Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 22 * Số 6 * 2018
Chuyên Đề Điều Dưỡng Nhi Khoa 70
CÁC YẾU TỐ TIÊN LƯỢNG ĐẾN CHẤT LƯỢNG GIẤC NGỦ 
Ở BỆNH NHÂN SAU PHẪU THUẬT CHẤN THƯƠNG 
TẠI BỆNH VIỆN ĐẠI HỌC Y DƯỢC HUẾ, THỪA THIÊN HUẾ 
Mai Bá Hải* 
TÓM TẮT 
Mục tiêu: Khảo sát các yếu tố tiên lượng chất lượng giấc ngủ ở bệnh nhân sau phẫu thuật chấn thương 
chỉnh hình. 
Phương pháp nghiên cứu: Phương pháp nghiên cứu mô tả tiên lượng với kỹ thuật chọn mẫu ngẫu nhiên. 
Phân tích số liệu bằng phương pháp thống kê mô tả và phân tích hồi quy tương quan tuyến tính đa biến chuẩn. 
Kết quả: Kết quả nghiên cứu cho thấy chất lượng giấc ngủ của bệnh nhân ngày thứ 2 sau mổ ở mức độ 
trung bình (M = 83,24, SD = + 15,17). Kết quả phân tích hồi quy tương quan tuyến tính đa biến chuẩn cho thấy 
các yếu tố đau sau mổ, mức độ mệt mỏi, mức độ lo lắng, và yếu tố ảnh hưởng từ môi trường chăm sóc có thể tiên 
lượng 59,4% về chất lượng giấc ngủ của bệnh nhânngày thứ 2 sau phẫu thuật chấn thương chỉnh hình (R2 = 
0,59, F (4, 77) = 28,22, p < 0,001), trong đó yếu tố tác động từ môi trường chăm sóc là yếu tố tiên lượng tốt nhất đối 
với chất lượng giấc ngủ (β = -0,35, p < 0,001). 
Kết luận: Từ kết quả nghiên cứu trên, cung cấp cho điều dưỡng hiểu rõ hơn về bản chất của chất lượng giấc 
ngủ, cũng như các yếu tố tiên lượng đến chất lượng giấc ngủ ở bệnh nhân sau phẫu thuật chấn thương chỉnh 
hình, điều này giúp điều dưỡng có các can thiệp kịp thời, chính xác để giúp cải thiện chất lượng giấc ngủ cho bệnh 
nhân, góp phần nâng cao chất lượng điều trị và rút ngắn thời gian nằm viện. 
Từ khóa: Chất lượng giấc ngủ, tiên lượng, các yếu tố ảnh hưởng, phẫu thuật xương đùi. 
ABSTRACT 
PREDICTING OF QUALITY OF SLEEP AMONG PATIENTS AFTER RECEIVING MAJOR 
ORTHOPEDIC SURGERY IN HUE UNIVERSITY HOSPITAL, VIETNAM 
Mai Ba Hai * Ho Chi Minh City Journal of Medicine * Supplement of Vol. 22 - No 6- 2018: 70 – 78 
Objectives: To examine the factors that predicts quality of sleep among patients after receiving major 
orthopedic surgery in Vietnam. 
Methods: The simple random technique was used to recruit 82 patients who were received major orthopedic 
surgery at Traumatology-Orthopedic department in Hue University Hospital, Vietnam. Data were analyzed by 
using descriptive statistic and multiple regression analysis. 
Results: The results indicated that mean score of quality of sleep was at a moderate level (M = 83.24, SD = + 
15.17) during the second postoperative night. The standard multiple regression analysis revealed that 
postoperative pain, fatigue, anxiety, and disturbances from environment of care could explain 59.4% of variance 
of quality of sleep (R2 = 0.594, F (4,77) = 28.22, p < 0.001). The best predictor of quality of sleep was disturbances 
from environment of care (β = -0.35, p < 0.001). 
Conclusions: These findings provide a better understanding of quality of sleep. Moreover, nursing care for 
patients in postoperative period should manage influencing factors in order to promote patient’s sleep quality. 
* Trường Đại học Y Dược Huế, 
Tác giả liên lạc: ThS Mai Bá Hải, ĐT: 0905066200, Email: 
[email protected] 
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 22 * Số 6 * 2018 Nghiên cứu Y học
Chuyên Đề Điều Dưỡng Nhi Khoa 71
Key works: Quality of sleep, predictors, influencing factors, major orthopedic surgery, Vietnam. 
ĐẶT VẤN ĐỀ 
Gần đây theo nhiều thống kê cho thấy rằng 
số lượng các phẫu thuật chấn thương chỉnh hình 
tăng nhiều trên phạm vi toàn cầu. Chất lượng 
giấc ngủ kém được coi là một triệu chứng mà 
bệnh nhân thường phàn nàn sau phẫu thuật 
chấn thương chỉnh hình lớn ở bệnh viện như là 
rối loạn giấc ngủ, giấc ngủ không hiệu quả, thiếu 
ngủ, và những rối loạn giấc ngủ khác(2,15,25). 
Trong một nghiên cứu gần đây của Wylde(28) báo 
cáo rằng giấc ngủ của bệnh nhân thường bị đánh 
thức giữa đêm khoảng 47 - 52% bệnh nhân phẫu 
thuật chấn thương chỉnh hình từ đêm hậu phẫu 
đầu tiên đến đêm thứ ba. Những nghiên cứu 
thống kê trước đây(6,8,14) cũng cho thấy rằng hầu 
hết bệnh nhân thường xuyên phàn nàn không 
thỏa mãn về chất lượng giấc ngủ do khó ngủ, 
giảm thời gian ngủ, tăng số giờ ngủ ban ngày, 
thức dậy sớm vào buổi sáng ở đêm hậu phẫu 
đầu tiên. Những bệnh nhân này cũng cho rằng 
chất lượng giấc ngủ của họ kém kéo dài đến 
ngày thứ tư sau phẫu thuật. Do đó, chất lượng 
giấc ngủ kém được coi là một trong những triệu 
chứng quan trọng ảnh hưởng đến sự phục hồi 
của bệnh nhân sau khi nhận được phẫu thuật 
chấn thương chỉnh hình(4,25). 
