Chất lượng cuộc sống và các yếu tố liên quan ở bệnh nhân đái tháo đường típ 2 điều trị ngoại trú tại Bệnh viện Đa khoa Đồng Nai năm 2018

Tài liệu Chất lượng cuộc sống và các yếu tố liên quan ở bệnh nhân đái tháo đường típ 2 điều trị ngoại trú tại Bệnh viện Đa khoa Đồng Nai năm 2018: Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 23 * Số 2 * 2019 Nghiên cứu Y học Chuyên Đề Y Tế Công Cộng 31 CHẤT LƯỢNG CUỘC SỐNG VÀ CÁC YẾU TỐ LIÊN QUAN Ở BỆNH NHÂN ĐÁI THÁO ĐƯỜNG TÍP 2 ĐIỀU TRỊ NGOẠI TRÚ TẠI BỆNH VIỆN ĐA KHOA ĐỒNG NAI NĂM 2018 Hoàng Thị Tuyết Nhi*, Tô Gia Kiên* TÓM TẮT Đặt vấn đề: Chất lượng cuộc sống rất quan trọng trong nghiên cứu về đái tháo đường (ĐTĐ). CLCS của bệnh nhân ĐTĐ giảm so với những người không mắc ĐTĐ ở cùng độ tuổi và giảm nhiều hơn khi bệnh tiến triển và xuất hiện biến chứng. Tỷ lệ ĐTĐ chưa được chẩn đoán trong cộng đồng là 63,6%, khi bệnh nhân được phát hiện thì đã có nhiều biến chứng nguy hiểm, ảnh hưởng nặng nề đến chất lượng cuộc sống của bệnh nhân. Nghiên cứu này xác định điểm chất lượng cuộc sống trung bình và các yếu tố liên quan ở bệnh nhân đái tháo đường típ 2 đang được điều trị ngoại trú. Phương pháp: Nghiên cứu cắt ngang mô tả được thực hiện trên 246 bệnh nhân đái tháo đường típ 2 điều trị ngoại trú tại khoa nội tiết, Bệnh ...

pdf7 trang | Chia sẻ: Đình Chiến | Ngày: 07/07/2023 | Lượt xem: 141 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem nội dung tài liệu Chất lượng cuộc sống và các yếu tố liên quan ở bệnh nhân đái tháo đường típ 2 điều trị ngoại trú tại Bệnh viện Đa khoa Đồng Nai năm 2018, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 23 * Số 2 * 2019 Nghiên cứu Y học Chuyên Đề Y Tế Công Cộng 31 CHẤT LƯỢNG CUỘC SỐNG VÀ CÁC YẾU TỐ LIÊN QUAN Ở BỆNH NHÂN ĐÁI THÁO ĐƯỜNG TÍP 2 ĐIỀU TRỊ NGOẠI TRÚ TẠI BỆNH VIỆN ĐA KHOA ĐỒNG NAI NĂM 2018 Hoàng Thị Tuyết Nhi*, Tô Gia Kiên* TÓM TẮT Đặt vấn đề: Chất lượng cuộc sống rất quan trọng trong nghiên cứu về đái tháo đường (ĐTĐ). CLCS của bệnh nhân ĐTĐ giảm so với những người không mắc ĐTĐ ở cùng độ tuổi và giảm nhiều hơn khi bệnh tiến triển và xuất hiện biến chứng. Tỷ lệ ĐTĐ chưa được chẩn đoán trong cộng đồng là 63,6%, khi bệnh nhân được phát hiện thì đã có nhiều biến chứng nguy hiểm, ảnh hưởng nặng nề đến chất lượng cuộc sống của bệnh nhân. Nghiên cứu này xác định điểm chất lượng cuộc sống trung bình và các yếu tố liên quan ở bệnh nhân đái tháo đường típ 2 đang được điều trị ngoại trú. Phương pháp: Nghiên cứu cắt ngang mô tả được thực hiện trên 246 bệnh nhân đái tháo đường típ 2 điều trị ngoại trú tại khoa nội tiết, Bệnh viện đa khoa Đồng Nai. Đối tượng nghiên cứu được phỏng vấn trực tiếp bằng bộ câu hỏi soạn sẵn sau khi đồng ý tham gia nghiên cứu. Các thông tin được thu thập là tuổi, giới tính, trình độ học vấn, tình trạng hôn nhân, nghề nghiệp, cân nặng, chiều cao, vòng bụng, năm phát hiện bệnh, tiền sử gia đình, đường huyết lúc đói, bệnh kèm theo, điều trị bằng thuốc hoặc insulin. Chất lượng cuộc sống được đánh giá bằng WHO-QOL BREF sau đó quy ra thang điểm 20, hoạt động thể lực được đánh giá bằng thang đo IPAQ. Hồi quy tuyến tính đa biến được dùng để đánh giá các yếu tố liên quan. Kết quả: Điểm chất lượng cuộc sống trung bình là 12,50 ± 2,02. Tuổi cao làm giảm CLCS (hệ số -0,06, p<0,05), nam có điểm CLCS cao hơn nữ là 0,41 điểm (p<0,05), thời gian bệnh càng lâu (hệ số -0,07, p<0,05) và đường huyết càng cao (hệ số -0,35, p<0,001) càng làm giảm CLCS. Nhóm nghề