Chiêm Bái và Giải thiêng qua hình tượng Nguyễn Trãi trong tiểu thuyết Vạn xuân của Yveline Feray

Tài liệu Chiêm Bái và Giải thiêng qua hình tượng Nguyễn Trãi trong tiểu thuyết Vạn xuân của Yveline Feray: TRƯỜNG ĐẠI HỌC SÀI GÒN SAIGON UNIVERSITY TẠP CHÍ KHOA HỌC SCIENTIFIC JOURNAL ĐẠI HỌC SÀI GÒN OF SAIGON UNIVERSITY Số 62 (02/2019) No. 62 (02/2019) Email: tcdhsg@sgu.edu.vn ; Website: https://tapchikhoahoc.sgu.edu.vn 19 CHIÊM BÁI VÀ GIẢI THIÊNG QUA HÌNH TƯỢNG NGUYỄN TRÃI TRONG TIỂU THUYẾT VẠN XUÂN CỦA YVELINE FERAY Prayers and normalization through Nguyen Trai image in Van Xuan novel written by Yveline Feray ThS. Trần Thị Nhật Trường Đại học Sài Gòn Tóm tắt Chiêm bái và giải thiêng là hai xu hướng xây dựng thành công hình tượng Nguyễn Trãi trong tiểu thuyết Vạn xuân của Yveline Féray. Vạn xuân hấp dẫn người đọc bởi sự kết hợp một cách hài hòa, nhuần nhuyễn giữa tư duy duy lí và hiện đại của phương Tây với lớp khói sương của tư duy huyền thoại nặng trĩu ưu tình của phương Đông trong xây dựng hình tượng người anh hùng. Từ khóa: Giải thiêng, huyền thoại, hình tượng, Nguyễn Trãi, Vạn xuân. Abstract Prayers and normalization are two trends that succes...

pdf7 trang | Chia sẻ: quangot475 | Lượt xem: 283 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem nội dung tài liệu Chiêm Bái và Giải thiêng qua hình tượng Nguyễn Trãi trong tiểu thuyết Vạn xuân của Yveline Feray, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SÀI GÒN SAIGON UNIVERSITY TẠP CHÍ KHOA HỌC SCIENTIFIC JOURNAL ĐẠI HỌC SÀI GÒN OF SAIGON UNIVERSITY Số 62 (02/2019) No. 62 (02/2019) Email: tcdhsg@sgu.edu.vn ; Website: https://tapchikhoahoc.sgu.edu.vn 19 CHIÊM BÁI VÀ GIẢI THIÊNG QUA HÌNH TƯỢNG NGUYỄN TRÃI TRONG TIỂU THUYẾT VẠN XUÂN CỦA YVELINE FERAY Prayers and normalization through Nguyen Trai image in Van Xuan novel written by Yveline Feray ThS. Trần Thị Nhật Trường Đại học Sài Gòn Tóm tắt Chiêm bái và giải thiêng là hai xu hướng xây dựng thành công hình tượng Nguyễn Trãi trong tiểu thuyết Vạn xuân của Yveline Féray. Vạn xuân hấp dẫn người đọc bởi sự kết hợp một cách hài hòa, nhuần nhuyễn giữa tư duy duy lí và hiện đại của phương Tây với lớp khói sương của tư duy huyền thoại nặng trĩu ưu tình của phương Đông trong xây dựng hình tượng người anh hùng. Từ khóa: Giải thiêng, huyền thoại, hình tượng, Nguyễn Trãi, Vạn xuân. Abstract Prayers and normalization are two trends that successfully depict the image of Nguyen Trai in the novel of Van Xuan by Yveline Féray. Van Xuan attracts readers due to the harmonious and flexible combination between the rational and modern thinking of the West with the legendary thought of the East in building a hero image. Keywords: Normalization, legend, imagine, Nguyen Trai, Van Xuan. 1. Đặt vấn đề Trong suốt một thời gian dài, nhiều nhà tiểu thuyết lịch sử đều bước đi dưới cái bóng của hiện thực. Theo đó, tiểu thuyết lịch sử đậm chất truyện kể mà nhạt chất hư cấu. Với sự khởi đầu ngoạn mục của Búp sen xanh, tiểu thuyết lịch sử sau 1975 đã từng bước phát triển theo một thi pháp mới: hòa quyện giữa chiêm bái và giải thiêng, dung hòa hai