Về mặt lý thuyết, cơ thể con người đòi hỏi có 
giấc ngủ đầy đủ để khôi phục năng lượng, tổng 
hợp protein và sửa chữa mô, tế bào(10). Đặc biệt, 
những bệnh nhân sau phẫu thuật gãy xương, 
cần ngủ đủ giấc để duy trì cơ chế tái tạo tế bào, 
tự hồi phục cơ thể, và ngăn ngừa biến chứng, và 
rút ngắn thời gian hồi phục(12). Khi tổng hợp các 
tài liệu nghiên cứutrước đây về chất lượng giấc 
ngủ sau phẫu thuật chấn thương chỉnh hình lớn, 
kết quả tìm thấy rằng có nhiều yếu tố ảnh hưởng 
đến chất lượng giấc ngủ của bệnh nhân sau phẫu 
thuật, tuy nhiên có 4 yếu tố được bàn đến nhiều 
nhất và có tương quan lớn nhất đến chất lượng 
giấc ngủ của bệnh nhân bao gồm đau sau mổ, 
mệt mỏi, lo lắng và tác động từ môi trường chăm 
sóc. Theo Học thuyết về các triệu chứng không 
muốn (Theory of Unpleasant symptoms) của 
Lenz đã đề cập rằng các yếu tố ảnh hưởng đến 
những triệu chứng không mong muốn được chia 
làm 3 yếu tố, bao gồm: yếu tố thể chất sinh lý, 
yếu tố nhận thức, tâm lý và các yếu tố hoàn cảnh 
môi trường(18). Như đã đề cập ở trên, thì bốn yếu 
tố tác động đến chất lượng giấc ngủ của bệnh 
nhân sau phẫu thuật này sẽ được xác định thành 
ba nhóm yếu tố: 1) đau sau phẫu thuật và mệt 
mỏi được xác định là yếu tố thể chất, sinh lý, 2) 
lo lắng được xác định là yếu tố tâm lý và 3) sự 
tác động từ môi trường chăm sóc được coi là yếu 
tố hoàn cảnh môi trường, phù hợp với mối liên 
quan giữa các vấn đề được nêu trong học thuyết 
của Lenz(18). 
Theo thống kê, các nghiên cứu về chất lượng 
giấc ngủ chủ yếu được báo cáo ở các nước 
phương Tây, và chủ yếu tập trung nhiều vào 
những bệnh nhân ung thư, phẫu thuật tim, phẫu 
thuật bụng, hoặc trong các đơn vị chăm sóc đặc 
biệt. Thiếu nghiên cứu liên quan đến chất lượng 
giấc ngủ trên những bệnh nhân phẫu thuật chấn 
thương chỉnh hình ở các nước Châu Á đặc biệt là 
ở Việt Nam. Hơn nữa, tỷ lệ bệnh nhân nhập viện 
cho phẫu thuật chấn thương chỉnh hình đang gia 
tăng ở Việt Nam, trong đó bệnh viện Đại học 
Huế, ước tính có hơn 1834 trường hợp trong 
năm 2012 và 2149 trường hợp trong năm 2013 
với phẫu thuật chỉnh hình(13). Thực tế, chất lượng 
giấc ngủ kém vẫn là một triệu chứng phổ biến 
mà bệnh nhân luôn phàn nàn sau khi phẫu thuật 
chấn thương chỉnh hình, và có thể ảnh hưởng 
đến kết quả điều trị cho bệnh nhân. Do vậy, 
chúng tối tiến hành thực hiện nghiên cứu này 
với mục tiêu: 1) khảo sát các yếu tố ảnh hưởng 
đến chất lượng giấc ngủ của bệnh nhân và 2) 
đánh giá liệu các yếu tố ảnh hưởng này có thể 
dự đoán được chất lượng giấc ngủ ở bệnh nhân 
sau phẫu thuật hay không. 
Mục tiêu nghiên cứu 
Khảo sát các yếu tố tiên lượng chất lượng 
giấc ngủ ở bệnh nhân sau phẫu thuật chấn 
thương chỉnh hình. 
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 22 * Số 6 * 2018
Chuyên Đề Điều Dưỡng Nhi Khoa 72
ĐỐI TƯỢNG - PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU 
Đối tượng nghiên cứu 
Là 82 bệnh nhân sau phẫu thuật chấn 
thương chỉnh hình tại khoa ngoại chấn thương 
Bệnh viện Trường Đại học Y Dược Huế thỏa các 
tiêu chuẩn chọn bệnh được chọn vào nghiên cứu 
bằng phương pháp chọn mẫu ngẫu nhiên. Tiêu 
chuẩn chọn bệnh, bao gồm những bệnh nhân 
sau phẫu thuật chấn thương chỉnh hình bao 
gồm: phẫu thuật thay khớp háng, gãy xương 
đùi, gãy xương cẳng chân, gãy xương cánh tay – 
cẳng tay có độ tuổi từ 18 - 65 tuổi, có khả năng 
giao tiếp và đọc hiểu tiếng việt, không mắc các 
bệnh khác kèm theo. 
Phương pháp nghiên cứu 
Đây là nghiên cứu mô tả tiên lượng 
(descriptive predictive design) nhằm đánh giá 
các yếu tố tiên lượng đến chất lượng giấc ngủ 
của bệnh nhân sau phẫu thuật xương đùi. Mẫu 
nghiên cứu được chọn theo phương pháp chọn 
mẫu ngẫu nhiên. 
Biến số nghiên cứu 
Biến số phụ thuộc 
Chất lượng giấc ngủ 
Được định nghĩa là cảm nhận chủ quan của 
bệnh nhân sau phẫu thuật về chất lượng giấc 
ngủ ở những khía cạnh: sự hiệu quả giấc ngủ, sự 
rối loạn giấc ngủ và bổ sung giấc ngủ. Chất 
lượng giấc ngủ tốt được thể hiện bởi cả số lượng 
và chất lượng giấc ngủ, như thời gian ngủ đủ 
giấc, dễ ngủ, không thức dậy sau khi bắt đầu 
ngủ, ngủ sâu, thức dậy tỉnh táo và ngủ ngon. 