lao động chân tay có CLCS thấp nhất (hệ số -1,06, p<0,05), hoạt động thể nặng và vừa làm tăng CLCS (p<0,001) Kết luận: Tuổi cao, thời gian mắc bệnh, đường huyết, hoạt động thể lực liên quan đến CLCS Từ khóa: chất lượng cuộc sống, đái tháo đường típ 2, WHOQOL- BREF, IPAQ, Đồng Nai ABSTRACT QUALITY OF LIFE AND ASSOCIATED FACTORS TYPE 2 DIABETES MELLITUS OUTPATIENTS AT DONG NAI HOSPITAL IN 2018 Hoang Thi Tuyet Nhi, To Gia Kien * Ho Chi Minh City Journal of Medicine * Supplement of Vol. 23 - No 2- 2019: 31-37 Background: Quality of life is so important in diabetes researches. Quality of life is substantially lower among patient with diabetes than those without diabetes and even worse when complications appear. The prevalence of diabetes undiagnosed in the community was 63.6%, when disease was detected, it had progressed complications, worse affect to quality of life. This study determined quality of life mean score and associated factors in type 2 diabetes mellitus outpatient. Method: A cross-sectional study was conducted on 246 outpatients - at department of endocrinology, Dong Nai hospital. Participants was interviewed face to face by a structured questionnaire after they agreed to participate in. Data collected including age, gender, educational level, marital status, occupation, weight, height, *Khoa Y Tế Công Cộng, Đại học Y Dược TP. Hồ Chí Minh Tác giả liên lạc: CN. Hoàng Thị Tuyết Nhi ĐT: 039 891 0102 Email: tuyetnhi2907@gmail.com Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 23 * Số 2 * 2019 Chuyên Đề Y Tế Công Cộng 32 waist circumference, year of onset, family history, fasting blood glucose, comorbidities and types of treatment (oral medication or insulin injection). Quality of life was measured using WHOQOL-BREF, then converted into 20 score transformed scale, Physical activity was measured using IPAQ short form. Multiple linear regression was applied to assess associated factors. Results: Quality of life mean score was 12.50 ± 2.02. Older age negatively associated with quality of life mean score (Coef -0.06, p<-0.05), the quality of life mean score was higher in male compared to female (0.41, p<0.05). Patients had longer years of diseases and higher level of fasting blood glucose had lower quality of life mean score. Patients who were manual workers had lowest quality of life mean score (p<0.05). Patients who had vigorous and moderate physical activities had better quality of life mean score (p<0.001). Conclusion: Age, years of diseases, fasting blood glucose level and physical activity associate with quality of life mean score. Keywords: quality of life, diabetes mellitus type 2, outpatient treatment, WHOQOL –BREF, IPAQ ĐẶT VẤN ĐỀ Đái tháo đường (ĐTĐ) là một trong 10 nguyên nhân gây tử vong sớm hàng đầu với DALYs tăng 31% trên 100.000 dân từ 2000 đến 2015(27). Năm 2016, Tổ chức Sức khỏe Thế giới (WHO) ước tính ĐTĐ gây ra 1,6 triệu ca tử vong(28,29). Số người mắc ĐTĐ đã tăng từ 108 triệu người năm 1980 lên 422 triệu người năm 2014(28). Tỉ lệ bệnh ĐTĐ gia tăng nhanh hơn ở các nước có thu nhập trung bình và thấp. Tác động tâm lý xã hội của ĐTĐ là một trong năm yếu tố dự báo tử vong mạnh nhất ở bệnh nhân ĐTĐ, bên cạnh các chỉ số lâm sàng, chất lượng sống là số đo có giá trị đánh giá kết quả điều trị và tình trạng sức khỏe trên quan điểm của người bệnh(3). CLCS được công nhận là một lĩnh vực quan trọng của kiến thức khoa học, vì khái niệm