thứ cảm xúc đối lập nhau trong từng hình tượng nghệ thuật. Chiêm bái dựa trên sự ngưỡng vọng và huyền thoại hóa. Giải thiêng dựa trên những tiêu chuẩn của đời thường. Hướng thứ nhất dễ biến tác phẩm thành minh họa chính sử, lí tưởng hóa, thần thánh hóa nhân vật anh hùng, lãnh tụ. Hướng thứ hai, nếu nhà văn không cao tay dễ làm tầm thường hóa biểu tượng lịch sử và xúc phạm niềm tin của người đọc. Trong tiểu thuyết lịch sử, chiêm bái luôn đi liền với giải thiêng. Hai yếu tố này có quan hệ mật thiết, bổ trợ cho nhau, vừa thể hiện tinh thần ngưỡng vọng, ngợi ca, vừa có cái nhìn khách quan, đúng đắn, chân thật theo tinh thần nhân bản về con người. Thiên về một trong hai cảm xúc đều dễ dẫn đến cái nhìn cực đoan, làm giảm tính chân thực của sự đa dạng, nhiều chiều như vốn có của hình tượng nghệ thuật. Kết hợp được hai xu hướng trái ngược nhau là một việc làm hết sức khó khăn của các nhà Email: tranthinhatsgu@gmail.com SCIENTIFIC JOURNAL OF SAIGON UNIVERSITY No. 62 (02/2019) 20 văn. Thành công của Yveline Féray trong Vạn Xuân chính là khắc họa được một hình tượng Nguyễn Trãi với sự kết hợp nhuần nhuyễn của cả hai mặt đối lập tưởng như không thể dung hòa ở trên. 2. Nội dung Ngay từ khi ra đời, Vạn xuân đã gây xôn xao dư luận và được giới nghiên cứu phê bình trong nước quan tâm. Cuốn tiểu thuyết hấp dẫn người đọc một phần bởi sự kết hợp hài hòa, nhuần nhuyễn giữa tư duy biện chứng, duy lí của phương Tây với lớp khói sương của tư duy huyền thoại nặng trĩu ưu tình của phương Đông. Sự kết hợp ấy đã tạo nên một hình tượng Nguyễn Trãi với những biểu hiện của sự kì vĩ nhưng lại rất đời thường. 2.1. Cảm hứng chiêm bái Nét vẽ đầu tiên về Nguyễn Trãi là khát vọng một đất nước “vạn xuân”. Suốt thời gian sống cuộc đời tù hãm ở Đông Quan để chờ thời, ông đã không ngừng “lùng sục quá khứ, bình luận hiện tại, tìm hiểu những lí do thất bại, đánh giá những tác nhân tạo nên chiến thắng” [6; 572]. Chính khát vọng đó đã đặt Nguyễn Trãi vào tình thế buộc phải quan sát, đánh giá và lựa chọn minh chủ: “Ông đã theo dõi, tìm hiểu không biết mệt mỏi những hành động, những ứng xử của Lê Lợi trong một thời gian dài chỉ với mục đích xem ông ấy có đúng là người có thể cùng mình hiện thực hóa ước vọng lớn lao với đất nước hay không. Nguyễn Trãi nhận ra những ưu thế, ưu điểm của Lê Lợi trong lần đầu tương kiến nhưng ông cũng biết mình và Lê Lợi không thể trở thành tri kỉ, nhưng vì hoài bão hưng quốc - yên dân ông đã tự nguyện tòng thuộc” [4, 34]. Ngay sau khi kháng Minh thắng lợi, ông đã phải cắn răng vượt qua những tủi nhục khi bị Lê Lợi dè chừng, xem nhẹ và cố tình lãng quên. Khi những cố gắng hóa giải không thành, ông vẫn không nản chí. Ông gửi gắm những ước nguyện, những khát khao cháy bỏng của mình vào công việc dạy dỗ người có khả năng kế vị ngôi vương ngay từ tấm bé. Mơ ước cao quý của Nguyễn Trãi cho đến tận hơi thở cuối cùng vẫn là “đem lại Vạn Xuân cho đất nước mãi mãi” và hi vọng “thầm kín ấy kiên vững như ngọn đèn tận đáy đêm đen” [6; 878]. Khao khát cháy bỏng về một quốc gia hưng thịnh của Nguyễn Trãi còn được thể hiện ở tình cảm của ông đối với nhân