Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 21 * Số 2 * 2017
Chuyên Đề Ngoại Khoa 240
CHỈ ĐỊNH ĐIỀU TRỊ NGOẠI KHOA U THÀNH NGỰC NGUYÊN PHÁT: 
NHÂN 32 TRƯỜNG HỢP TẠI BV CHỢ RẪY 
Nguyễn Hoàng Bình*, Trần Quyết Tiến** 
TÓM TẮT 
Mục tiêu: Nghiên cứu này nhằm tổng kết, đánh giá những kinh nghiệm ban đầu trong chẩn đoán, chỉ định, 
điều trị ngoại khoa bệnh u thành ngực nguyên phát tại khoa Ngoại Lồng ngực, Bệnh viện Chợ Rẫy. 
Đối tượng - Phương pháp: Hồi cứu hàng loạt ca, các biểu hiện lâm sàng, thể loại u, phương pháp phẫu 
thuật và kết quả sớm điều trị ngoại khoa u thành ngực nguyên phát tại Bệnh viện Chợ Rẫy từ 1/2015 đến 6/2016. 
Kết quả: Trong thời gian 1,5 năm, chúng tôi đã điều trị ngoại khoa cho 32 bệnh nhân. Giới: 19 nam, 13 nữ. 
Tuổi trung bình là 43.1 (Lớn nhất: 83, nhỏ nhất: 15). Trong đó gồm: u ác tính: 11 bệnh nhân (u xương ác tính: 6 
bệnh nhân, u mô mềm ác tính: 5 bệnh nhân), u lành tính: 21 bệnh nhân (u xương lành tính: 14 bệnh nhân, u mô 
mềm lành tính: 7 bệnh nhân). Tất cả bệnh nhân được phẫu thuật cắt toàn bộ u, cắt rộng u: 2 trường hợp, sau cắt 
u phải tái tạo thành ngực, 1 trường hợp còn hở da, phải ghép da về sau. Không có tử vong chu phẫu cũng như 
không có biến chứng nào nặng nề được ghi nhận. Tất cả bệnh nhân ra viện tốt. 
Kết luận: U thành ngực nguyên phát hiếm gặp, đa số u lành. Chẩn đoán dựa lâm sàng, sinh thiết qua phẫu 
thuật cắt trọn. Chỉ định phẫu thuật được đặt ra để chẩn đoán cũng như điều trị cho bệnh nhân. Phẫu thuật cắt 
rộng lấy u là phương pháp điều trị chính cho bệnh nhân. Kết quả phẫu thuật an toàn, không tai biến trầm trọng. 
Từ khóa: u thành ngực nguyên phát 
ABSTRACT 
INDICATION FOR SURGERY OF PRIMARY CHEST WALL TUMOR: EXPERIENCE WITH 32 
PATIENTS IN CHỢ RẪY HOSPITAL 
Nguyen Hoang Binh, Tran Quyet Tien 
*Y Hoc TP. Ho Chi Minh * Supplement Vol. 21 - No 2 - 2017: 240 - 245 
Objective: Evaluate initial experience in diagnosis and indication for surgical treatment of primary chest 
wall tumor at Cho Ray hospital. 
Patients and Method: Retrosprospective study of 32 patients underwent tumor resection in treatment of 
primary chest wall tumor at Cho Ray hospital from Jan 2015 to June 2016. 
Results: among the 32 patients, 19 (59.3%) were male. The median age was 43.1 years (range 15-83). 
Malignant tumor: 11 patients (bone tumor: 6 patients; soft tissue: 5 patients). Benign tumor: 21 patients (bone 
tumor: 14 patients; soft tissue: 7 patients). Indication for surgical treatment: diagnosis of tumor, tumor with 
complication or progression. Extensive resection of tumor is an effective treatment for primary chest wall tumor. 
There was no perioperative mortality, no severe complication. All of patients were discharged safely. 
Conclusion: Primary chest wall tumor is uncommon disease, more patients are benign tumor. Indication for 
surgical treatment: diagnosis of tumor, tumor with complication or progression Extensive resection of tumors is 
main procedure of treatment. Chest wall reconstruction is depended on location, diameter, and type of tumor. 