CLCS có liên quan đến sức khỏe, sự hài lòng trong các lĩnh vực sức khỏe thể chất, tâm lý, kinh tế. Việc sử dụng các công cụ đánh giá CLCS cho phép đánh giá khách quan và rõ ràng hơn về tác động toàn cầu của các bệnh mãn tính nói chung và bệnh ĐTĐ nói riêng(11). Trên thực tế, CLCS của bệnh nhân ĐTĐ giảm so với những người không mắc ĐTĐ ở cùng độ tuổi(8) và giảm nhiều hơn khi bệnh tiến triển và xuất hiện biến chứng(25). Nghiên cứu tại Nigeria năm 2009 cho kết luận điểm CLCS trung bình là 13,5 ± 3,2(15). Nghiên cứu khác tại Ấn Độ năm 2014 cho biết CLCS trung bình là 9,95 ± 2,04 điểm(7). Nghiên cứu tại Nepal năm 2015 cho thấy điểm CLCS trung bình là 10,8 ± 1,5 điểm(17). Tại Việt Nam, theo kết quả của Bộ Y Tế công bố, khi so sánh dữ liệu thống kê năm 2002 và năm 2012, tỉ lệ mắc ĐTĐ ở nước ta tăng tới 211%, trong đó có khoảng 60% số người mắc ĐTĐ trong cộng đồng chưa được chẩn đoán(2). Trong 1 NC ngẫu nhiên từ 6 vùng sinh thái trên cả nước năm 1999, ước tính khoảng 0,7 triệu người trưởng thành từ 30 đến 64 tuổi, (2,7%) mắc ĐTĐ típ 2, trong đó có khoảng 64,5% trường hợp mới phát hiện, và sau 10 năm tỉ lệ mắc ĐTĐ đã tăng gấp đôi là 5,4 %. Một cuộc khảo sát khác năm 2012 cho thấy tỉ lệ mắc ĐTĐ không được chẩn đoán là 63,6%(4). Sự gia tăng tỷ lệ mắc ĐTĐ ở VN, đặc biệt là bệnh ĐTĐ không được chẩn đoán, cho thấy hiệu quả chương trình sàng lọc bệnh ĐTĐ trong cộng đồng chưa cao, làm tăng tỷ lệ hiện mắc, tăng gánh nặng kinh tế do mất năng suất lao động và tốn nhiều chí phí điều trị bệnh(4,24). Đánh giá CLCS cho bệnh nhân ĐTĐ típ 2 sẽ đánh giá được tác động của bệnh đến sức khỏe thể chất và tâm lý của bệnh nhân, đo lường được gánh nặng bệnh tật của ĐTĐ mang lại cho bệnh nhân(23). Bệnh viện Đa khoa Đồng Nai là cơ sở chăm sóc sức khỏe hàng đầu của tỉnh Đồng Nai, thống kê cho thấy số bệnh nhân ĐTĐ được phát hiện và điều trị tại đây ngày càng tăng, mỗi ngày tiếp nhận 100-150 bệnh nhân đến khám và điều trị ĐTĐ(14). Mục tiêu của nghiên cứu này là xác định điểm CLCS trung bình và các yếu tố liên quan tác động đến CLCS của bệnh nhân ĐTĐ típ 2 Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 23 * Số 2 * 2019 Nghiên cứu Y học Chuyên Đề Y Tế Công Cộng 33 điều trị ngoại trú tại Bệnh viện Đa khoa Đồng Nai năm 2018. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU Thiết kế và đối tượng nghiên cứu Nghiên cứu cắt ngang đánh giá chất lượng cuộc sống của 246 bệnh nhân ĐTĐ típ 2 điều trị ngoại trú tại phòng khám nội tiết Bệnh viện đa khoa tỉnh Đồng Nai. Chúng tôi chưa tìm thấy nghiên cứu nào tại Việt Nam sử dụng bộ câu hỏi WHOQOL-BREF để đo lường CLCS của bệnh nhân ĐTĐ típ 2, vì thế chúng tôi dựa vào nghiên cứu của tác giả BA Kolawole và cộng sự(15). Nghiên cứu của BA Kolawole sử dụng bộ công cụ WHOQOL-BREF để đánh giá CLCS trên bệnh nhân ĐTĐ típ 2 với thang điểm 20. Chúng tôi đã tính toán và chọn độ lệch chuẩn là 3,2 vì đây là độ lệch chuẩn của điểm CLCS trung bình và cho cỡ mẫu lớn nhất. Sử dụng công thức tính cỡ mẫu ước lượng trung bình, vậy cỡ mẫu tối thiểu của nghiên cứu là 246 đối tượng. Tiêu chí chọn mẫu là người được chẩn đoán ĐTĐ típ 2 ít nhất 6 tháng, đang điều trị ngoại trú tại phòng khám nội tiết và đồng ý tham gia nghiên cứu. Tiêu chí loại ra bệnh nhân bị hạn chế về giao tiếp, không có khả năng trả lời câu hỏi của người phỏng vấn và bệnh nhân không trả lời được ít nhất 80% bộ câu hỏi. Tất cả đối tượng nghiên cứu được chọn từ tháng 4-5/2018. Nghiên cứu viên xác định