dân. Khi mới đặt chân vào con đường hoạn lộ, ông đã từng phát biểu: “Chúng ta nên lưu tâm vào những nỗi khổ mà dân đen phải chịu. Làm sao có công bằng được khi có những người phải sống bằng cỏ, bằng đá khi người khác lại có đất đai trải dài tới tận chân trời, với biết bao nô lệ, thừa thải lúa gạo” [6; 325]. Nguyễn Trãi rất lo lắng về sự cùng khốn của dân, yêu quý và có một niềm tin mãnh liệt vào dân. Với ông, dân chính là cội nguồn của mọi sức mạnh. Phát biểu của ông đã chạm vào cái quan niệm cố hữu của giới quan lại, vua chúa: mọi thứ đều do vua ban, bề tôi, dân chúng chỉ là kẻ hưởng lộc. Vì vậy, họ có một nguyên cớ to lớn để thù ghét ông. Cả cuộc đời của Nguyễn Trãi đã tận hiến cho một đất nước của nhân dân. Ông không mang trong mình khát vọng công danh thông thường. Khát vọng đó được cụ thể hóa bằng những phân tích thấu đáo về chế độ, những nhận định đúng đắn, sâu sắc về thời thế. Cái chết của ông là biểu hiện sự bế tắc của khát vọng về một chính thể vị dân vượt trước thời đại. Tác phẩm một lần nữa khiến người đọc yêu mến, kính phục và đau xót cho Nguyễn Trãi bởi người anh hùng đã dành trọn cả đời mình để chống lại những định chế khinh dân của thể chế chính trị đương thời. Nét vẽ thứ hai, Nguyễn Trãi là một thiên tài hiếm có, văn võ song toàn. TRẦN THỊ NHẬT TẠP CHÍ KHOA HỌC ĐẠI HỌC SÀI GÒN 21 Yveline cũng đã xây dựng thành công hình tượng Nguyễn Trãi với những phẩm chất của một nhà chính trị kiệt xuất. Ông có quan điểm thân dân, vị dân rất tiến bộ. Những phát biểu của ông, dù trực tiếp trước quần thần, đối thoại với người thân, với tiền nhân, giáo huấn học trò (kể cả học trò là thiên tử), hay kí thác qua những soạn thảo về địa lí, âm nhạc thì nội dung nổi bật của nó vẫn thống nhất ở quan điểm vị dân. Điểm độc đáo siêu việt trong ý thức chính trị là ở chỗ, Nguyễn Trãi đã nhìn thấu tai họa của các vương triều: tất cả những thảm kịch đều có căn nguyên là những khổ ải mà dân đen phải chịu đựng. Vì thế, ông chủ trương “phải nhổ hết gốc rễ tai họa đó là nỗi bất hạnh tận cùng của dân đen” [6; 325]. Đây là điểm khác biệt rất lớn của Vạn xuân so với các tác phẩm cùng thời viết về Nguyễn Trãi như Hội thề (Nguyễn Quang Thân), Vằng vặc Sao Khuê (Hoàng Công Khanh).v.v. Bên cạnh những biểu hiện về tư tưởng vượt trước thời đại, Nguyễn Trãi còn được Yveline khắc họa thành công ở khía cạnh là một con người có khả năng, tư tưởng và chiến lược ngoại giao hết sức tân kì. Đó là cách thức “tác động đến trái tim quân địch để chúng quy hàng” và “việc tiêu diệt dục vọng xâm lược của kẻ thù còn quan trọng hơn chỉ lo tàn sát chúng nó” [6; 727,729]. Bằng sự thấu triệt lịch sử và đời sống nhân sinh, Nguyễn Trãi đã tạo nên nghệ thuật ngoại giao“chiến trường không tiếng súng”, hay nói cách khác là “chiến tranh trong hòa bình”, dùng ngòi bút tâm công để góp phần làm nên chiến thắng 15 vạn quân Minh xâm lược, mở ra một triều đại mới cho lịch sử nước nhà. Chiến lược và nghệ thuật ngoại giao mà Nguyễn Trãi xây dựng có thể coi đó là những cơ sở căn bản nhất của một phong cách ngoại giao đặc trưng của nước Việt hiện đại. Cụ thể, khi tiếp xúc với tướng Thái Phúc - một nhân vật “có nét duyên dáng của một phụ nữ kèm theo nét kiêu kì của một chúa tể rừng xanh” [6; 834], Nguyễn Trãi đã rất rạch ròi trong sự phân biệt giữa cá nhân với đế chế. Ông sớm nhận ra sự khác nhau rất lớn giữa những con người có trí tuệ trác tuyệt như Thái Phúc với đám tham tàn như Vương Thông, Liễu Thăng, Mã Kì, Phương Chính.v.v. Từ đó, một chiến thuật phân hóa, mưu phạt tâm công ra đời. Khối sức mạnh khổng lồ của kẻ địch bị bong ra, nứt thành từng mảng lớn và dần dần phân rã. Bên cạnh đó, Nguyễn Trãi còn đanh thép tuyên bố “mệnh trời” trong ý chí giữ vững biên cương bờ cõi. Nó đã làm cho kẻ xâm lược dần nản chí trước quyết tâm giữ nước không gì lay chuyển được của người dân Việt. Ông chỉ ra rằng, người Trung Hoa đã ứng xử không đúng đạo người quân tử nên họ thật đáng thương vì tự biến mình thành nạn nhân chiến tranh bởi chính sự hiếu chiến của một số kẻ cầm đầu. Vừa mềm dẻo vừa rắn rỏi, Nguyễn Trãi đã khiến Thái Phúc kinh ngạc: “Anh ta có cái khả năng đáng sợ là có thể dẫn dụ kẻ khác đến cái anh ta muốn mà họ không hay biết. Mọi lời lẽ anh ta mang đầy tính đạo đức thích đáng có tác dụng cảm hóa tâm hồn kẻ thù địch nhất đối với anh ta” [6;434]. Nét vẽ thứ ba, Nguyễn Trãi là sự kết tinh của trí tuệ, nhân cách và tâm hồn Việt. Yveline đã phát hiện trong con người Nguyễn Trãi có sự kết hợp nhuần nhị của văn hóa thanh lịch chốn kinh kì và văn hóa thôn dã bình dị của vùng quê bán sơn địa Côn Sơn. Ông hiện ra trên trang viết như một hình mẫu văn hóa đa dạng, kết tinh của những giá trị đỉnh cao. Đó là sự đạo mạo, tinh tế, cốt cách thanh cao của một nhà nho. Đó là sự từ bi hỉ xả của một phật sĩ. Đó là sự hòa mình cùng thiên nhiên vạn vật của triết học Lão - Trang. Tâm hồn và SCIENTIFIC JOURNAL OF SAIGON UNIVERSITY No. 62 (02/2019) 22 phong thái của Nguyễn Trãi tỏa rạng cốt cách tinh hoa Việt. Cốt cách ấy ảnh hưởng rất lớn đến quá trình kiến tạo một hình hài văn hóa dân tộc. Đằng sau công việc viết lại lịch sử kháng chiến chống quân Minh (Thiên kí sự Lam Sơn), soạn những nội dung để dạy cho vị quân vương trẻ tuổi (Dư địa chí), điều chỉnh và sửa lại lễ nhạc là một tấm lòng yêu nước vô hạn của Nguyễn Trãi. Ông đã ý thức một cách sâu sắc và làm hết sức mình nhằm khôi phục, làm mới những giá trị tinh túy của nền văn hóa đất nước. Vạn xuân đã thể hiện thành công một Nguyễn Trãi ý thức cao độ về giá trị của nghệ thuật văn chương. Văn chương với Nguyễn Trãi trước hết là thực hiện bổn phận đối với đất nước. Sau khi chấp nhận thách đấu văn chương với Thái Phúc, “Khắp nơi tôi đều nghe người ta ca tụng rằng văn chương thơ phú của anh sánh ngang Đỗ Phủ. Anh có thể làm một bài thơ trước mặt tôi ngay bây giờ không” [6, 425], Nguyễn Trãi đã làm cho ông ta kinh ngạc: “Tôi dù có mắt nhưng không nhận ra núi Thái Sơn. Tôi vô cùng khâm phục trước tài nghệ xuất chúng và tài làm thơ nhanh như chớp của anh”; “bài thơ mang nét chữ của một khả năng trí thức, một tinh thần siêu việt. Câu thơ đúng niêm luật một cách sít sao”; “văn chương sánh ngang Đỗ Phủ” [6; 425]. Dẫu sáng tạo văn chương của Nguyễn Trãi không đặt mục đích làm nghệ thuật lên hàng đầu