Key word: primary chest wall tumor 
*Khoa Ngoại lồng ngực, Bệnh viện Chợ Rẫy, **Phó GĐ bệnh viện Chợ Rẫy 
Tác giả liên lạc: TS.BS Nguyễn Hoàng Bình ĐT: 0908334789 Email: 
[email protected] 
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 21 * Số 2 * 2017 Nghiên cứu Y học
Chuyên Đề Ngoại Khoa 241
ĐẶT VẤN ĐỀ 
U thành ngực nguyên phát (UTNNP) về 
chẩn đoán và điều trị vẫn còn là một thách thức 
với các phẫu thuật viên lồng ngực. U thành ngực 
nguyên phát rất hiếm, chủ yếu là u có nguồn gốc 
từ mô mềm, chiếm gần 50% UTNNP. Phẫu thuật 
cắt rộng khối u là phương pháp điều trị hiệu quả 
nhất cho phần lớn các u thành ngực. Với sự cải 
thiện của kỹ thuật phẫu thuật và chăm sóc bệnh 
nhân trong phẫu thuật đã giúp giảm tỷ lệ tử 
vong cũng như tỷ lệ biến chứng thấp cho bệnh 
nhân UTNNP khi phẫu thuật. Chìa khóa thành 
công cho điều trị UTNNP là chẩn đoán chính 
xác, phẫu thuật cắt rộng, tái tạo thích hợp phần 
thành ngực bị khuyết(6, 4). 
Tại Việt Nam, số bệnh nhân được phẫu thuật 
UTNNP vẫn còn ít, vì vậy chúng tôi tiến hành 
nghiên cứu này để tổng kết những kinh nghiệm 
về chẩn đoán, chỉ định điều trị, kết quả điều trị 
đối với những bệnh nhân này. 
ĐỐI TƯỢNG - PHƯƠNG PHÁP 
Đối tượng 
Tất cả bệnh nhân được chẩn đoán UTNNP, 
được phẫu thuật điều trị cắt u tại Khoa Ngoại 
Lồng ngực, Bệnh viện Chợ Rẫy. 
Loại trừ: bệnh nhân u thành ngực thứ phát. 
Phương pháp nghiên cứu 
Hồi cứu mô tả loạt ca. 
Phương pháp 
Bệnh nhân được ghi nhận. 
Lâm sàng: Bệnh sử: thời gian phát hiện các 
triệu chứng lâm sàng: đau ngực, u thành ngực, 
biến chứng loét u, chảy máu 
Cận lâm sàng: chụp X quang phổi, siêu âm 
bụng, thành ngựcChụp cắt lớp (CT Scans), đo 
chức năng phổi, xạ hình xương, các xét nghiệm 
tiền phẫu. 
Chỉ định phẫu thuật 
Phương pháp phẫu thuật: phẫu thuật cắt 
khối u, tái tạo thành ngực khi có khuyết thành 
ngực lớn. 
Sinh thiết lạnh trong khi phẫu thuật. Sinh 
thiết khối u trước khi phẫu thuật khi nghi ngờ. 
Hậu phẫu: ghi nhận thời gian rút ống dẫn 
lưu, ra viện. 
Đánh giá, ghi nhận các biến chứng như: chảy 
máu, nhiễm trùng vết mổ, suy hô hấp 
Ghi nhận kết quả giải phẫu bệnh UTNNP. 
KẾT QUẢ 
32 bệnh nhân UTNNP được phẫu thuật cắt 
rộng khối u, có tái tạo thành ngực khi cần trong 
thời gian từ 1/2015 – 6/2016 tại khoa Ngoại Lồng 
ngực, Bệnh viện Chợ Rẫy. 
Nam: 19 (59,3%). Nữ: 13 (40,7%). 
Tuổi: lớn nhất: 83 tuổi, nhỏ nhất: 15tuổi, 
trung bình: 43.1. 
UTNNP ác tính có tuổi trung bình khoảng 
49,7 tuổi, u lành: 32,3 tuổi. 
Triệu chứng lâm sàng 
Không triệu chứng, phát hiện khối u, u ngày 
càng lớn: 13 bệnh nhân (40,6 %). 
Đau ngực: 17 bệnh nhân (53,1%), trong đó 4 
bệnh nhân (23,5%) u ác tính sau phẫu thuật. 
Khám lâm sàng: Phát hiện có u: 25 bệnh 
nhân (78,1%), 7 bệnh nhân không phát hiện rõ 
u, đau ngực đi khám, phát hiện thấy u trên 
hình ảnh học. 
Loét u, chảy máu: 3 bệnh nhân (9,3%), cả ba 
ca đều u ác tính. 
