Lê Văn Huân và đóng góp của ông trong phong trào yêu nước 30 năm đầu thế kỷ XX

Tài liệu Lê Văn Huân và đóng góp của ông trong phong trào yêu nước 30 năm đầu thế kỷ XX: TAÏP CHÍ KHOA HOÏC ÑAÏI HOÏC SAØI GOØN Soá 30 (55) - Thaùng 7/2017 62 Lê Văn Huân và đóng góp của ông trong phong trào yêu nước 30 năm đầu thế kỷ XX Le Van Huan and his contributions in the patriotic in 30 early years of the twentieth century TS. Nguyễn Tất Thắng, Trường Đại học Sư phạm, Đại học Huế Nguyen Tat Thang, Ph.D., Hue University of Education Tóm tắt Bài viết nhằm cung cấp cho người đọc những tư liệu về thân thế và sự nghiệp của nhà yêu nước Lê Văn Huân, đặc biệt là những đóng góp của ông đối với phong trào Duy Tân, Đông Du, Phong trào chống thuế đầu thế kỷ XX ở Hà Tĩnh nói riêng và cả nước nói chung. Gần 10 năm bị thực dân Pháp lưu đày ở địa ngục trần gian Côn Đảo (1908 - 1917) với bao sự bạo tàn vẫn không thể làm nhụt ý chí đấu tranh trong con người Lê Văn Huân. Sau khi được trả tự do, Lê Văn Huân tiếp tục hoạt động, tích cực liên lạc với một số trí thức yêu nước để thành lập Hội Phục Việt (tiền thân của Tân Việt Cách mạng Đảng). Bị kẻ thù b...

pdf7 trang | Chia sẻ: quangot475 | Lượt xem: 371 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem nội dung tài liệu Lê Văn Huân và đóng góp của ông trong phong trào yêu nước 30 năm đầu thế kỷ XX, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
TAÏP CHÍ KHOA HOÏC ÑAÏI HOÏC SAØI GOØN Soá 30 (55) - Thaùng 7/2017 62 Lê Văn Huân và đóng góp của ông trong phong trào yêu nước 30 năm đầu thế kỷ XX Le Van Huan and his contributions in the patriotic in 30 early years of the twentieth century TS. Nguyễn Tất Thắng, Trường Đại học Sư phạm, Đại học Huế Nguyen Tat Thang, Ph.D., Hue University of Education Tóm tắt Bài viết nhằm cung cấp cho người đọc những tư liệu về thân thế và sự nghiệp của nhà yêu nước Lê Văn Huân, đặc biệt là những đóng góp của ông đối với phong trào Duy Tân, Đông Du, Phong trào chống thuế đầu thế kỷ XX ở Hà Tĩnh nói riêng và cả nước nói chung. Gần 10 năm bị thực dân Pháp lưu đày ở địa ngục trần gian Côn Đảo (1908 - 1917) với bao sự bạo tàn vẫn không thể làm nhụt ý chí đấu tranh trong con người Lê Văn Huân. Sau khi được trả tự do, Lê Văn Huân tiếp tục hoạt động, tích cực liên lạc với một số trí thức yêu nước để thành lập Hội Phục Việt (tiền thân của Tân Việt Cách mạng Đảng). Bị kẻ thù bắt giam lần thứ 2 (1929), Lê Văn Huân đã mổ bụng tuẫn tiết để giữ tròn khí tiết. Từ khóa: Lê Văn Huân, Duy Tân, Đông Du, chống thuế, Hội Phục Việt, Tân Việt cách mạng Đảng, Hà Tĩnh. Abstract The article provides readers with materials on the identity and career of the patriotic Le Van Huan, especially his contributions to the Duy Tan, Dong Du, anti-tax movement of the early twentieth century in Ha Tinh in particular and the whole country in general. 