nhưng tài năng thiên bẩm đã tỏa rạng trong rất nhiều tác phẩm. Người thưởng thức tài hoa như Thái Phúc đã không tiếc lời khen dành cho bài thơ của Nguyễn Trãi. Những áng văn chính luận, những bức thư thuyết hàng cũng như thơ ca của Nguyễn Trãi luôn xoay quanh cái lõi của triết lí nhân sinh. Trong con mắt Lê Lợi, những bức thư của Nguyễn Trãi sánh bằng cả một đạo quân. Sức mạnh chinh phục lòng người trong văn chương Nguyễn Trãi chính là nhân nghĩa. Xuyên qua bao lớp bụi thời gian và rào cản văn hóa, Y.Féray đã soi chiếu nhân vật của mình từ nhiều góc nhìn khác nhau. Dưới ngòi bút của ông, Nguyễn Trãi hiện lên như một biểu tượng của sự tinh túy trong tâm hồn Việt. Điều đó cho thấy, tác giả của Vạn xuân đã thâm nhập và đồng cảm sâu sắc với những tiếng lòng tự đáy trái tim Nguyễn Trãi đến mức nào. Từ góc nhìn của hiện tượng liên văn bản, chúng ta thấy, Yveline đã rất khéo léo trong việc gợi ra cho người đọc cả một thế giới tâm hồn Ức Trai cuồn cuộn như nước triều dâng trong khối tác phẩm đồ sộ mà ông để lại cho hậu thế. 2.2. Cảm hứng giải thiêng Trong cảm hứng giải thiêng, hình tượng Nguyễn Trãi được khắc họa qua những bi kịch của từng giai đoạn: thời chiến tranh và thời hậu chiến. Trong đó, bi kịch thời hậu chiến mang “khuôn mặt của con người hiện đại”. Bi kịch thường thấy trên chính trường lịch sử là nghịch lí của sự sủng ái. Yveline đã đặt Nguyễn Trãi vào trong những thử thách khắc nghiệt. Cái khắc nghiệt lớn nhất đến từ sự hiềm tị của lòng người. Tài năng kiệt xuất trên nhiều mặt, đó vừa là một điểm mạnh nhưng cũng là một bất lợi cho ông trong quan hệ với đồng đội, kể cả với Lê Lợi. Trong lúc được sủng ái, thỏa sức cống hiến tài năng, thực hiện hoài bão của mình đối với quốc - dân, Nguyễn Trãi đồng thời gặp không ít bi kịch. Những đồng liêu như Nguyễn Mộng Tuân, Phạm Văn Xảo, Lê Lợi đều không ưa Nguyễn Trãi. Lê Sát, Lê Vấn căm ghét ông. Họ sợ sự ảnh hưởng và uy tín ngày càng cao của ông. Nhưng trên hết, tất cả bọn họ đều thẹn vì mình không thể sánh với ông về tài năng và đức độ. Nguyễn Trãi trở thành một con người vô cùng cô đơn TRẦN THỊ NHẬT TẠP CHÍ KHOA HỌC ĐẠI HỌC SÀI GÒN 23 ngay giữa chốn thiên triều, một chiến binh đơn độc trên khắp mọi nẻo đường của cuộc chiến chống quân tham tàn và xu nịnh. Dù vậy, ông vẫn sẵn sàng chấp nhận mặt trái của sự sủng ái. Bởi trong Nguyễn Trãi, “Ngoài chung mọi chốn đều thông hết – Bui một lòng người cực hiểm thay” (Thuật hứng thứ 14) chẳng thể sánh được khát vọng cháy bỏng của mình về một đất nước phồn vinh bền vững như tâm sự của chính ông trong Bình ngô đại cáo: “Xã tắc từ đây vững bền – Giang sơn từ đây đổi mới – Càn khôn bĩ rồi lại thái – Nhật nguyệt hối rồi lại minh”.v.v. Bi kịch đau đớn nhất của người anh hùng Nguyễn Trãi là thất sủng và nỗi giằng xé tâm can. Sau cuộc khởi nghĩa Lam Sơn, Nguyễn Trãi đang đứng ở đỉnh cao của quyền lực và danh vọng. Hàng loạt cải cách có lợi cho nhân dân được thi hành. Nguyễn Trãi đã từng bước thực hiện mơ ước của mình về một đất nước thanh bình “dưới quyền cai trị của một bậc minh quân” [6; 391]. Không ai tin nổi chính vào thời điểm này ông lại rơi vào