Hình ảnh trên X quang, CT Scans: 26 
(81,2%) bệnh nhân được chụp CT scans để 
chẩn đoán, đánh giá vị trí, mức độ lan tỏa, 
xâm lấn của u để quyết định phương pháp 
mổ, có 6 bệnh nhân chỉ chụp x quang phổi, 
không chụp CT scans ngực. 
Xạ hình xương: có 6 bệnh nhân được xạ hình 
xương trước phẫu thuật (các trường hợp u 
xương sườn), nghi ngờ u xương sườn ác tính. 
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 21 * Số 2 * 2017
Chuyên Đề Ngoại Khoa 242
Bảng 1. Vị trí u 
Vị trí u Bệnh nhân (%) 
U xương ức 3 (9,3) 
U xương sườn 14 (43,8) 
U mô mềm 15 (47,9) 
Giải phẫu bệnh trước phẫu thuật 
Hầu hết bệnh nhân được phẫu thuật cắt trọn 
u để gởi giải phẫu bệnh lý. 
Có hai trường hợp, bệnh nhân được làm sinh 
thiết lạnh trong mổ. Một bệnh nhân được mổ 
sinh thiết một phần u trước khi phẫu thuật lần 
hai để cắt rộng. Một bệnh nhân được làm FNA 
có kết quả u mô mềm ác tính. 
Chỉ định phẫu thuật 
Chẩn đoán, điều trị khối u: 13 bệnh 
nhân (40,6%). 
Khối u lớn tiến triển: 6 bệnh nhân (18,6%). 
Khối u gây đau: 8 bệnh nhân (24,8%). 
Khối u bị loét, chảy máu: 3 bệnh nhân (9,3%). 
Khối u ác tính: 1 bệnh nhân (3,1%). 
Giải phẫu bệnh sau phẫu thuật 
Bảng 2. Kết quả mô học 
Loại tế bào Bệnh nhân (%) 
U lành xương 
U sụn xương (Chondroma) 
Loạn sản sợi (Fibrous dyplasia) 
U lành mô mềm 
U mỡ (Lipoma) 
U sợi (Fibroma) 
U thần kinh (Neurilemmoma) 
U cơ trơn (Angioleiomyoma) 
10 (31,2) 
4 (12,4) 
1(3,1) 
2(6,2) 
3(9,3) 
1 (3,1) 
U ác của xương 
Sarcoma sụn xương 
Myeloma 
Lymphoma 
U ác 
Sarcoma cơ 
U mô bào sợi ác tính 
2(6,2) 
2(6,2) 
2(6,2) 
3 (9,3) 
2 (6,2) 
Thời gian nằm viện sau mổ trung bình: 
5,58 ngày. 
Lâu nhất: 12 ngày. Nhanh nhất: 3 ngày 
Bảng 3. Phương pháp phẫu thuật 
Phương pháp phẫu thuật U lành (%) U ác (%) 
Cắt rộng toàn bộ u 20 (62,5) 9 (28,2) 
Cắt rộng u, tái tạo thành ngực 1 (3,1) 1 (3,1) 
Cắt rộng u, ghép da 0 (0) 1 (3,1) 
Tổng số 21 (65,6) 11 (34,4) 
Biến chứng phẫu thuật: 
Chảy máu phải mổ lại cầm máu: 1 
bệnh nhân. 
Tràn khí màng phổi phải đặt dẫn lưu: 1 
bệnh nhân. 
BÀN LUẬN 
U thành ngực nguyên phát (UTNNP) 
thường ít gặp, chiếm khoảng 5% u thành ngực(2), 
nên tương đối ít có những nghiên cứu báo cáo 
trong y văn trước đây. Trong nghiên cứu ở viện 
Emory, 27% của phẫu thuật u thành ngực là u 
nguyên phát, còn trong nghiên cứu MSKCC, u 
nguyên phát chiếm 26% u thành ngự(3). Tại Mayo 
Clinic, 100 bệnh nhân được phẫu thuật u thành 
ngực, u nguyên phát chiếm 44%(5). Hầu hết các 
báo cáo về UTNNP chỉ bao gồm các u xương 
thành ngực. Khi u xương kết hợp u mô mềm 
nguyên phát, u mô mềm chiếm đa số của u 
thành ngực, hơn ½ bệnh nhân được phẫu thuật 
là u từ mô mềm(4). 