10 years of exile in the “hell world” Con Dao (1908-1917) by the French colonialists with brutality could not diminish the will to fight in Le Van Huan’s mind. After being released, Le Van Huan continued to work, actively contact with some patriotic intellectuals to establish the Phuc Viet Association (predecessor of Tan Viet Revolution Party). Arrested by the enemy for the second time (1929), Le Van Huan slit his abdomen as a deed of keeping his uprightness. Keywords: Le Van Huan, Duy Tan, Dong Du, anti-tax, Phuc Viet Association, Tan Viet revolution Party, Ha Tinh. 1. Mở đầu Với truyền thống đấu tranh kiên cường bất khuất, từ cuối thế kỷ XIX đến năm 1930, nhân dân Hà Tĩnh đã tạo dựng nên những điểm nhấn trong lịch sử dân tộc như: Phong trào Duy Tân và Đông Du, Phong trào chống thuế (1908); những năm đầu thế kỷ XX, Hà Tĩnh còn là địa bàn chiến lược cho xu hướng bạo động của Phan Bội Châu và cũng là địa bàn chiến lược của Tân Việt Cách mạng Đảng... Đóng góp vào những sự kiện lịch sử sôi NGUYỄN TẤT THẮNG 63 nổi đó không thể không nhắc tới Cụ Lê Văn Huân - Một sĩ phu nổi tiếng đầu thế kỷ XX, người đã tham gia tích cực trong cuộc vận động Duy Tân đầu thế kỷ XX, bị thực dân Pháp lưu đày ra Côn Đảo trong gần 10 năm, là yếu nhân quan trọng của Tân Việt Cách mạng đảng, có nhiều ảnh hưởng tới tinh thần yêu của nhiều thế hệ trên quê hương Hà Tĩnh. 2. Những nét chính về hoạt động của Lê Văn Huân Cụ Lê Văn Huân tức Giải Huân, biệt hiệu là Ngu Lâm. Khi còn nhỏ gọi là cậu Tư, sinh ngày 21 tháng 2 năm 1876 tại làng Trung Lễ, xã Cố Ngu, tổng Văn Lâm, huyện La Sơn, phủ Đức Thọ nay là xã Trung Lễ - huyện Đức Thọ. Cha ông là Lê Văn Thống đậu cử nhân làm bang biện huyện Tương Dương tỉnh Nghệ An, ông đã “vì việc quân vất vả nơi biên giới xông pha vào hang ổ của bọn thổ phỉ nên bị bệnh mất, được phong là Thị giảng” [3-55]. Mẹ là Phan Thị Đại, chị ruột Đình nguyên Phan Đình Phùng. Anh trai là Lê Văn Nhiệu, cử nhân khoa Canh tý (1900). Mồ côi cha lúc 2 tuổi, Lê Văn Huân được mẹ đem về nuôi ở quê ngoại là Đông Thái, xã Việt Yên Hạ, nay là Tùng Ảnh (Đức Thọ - Hà Tĩnh). Lên 6 tuổi cậu đã bắt đầu học chữ với Phan Đình Phùng, sau đó cậu còn được học với Thám hoa Võ Phạm Hàm và cụ Đông Khê Nguyễn Thức Tự, người làng Đông Chữ, huyện Nghi Lộc. Tuy là có tiếng học trò giỏi nhưng ông vẫn không màng thi cử. Về sau qua kinh nghiệm thực tế, Lê Văn Huân nhận thấy nếu không lấy danh nghĩa ông Nghè (tiến sỹ), ông Cống (cử nhân) để đề xuất đại nghĩa thì khó lòng thu hút tập hợp các tầng lớp sĩ phu, đến năm 30 tuổi, ông mới đi thi Hương và đậu giải Nguyên khoá Bính Ngọ (1906) ở trường thi Nghệ An nên từ đó ông còn được gọi là Giải Huân [3-78]. Năm 1907, Giải Huân vào Huế thi Hội nhưng không đổ. Sau kỳ thi, Lê Văn Huân ở lại Huế một thời gian, làm quen với một số nhân vật yêu nước có tiếng ở miền Trung như Trần Quý Cáp, Huỳnh Thúc Kháng. Từ Huế về, Lê Văn Huân tích cực hoạt động cùng các bạn đồng chí lập ra những hiệu buôn như Triều Dương Thương điếm ở Vinh, và mở riêng hiệu buôn Mộng Hanh (chợ Trổ - Đức Nhân - Đức Thọ) vừa buôn bán, cổ động cho hàng nội hóa, vừa gây quỹ và làm nơi liên lạc của hội Duy Tân, các phong trào yêu nước. Năm 1908, phong trào “xin sưu” nổ ra ở Nam - Ngãi và nhanh chóng lan ra ở Nghệ Tĩnh. Ở Hà Tĩnh, phong trào dấy lên khắp tỉnh, mạnh đến nổi nhà cầm quyền Pháp phải lo sợ, đàn áp quyết liệt. Hai nhà nho Trịnh Khắc Lập (Nghi Xuân) và Nguyễn Hàng Chi (Can Lộc) là những người cầm đầu xuất sắc, đều bị bắt và bị giết hại. “Nhân dịp này Pháp ra lệnh bắt hàng loạt nhà yêu nước, yếu nhân của hội Duy tân, trong đó có Ngô Đức Kế, Đặng Nguyên Cẩn và Lê Văn Huân, đày ra Côn Đảo” [1-65]. Đến tháng 9 năm 1917 Lê Văn Huân được tha và bị quản thúc ở quê nhà. Cụ làm nghề bốc thuốc, dạy học, nhưng ngấm ngầm tuyên truyền tinh thần yêu nước bằng thơ ca, và bí mật bắt mối với một số người cùng chí hướng. Khoảng năm 1924 - 1925, ông ra Vinh bắt liên lạc với một số thanh niên trí thức yêu nước, rồi sau đó ra Hà Nội bắt liên lạc với Tôn Quang Phiệt bàn việc thành lập một tổ chức cách mạng mới. Năm 1925, nhân ngày Quốc khánh Pháp (14-7), Lê Văn Huân, Tôn Quang Phiệt, Trần Đình Thanh, Ngô Đức Diễn cùng một số người khác nhóm họp ở Núi LÊ VĂN HUÂN VÀ ĐÓNG GÓP CỦA ÔNG TRONG PHONG TRÀO YÊU NƯỚC 64 Quyết (Bến Thuỷ) thành lập hội Phục Việt sau đổi là Hưng Nam. Hội còn nhiều lần đổi tên Việt Nam cách mạng Đảng, Việt Nam Cách mạng đồng chí hội, Tân Việt cách mạng Đảng và Lê Văn Huân là một yếu nhân của tổ chức Đảng này. Ngày 13 tháng 9 năm 1929, Lê Văn Huân bị bắt giam ở Hà Tĩnh và đưa ra nhà lao Vinh. Tại đây, khi bị tra tấn cực hình Cụ đã tuyệt thực chống chế độ hà khắc của nhà tù thực dân rồi tự mổ bụng và hy sinh vào ngày 20 tháng 9 năm 1929 khi 53 tuổi. Sự hy sinh anh dũng của Lê Văn Huân đã khiến nhiều người khâm phục và hết lời ca ngợi, cụ Huỳnh Thúc Kháng có câu điếu ông: “Chữ danh đeo đuổi, đầu bạc vẫn chưa thôi, công chã thành mà tội có ai tha, tòa án đất kêu, đậy nắp quan tài là rãnh chuyện Hồn nước bơ vơ, tuổi xanh thương những kẻ đã chết đã thiệt mà sống làm sao đặng, học trường trời dạy, treo gương nhân cách để cùng soi” [13 - 391]. 3. Ảnh hưởng của Lê Văn Huân đối với phong trào chống Pháp xâm lược những năm đầu thế kỷ XX 3.1. Là một biểu tượng sống động về tấm lòng yêu nước cho người đương thời Kế tục truyền thống đấu tranh kiên cường, bất khuất của phong trào Cần Vương cuối thế kỷ XIX, các chiến sĩ yêu nước của làng Trung Lễ (Đức Thọ - Hà Tĩnh) trong khoảng thời gian từ 1896 đến 1930 tiếp tục phát huy khí tiết cách mạng của cha anh, xây dựng cơ sở, tổ chức thực hiện, mưu toan khởi nghĩa đánh đuổi thực dân Pháp, giành độc lập dân tộc. Dòng họ Lê ở Trung Lễ1 trong giai đoạn này có các ông Lê Văn Huân, Lê