Trong nghiên cứu này, chất lượng giấc ngủ được 
đánh giá bởi bộ câu hỏi Verran và Snyder - 
Halpern Sleep Scale. 24 
Biến số độc lập 
Đau, mệt mỏi, lo lắng, các yếu tố ảnh hưởng từ môi 
trường chăm sóc 
Đau: được định nghĩa là cảm nhận của bệnh 
nhân về cảm giác khó chịu, không mong muốn 
liên quan đến tình trạng tổn thương mô hoặc là 
những co thắt cơ sau phẫu thuật do phẫu thuật, 
hoặc từ vết thương, hoặc tư thế của bệnh nhân. 
Đau được đo lường bằng cách sử dụng thang đo 
đau bằng số từ 0 đến 10. 
Mệt mỏi: là cảm nhận chủ quan của bệnh 
nhân khi cơ thể không thể hoạt động tối ưu các 
hoạt động thường ngày của bản thân. Các triệu 
chứng biểu hiện chính như là cảm thấy mệt khi 
làm một việc nhỏ gì đó, cơ thể thường xuyên 
thích ngồi một chỗ hoặc nằm xuống, và từ đó 
làm tăng nhu cầu ngủ (Rubin & Hotopf, 2002). 
Trong nghiên cứu này, sự mệt mỏi được đo 
lường bởi thang đo Lee Fatigue(17). 
Lo lắng: là một trạng thái căng thẳng về tâm 
lý đặc trưng bởi các yếu tố về cơ thể, cảm xúc, 
nhận thức, và hành vi. Đó là cảm giác gây ra bởi 
sợ hãi và phiền muộn. Cả khi bị hay không bị 
căng thẳng về tâm lý thì lo lắng cũng tạo ra cảm 
giác sợ hãi, lo lắng, không thoải mái. Trong 
nghiên cứu này, biến số lo lắng được đo bằng 
thang điểm lo lắng và trầm cảm ở bệnh viện 
(HADS-A)(29). 
Các yếu tố ảnh hưởng từ môi trường chăm 
sóc: là bất kỳ yếu tố nào của bệnh viện làm rối 
loạn giấc ngủ ban đêm của bệnh nhân. Các yếu 
tố môi trường bao gồm tiếng ồn cuộc nói chuyện 
và/ hoặc tiếng ồn của thiết bị, hoạt động chăm 
sóc điều dưỡng vào ban đêm và ánh sáng của 
phòng. Bộ câu hỏi yếu tố tác động từ môi trường 
chăm sóc được sử dụng để đo lường các yếu tố 
từ môi trường)(26). 
Bộ công cụ nghiên cứu 
Để tiến hành thu thập số liệu chúng tôi đã sử 
dụng 5 bộ câu hỏi, bao gồm: 1) bộ câu hỏi về 
thông tin cá nhân và tình trạng bệnh, 2) bộ câu 
hỏi đánh giá mức độ đau từ 0 đến 10 điểm, trong 
đó; 1 - 3 điểm: đau nhẹ, 4 - 6 điểm: đau vừa, 7 – 10 
điểm: đau nhiều, 3) bộ công cụ đánh giá mức độ 
mệt mỏi từ 0 đến 10điểm, trong đó: 1 - < 4 điểm: 
mệt mỏi ít, 4 - < 7 điểm: mệt mỏi vừa, 7 – 10 điểm: 
mệt mỏi nhiều, 4) bộ công cụ đánh giá mức độ lo 
lắng tại bệnh viện gồm 7 câu hỏi, bệnh nhân sẽ 
được yêu cầu trả lời 7 câu trong bảng câu hỏi 
theo thang điểm Likert 0 đến 3 điểm. Điểm số lo 
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 22 * Số 6 * 2018 Nghiên cứu Y học
Chuyên Đề Điều Dưỡng Nhi Khoa 73
lắng nằm trong khoảng 0 – 21 điểm: > 0 - 7 
điểmcho biết mức độ lo lắngít, 8 - 14điểm lo lắng vừa 
phải, và 15 - 21 điểm đề cập đến sự lo lắng nghiêm 
trọng. Giá trị hệ số alpha của Cronbach là.83, 5) 
bộ công cụ các yếu tố tác động từ môi trường 
chăm sóc, bao gồm 12 câu hỏi được hỏi về các 
yếu tố ảnh hưởng đến chất lượng giấc ngủ của 
bệnh nhân. Mức độ tác động của môi trường 
chăm sóc được tính theo thang điểm từ 0 đến 120 
như sau: > 0 - 39 điểm: mức độ tác động ít, 40 - 79 
điểm: mức độ tác động trung bình, 80 - 120 điểm: 
mức độ tác động nghiêm trọng. 6) Bộ câu hỏi về 
đánh giá chất lượng giấc ngủ của Verran and 
Snyder – Halpern, bao gồm 15 câu hỏi được chia 
làm 3 phần: a) Rối loạn giấc ngủ: nhằm cung cấp 
thông tin về nhận thức của bệnh nhân về mức 
độ rối loạn giấc ngủ, b) Hiệu quả giấc ngủ: nhằm 
đánh giá nhận thức của bệnh nhân về hiệu quả 
giấc ngủ của họ và c) Bổ sung giấc ngủ: nhằm 
đánh giá nhận thức của bệnh nhân về cách giấc 
ngủ của họ được cải thiện với thời gian ngủ bổ 
sung. Vì vậy tổng số điểm của bộ công cụ này sẽ 
được tính bằng tổng điểm của tất cả các câu hỏi, 
điểm số dao động từ 0 - 150, tổng điểm càng cao 
cho thấy chất lượng giấc ngủ càng cao, trong đó: 
0 - 50 điểm: chất lượng giấc ngủ kém, 51 – 100: 
chất lượng giấc ngủ trung bình, và 101 – 150: 
chất lượng giấc ngủ tốt. 
Do các bộ công cụ đánh giá trên về mệt mỏi, 
lo lắng, và các yếu tố tác động từ môi trường 
chăm sóc và chất lượng giấc ngủ là ngôn ngữ 
tiếng Anh, do vậy đã được dịch sang tiếng Việt 
bằng phương pháp dịch và dịch ngược (the 
translation and back - translation technique). 