Tỷ lệ UTNNP ác tính thay đổi tùy theo các 
nghiên cứu, từ 50% - 80% UTNNP. Tỷ lệ ác tính 
cao ở các báo cáo có u mô mềm. Sarcoma sợi hay 
mô mềm, sarcoma sụn xương, sarcoma cơ là u ác 
thường gặp được phẫu thuật(6). 
U lành chiếm gần ½ UTNNP, tỷ lệ thay thay 
đổi từ 21% - 67%(1). Tổn thương thường gặp nhất 
là osteochondroma, chondroma, loạn sản sợi. 
UTNNP có thể xuất phát từ bất kỳ phần nào 
của lồng ngực như: xương sườn, xương ức, 
xương bả vai, xương đòn. Vị trí thường gặp nhất 
là khung xương sườn. Tổn thương nguyên phát 
của xương ức, xương vai, xương đòn ít gặp, 
nhưng gần như là ác tính(6). U thành ngực 
nguyên phát cũng có thể xuất phát từ mô được 
xạ trị trước đó, mặc dù rất hiếm gặp. Nghiên cứu 
của Schwarz và Burt(7) trên 351 bệnh nhân, có 6% 
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 21 * Số 2 * 2017 Nghiên cứu Y học
Chuyên Đề Ngoại Khoa 243
bệnh nhân là u ác tính có xạ trị trước đó. 
Triệu chứng lâm sàng, chẩn đoán 
Tuổi trung bình của bệnh nhân UTNNP lành 
tính nhỏ hơn UTNNP ác tính, u lành khoảng 26 
tuổi, u ác khoảng 40 tuổi. Tỷ lệ nam: nữ là 2: 15(4). 
Trong nghiên cứu của chúng tôi, tuổi trung 
bình là 45,9 tuổi, bệnh nhân bệnh ác tính: tuổi 
trung bình 49,7 tuổi, u lành: 32,3 tuổi. Tỷ lệ nam 
nhiều hơn nữ (59,3 so 40,7%). 
U thành ngực thường lớn chậm, hầu hết 
không triệu chứng, phát triển liên tục, đau mơ 
hồ. Đầu tiên, bệnh nhân thường được điều trị 
triệu chứng đau cho bệnh lý cơ xương hay viêm 
thần kinh. Tỷ lệ khối u xuất hiện là 70%, 25% - 
50% ở bệnh nhân đau(4), u có thể lớn tồn tại một 
thời gian dài, kích thước u không ngăn trở bệnh 
nhân mặc quần áo nên bệnh nhân không đi 
khám bệnh. Đau thường gặp trong bệnh lý ác 
tính, nhưng cũng không loại trừ bệnh lành tính 
vì 1/3 bn u lành có triệu chứng đau(6, 4). 
Hình 1: UNPTN loét da 
Trong nghiên cứu chúng tôi, có đến 46,7% 
phát hiện u tình cờ. 53,1% bệnh nhân đau khi 
phát hiện u, trong đó bệnh nhân ác tính chiếm 
23,5%. Đặc biệt, cả ba bệnh nhân có biến chứng 
loét, chảy máu u đều là u ác tính. 
X quang phổi giúp chẩn đoán các bệnh lý tại 
xương lành tính. 
CT giúp xác định vị trí u, mức độ lan tỏa của 
u, đồng thời cũng giúp phát hiện u có xâm lấn 
mô mềm, màng phổi, trung thất, phổi hay 
không. Tuy nhiên, đế đánh giá chính xác sự xâm 
lấn của u vào đỉnh phổi, ống sống cũng như mô 
mềm, MRI có hiệu quả hơn. Khảo sát xương nếu 
nghi ngờ di căn. 
Trong nghiên cứu của chúng tôi, ngoài X 
quang phổi thẳng đã xác định được tính chất 
khối u, như u xương sườn, chúng tôi chụp CT 
scan thêm cho bệnh nhân khi cần khảo sát thêm. 
Chẩn đoán mô học 
Do UTNNP ác tính có phương hướng điều 
trị riêng so u lành nên khi có nghi ngờ u ác của 
thành ngực, chẩn đoán mô học cần được xác 
định trước khi quyết định điều trị. Ba phương 
pháp được lựa chọn: sinh thiết bằng kim, sinh 
thiết cắt trọn u và sinh thiết qua đường mổ. 
