thơm đặc trưng 
- Bảo quản nấm sấy cần có bao đựng 2 lớp phía trong là nilon dày và phía ngoài là bao 
tải dứa 
CÔNG NGHỆ NUÔI TRỒNG NẤM KIM CHÂM 
I. Đặc tính sinh học 
 Nhiệt độ nuôi sợi thích hợp trong khoảng 15-250C 
 Thời điểm ra quả thể người ta chia ra làm 2 giai đoạn: giai đoạn bắt đầu hình thành 
quả thể nhiệt độ phù hợp 6-80C, thời điểm bắt đầu kéo dài thân nhiệt độ phù hợp 8-
120C 
 Độ ẩm: 
- Giai đoạn nuôi sợi độ ẩm khoảng 65-75%. 
- Giai đoạn ra quả thể: thời điểm bắt đầu hình thành quả thể độ ẩm từ 75-85%, giai đoạn 
kéo dài thân độ 85-95%. 
 Độ thông thoáng: 
- Ở thời điểm nuôi sợi cần độ thông thoáng tốt nồng độ CO2 < 0.2% 
- Thời điểm ra quả thể: giai đoạn hình thành quả thể nồng độ CO2 0.2-0.4%, thời điểm 
kéo dài thân nồng độ CO2 0.4-0.5% 
- Không cần ánh sáng nếu ánh sáng mạnh mũ to, chân ngắn 
- Thích nghi với môi trường trung tính 6.5-7.5 
- Dinh dưỡng sử dụng cellulose ở trạng thái trực tiếp 
II. Thời vụ nuôi trồng nấm kim châm 
 Nấm kim châm được nuôi trồng theo quy mô công nghiệp nên thời vụ nuôi trồng phụ 
thuộc vào thị trường tiêu thụ. 
III. Quy trình sản xuất 
Xử lý nguyên liệu Æ Bổ xung dinh dưỡng, đóng bịch Æ Thanh trùng Æ Để nguội, cấy giống 
Æ Nuôi sợi Æ Xử lý để ra quả Æ Thu hái. 
Những đặc điểm chung trong quy trình công nghệ nuôi trồng nấm kim châm về cơ bản giống 
như nuôi trồng nấm linh chi. Điểm khác nhau chính: 
 Nguyên liệu nuôi trồng nấm kim châm được sử dụng chủ yếu là hỗn hợp mùn cưa với 
bông phế loại hoặc mùn cưa cộng với thân lõi ngô theo công thức 
- Công thức 1: 
∗ Mùn cưa ủ 42% 
∗ Bông phế loại ủ 42% 
∗ Bột ngô 7% 
∗ Cám gạo 7% 
∗ Đường 0.5% 
∗ CaCO3 1.5% 
- Công thức 2 
∗ Mùn cưa ủ 50% 
∗ Thân lõi ngô ủ 40% 
∗ Cám gạo 5% 
∗ Bột ngô 3% 
∗ Bột nhẹ 2% 
 Túi để đóng bịch dùng túi 19x33 với trọng lượng trung bình của bịch 0.7-0.8kg. 
 Quá trình thanh trùng và phương pháp cấy giống hoàn toàn như nuôi trồng nấm linh 
chi giống sử dụng là giống cấp 2. 
 Quá trình thanh trùng và phương pháp cấy giống hoàn toàn như nuôi trồng nấm linh 
chi giống sử dụng là giống cấp 2. 
 Giai đoạn nuôi sợi thời gian nuôi đối với nấm kim châm trung bình kéo dài 45-50 
ngày khi hệ sợi đã ăn kín đáy bịch thì trung bình khoảng 7-10 ngày ta chuyển sang giai 
đoạn ra quả thể. Để quả thể nấm kim châm có thể ra bình thường người ta thực hiện 
các bước chính như sau: 
- B1: Khi để 7-10 ngày bắt đầu xuất hiện những lớp màng dai màu vàng, chúng ta cắt 
miệng túi toàn bộ bề mặt của bịch hở khi bề mặt hở ta mới tiến hành sốc nhiệt chuyển 
6-80C thời gian kéo dài từ 3-5 ngày sau đó nâng nhiệt độ lên 8-120C và giữa độ ẩm 
không khí từ 75-85%, không tưới trực tiếp từ đó nấm kim châm bắt đầu ra quả thể lấm 
tấm như hạt cám 
- B2: Đưa không khí vào nhà nuôi để giảm nồng độ CO2 xuống còn 0.2-0.4% mục đích 
để quả thể hình thành mũ và chân, phân bố đồng đều, với thời gian kéo dài 1 tuần -10 
ngày khi đó quả thể nấm hình thành dày đặc 
- B3: Lồng một lớp nilon cứng ở phía ngoài sao cho độ cao từ miệng bịch để mép túi từ 
18-20cm. Có 3 yếu tố quan trọng 
∗ Tăng độ ẩm không khí lên 85-95% 
∗ Tăng nồng độ CO2 lên 0.4-0.5% 
∗ Giảm ánh sáng tối đa 
- Từ đây nấm kim châm tăng trưởng nhanh sau 7 ngày xử lý thì thu hái 
 Năng suất trung bình từ 35-42% so với nguyên liệu khô và 15-17% so với nguyên liệu 
đủ ẩm 
 Sau thu hái 1 lần bịch nấm được chuyển đổi để nuôi trồng nấm sò và các loại nấm 
khác. 
ĐỀ CƯƠNG ÔN TẬP 
1. Trình bày về đặc tính sinh học của một số loài nấm (Giải thích một hiện tượng nấm 
mộc nhĩ mọc trong tự nhiên) (2đ). Đưa ra những hiện tượng xảy ra trong hiện tượng 
thực tế sản xuất giải thích tại sao và biện pháp khắc phục? (3đ) 
2. Bài tập: 
 Ví dụ: Để có một lượng nấm tươi ổn định 300kg/ngày trong một giai đoạn từ 15/10 
cho đến 15/2 năm sau thì anh (chị) cần có kế hoạch tổ chức sản xuất như thể nào? (5 
vấn đề) 
- Mặt bằng nhà xưởng là bao nhiêu (nếu là 4 tháng hoặc 5 tháng thì chu kỳ mặt sử dụng 
2 lần diện tích giảm đi một nửa chứ không phải cả do lặp lại 2 lần) 
- Lao động 
- Nguyên liệu 
- Kế hoạch xử lý nguyên liệu (Giải quyết được kế hoạch xử lý nguyên liệu mới giải 
quyết được kế hoạch giống) 
- Kế hoạch giống 
 Dạng bài tập quy hoạch mặt bằng nhà xưởng: cho diện tích 200x5m. Anh (chị) hãy 
quy hoạch mặt bằng này để sản xuất một số loại nấm (có cả 4 loại nấm đảm bảo về 
mặt kỹ thuật) điều kiện của nhà xưởng, vệ sinh nhà xưởng (được phép giả định). Theo 
bạn với mặt bằng sản xuất đó thì 1 năm có thể sản xuất tối đa là bao nhiêu tấn (2đ). Sơ 
đồ quy hoạch có cả xử lý nguyên liệu, đóng bịch… các loại nấm khác nhau thích hợp 
với mùa vụ khác nhau nên quy hoạch sao cho mùa này trồng nấm này mùa khác trồng 
nấm khác. Ghi chú thích nơi xử lý nguyên liệu, thanh trùng…ghi rõ khu thanh trùng 
cần điều kiện gì, nơi thu hái cần điều kiện gì 
            Các file đính kèm theo tài liệu này:
Congnghenuoitrongnam.pdf