Trước khi tiến hành thu thập số liệu, các bộ công 
cụ này được xác định độ tin cậy thông qua hệ số 
alpha của Cronbach lần lượt bộ công cụ chất 
lượng giấc ngủ là 0,90, bộ công cụ đánh giá mức 
độ mệt mỏi là 0,93, lo lắng là 0,83, và các yếu tố 
tác động từ môi trường chăm sóc là 0,82. 
Quá trình thu thập số liệu 
Phương pháp chọn mẫu ngẫu nhiên được sử 
dụng để chọn những bệnh nhân thỏa mãn các 
tiêu chuẩn chọn bệnh tham gia vào nghiên cứu. 
Trong một tuần, sẽ chọn ngẫu nhiên 4 ngày, 
trong mỗi ngày, các bệnh nhân thỏa mãn các tiêu 
chuẩn chọn bệnh sẽ được chọn vào nghiên cứu. 
Vào ngày thu thập dữ liệu, người nghiên cứu sẽ 
thông báo cho bệnh nhân về mục đích, phương 
pháp và quy trình nghiên cứu, và đồng thời phải 
có sự chấp thuận tham gia vào nghiên của bệnh 
nhân. Sau đó, người nghiên cứu sẽ tiến hành 
khảo sát thu thập số liệu dựa vào bộ công cụ đã 
lập sẵn. Tất cả các dữ liệu sẽ được bảo mật với 
duy nhất mục đích nghiên cứu, các dữ liệu sau 
đó sẽ mã hóa và được nhập vào phần mềm 
thống kế để phân tích dữ liệu. 
Xử lý số liệu 
Bằng phần mềm thống kê SPSS 17.0. Sử 
dụng phương pháp thống kê mô tả để mô tả các 
đặc điểm của đối tượng nghiên cứu, đặc điểm 
chất lượng giấc ngủ, mức độ đau sau phẫu thuật, 
mức độ mệt mỏi, lo lắng và các yếu tố tác động 
từ môi trường chăm sóc. Phân tích hồi quy tuyến 
tính đa biến được sử dụng để khảo sát mức độ 
ảnh hưởng của từng biến độc lập (đau sau phẫu 
thuật, mệt mỏi, lo lắng, các yếu tố tác động từ 
môi trường chăm sóc) lên biến phụ thuộc (chất 
lượng giấc ngủ). 
KẾT QUẢ 
Tổng cộng 82 người bệnh nhân sau phẫu 
thuật chấn thương tại Bệnh viện Đại học Y Dược 
Huế đáp ứng các tiêu chuẩn chọn bệnh được 
chọn vào nghiên cứu. Kết quả nghiên cứu cho 
thấy, độ tuổi trung bình của người tham gia 
nghiên cứu là 39,30 + 15,11 tuổi, trong đó tỉ lệ 
nam (64,6%), nữ (35,4%), và hầu hết những 
người tham gia đã kết hôn (61%). Nghề nghiệp 
những người tham gia vào nghiên cứu đã có việc 
làm chiếm 68,3%, trong đó công nhân chiếm 
73,2%, tiếp theo là nông dân (17,8%). Thu nhập 
của người tham gia nghiên cứu dao động từ 2 - 3 
triệu đồng mỗi tháng (41,5%). Đặc điểm lâm 
sàng của người tham gia nghiên cứu:phần lớn 
gãy xương chi dưới (67,1%), loại điều trịcố định 
trong (84,1%), gây tê vùng (61%), và thời gian 
gây mê trung bình là 110,49 phút (SD = + 36,71). 
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 22 * Số 6 * 2018
Chuyên Đề Điều Dưỡng Nhi Khoa 74
Bảng 1 - Đặc điểm chung bệnh nhân 
Thông tin bệnh nhân Trung bình + độ 
lệch chuẩn 
Tần số n (%) 
Tuổi 39.30(15.11) 
Giới tính 
Nam 
Nữ 
 53(64,60) 
29 (35,40) 
Học vấn 
Không 
Trình độ phổ thông 
Trung cấp nghề 
Cao đẳng, Đại học, sau 
đại học 
 2 (2,40) 
58 (70,70) 
7 (8,50) 
15 (18,40) 
Tình trạng gia đình 
Độc thân 
Kết hôn 
Góa phụ 
 28 (34,10) 
50 (61,00) 
4 (4,90) 
Nghề nghiệp 
Thất nghiệp 
Sinh viên 
Có nghề nghiệp: 
- Công nhân 
- Nông dân 
- Kinh doanh, buôn bán 
 16 (19,50) 
10 (12,20) 
56 (68,30) 
41 (73,20) 
 10(17.90) 
5 (8,90) 
Chẩn đoán lâm sàng 
Gãy xương cánh tay 
Gãy xương cẳng tay 
Gãy cổ xương đùi 
Gãy xương đùi 
Vỡ xương bánh chè 
Gãy xương cẳng chân 
 9 (10,97) 
18 (21,95) 
13 (15,86) 
15 (18,29) 
2 (2,44) 
25 (30,49) 
Loại phẫu thuật 
Kết hợp xương 
Thay khớp bán phần 
Thay khớp toàn phần 
 69 (84,10) 
10 (12,20) 
3 (3,70) 
Phương pháp gây mê gây tê 
Gây mê toàn thân 
Gây tê vùng 
 32 (39) 
50 (61) 
Thời gian gây mê gây tê 
1 - 2 (giờ) 
2 - 3 (giờ) 
3 - 4 (giờ) 
110.49 (36.71) 47 (69,70) 
19 (23,00) 
6 (7,30) 
Mức độ đau sau mổ, mệt mỏi, tình trạng lo 
lắng, và mức độ ảnh hưởng từ môi trường chăm 
sóc 
Kết quả từ bảng 2 cho thấy, mức độ đau, 
mức độ mệt mỏi, và lo lắng của bệnh nhân sau 
phẫu thuật lần lượt trung bình của đau 6,01+ 
1,37, trung bình của mệt mỏi là 4,36 +0,73; trung 
bình của lo lắng là 8,61 +2,81, trung bình yếu tố tác 
động từ môi trường chăm sóc là 26,62 +9,08. 