Sinh thiết bằng kim 
Ư điểm: tổn thương mô mềm nhỏ, dễ thực 
hiện, biến chứng thấp với bệnh nhân ngoại 
trú. Chỉ định tốt nhất ở bệnh nhân nghi ngờ di 
căn từ u ác tính trước đó. Phương pháp này 
không hiệu quả ở bệnh nhân u xương hay sụn 
nguyên phát, u này cần mẩu mô lớn hơn để 
chẩn đoán(6). Welker và cs(8) cho thấy tỷ lệ chẩn 
đoán dương tính 92,6% trong 161 bệnh nhân u 
nghi ngờ sarcoma. 
Sinh thiết cắt trọn u 
Phương pháp này được chỉ định ở u < 5cm. 
Thành ngực có thể được khâu lại mà không cần 
tái tạo. Nếu tổn thương lành tính hay được điều 
trị tốt nhất với hóa, xạ, không cần phẫu thuật 
thêm được đòi hỏi. Nếu tổn thương ác tính, bệnh 
nhân phải được mổ lại cắt tận gốc với bờ cắt 
rộng hơn, tái tạo thành ngực tương ứng. 
Sinh thiết u trước phẫu thuật lớn 
Chỉ định khi sinh thiết bằng kim không có 
kết quả chẩn đoán hay u > 5cm. Đường rạch da 
rất quan trọng để định hướng đường mổ sau 
này cũng như tái tạo thành ngực, giúp sự lành 
vết thương, tránh loét nhiễm trùng. Sinh thiết u 
trước có thể gây lầm lẫn chẩn đoán trong một số 
u như sarcoma sụn, có vùng mô học lành tính, 
trong khi vùng khác ác tính(4). Quyết định điều 
trị dựa trên một chẩn đoán mô học sai sẽ là một 
thảm họa. 
Một vài tác giả đề nghị sinh thiết qua đường 
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 21 * Số 2 * 2017
Chuyên Đề Ngoại Khoa 244
rạch tối thiểu trước phẫu thuật để có chẩn đoán 
và lên kế hoạch điều trị dựa kết quả mô học, hầu 
hết tổn thương lành tính không cần phẫu thuật 
thêm. Tuy nhiên trong các nghiên cứu khác, tỷ lệ 
u ác là 50-80% và cần phẫu thuật tận gốc lại(4). 
Trong nghiên cứu của chúng tôi, đa số tất cả 
bệnh nhân đều được phẫu thuật cắt trọn u để 
làm giài phẫu bệnh sau khi phẫu thuật, vừa chẩn 
đoán, vừa điều trị. Có hai bệnh nhân được sinh 
thiết lạnh trong lúc phẫu thuật, tuy nhiên kết 
quả không chính xác cần phải hội chẩn mổ lại 
sau phẫu thuật. Có 1 bệnh nhân u xương ức 
được sinh thiết trước khi tiến hành cuộc mổ, bị 
chảy máu khi phẫu thuật sinh thiết, kết quả u 
sụn lành tính, bệnh nhân được phẫu thật cắt 
rộng xương ức và tạo hình sau đó(6). 
Chỉ định phẫu thuật 
Đối với bệnh nhân UTNNP, chỉ định phẫu 
thuật được đặt ra đối với các u ác tính, phẫu 
thuật cắt rộng u là điều trị phẫu thuật triệt để, tốt 
nhất cho bệnh nhân, ngay cả trong những 
trường hợp không có khả năng phẫu thuật cắt 
rộng triệt để, phẫu thuật cắt giảm khối u có thể 
được chỉ định cho các UTNNP có đáp ứng với 
hóa trị, xạ trị và gây biến chứng tại chỗ như loét, 
nhiễm trùng hay đau không thể chịu được(6). 
Tuy nhiên, vấn đề đặt ra là chúng ta phẫu 
thuật để có kết quả giải phẫu bệnh lý trước, 
sau đó phẫu thuật cắt rộng khối u nếu là khối 
u ác tính hay chúng ta phẫu thuật cắt toàn bộ 
khối u, cắt rộng trong những trường hợp nghi 
ngờ ác tính. 
Hầu hết các phẫu thuật viên lồng ngực ưa 
thích cắt trọn u gởi giải phẫu bệnh, vừa chẩn 
đoán, vừa điều trị vì có thể loại bỏ toàn bộ u, 
mẫu mô đủ để chẩn đoán mô, điều trị bổ trợ sớm 
khi cần(4). 
Phẫu thuật cắt rộng lần hai được đặt ra khi 
khối UTNNP ác tính, có bờ cắt không đủ. 