đối tượng nghiên cứu theo tiêu chí chọn vào, loại ra bằng cách tiếp cận trực tiếp bệnh nhân. Bệnh nhân thỏa tiêu chí chọn mẫu được giải thích về nghiên cứu và nếu đồng ý tham gia thì tiến hành phỏng vấn trực tiếp. Phương pháp và công cụ thu thập số liệu Bệnh nhân được phỏng vấn trực tiếp bằng bộ câu hỏi soạn sẵn bao gồm 4 phần: thông tin nền, thông tin liên quan đến bệnh, bộ câu hỏi đánh giá chất lượng cuộc sống (WHOQOL- BREF)(26), bộ câu hỏi về thời gian hoạt động thể lực (IPAQ)(9). Số liệu về đặc điểm dân số xã hội như tuổi, giới tính, năm sinh, trình độ học vấn, tình trạng hôn nhân, nghề nghiệp, cân nặng (kg), chiều cao (cm), vòng bụng (cm). Các câu hỏi về tình trạng về bệnh như năm phát hiện bệnh, tiền sử gia đình, đường huyết lúc đói, bệnh kèm theo, điều trị bằng thuốc hoặc insulin. Bộ câu hỏi đánh giá CLCS của WHOQOL-BREF gồm 26 câu, đánh giá 4 lĩnh vực (sức khỏe thể chất, tâm lý, môi trường, quan hệ xã hội)(26). Bộ câu hỏi đánh giá hoạt động thể lực IPAQ bao gồm 7 câu đo lường thời gian hoạt động thể lực nặng, vừa phải, đi bộ và thời gian nghỉ ngơi(9). Phân tích số liệu Phép kiểm T được dùng để xác định mối liên quan giữa điểm CLCS với giới tính, tình trạng hôn nhân, trình độ học vấn, béo bụng, tiền sử gia đình, điều trị thuốc/insulin, bệnh đi kèm, các bệnh kèm theo. Phép kiểm Anova được dùng để xác định mối liên quan giữa điểm CLCS với nghề nghiệp, nhóm BMI. Phép kiểm Kruskall- Wallis được dùng để xác định mối liên quan giữa điểm CLCS với mức độ hoạt động thể lực (phương sai khác nhau). Phương pháp hồi quy tuyến tính đơn biến được dùng để xác định mối liên quan giữa điểm CLCS với tuổi, thời gian mắc bệnh, đường huyết đói. Phép kiểm hồi quy tuyến tính đa biến được dùng để xác định mối liên quan giữa điểm CLCS với các biến số có p <0,2. Số liệu được nhập liệu bằng Epidata 3.1 và xử lý phân tích bằng phần mềm Stata 13.1. Mức p<0,05 được sử dụng nhằm xác định ý nghĩa thống kê. Đạo đức nghiên cứu Đề cương nghiên cứu đã được chấp thuận về mặt y đức trong nghiên cứu từ Hội đồng Đạo đức trong nghiên cứu y sinh học số 143/ĐHYD- HĐĐĐ. KẾT QUẢ Có tổng cộng 290 bệnh nhân thỏa tiêu chí chọn vào, có 265 bệnh nhân đồng ý tham gia nghiên cứu, trong đó có 19 bệnh nhân không trả lời đủ 80% bộ câu hỏi. Cỡ mẫu 246, tuổi trung bình 61,7 ± 9,5. Đa số là nữ (61,4%), học vấn từ cấp 2 trở lên Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 23 * Số 2 * 2019 Chuyên Đề Y Tế Công Cộng 34 là 73,2%, đã kết hôn/sống chung là 69,1%, không có việc làm là 63,0%, thời gian mắc bệnh có trung vị là 9 năm, đường huyết đói có trung vị là 7,64 mmol/L, điểm CLCS trung bình là 12,50 ± 2,02. Bảng 1. Mối liên quan giữa điểm CLCS với các đặc tính nền (n=246) Đặc tính Tần số TB ± ĐLC TV (KTV) p Tuổi* 246 -0,08 -0,1; -0,05 <0,001 Giới tính Nam 95 12,84 ± 1,83 0,04 Nữ 151 12,30 ± 2,10 Trình độ học vấn < Cấp 2 66 11,55 ± 1,81 <0,001 ≥ Cấp 2 180 12,85 ± 1,98 Tình trạng hôn nhân Độc thân 76 11,59 ± 1,92 <0,001 Đã kết hôn/sống chung 170 12,91 ± 1,93 Nghề nghiệp Không đi làm 155 12,24 (10,53 – 13,91) LĐ chân tay 69 12,95 (11,01 – 13,63) <0,001 LĐ trí óc 22 14, 72 (13,72 – 15,45) TB: trung bình, ĐLC: độ lệch chuẩn, TV: trung vị, KTV: Khoảng tứ vị Theo kết quả Bảng 1, phép kiểm hồi quy tuyến tính đơn biến cho thấy có mối tương quan nghịch giữa điểm CLCS với tuổi, bệnh nhân tăng 1 tuổi thì điểm CLCS giảm 0,08 điểm, sự khác biệt có ý nghĩa thống kê (p<0,05). Phép kiểm T cho thấy điểm CLCS của