Bảng 2. Trung bình và độ lệch chuẩn về mức độ đau, 
lo lắng, mệt mỏi, và tác động từ môi trường chăm sóc 
ở bệnh nhân ngày thứ 2 sau mổ (n = 82) 
Các yếu tố ảnh hưởng 
Điểm trung bình 
 + Độ 
lệch 
chuẩn 
Tối đa 
Tối 
thiểu 
Trung 
bình 
Đau sau mỗ 9 3 6,01 1,37 
Mệt mỏi 6,19 2.46 4,36 0,73 
Lo lắng 16 3 8,61 2,81 
Ảnh hưởng từ môi 
trường chăm sóc 
44 6 26,62 9,08 
Chất lượng giấc ngủ của bệnh nhân hậu phẫu 
ngày thứ 2 
Theo kết quả nghiên cứu từ Bảng 3 cho thấy, 
điểm trung bình về chất lượng giấc ngủ của 
bệnh nhân ở mức trung bình (M = 83,24, SD = + 
15,17). Trong đó, hiệu quả giấc ngủ của bệnh nhân 
thấp nhất khi được hỏi về “cảm nhận chủ quan về 
giấc ngủ” (M = 3,54, SD = + 1,49) có nghĩa là bệnh 
nhân không có một giấc ngủ ngon. Về sự rối loạn 
giấc ngủ của bệnh nhân gặp nhiều nhất là “giấc 
ngủ bị đánh thức” (M = 4,06, SD = +1,75). Sự bổ 
sung giấc ngủ cho thấy bệnh nhân gặp vấn đề khi 
thức dậy, bằng chứng là khi được hỏi về "Cảm 
giác sau khi thức dậy buổi sáng", kết quả cho thấy 
bệnh nhân vẫn còn cảm giác buồn ngủ (M = 4,98, 
SD = +1,61). 
Bảng 3 - Chất lượng giấc ngủ của bệnh nhân hậu 
phẫu ngày thứ 2 (n = 82) 
Chất lượng giấc ngủ 
Điểm trung bình + 
Độ lệch 
chuẩn 
Tối đa 
Tối 
thiểu 
Trung 
bình 
Tổng điểm 123 51 83,24 15,17 
Hiệu quả giấc ngủ 31 5 15,59 5,21 
Cảm nhận chủ quan về 
giấc ngủ 
7 1 3,54 1,49 
Tổng thời gian ngủ 
* 
8 1 3,57 1,33 
Sự hiệu quả giấc ngủ 8 1 3,79 1,68 
Tình trạng khi thức dậy 8 2 4,68 1,34 
Rối loạn giấc ngủ (RLGN) 55 12 36,59 9,28 
Giấc ngủ bị đánh thức 9 1 4,06 1,75 
Khó khăn rơi vào giấc ngủ 9 2 4,67 2,07 
Bắt đầu vào giấc ngủ 8 2 5,05 1,89 
Thức dậy giữa đêm 8 1 5,62 2,00 
Độ sâu giấc ngủ 7 1 6,68 1,36 
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 22 * Số 6 * 2018 Nghiên cứu Y học
Chuyên Đề Điều Dưỡng Nhi Khoa 75
Chất lượng giấc ngủ 
Điểm trung bình + 
Độ lệch 
chuẩn 
Tối đa 
Tối 
thiểu 
Trung 
bình 
Trằn trọc trong khi ngủ 9 2 6,70 1,61 
Bị đánh thức sau khi ngủ 9 4 7,17 1,37 
Bổ sung giấc ngủ 37 26 31,07 2,51 
Cảm giác sau khi thức dậy 
buổi sáng 
9 2 4,98 1,61 
Thời gian ngủ ngày 10 7 8,06 0,78 
Ngủ buổi sáng 10 7 8,55 0,76 
Ngủ buổi chiều 10 8 9,49 0,65 
* Tổng thời gian ngủ (được đo theo thang đo từ 0-10): cảm 
nhận của bệnh nhân ngủ được bao nhiêu tiếng trong 1 đêm. 
Các yếu tố ảnh hưởng đến chất lượng giấc ngủ 
bệnh nhân 
Kết quả từ phân tích tương quan Pearson 
cho thấy đau sau phẫu thuật có mối tương quan 
nghịch cao với chất lượng giấc ngủ bệnh nhân (r 
= -63, p < 0,001), những yếu tố khác bao gồm: mệt 
mỏi, lo lắng và ảnh hưởng từ môi trường chăm 
sóc có mối tương quan trung bình với chất lượng 
giấc ngủ bệnh nhân (r = -,54, p<0,001; r = -,56, 
p<0,001; r = -,58, p<0,001, tương ứng). 
Bảng 4.- Phân tích hồi qui tuyến tính đa biến giữa 
các yếu tố ảnh hưởng và chất lượng giấc ngủ (n = 82) 
Các yếu tố ảnh 
hưởng 
Hệ số 
hồi quy 
Hệ số hồi quy 
chuẩn hóa 
(Beta) 
Ảnh hưởng từ môi 
trường chăm sóc 
-0,58*** -0,35 Intercept = 
146,07*** 
Đau sau mỗ -3,06* -0,28 
Mệt mỏi -4,62* -0,22 R
2 
= ,594 
F(4,77)= 28,22*** Lo lắng -1,04* -0,19 
* = p< 0,05, ** = p< 0,01, *** = p<0 ,001 
Theo bảng 4, phân tích hồi qui tuyến tính đa 
biến chuẩn cho thấy đau sau phẫu thuật, mệt 
mỏi, lo lắng và ảnh hưởng từ môi trường chăm 
sóc có thể giải thích 59,4% về chất lượng giấc ngủ 
vào đêm thứ hai sau phẫu thuật ở bệnh nhân sau 
phẫu thuật chấn thương chỉnh hình lớn (F(4 ,77) = 
28,22, p < 0,001). Trong đó, yếu tố dự đoán cao 
nhất về chất lượng giấc ngủ ở bệnh nhân sau 
phẫu thuật chấn thương chỉnh hình là yếu tố ảnh 
hưởng từ môi trường chăm sóc (β = -0,35, p < 
0,001), tiếp đến là đau sau phẫu thuật (β = -0,28, p 
< 0,001). 