Võ, Lê Cần, Lê Nghệ kế tiếp nhau hoạt động. Nỗi bật nhất trọng số đó là sĩ phu Lê Văn Huân - một trong những chiễn sĩ tận tuỵ, có uy tín, có ảnh hưởng lớn tại địa phương. Nhờ ảnh hưởng của dòng họ Lê, của gia đình đối với nhân dân địa phương; uy tín bản thân và từ thửa bé Lê Văn Huân đã tận mắt mình chứng kiến bao cảnh đau thương, tang tóc của quê hương, đất nước, nhất là ở quê cha làng Trung Lễ và quê mẹ làng Đông Thái2 [7-45]. Chứng kiến sự thất bại của các bậc tiền bối họ Lê trong phong trào và đặc biệt là từ sự thất bại của cụ Phan Đình Phùng, thù nhà, nợ nước thôi thúc người thanh niên đầy bầu nhiệt huyết hành động. Tư tưởng yêu nước của cụ Huân có phần tiếp thu ở những người có cùng chí hướng như cụ Đặng Nguyên Cẩn (Thanh Chương - Nghệ An); Đặng Thái Thân (Nam Đàn - Nghệ An); Ngô Đức Kế (Can Lộc - Nghệ An); Phạm Văn Ngôn (Đông Thái - Nghệ An); Nguyễn Đình Kiên (Hương Khê - Nghệ An), có phần chịu ảnh hưởng của thầy, đó là cụ Đông Khê Nguyễn Thực Tư, người làng Đông Chữ huyện Nghi Lộc - nỗi tiếng về tài học và nhân cách. Thời gian đi học, đi thi Hương trường Nghệ, thi Hội ở Huế rất quan trọng đối với Cụ Huân vì đây là giai đoạn Cụ có điều kiện mở rộng tầm mắt tìm bạn đồng tâm, đồng chí hướng cứu nước, giải phóng dân tộc. Khi phong trào chống thuế Trung Kỳ diễn ra năm 1908, chính quyền thực dân Pháp đã khủng bố tàn khốc đối với thân sĩ Nghệ Tĩnh. Châu bản triều Duy Tân ghi rõ: “- Vi thủ là Ngô Đức Kế, Đặng Nguyên Cẩn, xin lượng giảm xử giảo giam hậu. - Vi tùng là Đặng Văn bá, Lê Văn Huân đều xử trượng 100, đày 3.000 dặm, cải hạn khổ sai 9 năm - Đều tước khử nguyên tịch tiến sĩ (Ngô Đức Kế), phó bảng (Đặng Nguyên NGUYỄN TẤT THẮNG 65 Cẩn), cử nhân (Đặng Văn Bá, Lê Văn Huân), các hạng cờ, biển, áo mão thủ tiêu, đều phát đi Lao Bảo giam phối, để răn bọn thông đồng với nhau phản nghịch”3 [1-159,160]. Trên đường lưu đày, Lê Văn Huân và các đồng chí của ông đã phải trải qua sự đọa đày tàn bạo của kẻ thù. Điều này được Phan Chu Trinh kể lại: “Lúc dẫn đi đày, duy thân sĩ Quảng Nam được thong thả hơn cả. Các tỉnh khác tuy có ngược đãi, nhưng không thái quá. Chỉ có thân sĩ hai tỉnh Hà Tĩnh lấy tránh khiêng, xuống tàu thủy rồi cũng không mở dây, sắp hàng trên boong tàu, khát không cho uống, mưa to gió lớn ướt lạnh không dời đi nơi khác, có người kêu đau, kêu khổ, rất thảm thương” [12-111]. Tại Côn Đảo, nơi được xem là địa ngục trần gian, chính quyền thực dân sử dụng sự tàn ác của cai ngục và chế độ hà khắc của nhà tù để tiêu diệt cả về thể xác lẫn tinh thần của những người yêu nước trong đó có Lê Văn Huân. Tuy nhiên, trong gần 10 năm kẻ thù vẫn không thể nào dập tắt được nghị lực và ý chí chiến đấu của Lê Văn Huân. Không chỉ vậy, thời gian ở Côn Đảo đối với cụ Huân đây là “Hào kiệt tụ lâm” (Một rừng tụ các anh hào). Trong bài thơ “Ký mẫu thân” gửi mẹ, cụ Huân viết: “Con thảo với cha mẹ Lòng cha mẹ thế nào? Lo con không tự lập, Trọn đời chìm dưới ao. Đông Nam có hòn đảo, Một rừng tụ anh hào” [11-361]. Năm 1927, Cụ Huân trúng cử dân biểu Trung Kỳ (đơn vị Hà Tĩnh). Từ đây Cụ có cơ hội tốt để vào Nam ra Bắc nhằm liên kết đồng chí, mở rộng cơ sở cách mạng [8-89]. Tuy nhiên, chỉ hơn một năm ở “nghị trường” giả dối đó, năm 1928, Lê Văn Huân từ chức một lần cùng với Huỳnh Thúc Kháng, Hoàng Văn Khải, Trần Đình Diệm, Lương Quí Gi... dù Cụ biết trước việc này sẽ gặp nhiều khó khăn từ chính quyền thuộc địa. Sự hy sinh của Lê Văn Huân trong nhà lao Vinh (Nghệ An) năm 1929 càng làm cho hình ảnh của Cụ trở nên nổi bật, nó không chỉ là biểu tượng sáng ngời về lòng dũng cảm, ý chí giám xả thân vì sự tồn vong của quốc gia dân tộc cho những người đương thời noi theo mà còn cả đối với các thế hệ nối tiếp trên quê hương xứ Nghệ. 3.2. Là người có công lớn trong việc thành lập chính đảng dân chủ đầu tiên ở nước ta: Hội Phục Việt Ở Côn Đảo cụ Huân đã bàn bạc với một số đồng chí tâm huyết chuẩn bị một tổ chức Đảng cách mạng, lấy tên là Phục Việt. Cụ thường ra Vinh, ở trọ nhà người cháu gọi cụ bằng cậu ruột, làm đốc học ở trường Pháp - Việt Vinh rồi từ những cuộc gặp gỡ nói chuyện xã giao với các bạn bè của ông đốc học, cụ thu hút một số thanh niên tân học thiết tha yêu nước mà đa số là các thầy giáo và dần dần biến những cuộc luận đàm văn thơ thành những buổi trao đổi về thời sự, về chính kiến cổ vũ tinh thần cách mạng. Do đó, ngày 14 - 7 - 1925 cụ Lê Huân đã cùng một số trí thức yêu nước khác như: Trần Phú, Trần Đình Thanh, Ngô Đức Diễn, Tôn Quang Phiệt sáng lập ra một tổ chức cách mạng gọi là hội Phục Việt và vạch ra chương trình hành động gồm 3 điểm: - Nghiên cứu thấu đáo hoàn cảnh chính trị nước nhà để tìm một hướng hành động thuận lợi nhất. - Đặt quan hệ với các phần tử xuất dương ở hải ngoại. LÊ VĂN HUÂN VÀ ĐÓNG GÓP CỦA ÔNG TRONG PHONG TRÀO YÊU NƯỚC 66 - Kết nạp Đảng viên. Cuối năm 1925, Phục Việt rải truyền đơn đòi ân xá cho Phan Bội Châu bị lộ. Để tránh sự đàn áp của thực dân Pháp, Phục Việt đổi tên thành Hưng Nam và đến ngày 14 – 7 – 1928, tại Huế, hội Hưng Nam đổi tên thành Tân Việt cách mạng Đảng. Phỏng theo chương trình, điều lệ của thanh niên, tôn chỉ, mục đích của Tân Việt được ghi trong Đảng chương là: liên hợp các đồng chí trong ngoài, trong thì dẫn đạo công nông binh, quần chúng, ngoài thì liên lạc với các dân tộc bị áp bức bóc lột để đánh đổ đế quốc, chủ nghĩa đang kiến thiết một xã hội bình đẳng bác ái mới. “Hệ thống tổ chức của Tân Việt gồm 6 cấp: Tổng bộ, Kỳ bộ, Liên tĩnh bộ, Tĩnh bộ, Đại tổ và Tiều tổ. Các Kỳ bộ được gọi theo quy ước riêng: Bắc Kỳ là Nhân Kỳ, Trung Kỳ - Trí Kỳ, Nam Kỳ - Dũng Kỳ [10 - 264]. Địa bàn hoạt động chủ yếu của Tân Việt là ở các tỉnh miền Trung, mạnh nhất là vùng Nghệ Tĩnh. “Tại những nơi ấy, hệ thông tổ chức của Tân Việt có đầy đủ từ liên tỉnh