nam cao hơn nữ là 0,54 điểm (p=0,04), trình độ trên cấp 2 có CLCS cao hơn (p<0,001), những người đã kết hôn/sống chung có CLCS cao hơn nhóm độc thân (p<0,001), nghề nghiệp lao động trí óc có CLCS cao nhất (p<0,001). Theo kết quả Bảng 2, phép kiểm hồi quy tuyến tính đơn biến cho thấy có mối tương quan nghịch giữa thời gian bệnh và CLCS, thời gian mắc bệnh tăng 1 năm thì điểm CLCS giảm 0,11 điểm, sự khác biệt có ý nghĩa thống kê (p<0,001), có mối tương quan nghịch giữa đường huyết đói với CLCS, đường huyết đói tăng 1 đơn vị (mmol/L) điểm CLCS giảm 0,38 điểm, sự khác biệt có ý nghĩa thống kê (p<0,001). Không điều trị bằng insulin có CLCS cao hơn những người có điều trị bằng insulin là 1,06 điểm (p<0,001), CLCS ở người không mắc bệnh đi kèm cao hơn những người có mắc bệnh đi kèm là 1,54 điểm (p<0,001), điểm CLCS ở người hoạt động thể lực vừa và nặng cao hơn người hoạt động nhẹ lần lượt là 2,76 và 2,18 điểm (p<0,001). Các biến số như tiền sử gia đình, BMI, béo bụng, điều trị với thuốc đều không có mối liên quan với CLCS. Bảng 2. Mối liên quan giữa điểm CLCS với các yếu tố liên quan đến bệnh (n=246) Đặc tính Tần số TB ± ĐLC TV (KTV) p Thời gian bệnh 246 -0,11 -0,16; -0,07 <0,001 Đường huyết đói 246 -0,38 -0,49; -0,28 <0,001 Điều trị insulin Có 129 12,00 ± 2,05 <0,001 Không 117 13,06 ± 1,83 Bệnh đi kèm Có 209 12,27 ± 2,02 <0,001 Không 37 13,81 ± 1,45 Mức độ HĐTL Nhẹ 101 11,01 (9,82 – 12,42) Vừa 103 13,77 (12,50 – 14,90) <0,001 Nặng 42 13,19 (12,36 – 13,79) TB: trung bình, ĐLC: độ lệch chuẩn, TV: trung vị, KTV: Khoảng tứ vị Bảng 3. Mô hình hồi quy tuyến tính đa biến giữa điểm CLCS với các yếu tố liên quan (n=246) Đặc tính Hệ số KTC 95% p Tuổi -0,06 -0,11: -0,003 <0,05 Giới tính (nam) 0,41 0,05; 0,82 <0,05 Nghề nghiệp LĐ chân tay -1,06 -1,69; -0,42 <0,05 LĐ trí óc 1,02 0,16; 1,89 <0,05 Thời gian bệnh -0,07 -0,12; -0,01 <0,05 Đường huyết đói -0,26 -0,35; -0,16 <0,001 Mức độ HĐTL Vừa phải 1,59 1,11; 2,08 <0,001 Nặng 1,91 1,15; 2,67 <0,001 KTC 95%: Khoảng tin cậy 95% Mô hình hồi quy tuyến tính đa biến Tuổi, giới tính, nghề nghiệp, thời gian bệnh, Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 23 * Số 2 * 2019 Nghiên cứu Y học Chuyên Đề Y Tế Công Cộng 35 đường huyết đói, mức độ HĐTL có liên quan đến CLCS. Trong đó tuổi, thời gian bệnh, đường huyết đói có mối tương quan nghịch với điểm CLCS. Bệnh nhân tăng 1 tuổi, điểm CLCS giảm 0,06 điểm, thời gian bệnh tăng 1 năm, điểm CLCS giảm 0,07 điểm, đường huyết đói tăng 1 đơn vị (mmol/L), điểm CLCS giảm 0,26 điểm, sự khác biệt có ý nghĩa thống kê (p<0,05), giới tính nam có điểm CLCS cao hơn nữ là 0,41 điểm (p<0,05). So với nhóm không đi làm, nhóm nghề lao động chân tay có điểm CLCS thấp hơn 1,06 điểm, nhóm lao động trí óc lại cao hơn 1,02 điểm (p<0,05). So với người hoạt động thể lực nhẹ, hoạt động vừa phải và hoạt động nặng có điểm CLCS cao hơn là 1,59 và 1,91 điểm (p<0,001). BÀN LUẬN Nghiên cứu này đánh giá chất lượng cuộc sống của người mắc bệnh ĐTĐ típ 2 tại bệnh viện tuyến tỉnh sử dụng bộ công cụ WHOQOL- BREF. Kết quả nghiên cứu cho thấy điểm CLCS trung bình là 12,5 ± 2,02 điểm thấp hơn nghiên cứu tại Nigeria của châu Phi là 13,5 điểm(15). Cả 2 nghiên cứu đều sử dụng chung bộ công cụ WHOQOL-BREF thang điểm 20, hoặc nghiên cứu tại Nepal với thang điểm 100 có điểm CLCS trung bình là 54,01 điểm(17), nghiên cứu của Ấn Độ là 49,74 điểm(7). Sự chênh lệch này có thể do nhiều yếu tố liên quan đến kinh tế xã hội và hệ thống chăm sóc sức khỏe làm ảnh hưởng đến CLCS của bệnh nhân ĐTĐ, do đó để so sánh kết quả cần phải xem xét theo nhiều phương diện. Hơn nữa, bệnh ĐTĐ có một số triệu chứng ban đầu không ảnh hưởng nhiều đến sức khỏe của bệnh nhân, cho nên nhiều người không tìm đến sự chăm sóc y tế cho đến khi có thêm biến chứng khác xuất hiện, đặc biệt ở các nước đang phát triển như Việt Nam. Sự chậm trễ trong chẩn đoán và điều trị làm tăng các biến chứng và giảm CLCS của bệnh nhân(10). Một trong số những điểm khác biệt có thể do sự khác nhau về độ tuổi nghiên cứu, thời gian mắc bệnh trung bình, nghề nghiệp, sự chăm sóc y tế và tự chăm sóc. Kết quả nghiên cứu này cho thấy tuổi tăng làm CLCS của bệnh nhân ĐTĐ thấp hơn, điều này phù hợp với báo cáo của các nghiên cứu trước(10,20). Có thể giả thiết rằng bệnh nhân lớn tuổi có nhiều hạn chế trong việc chăm sóc bản thân, nhạy cảm hơn với bệnh và nguy cơ cao mắc nhiều biến chứng. Ngoài ra các nghiên cứu trước cũng chứng minh được người cao tuổi dễ mắc trầm cảm và làm giảm CLCS(13). Một mối liên quan khác với CLCS là giới tính. Trong nghiên cứu này, giới tính nam có CLCS cao hơn nữ. Nữ có CLCS thấp hơn nam do có sự khác biệt về sinh học và tâm lý, như sự mãn kinh và sự nhạy cảm với bệnh ĐTĐ(1). Ngoài ra do sự khác biệt về hành vi lối sống giữa nam và nữ vì phụ nữ thường dành nhiều thời gian hơn ở nhà dẫn đến ít hoạt động thể chất, hoặc phụ nữ có nhiều khả năng lo âu và trầm cảm hơn, trong khi nam giới được báo cáo là có mức độ hài lòng về sức khỏe cao hơn và hoạt động thể chất nhiều hơn so với phụ nữ nên CLCS cao hơn(10,19). Nghiên cứu này cho biết thêm mối liên quan giữa nghề nghiệp và CLCS, những người lao động chân tay có CLCS thấp hơn các nhóm lao động trí óc và không đi làm. Kết quả này đồng nhất với báo cáo ở nghiên cứu trước. Điểm CLCS thấp hơn với những người đang làm công việc nặng nhọc, gây ra sự khó chịu và đau đớn về sức khỏe thể chất. Thiếu thu nhập dẫn đến lo âu, trầm cảm và chăm sóc y tế không đầy đủ. Ngoài ra những người lao động chân tay thường có trình độ học vấn thấp, việc thiếu kiến thức làm cho bệnh nhân hạn chế tiếp cận với các thông tin y tế, các dịch vụ chăm sóc sức khỏe(16). Thời gian mắc bệnh cũng được báo cáo trong nghiên cứu này là yếu tố tương quan nghịch với CLCS, thời gian mắc bệnh càng lâu, càng làm giảm CLCS, kết quả này phù hợp với các báo cáo trước. Thời gian mắc bệnh càng dài càng khó đánh giá chính xác CLCS(18). Nguyên nhân có thể do sự kiếm soát đường huyết có xu hướng kém hơn và thời gian dài hơn do sự suy giảm chức năng tế bào beta và giảm thái độ tích cực, tuân thủ điều trị của bệnh nhân(21). Hoạt động thể chất và tập thể dục thường xuyên là những yếu tố quan trọng để trì hoãn sự khởi phát, điều trị bệnh và để cải Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 23 * Số 2 * 2019 Chuyên Đề Y Tế Công Cộng 36 thiện CLCS, tuổi thọ cho bệnh nhân ĐTĐ típ 2(5,6). Một nghiên cứu trước đã cho biết bệnh nhân ĐTĐ có hoạt động thể lực thấp có tuổi thọ ngắn hơn khoảng 0,1 đến 0,5 năm so với bệnh nhân có mức độ hoạt động trung bình đến cao(12). Trong nghiên cứu này cũng báo cáo kết quả tương tự rằng hoạt động thể chất vừa và cao có CLCS cao hơn những người hoạt động cường độ thấp, có nhiều khả năng duy trì CLCS tổng quát và thể chất của họ theo thời gian(22). Nhận thức về hoạt động thể chất và điều chỉnh lối sống nên được nâng cao ở những bệnh nhân ĐTĐ trong giai đoạn đầu của bệnh ĐTĐ và những