bi kịch thất sủng. Vạn Xuân đã dựng lại hiện trường tấn bi kịch của Nguyễn Trãi trong sự đồng cảm sâu sắc về một nỗi đau đời hơn là nỗi đau của một thân phận. Nguyễn Trãi bị ruồng bỏ hai lần dưới hai vương triều nhà Lê bởi một nguồn cơn duy nhất. Thái Tổ và Thái Tông đều không vượt qua được nỗi ám ảnh quyền lực tuyệt đối trước một ngôi sao rực rỡ hào quang Nguyễn Trãi. Nỗi đau đó càng lớn hơn khi Ức Trai đang từ đỉnh cao danh vọng, một Thượng thư Bộ lại Kiêm Chưởng ấn đại thần, lại bị Hoàng đế ngờ vực, “bị tách lìa khỏi đèn sách, khỏi bao dự tính lớn lao, bị bắt dẫn đi ban đêm và tống giam vào ngục thất chật hẹp có lính canh gác cẩn thận” [6; 871]; trong khi bên ngoài, lũ nịnh thần mặc sức làm mưa làm gió. Trong thời khắc đen bạc ấy, Nguyễn Trãi vẫn “điềm nhiên và vô cùng kiên nhẫn” [6; 872], vì ông tin rằng mình sẽ vượt lên tất cả những thăng trầm để đem tài năng phụng sự đất nước. Hai lần cáo quan ở ẩn là hai lần ông dằn vặt tâm can. Vì trong con người ấy, hai chữ “nhân dân” còn lớn hơn rất nhiều nỗi đau thân phận. Người ra đi nhưng tâm trí vẫn còn ở lại. Ở lại để rồi thất vọng, nhưng dù thất vọng ông vẫn hăm hở tái xuất mỗi khi cơ hội đến. Bởi trong ông luôn đau đáu một nỗi niềm, sau hai mươi năm vật vã đánh đuổi giặc Minh rồi đến hòa bình,“số phận của nhân dân vẫn chạm đáy của nỗi bất hạnh” [6, 978]. Và rồi ông lại thất bại. Thất bại sau còn đau đớn và uất hận hơn thất bại trước. Ông không thể vượt qua được bức tường của những kẻ xu nịnh. Đơn giản, vì hòa bình đến, những kẻ có tư tưởng hưởng lạc, xu nịnh, hám quyền càng ngày càng đông. Trong tình thế đó, Nguyễn Trãi như một chiến sĩ đơn độc trước bầy sói đói. Và khi cơ hội đến, bầy sói đó đã thừa cơ xâu xé, buộc ông vào tội tày đình, kéo theo những hệ lụy vô cùng to lớn cho gia đình và dòng họ: “Nếu bị buộc là đã phạm tội đồng lõa theo như người ta tố cáo thì dù cho âm mưu còn trong nhen nhúm hoặc đã bùng nổ ra, Trãi, anh em, con cái cũng như thân thích đời thứ hai của ông chắc chắn sẽ phải chết” [6, 872]. Nguyễn Trãi đã mang xuống tuyền đài nỗi hận ngàn năm (Họa phúc hữu môi phi nhất nhật – Anh hùng di hận kỉ thiên niên), đúng như dự cảm của chính mình trong rất nhiều thi phẩm, bút tích mà ông đã để lại cho đời. Trong Vạn Xuân, Yveline còn cho ta thấy Nguyễn Trãi luôn đứng trong tình cảnh bất như ý, không có sự dung hòa giữa khát vọng, tài năng với cuộc đời. Là một nhà nho thanh cao, ông cũng ấp ủ ước muốn khi không còn cơ hội với sự nghiệp hưng quốc an dân thì quay về với thú điền viên. SCIENTIFIC JOURNAL OF SAIGON UNIVERSITY No. 62 (02/2019) 24 Nguyễn Trãi đã cáo quan đến ba lần, nhưng mỗi lần đều mang theo những tâm tư trĩu nặng. Ông sống hòa mình vào thiên nhiên cây cỏ với cuộc sống thôn dã bình dị của những người dân nghèo ở đất Côn Sơn. Con người ấy, ngay từ đầu đã không màng danh lợi nên thanh thản với cuộc sống thanh bần. Nhưng “cuộc sống gia đình chật hẹp nhỏ nhoi không xứng đáng với tâm trí rộng lớn, tài năng sáng chói bao la của một người như chàng” [6; 898]. Điều đó giải thích vì sao, cứ hễ khi nào triều đình cần đến là ông lại khăn gói tới kinh thành. Nguyễn