bộ, tỉnh bộ xuống đến đại tổ ở hầu khắp các huyện, và tiểu tổ ở rất nhiều xã” [15 - 227, 228]. “Các cơ sở của đảng Tân Việt đã phát triển và hoạt động mạnh ở nhiều nơi trên đất Hà Tĩnh, góp phần giác ngộ và động viên tinh thần cách mạng của nhân dân, tạo ra những tiền đề cần thiết để thành lập Đảng bộ Đảng cộng sản sau này” [5-26]. Mặc dù trụ sở Đảng Tân Việt ở Vinh nhưng Cụ vẫn ở Lạc Thiện (tên cũ của Trung lễ) và sinh hoạt trong tiểu tổ Lạc Thiện. Các thành viên của Tiểu tổ Lạc thiện là những hội buôn Nam tiến gồm các ông Lê Mưu, Lê Sâm (tức là Lê Văn Luân), Lê Mão, Lê Giai, Hồ Ngũ Niệm, Võ Trinh (Can Lộc); tiểu tổ Tân Việt khác ở Đức Thọ như Đông Thái, Bùi Xá, Thanh Lạng, Vĩnh Đại gồm hơn 30 đảng viên kết thành Đại tổ Tân Việt Đức Thọ lấy bí danh là Đại tổ đầu. Tiểu tổ Lạc Thiện vẫn thay phiên nhau tiếp tục ngược xuôi buôn bán như trước vừa để kinh doanh buôn bán làm ăn vừa để gây thêm quỹ cho Đảng. Lập một hiệu buôn ở Đồng Trưa, bên đường số 8 (Trung Lễ). Bên cạnh hiệu buôn có xưởng cưa, xưởng mộc và lò nấu gạch ngói. Địa điểm này vô cùng thuận lợi cho cách mạng trong thời kỳ bí mật, trở thành nơi liên lạc trực tiếp của Đảng bộ; tiếp phát thư từ, tài liệu, đưa đón tiếp xúc đồng chí, hội ý thường kỳ vv Trong những năm 1928 – 1929 Cụ Huân đã giành nhiều thời gian tập trung vào dịch sách từ Trung văn sang Việt văn để làm tài liệu giáo dục, huấn luyện đảng viên: “Tư bản luận”; “Mã Khắc Tư chủ nghĩa”; “Ý Đại Lợi tam kiệt”; “Lê nin toàn tập” Như vậy, chúng ta có thể khẳng định, Cụ Lê Văn Huân là một trong những yếu nhân đầu tiên của Hội Phục Việt. “Lê Văn Huân không những là một nhà nho yêu nước, một thi sĩ có tài mà ông còn là một lí thuyết gia, người có công đầu thành lập chính đảng dân chủ đầu tiên ở nước ta hồi đầu thế kỷ XX- Hội Phục Việt” [13-592]. 3.3. Là người có công giác ngộ, giáo dục và có nhiều ảnh hưởng đến thế hệ trẻ cả trong và ngoài dòng họ Tháng 9 - 1917, cụ Huân được tha sau gần 10 năm lưu đày tại Côn Đảo và bị quản thúc ở quê nhà. Cụ bắt đầu tìm hiểu tình hình trong và ngoài nước. Cụ nhận ra rằng muốn làm cách mạng thành công phải có nhiều người tham gia và giúp đỡ Cụ trong công tác. Vì vậy, Cụ bắt đầu chú ý đến việc tìm hiểu tư cách, khả năng của một số thanh niên trong địa phương. Cụ gần gũi, NGUYỄN TẤT THẮNG 67 giáo dục và giác ngộ họ dần đi vào con đường hoạt động cách mạng. Đối với xóm làng Cụ là người cố vấn cho cụ Cử Nhiệu (anh cả làm nghề dạy học ở quê nhà) thực hiện một số cải cách hương thôn, xóa bỏ hủ tục phong kiến trong làng. Để liên lạc móc nối với các tổ chức, cụ lập hội những người ở Hà Tĩnh vì chống Pháp mà phải vượt biên giới chạy sang Lào và Xiêm gọi là tổ “Nam tiến”, ngoài phần kiếm kế sinh nhai còn có nhiệm vụ là liên lạc với các hoạt động cách mạng ở Lào và Xiêm. Một số thanh niên có học ở làng Trung Lễ và cũng là con cháu của họ Lê chi 6 