Trong nghiên cứu của chúng tôi, đa số bệnh 
nhân không được làm giải phẫu bệnh lý trước, 
chỉ có hai bệnh nhân được sinh thiết lạnh nhưng 
không có kết quả chính xác, một bệnh nhân có 
FNA khối u phần mềm được phẫu thuật cắt rộng 
khối u, kết quả sau phẫu thuật phù hợp u mô 
bào sợi ác tính, một trường hợp u xương ức được 
mổ lấy u làm giải phẫu bệnh trước nhưng bị 
chảy máu, ngưng phẫu thuật nên kết quả giải 
phẫu bệnh không chính xác vì mẫu mô lấy được 
nhỏ, không đủ. 
Vì vậy, đối với các khối UTNNP có kích 
thước nhỏ (< 5cm) hay các khối u lớn có triệu 
chứng nghi ngờ ác tính: u loét chảy máu hay u 
lớn nhanh, u gây đau nhiều, nên tiến hành phẫu 
thuật một lần, cắt rộng u 2cm, vừa chẩn đoán u, 
vừa điều trị. 
Phẫu thuật cắt rộng u, tái tạo thành ngực 
Khi phẫu thuật cắt rộng khối u, mức độ cắt 
rộng khối u bao nhiêu vẫn còn là một vấn đề 
tranh cãi, hơn nữa liệu bờ cắt tổn thương đủ sẽ 
làm giảm tỷ lệ tái phát u và làm tăng thời gian 
sống lâu dài của bệnh nhân hay không? Tuy 
nhiên, mức độ cắt rộng u không được giới hạn 
do lo sợ để lại phần khuyết thành ngực lớn. Với 
kỹ thuật phẫu thuật được cải thiện, phần khuyết 
của mô mềm và xương với bất kỳ kích thước nào 
cũng được tái tạo với kết quả phẫu thuật rất tốt. 
Cắt rộng của u ác tính thành ngực nguyên 
phát rất quan trọng cho sự thành công. Tuy 
nhiên, mức độ phẫu thuật phải không được gây 
tổn hại bệnh nhân do không có khả năng đóng 
thành ngực(4). Bờ phẫu thuật của khối u thay đổi 
phụ thuộc vào loại u. Có nhiều ý kiến khác nhau 
về mức độ cắt rộng. Trong báo cáo của Mayo 
Clinic(5), hiệu quả của phẫu thuật cắt rộng khối u 
có tác động lên thời gian sống lâu dài của bệnh 
nhân u thành ngực ác tính nguyên phát, 56% 
bệnh nhân với bờ cắt ≥ 4cm không tái phát sau 5 
năm so 29% bệnh nhân với bờ cắt 2cm. Đối với 
nhiều phẫu thuật viên, bờ cắt 2 cm là đủ. Mặc dù 
giới hạn này là đủ đối với u di căn thành ngực, u 
lành, u ác nguyên phát mức độ thấp như 
chondrosarcoma, bờ cắt 2cm không đủ đối với u 
ác khác như sarcoma xương và u mô bào sợi ác 
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 21 * Số 2 * 2017 Nghiên cứu Y học
Chuyên Đề Ngoại Khoa 245
tính, có khả năng lan vào tủy xương hay theo 
trục dọc mô như màng xương hay màng phổi 
thành. Vì vậy, tất cả u ác nguyên phát được chẩn 
đoán lúc đầu nhờ sinh thiết cắt trọn phải cắt 
thêm để đảm bảo bờ cắt 4cm đến mô bình 
thường. U ác mức độ cao cũng cần được cắt toàn 
bộ xương đi kèm(6). 
Với u xương sườn, cắt bỏ xương sườn bệnh, 
cung sườn trước tương ứng nếu u nằm phía 
trước, một số xương sườn trên dưới u. 
U của xương ức, cắt toàn bộ xương liên quan 
và cung sụn sườn tương ứng hai bên. Bất kỳ cấu 
trúc nào dính u như phổi, tuyến ức, màng tim, cơ 
thành ngực cũng được cắt bỏ. 