Trãi là chủ nhân của Côn Sơn nhưng số mệnh của ông không chỉ để dành cho Côn Sơn, mà cho cả dân tộc. Bi kịch của Nguyễn Trãi là bi kịch của thời đại hiện thân trong số phận của một con người lỡ vận. Sự lỡ vận ấy nhiều lần giày vò, trêu ngươi ông. Cái chết của Nguyễn Trãi là đỉnh điểm của sự lỡ vận ấy. Khung trời của thời đại không đủ rộng để chứa một nhân tài – nhân cách quá lớn. “Một thế giới chẳng sá gì mạng sống của một bậc vĩ nhân, một đại văn hào, một thế giới đã đối xử với một đấng anh hùng, một cứu tinh của Tổ quốc như đối xử với một tội nhân” [6, 1000]. Phải chăng đây là ám ảnh không nguôi trong trái tim của Yveline đối với một thánh nhân bất hạnh Nguyễn Trãi. Bi kịch ái tình - phương diện thể hiện rõ nhất góc nhìn nhân bản, đời thường về nhân vật Nguyễn Trãi. Chính sử không viết nhiều về chuyện tình ái của Nguyễn Trãi mà chỉ nhấn mạnh đến những sự biến trong thời trai trẻ của ông. Thế nhưng, trong dân gian lại có vô số những truyền tụng về mối tình lệch tuổi của Ức Trai với cô thôn nữ xinh đẹp, tài ba. Những trang viết về đời tư của Nguyễn Trãi trong Vạn xuân không nghiêng về nỗi buồn thương thời trai trẻ mà dấu ấn để lại mạnh mẽ nhất là mối tình duyên kì ngộ nhưng đầy oan khuất với Thị Lộ. Mang chữ “đại hiếu” trong lời cha dặn, anh chàng họ Nguyễn mải miết với nghiệp binh đao và khát vọng hưng quốc. Những khao khát yêu đương tạm thời bị khuất lấp, bị lấn át để đến khi sóng gió tạm yên, tuổi tác và sự chiêm nghiệm chín muồi, những ẩn ức về hạnh phúc, những khát vọng lứa đôi mới có dịp bung vỡ và ngày càng mãnh liệt trong cuộc chạy đua với lưng vốn thời gian ít ỏi còn lại của đời người. Nguyễn Trãi yêu Thị Lộ say đắm và cuồng nhiệt như ông chưa từng được yêu, “Bên cạnh Thị Lộ: người đàn ông đã đứng tuổi đang hứng khởi cúi xuống bên nàng, gương mặt chàng thanh niên tuấn tú ngày trước như bỗng tái sinh, cặp mắt tuyệt diệu tóe lên những tia lửa lạ thường, nụ cười đầy tinh anh, ý vị nói lên tâm trạng đắm say của một kẻ tình si” [6; 888]. Ngòi bút của Yveline đã xoáy sâu vào nỗi đau tình ái khi đặt Nguyễn Trãi trong một nghịch cảnh. Chưa kịp tận hưởng được những hương vị của tình yêu tương ngộ trai tài – gái sắc thì đã phải đối mặt với một sự thật rất đời thường mà cả đời trận mạc ông chưa bao giờ gặp phải. Nguyễn Trãi cay đắng nhận ra rằng: một người đàn ông ngoài ngũ tuần thì không thể có cách nào để tương hợp chuyện giường chiếu với một người đàn bà vừa qua trăng tròn bóng, phơi phới xuân sắc. Ông biết mình “không thể nào làm cho Thị Lộ được thỏa mãn trọn vẹn” [6; 894], nên ngậm ngùi chôn chặt trong lòng mình nỗi đau tình ái không thể thổ lộ cùng ai. Là bậc tài trí, nhân nghĩa, Nguyễn Trãi biết mình phải làm gì trong tình cảnh ấy. Lần thứ hai, Nguyễn Trãi lại rời Thăng Long trong cuộc chiến với nỗi buồn riêng. Đó là một cuộc chạy trốn với chính mình. Côn Sơn, “trạm dừng chân hạnh phúc cho bước chân rong ruổi của Trãi” [6; 976], cũng không thay thế được người phụ nữ của đời ông. Vùi TRẦN THỊ NHẬT TẠP CHÍ KHOA HỌC ĐẠI HỌC SÀI GÒN 25 đầu vào công việc để tự quên mình, “ông đã già đi nhiều, má ông hóp lại, vai xệ xuống, búi