Phương trình hồi quy tuyến tính 
Dựa vào phương trình hồi quy tuyến tính 
trên cho thấy rằng, sau phẫu thuật nếu mức độ 
đau của bệnh nhân tăng 1 điểm thì chất lượng 
giấc ngủ sẽ giảm 3,06 điểm, tương ứng mức độ 
mệt mỏi tăng 1 điểm thì chất lượng giấc ngủ 
giảm 4,62 điểm, mức độ lo lắng bệnh nhân tăng 
1 điểm thì chất lượng giấc ngủ giảm 1,04 điểm, 
và ảnh hưởng từ môi trường chăm sóc tăng 1 
điểm thì chất lượng giấc ngủ giảm 0,58 điểm. 
BÀN LUẬN 
Chất lượng giấc ngủ ở bệnh nhân sau phẫu 
thuật chấn thương chỉnh hình 
Vào đêm thứ hai sau phẫu thuật, chất lượng 
giấc ngủ ở bệnh nhân được báo cáo ở mức độ 
trung bình, trong đó bệnh nhân gặp vấn đề lớn 
nhất về hiệu quả giấc ngủ chưa cao và rối loạn 
giấc ngủ. Điều này cho thấy bệnh nhân chưa có 
được chất lượng giấc ngủ tốt về cả chất lượng và 
số lượng. Đây là kết quả do bệnh nhân thường bị 
đánh thức trong khi ngủ, kéo dài thời gian rơi 
vào giấc ngủ, khó ngủ, và ngủ nửa đêm thức 
giấc. Ngoài ra, giấc ngủ của bệnh nhâncũng bị 
ảnh hưởng từ phẫu thuật như vị trí không thoải 
mái, băng bó vết thương, truyền dịch, tình trạng 
đau, mệt mỏi hoặc lo âu. Hơn nữa, những yếu tố 
tác động từ môi trường bệnh viện như tiếng ồn, 
những người xung quanh cũng ảnh hưởng đến 
chất lượng giấc ngủ của bệnh nhân. Kết quả này 
phù hợp với các nghiên cứu trước đó(4,13). cho 
thấy chất lượng giấc ngủ kém là triệu chứng phổ 
biến ở bệnh nhân nhập viện, hầu hết bệnh nhân 
thường phàn nàn về chất lượng giấc ngủ kém. 
Một nghiên cứu khác(6), cho thấy 42% bệnh nhân 
thường xuyên phàn nàn về giấc ngủ không đạt 
yêu cầu sau phẫu thuật và 23% trường hợp có 
chất lượng giấc ngủ không đạt yêu cầu cho đến 
Chất lượng giấc ngủ = 146,07 - 3,06 (đau sau 
phẫu thuật) - 4,62 (mệt mỏi) - 1,04 (lo lắng) - 
0,58 (ảnh hưởng từ chăm sóc môi trường). 
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 22 * Số 6 * 2018
Chuyên Đề Điều Dưỡng Nhi Khoa 76
ngày thứ 4 sau phẫu thuật. Trong một nghiên 
cứu gần đây(25), tiến hành trên 110 bệnh nhân ở 
Canada, đã chỉ ra rằng bệnh nhân phẫu thuật 
chấn thươnggặp nhiều vấn đề về rối loạn giấc 
ngủ (M = 33,98, SD = +19,56) và hiệu quả giấc 
ngủ kém (M = 20,41, SD = + 9,39) vào đêm thứ 
hai và thứ ba sau phẫu thuật. 
Các yếu tố ảnh hưởng đến chất lượng giấc 
ngủ của bệnh 
Kết quả của nghiên cứu này cho thấy rằng 
bệnh nhân đã gặp những vấn đề đau, mệt mỏi 
và lo lắng ở mức độ vừa phải sau phẫu thuật. 
Những kết quả này xảy ra bước đầu được xác 
định là hậu quả từ phẫu thuật, mô và tế bào bị 
phá hủy, sự co thắt cơ, suy giảm lượng dinh 
dưỡng sau phẫu thuật và giảm vận động(3,7,11). 
Ngoài ra, đây cũng một phần là do bệnh nhân 
thường xuyên lo lắng, sợ hãi về tình trạng sức 
khỏe của bản thân. Kết quả này phù hợp với 
các nghiên cứu trước đây(4,19,20,22,28) cho rằng 
đau sau phẫu thuật, mệt mỏi và lo lắng 
thường xảy ra ở bệnh nhân sau phẫu thuật. 
Ngoài ra, kết quả nghiên cứu cũng cho thấy 
rằng, những yếu tố tác động từ môi trường chăm 
sóc cũng có ảnh hưởng đến chất lượng giấc ngủ. 
Trong đó, tiếng ồn từ các cuộc nói chuyện của 
người chăm sóc và các bệnh nhân xung quanh là 
yếu tố ảnh hưởng ảnh hưởng chính đến giấc ngủ 
của bệnh nhân. Kết quả này được giải thích rằng 
những người nhà bệnh nhân thường được cho 
phép ở bên cạnh bệnh nhân vào ban đêm, và 
phòng bệnh nhân nhỏ, do đó bất kỳ tiếng ồn nào 
trong phòng bệnh, hành lang có thể làm ảnh 
hưởng đến giấc ngủ của bệnh nhân. Kết quả này 
phù hợp với các nghiên cứu trước(13,23) cho thấy 
tiếng ồn từ các bệnh nhân khác hoặc bạn cùng 
phòng trong bệnh viện ảnh hưởng đến giấc ngủ 
ban đêm của bệnh nhân. 