Trong nghiên cứu của chúng tôi, trong 11 
bệnh nhân u ác tính, chúng tôi cố gắng cắt rộng 
khối u nhất có thể, có 3 trường hợp khối u quá 
lớn, chúng tôi cắt rộng khoảng 2cm, cố gắng bảo 
tồn da, mô mềm để tạo hình cho bệnh nhân. Có 
hai trường hợp được tái tạo thành ngực bằng 
mesh nhân tạo, cà hai trường hợp đều là u 
xương ức lớn, sau khi cắt bỏ u và xương ức đi 
kèm, chúng tôi phải tái tạo lại khung xương cho 
bệnh nhân bằng mesh nhân tạo, khâu cơ da che 
lại, không xoay vạt da, cơ. Kết quả, cả hai bệnh 
nhân đều lành tốt, xuất viện không suy hô hấp 
sau phẫu thuật. 
Kết quả phẫu thuật 
Trong một nghiên cứu hơn 60 bệnh nhân 
được cắt UTNNP tại Mayo Clinic: gần 2/3 là u ác, 
tuổi trung bình 43,5 tuổi, cắt xương ức toàn phần 
hay một phần trong 13 bệnh nhân, thời gian nằm 
viện trung bình 9 ngày, không có tử vong trong 1 
tháng đầu sau mổ, hai bệnh nhân có mở khí 
quản khi xuất viện, hầu hết bệnh nhân chỉ có 
thay đổi nhỏ trong chức năng phổi(5). Kết quả lâu 
dài phụ thuộc loại tế bào, mức độ cắt khối u. Ở 
Mayo Clinic, khi phẫu thuật cắt rộng với u 
sarcoma sụn, tỷ lệ sống 5 năm là 96% so với 70% 
đối với bệnh nhân cắt tại chỗ(5). Tỷ lệ sống 5 năm 
ở bệnh nhân sarcoma sụn hay 
rhabdomyosarcoma là 70%. Tuy nhiên, u tái phát 
có dấu hiệu mù mờ, chỉ 17% bệnh nhân tái phát 
khi theo dõi tiên lượng sống 5 năm. 
Trong nghiên cứu của chúng tôi, tất cả bệnh 
nhân đều ổn định xuất viện, có hai bệnh nhân: 
một bị chảy máu, một bị tràn khí màng phổi phải 
mổ lại, không có bệnh nhân tử vong. 
KẾT LUẬN 
U thành ngực nguyên phát là bệnh hiếm 
gặp, đa số u lành. Chẩn đoán dựa lâm sàng, sinh 
thiết hay phẫu thuật cắt trọn. Chỉ định phẫu 
thuật được đặt ra khi khối u được chẩn đoán ác 
tính, hay khối u có biến chứng loét chảy máu, 
đau nhiều, u tiến triển. Phẫu thuật cắt khối u có 
vai trò trong cả chẩn đoán và điều trị UTNNP. 
Phẫu thuật cắt rộng lấy u là phương pháp điều 
trị chính cho bệnh nhân. Đối với u ác tính, cần 
phẫu thuật cắt rộng khối u, với bờ cắt ít nhất 
2cm. Kết quả phẫu thuật an toàn, không tai biến 
trầm trọng. 
TÀI LIỆU THAM KHẢO 
1. Hsu PK, et al (2006). “Management of primary chest wall 
tumors: 14 years' clinical experience”. J Chin Med Assoc 6;69:pp 
377–382. 
2. Incarbone M, Pastorino U (2001). “Surgical treatment of chest 
wall tumors”. World J Surg ;25: p 218. 
3. Mansour KA, et al (2002). “Chest wall resections and 
reconstruction: a 25-year experience”. Ann Thorac Surg ;73: pp 
1720–1726. 
4. Pairolero PC et al (2008). “Neoplasms of the chest wall”. 
Pearson’Thoracic and esophageal surgery, pp1291-1302 
5. Pairolero PC, Arnold PG (1985). “Chest wall tumors: 
experience with 100 consecutive patients”. J Thorac Cardiovasc 
Surg; 90: p 367. 
6. Park BJ, Flores RM (2009).” Chest Wall Tumors”. General 
Thoracic Surgery, pp 669- 677. 
7. Schwarz RE, Burt M (1996). “Radiation-associated malignant 
tumors of the chest wall”. Ann Surg Oncol; 3: p 387. 
8. Welker JA, et al (2000). “The percutaneous needle biopsy is 
safe and recommended in the diagnosis of musculoskeletal 
masses”. Cancer; 89: p 2677. 
Ngày nhận bài báo: 24/11/2016 
Ngày phản biện nhận xét bài báo: 16/12/2016 
Ngày bài báo được đăng: 01/03/2017