người có nguy cơ cao mắc ĐTĐ(5). Nghiên cứu này là một trong số ít những nghiên cứu trong nước sử dụng bộ câu hỏi WHOQOL-BREF để đánh giá CLCS của bệnh nhân ĐTĐ típ 2. Bộ câu hỏi được sử dụng ở nhiều quốc gia trên thế giới vì có cấu trúc đơn giản, ngắn gọn và có tính tin cậy cao. Ngoài ra trong nghiên cứu này, chúng tôi còn sử dụng bộ câu hỏi IPAQ để đánh giá mức độ hoạt động thể lực của bệnh nhân tìm ra mối liên quan với CLCS và có kết luận hoàn toàn phù hợp với các nghiên cứu trước. Mặt khác, sử dụng phương pháp phỏng vấn trực tiếp trong nghiên cứu này sẽ có những sai lệch về thông tin trong quá trình thu thập. Ngoài ra chưa phân tích được mối liên quan giữa CLCS với các biến chứng của bệnh ĐTĐ vì đây là biến số gây nhiễu. Tuổi cao, thời gian mắc bệnh, đường huyết, hoạt động thể lực liên quan đến CLCS. TÀI LIỆU THAM KHẢO 1. Azra M, Seyed MS, Nayyereh A, Akbar A (2017). “Clinico- epidemiological factors of health related quality of life among people with type 2 diabetes”. World journal of diabetes, 8 (8): 407- 413. 2. Bộ Y Tế (2013). “Tỷ lệ bệnh đái tháo đường ở Việt Nam tăng 211% sau 10 năm” truy cập ngày 13/1/2019. 3. Bujang MA, Ismail M, Hatta NKBM, Othman SH, Baharum N, Lazim SSM (2017). “Validation of the Malay version of Diabetes Quality of Life (DQOL) Questionnaire for Adult Population with Type 2 Diabetes Mellitus”. Malays J Med Sci, 24 (4): 86-96. 4. Chung TN, Ngoc MP, Andy HL, Colin WB (2015). “Prevalence of and Risk Factors for Type 2 Diabetes Mellitus in Vietnam: A Systematic Review”. Asia Pacific Journal of Public Health, 27(6): pp.588-600. 5. Colberg SR, Sigal RJ, Fernhall B, Regensteiner JG, Blissmer BJ, Rubin RR, Chasan-Taber L, Albright AL, Braun B (2010). “Exercise and type 2 diabetes: the American College of Sports Medicine and the American Diabetes Association: joint position statement executive summary”. Diabetes Care, 33 (12): 2692-6. 6. Dae-Young K, Byoung-Do S, Dong-Je K (2014). “Effect of Walking Exercise on Changes in Cardiorespiratory Fitness, Metabolic Syndrome Markers, and High-molecular-weight Adiponectin in Obese Middle-aged Women”. J Phys Ther Sci, 26 (11): 1723-7. 7. Ganesh KS, Anindo M, Pavithra G (2014). “Quality of Life (QOL) and Its Associated Factors Using WHOQOL-BREF Among Elderly in Urban Puducherry, India”. Journal of Clinical and Diagnostic Research, 8 (1): 54-57. 8. Holmes J, McGill S, Kind P, Bottomley J, Gillam S, Murphy M (2000). “Health-related quality of life in type 2 diabetes (TARDIS-2)”. Value Health, 3 Suppl 1: 47-51. 9. International Physical Activity Questionaires (IPAQ) (2005). “Guidelines for Data Processing and Analysis of the International Physical Activity Questionaires”. 10. Javanbakht M, Abolhasani F, Mashayekhi A, Baradaran HR, Jahangiri noudeh Y (2012). “Health related quality of life in patients with type 2 diabetes mellitus in Iran: a national survey”. PLoS One, 7 (8): e44526. 11. Jorgetto JV, Franco LJ (2018). “The impact of diabetes mellitus on quality of life - differences between genders”. J Diabetes Metab Disord, 17 (1): 11-17. 12. Kaplan RM, Hartwell SL, Wilson DK, Wallace JP (1987). “Effects of diet and exercise interventions on control and quality of life in non-insulin-dependent diabetes mellitus”. J Gen Intern Med, 2 (4): 220-8. 13. Kim H, Kim K (2017). “Health-Related Quality-of-Life and Diabetes Self-Care Activity in Elderly Patients with Diabetes in Korea”. J Community Health, 42 (5): 998-1007. 