Các yếu tố dự đoán chất lượng giấc ngủ ở bệnh 
nhân sau phẫu thuật 
Kết quả nghiên cứu hiện tại cho thấy đau sau 
phẫu thuật, mệt mỏi, lo lắng và các yếu tố ảnh 
hưởng từ môi trường chăm sóc có thể dự đoán 
được chất lượng giấc ngủ 59,4% vào đêm hậu 
phẫu thứ hai (R2 = 0,59, p < 0,001). Trong số 
những yếu tố tiên lượng này, sự tác động từ môi 
trường chăm sóc là yếu tố dự đoán tốt nhất về 
chất lượng giấc ngủ, càng có nhiều tác động từ 
môi trường chăm sóc thì chất lượng giấc ngủ 
kém hơn (β = -0,35, p < 0,001). Dựa trên chu kỳ 
sinh lý giấc ngủ, giấc ngủ có thể bị đánh thức bất 
cứ lúc nào bởi các tác động bên ngoài như tiếng 
ồn, nhiệt độ, ánh sáng, tư thế nằm, v.v. Tùy 
thuộc vào từng giai đoạn trong chu kì giấc ngủ 
và cường độ của kích thích, mà giấc ngủ bị đánh 
thức dễ dàng hay khó khăn, thông thường giấc 
ngủ dễ bị đánh thức ở giai đoạn ngủ không 
chuyển động mắt nhanh 1 và 2 (Non-rapid eye 
movement (NREM), và khó đánh thức hơn trong 
giai đoạnNREM 3 và 4 và giai đoạn ngủ có 
chuyển động mắt nhanh (REM)(5). Trong nghiên 
cứu gần đây(16), về sự rối loạn giấc ngủ ở bệnh 
nhân sau phẫu thuật ngoại khoa, kết quả cho 
thấy các yếu tố tác động từ môi trường, bao gồm: 
âm thanh cảnh báo từ máy theo dõi, tác động từ 
nhân viên và các bệnh nhân khác, tiếng ồn và 
tình trạng giường bệnh có mối tương quan cao 
với sự rối loạn giấc ngủ của bệnh nhân (r = 0,8). 
Trong một nghiên cứu khác(25) tiến hành trên 110 
bệnh nhân nằm điều trị tại bệnh viện, kết quả 
cho thấy rằng những tác động từ môi trường 
chăm sóc có thể dự đoán 32% đến chất lượng 
giấc ngủ bệnh nhân. Ngoài ra, kết quả nghiên 
cứu của Freedman và cộng sự cũng cho rằng 
những tác động từ chăm sóc môi trường bao 
gồm các hoạt động chăm sóc điều dưỡng, tiếng 
ồn của bệnh viện và ánh sáng của phòng có thể 
dự đoán 27% đến chất lượng giấc ngủ ở bệnh 
nhân tại bệnh viện. 
Đau sau mổ là yếu tố tiên lượng tiếp theo đối 
với chất lượng giấc ngủ ở bệnh nhân hậu phẫu 
đêm thứ 2 (β = -0,28, p < 0,05), điều đó có nghĩa là 
càng đau nhiều, bệnh nhân càng khó ngủ. Kết 
quả này đã được giải thích là do những kích 
thích đau tác động vào vỏ não bằng hoạt hóa các 
sóng điện não làm phân mảnh giấc ngủ và duy 
trì sự tỉnh táo(31). Trong một nghiên cứu mô tả 
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 22 * Số 6 * 2018 Nghiên cứu Y học
Chuyên Đề Điều Dưỡng Nhi Khoa 77
khác(4) khảo sát trên 75 bệnh nhân trải qua phẫu 
thuật chấn thương, cho thấy 83% bệnh nhân bị 
ảnh hưởnggiấc ngủ bởi cơn đau trong giai đoạn 
hậu phẫu. Ngoài ra, một nghiên cứu khác tìm 
thấy rằng cơn đau là một yếu tố dự đoán sự gián 
đoạn giấc ngủ (OR = 2,0, 95% CI = 1,47 - 2,73). 
Kết quả nghiên cứu này cũng cho thấy sự 
mệt mỏi có thể dự đoán chất lượng giấc ngủ 
của bệnh nhân vào đêm hậu phẫu thứ hai (β = 
-0,22, p < 0,05). Kết quả này được giải thích là 
sự mệt mỏi tạo ra các cytokine và opioid rằng 
2 chất này có tác động làm rối loạn giấc ngủ 
của bệnh nhân. Kết quả này phù hợp với 
nghiên cứu trước đó rằng những mệt mỏi làm 
chất lượng giấc ngủ bệnh nhân, bằng chứng 
Ponsuwan và cộng sự thấy rằng mệt mỏi có 
thể dự đoán 23% chất lượng giấc ngủ kém ở 
bệnh nhân sau phẫu thuật. Cuối cùng, lo lắng 
cũng được tìm thấy là một trong những yếu tố 
tiên lượng về chất lượng giấc ngủ vào đêm 
hậu phẫu thứ hai (β = -0,19, p < 0,05). Kết quả 
này được giải thích là lo lắng làm tăng mức độ 
giải phóng của hormon adrenocorticotropic 
(ACTH), hoặc cortisol trong dòng máu gây 
nên kéo dài thời gian rơi vào giấc ngủ, giảm 
giai đoạn giấc ngủ sóng não chậm và tăng sự 
phân đoạn giấc ngủ. Kết quả này tương đồng 
với nghiên cứu trước đó, lo lắng là một yếu tố 
tâm lý ảnh hưởng đến chất lượng giấc ngủ, 
càng lo lắng thì càng khó ngủ (p = 0,009). Kết 
quả này phù hợp với nghiên cứu của 
Opanuraks rằng sự lo lắng là một trong những 
yếu tố dự đoán về chất lượng giấc ngủ ở bệnh 
nhân sau phẫu thuật chiếm 13,42% (p < 0,001). 
Trong một nghiên cứu khác của Lei tìm thấy 
rằng lo lắng về bệnh tật làm giảm chất lượng 
giấc ngủ của bệnh nhân nhập viện (OR = 1,44, 
95% CI = 1,14 - 1,82, p = 0,002). 
KẾT LUẬN 
Kết quả nghiên cứu này khẳng định 1 lần 
nữa đau sau mổ và mệt mỏi là 2 yếu tố về thất 
chất sinh lý, lo lắng là yếu tố tâm lý, và tác động 
từ môi trường chăm sóc là những yếu tố ảnh 
hưởng đến chất lượng giấc ngủ của bệnh nhân 
Điều này phù hợp với học thuyết điều dưỡng về 
những triệu chứng không mong muốn của Lenz 
cường độ của các yếu tố ảnh hưởng này sẽ quyết 
định tính chất nghiêm trọng của chất lượng giấc 
ngủ. Do đó, nghiên cứu này cung cấp cho điều 
dưỡngnhững kiến thức rất có giá trị về bản chất 
cũng như cơ chế các yếu tố này ảnh hưởng đến 
chất lượng giấc ngủ ở bệnh nhân sau khi phẫu 
thuật chấn thương chỉnh hình. 