tóc của ông đã trắng xóa”. Dẫu vậy, trong sâu thẳm tâm hồn, tình yêu vẫn không ngừng dày vò ông bằng sự nhớ nhung mãnh liệt pha lẫn ghen tuông: “Vậy là lòng Nguyễn Trãi vẫn chưa nguội được! Như dòng nhựa nóng tuôn chảy trong cái thân cây già nua khô cằn, bỗng dưng Trãi run lên, lòng ngập tràn căm giận như thể Thị Lộ mới phản bội ông cách đây chỉ mới vài ngày thế mà nàng đã bỏ rơi ông dễ dàng như bỏ rơi một đôi dép!” [6; 979]. Nhiều tác phẩm hiện đại đã tái hiện mối tình này như Đêm Lệ Chi viên của Mai Thục, Nguyễn Thị Lộ của Hà Văn Thùy, Nguyễn Thị Lộ của Nguyễn Huy Thiệp, Tột đỉnh tình yêu của Nguyễn Thúy Ái.v.v. Các tác giả chủ yếu tập trung ca ngợi tài sắc của nhân vật Thị Lộ với xu hướng giải oan cho nàng hơn là khai thác nỗi cô đơn trong khát vọng ái tình của người anh hùng Nguyễn Trãi. Ức Trai hiện lên trong tác phẩm như một khối cô đơn toàn diện. Ông đã vùng vẫy để thoát khỏi nó nhưng càng vùng vẫy, ông càng tuyệt vọng hơn. Thành công của Yveline trong việc xây dựng bi kịch đời tư của nhân vật là ở chiều sâu nhân bản, theo góc nhìn riêng của mình. Cái bản lĩnh, táo bạo của nhà văn đã đưa lại nỗi xúc động sâu lắng và đầy ám ảnh cho người đọc. 3. Kết luận Dưới ngòi bút của Yveline, Nguyễn Trãi là vĩ nhân với sự thống nhất đến mức nhuần nhuyễn của một chân dung lịch sử với một chân dung nghệ thuật. Hình tượng Nguyễn Trãi hiện lên trong Vạn xuân với những điều khác lạ, mới mẻ: một anh hùng tầm vóc hơn, lí tưởng hơn và cũng phức tạp hơn những gì lâu nay ta đã hình dung. Yveline Féray, bằng tài năng nghệ thuật của mình đã kết hợp nhuần nhuyễn thủ pháp chiêm bái và giải thiêng trong xây dựng hình tượng nhân vật Nguyễn Trãi, làm cho nhân vật hiện lên đầy đặn hơn, chân thực hơn. Đồng thời, qua đó cũng đưa người đọc đến với nhân vật bằng nhiều góc nhìn, nhiều cảm thức khác nhau. Yveline đã không trần trụi hóa Nguyễn Trãi bằng cách giải thiêng tuyệt đối, đưa hẳn ông về với đời thường, nhưng cũng không yêu mến ông như yêu mến một huyền thoại đã xa theo cách một số nhà văn đã làm. Với sự nhạy cảm, vốn hiểu biết khá sâu rộng về văn hóa Việt và nhân vật lịch sử của mình, Yveline Féray đã tái tạo thành công vẻ đẹp của một con người đã thuộc về quá khứ mấy trăm năm, đồng thời cũng làm sống lại một Nguyễn Trãi trần thế, mở ra cho người đọc thấy được cõi thầm kín, sâu thẳm trong tâm hồn Ức Trai. TÀI LIỆU THAM KHẢO 1. M. Bakhtin (1993). Những vấn đề thi pháp Đôtxtôiepxki, Nxb Giáo dục, Hà Nội. 2. M. Bakhtin (2003). Lý luận và thi pháp tiểu thuyết, Phạm Vĩnh Cư dịch, Nxb Hội Nhà văn, Hà Nội. 3. M. Kundera (1998). Nghệ thuật tiểu thuyết, Nguyên Ngọc dịch, Nxb Đà Nẵng. 4. Hoàng Thị Thanh Trà (2011), Hình tượng Nguyễn Trãi trong Vạn Xuân của Yveline Feray, Thư viện Đại học Vinh. 5. Tzvetan Todorov (2004). Thi pháp văn xuôi, Đặng Anh Đào, Lê Hồng Sâm dịch, Nxb Đại học Sư phạm, Hà Nội. 6. Yveline Féray (2004), Vạn Xuân, Nguyễn Khắc Dương dịch, Nxb Văn học & Sudestasie, Hà Nội. Ngày nhận bài: 14/01/2019 Biên tập xong: 15/02/2019 Duyệt đăng: 20/02/2019

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • pdf66_6498_2214971.pdf
Tài liệu liên quan