14. Kim Tuấn (2006). “Bệnh viện đa khoa Đồng Nai tổ chức đo đường huyết miễn phí và tập huấn về bệnh tiểu đường”. khoa-dong-Nai-to-chuc-do-duong-huyet-mien-phi-va-tap- huan-ve-benh-tieu-duong- 2020356/?fbclid=IwAR0hvtgqHArJjrv4TX1ceETjr3oDSlhteIQpJ AyJ4-Jopihq8Be4bJ0nsck: truy cập ngày 13/1/2019. 15. Kolawole BA, Mosaku SK, Ikem RT (2009). “A comparison of two measures of quality of life of Nigerian clinic patients with type 2 diabetes mellitus”. Afr Health Sci, 9 (3): 161-6. 16. Lu Y, Wang N, Chen Y, Nie X, Li Q, Han B (2017). “Health- related quality of life in type-2 diabetes patients: a cross- sectional study in East China”. BMC Endocr Disord, 17 (1): 38. 17. Mishra SR, Sharma A, Bhandari PM, Bhochhibhoya S, Thapa K (2015). “Depression and Health-Related Quality of Life among Patients with Type 2 Diabetes Mellitus: A Cross-Sectional Study in Nepal”. PLoS One, 10 (11): e0141385. 18. Orly T, Nitzan SDP, David D, Anthony DH (2018). “Comparing assessment of diabetes-related quality of life between patients and their physicians”. Health and quality of life outcomes, 16 (1): 214-214. 19. Peyrot M, Rubin RR (1999). “Persistence of depressive symptoms in diabetic adults”. Diabetes Care, 22 (3): 448-52. 20. Quah JH, Luo N, Ng WY, How CH, Tay EG (2011). ”Health- Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 23 * Số 2 * 2019 Nghiên cứu Y học Chuyên Đề Y Tế Công Cộng 37 related quality of life is associated with diabetic complications, but not with short-term diabetic control in primary care”. Ann Acad Med Singapore, 40 (6): 276-86. 21. Reba K, Argaw Z, Walle B, Gutema H (2018). “Health-related quality of life of patients with diagnosed type 2 diabetes in Felege Hiwot Referral Hospital, North West Ethiopia: a cross- sectional study”. BMC Res Notes, 11 (1): 544. 22. Thiel DM, Sayah FA, Vallance J, Johnson ST, Johnson JA (2017). “Physical Activity and Health-Related Quality of Life in Adults With Type 2 Diabetes: Results From a Prospective Cohort Study”. J Phys Act Health, 14 (5): 368-374. 23. Volpato S, Maraldi C, Fellin R (2010). “Type 2 diabetes and risk for functional decline and disability in older persons”. Curr Diabetes Rev, 6(3): pp:134-4. 24. Wang W, McGreevey WP, Fu C, Zhan S, Luan R, Chen W, Xu B (2009). “Type 2 diabetes mellitus in China: a preventable economic burden”. Am J Manag Care, 15(9): pp. 593-601. 25. Wexler DJ, Grant RW, Wittenberg E, Bosch JL, Cagliero E, Delahanty L, (2006). “Correlates of health-related quality of life in type 2 diabetes”. Diabetologia, 49 (7): 1489-97. 26. WHO (1996). “WHOQOL-BREF: introduction, administration, scoring and generic version of the assessment: field trial version”, December 1996. https://www.who.int/mental_health/media/en/76.pdf: truy cập ngày 13/1/2019. 27. WHO (2017). “10 facts on the state of global health”. https://www.who.int/features/factfiles/global_burden/en/: truy cập ngày 13/1/2019. 28. WHO (2017). “Diabetes”, https://www.who.int/news- room/fact-sheets/detail/diabetes: truy cập ngày 13/1/2019. 29. WHO (2018). “World Diabetes Day 2018”. https://www.who.int/diabetes/world-diabetes-day-2018/en/: truy cập ngày 13/1/2019. Ngày nhận bài báo: 08/11/2018 Ngày phản biện nhận xét bài báo: 10/12/2018 Ngày bài báo được đăng: 20/03/2019

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • pdfchat_luong_cuoc_song_va_cac_yeu_to_lien_quan_o_benh_nhan_dai.pdf
Tài liệu liên quan