như ông Lê Ban, Lê Tán, Lê Văn Thực, Lê Văn Tập, Lê Văn Chiêu vv theo con đường của hội đi Lào, đi Xiêm vừa để tránh sự truy lùng của giặc, vừa để tìm đường cứu nước cứu dân. Cụ Huân là người tiếp thu cái mới nhanh, Cụ không những là người thiết tha yêu nước mà Cụ còn là người truyền nhiệt tình yêu nước cho các thế hệ con cháu. Khi trả lời câu hỏi của lớp trẻ, Cụ nói: “Chúng tôi là lớp người cũ, chỉ có nhiệt tình cách mạng, chứ về đường lối phương châm, phương pháp vận động cách mạng chúng tôi chẳng hiểu gì mấy. Các anh là người tân học, hiểu biết nhiều về thời sự, tình hình trong nước và trên thế giới, phải xem xét học hỏi cho đến nơi đến chốn, chủ nghĩa gì hay, đường lối nào đảm bảo cách mạng thành công thì đồng lòng, đồng sức mà làm, tôi tán thành tất cả. Tôi chỉ có giúp anh em được hai điều: một là tiền, tôi sẽ vận động người ta quyên góp. Hai là kẻ nào anh em không thuyết phục được, tôi sẽ cố gắng nói hộ, tôi là người chân thành, có đôi chút tiếng tăm, nói ra người ta hay nghe” [3–80]. Những lời tâm sự chân thành trên là tâm huyết của Cụ đối với quê hương đất nước, nó tạo ra động lực và niềm tin ở thế hệ trẻ. “Có thể nói một số đông lớp trí thức thanh niên ở vùng Nghệ Tĩnh sau này tham gia cách mạng đều chịu ảnh hưởng và tiếp thu hoặc ít nhiều tinh thần yêu nước của cụ Huân ngay từ hồi đó” [2-66]. “Đối với nhân dân Trung Lễ (Đức Thọ - Hà Tĩnh) Cụ Huân là người tiên phong bắc nhịp cho cây cầu lớn nối liền hai phong trào cách mạng của quê hương. Phong trào nhân dân Trung Lễ - Đức Thọ chống Pháp dưới ngọn cờ cách mạng và phong trào Xô Viết Trung Lễ những năm 1930 – 1931 của thế kỷ XX” [6-250]. Đối với dòng họ Lê, Cụ Huân là người kế tục truyền thống hiếu học – khoa cử của dòng họ; Cụ là người thầy, người đồng chí hướng dẫn con cháu trong dòng họ con đường đi theo cách mạng. Cụ là người trực tiếp bồi dưỡng tinh thần yêu nước cho họ và là người tổ chức, lãnh đạo, đưa họ vào phong trào chung toàn huyện, toàn tỉnh và khắp cả nước. Các ông Lê Sâm, Lê Mưu, Lê Mão, Lê Giai, Lê Cẩn, không những là con cháu của Cụ, mà họ đã trở thành lực lượng nòng cốt, kế tục Cụ đi tiếp chặng đường đấu tranh giành độc lập cho dân tộc. 4. Kết luận Sĩ phu Lê Văn Huân đã dành trọn cuộc đời mình cho sự nghiệp đấu tranh giành độc lập dân tộc. Không chỉ là một chiến sĩ kiên trung trên mặt trận đấu tranh với kẻ thù xâm lược mà Cụ còn người có công đầu trong việc sáng lập tổ chức Tân Việt Cách mạng đảng, là tấm gương về lòng yêu nước nồng nàn cho hậu thế noi theo. Lịch sử đã lùi xa nhưng không phải vì vậy mà vết bụi quá khứ có thể xoá mờ tất cả. Những hoạt động yêu nước và đóng góp to lớn của chí sĩ Lê Văn Huân đối với lịch sử đấu tranh chống thực dân Pháp xâm LÊ VĂN HUÂN VÀ ĐÓNG GÓP CỦA ÔNG TRONG PHONG TRÀO YÊU NƯỚC 68 lược những năm đầu thế kỷ XX vẫn luôn là nguồn động lực to lớn góp phần tạo dựng nên sự vững