TÀI LIỆU THAM KHẢO 
1. Adamsen SR., Kehlet H, Dodds C, Rosenberg J (1996). 
Postoperative sleep disturbances: Mechanisms and clinical 
implications. British Journal of Anaesthesia, 76(4), pp.552 - 559. 
2. American Academy of Orthopaedic Surgeons [AAOS] (2014). 
Sleep disturbance following acute fractures not related to injury. 
3. Boni F (2010). Pain management after major surgery. In A. Kopf 
& N. B. Patel (Eds.), Guide to pain management in low - resource 
setting, pp. 103-113. 
4. Buyukyilmaz F, Sendir M, Acaroglu R (2011). Evaluation of 
night-time pain characteristics and quality of sleep in 
postoperative Turkish orthopedic patients. Clinical Nursing 
Research, 20(3): pp. 326-342. 
5. Chokroverty S (2009). Sleep disorders medicine: Basic science, 
technical considerations, and clinical aspects. Philadelphia: 
Saunders/ Elsevier. 
6. Chouchou F, Khoury S, Chauny JM, Denis R. Lavigne, GJ (2014). 
Postoperative sleep disruptions: A potential catalyst of acute 
pain?. Sleep Medicine Reviews, 18(3), pp.273 - 282. 
7. Christensen T, Kehlet H (1993). Postoperative fatigue. World 
Journal of Surgery, 17(2), pp.220-225. 
8. Cronin, JA, Keifer JC, Davies, MF, King TS, Bixler EO (2001). 
Postoperative sleep disturbance: Influences of opioids and pain 
in humans. Sleep, 24(1), pp.39 - 44. 
9. Department of Traumatologic-Orthopedic (2014). Summary 
hospital activities 2013, missions and strategies forward to 2014. 
Hue University Hospital, Vietnam. Report number: pp.26. 
10. Frank MG (2010). The function(s) of sleep. In J. M. Winkenlman 
& D. T. Plante (Eds), Foundation of psychiatric sleep medicince, pp. 
51 - 78. 
11. Gregory J (2005). Pain management and orthopaedic care. In J. 
Kneale, P. Davis, & A. Powell (Eds.), Orthopaedic and trauma 
nursing, 2nd ed., pp.140 - 164. 
12. Humphries JD (2008). Sleep disruption in hospitalized adults. 
Medical Surgical Nursing Journal, 17(6), pp.391 - 395. 
13. Jolfaei, AG, Makvandi A., Pazouki A (2014). Quality of sleep for 
hospitalized patients in Rasoul-Akram. Medical Journal of Islamic 
Republish Iran, 28(73), pp.1 - 6. 
14. Krenk L, Jennum P, Kehlet H (2012). Sleep disturbances after 
fast-track hip and knee arthroplasty. Britain Journal of Anaesthesia, 
109(5), pp.769-775. 
15. Krenk L, Jennum P, Kehlet H (2013). Activity, sleep and 
cognition after fast-track hip or knee arthroplasty. The Journal of 
Arthroplasty, 28(8), pp.1265 - 1269. 
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 22 * Số 6 * 2018
Chuyên Đề Điều Dưỡng Nhi Khoa 78
16. Lane T, East LA (2008). Sleep disruption experienced by surgical 
patients in an acute hospital. British Journal of Nursing, 17(12): pp. 
766-771. 
17. Lee KA, Hicks G, Nino-Murcia G (1991). Validity and reliability 
of a scale to assess fatigue. Psychiatry Research, 36(3), pp.291 - 298. 
18. Lenz ER., Pugh LC, Gift A, Miligan RA., Suppe F (1997). The 
middle-range theory of unpleasant symptoms: An update. 
Advances in Nursing Science, 19(3), pp. 14 - 27. 
19. Long NH (2010). Factors related to postoperative symptoms 
among patients undergoing abdominal surgery. Master’s thesis, 
Adult nursing, Faculty of Nursing, Burapha University. 
20. Nickinson RS, Board TN, Kay PR (2009). Post-operative anxiety 
and depression levels in orthopaedic surgery: A study of 56 
patients undergoing hip or knee arthroplasty. Journal of 
Evaluation in Clinical Practice, 15(2), pp.307-310. 
21. Pina F, Ribeiro AI, Santos C (2011). Epidemiology and 
variability of orthopaedic procedures worldwide. In: Bentley G 
(ed.). European instructional lectures Denmark: Springer Berlin 
Heidelberg; pp.9-19. 
22. Rubin GJ, Hotopf M (2002). Systematic review and meta-
analysis of interventions for postoperative fatigue. British Journal 
of Surgery, 89(8), pp.971 - 984. 
23. Şendir M, Acaroğlu R, Kaya H, Erol S, Akkaya Y. (2007). 
Evaluation of quality of sleep and effecting factors in 
hospitalized neurosurgical patients. Neurosciences, 12(3): pp.226-
231. 
24. Snyder-Halpern R, Verran JA (1987). Instrumentation to describe 
subjective sleep characteristics in healthy subjects. Research in 
Nursing and Health, 10(3), pp.155 - 163. 
25. Tranmer JE, Minard J, Fox LA, Rebelo L (2003). The sleep 
experience of medical and surgical patients. Clinical Nursing 
Research, 12(2), pp.159 - 173. 
26. TTN Xuan. (2013). Factors predicting quality of sleep among 
postoperative patients with major abdominal surgery in 
Binh Duong hospital, Vietnam. Master’s thesis, Adult 
nursing, Faculty of Nursing, Graduation School, Burapha 
University. 
27. White PF (1986). Pharmacologic and clinical aspects of 
preoperative medication. Anesthesia and Analgesia Journal, 65: 
pp.963-974. 
28. Wylde V, Rooker J, Halliday L, Blom A (2011). Acute 
postoperative pain at rest after hip and knee arthroplasty: 
Severity, sensory qualities and impact on sleep. Orthopedic and 
Traumatol: Surgical and Research, 97(2): pp.139-144. 
29. Zigmond A, Snaith R (1983). The hospital anxiety and 
depression scale. Acta Psychiatrica Scandinavica, 67(6): pp.361-370. 
Ngày nhận bài báo: 10/11/2018 
Ngày phản biện nhận xét bài báo: 25/11/2018 
Ngày bài báo được đăng: 10/12/2018