chắc của truyền thống yêu nước trên quê hương Hà Tĩnh hôm nay và mãi về sau. Chú thích: 1 Một dòng họ nổi tiếng ở Đức Thọ - Hà Tĩnh vì có nhiều người đổ đạt và giàu lòng yêu nước. 2 Trung Lễ và Đông Thái là nơi hai chí sĩ Lê Ninh và Phan Đình Phùng gây dựng căn cứ chống Pháp đầu tiên trong phong trào Cần Vương trên đất Hà Tĩnh. Nhân dân ở đây đã tham gia đắc lực và ủng hộ hết mình cho lực lượng khởi nghĩa, do đó sau khi đàn áp xong phong trào Cần Vương Hà Tĩnh, Thực dân Pháp đã triệt hạ 2 làng này. 3 Có thể hiểu bản án được ghi trong Châu bản Duy Tân như sau: - Người đứng đầu là Ngô Đức Kế, Đặng Nguyên Cẩn, xin giảm thành xử thắt cổ và chờ - Tòng phạm là Đặng Nguyên Bá, Lê Văn Huân đều xử đánh 100 trượng, đày 3000 dặm, đổi thành hạn khổ sai 9 năm. - Đều tước bỏ học vị trước đây như tiến sĩ (Ngô Đức Kế), phó bảng (Đặng Nguyên Cẩn), cử nhân (Đặng Văn Bá, Lê Văn Huân), thủ tiêu các hạng cờ, biển, áo mão lúc vinh qui, đều đày đi giam ở Lao Bảo, để răn bọn thông đồng với nhau phản ngịch. TÀI LIỆU THAM KHẢO 1. Nguyễn Thế Anh (1973), Phong trào kháng thuế miền Trung năm 190 qua các châu bản triều Duy tân, Bộ Văn hóa và Thanh niên, Sài Gòn. 2. Thái Bạch (1968), Thi văn quốc cấm, Nxb Khai Trí, Sài Gòn. 3. Ban Nghiên cứu Lịch sử Nghệ Tĩnh (1980), Danh nhân Nghệ Tĩnh, tập 1, Nxb Nghệ Tĩnh. 4. Ban chấp hành Đảng bộ Đảng cộng sản Việt Nam tỉnh Hà Tĩnh (1993), Lịch sử Đảng bộ Hà Tĩnh, tập 1 (1930 – 1954), Nxb CTQG, Hà Nội. 5. Ban chấp hành Đảng bộ Đảng cộng sản huyện Đức Thọ (1998), Lịch sử Đảng bộ huyện Đức Thọ, tập 1 (1930 -1975), Nxb CTQG, Hà Nội. 6. Đặng Duy Báu (chủ biên) (2000), Lịch sử Hà Tĩnh, tập 1, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội. 7. Phan Đình Bưởi (1998), Lịch sử Hà Tĩnh, Sở Giáo dục - Đào tạo Hà Tĩnh xuất bản, Hà Tĩnh 8. Đinh Trần Dương (2002), Nghệ Tĩnh với phong trào cách mạng giải phóng dân tộc trong 30 năm đầu thế kỷ XX, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội. 9. Hải Ngọc Thái Nhân Hòa (2005), Xu hướng canh tân - phong trào Duy tân - sự nghiệp đổi mới (từ giữa thế kỷ XIX đến cuối thế kỷ XX), Nxb Đà Nẵng. 10. Nguyễn Quang Ngọc (cb) (2003), Tiến trình lịch sử Việt Nam, Nxb Giáo dục, Hà Nội. 11. Nhiều tác giả (1985), Hợp tuyển thơ văn Việt Nam (1858 – 1920), quyển 2, Nxb Văn học, Hà Nội. 12. Phan Chu Trinh (2015), Hồi ký phong trào dân biến ở Trung Kỳ (đầu thế kỷ XX), Nxb Hồng Đức, Hà Nội. 13. Nguyễn Q. Thắng (2006), Phong trào Duy Tân – Các khuôn mặt tiêu biểu, Nxb Văn hóa Thông tin, Hà Nội. 14. Nguyễn Q. Thắng, Nguyễn Bá Thế (1997), Từ điển nhân vật lịch sử Việt Nam, Nxb Văn Hóa, TP. Hồ Chí Minh. 15. UB KHXH VN (1989), Lịch sử Việt Nam, tập 2 (in lần thứ 2), Nxb KHXH, Hà Nội. Ngày nhận bài: 28/6/2017 Biên tập xong: 15/7/2017 Duyệt đăng: 20/7/2017

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • pdf59_2646_2215111.pdf
Tài liệu liên quan