Các phương pháp quản trị kinh doanh

Tài liệu Các phương pháp quản trị kinh doanh: CÁC PHƯƠNG PHÁP QUẢN TRỊ KINH DOANH Các mục tiêu quản trị kinh doanh, các quy luật kinh doanh và các nguyên tắc quản trị kinh doanh đã giúp cho chủ doanh nghiệp trả lời được câu hỏi “phải làm gì?”, một câu hỏi tiếp theo quan trọng hơn nhiều mà các doanh nghiệp cần phải giải đáp là “làm cái đó như thế nào?” Để trả lời được câu hỏi này, chủ doanh nghiệp cần có các phương pháp và nghệ thuật quản trị kinh doanh thích hợp Sơ đồ 1: Mối quan hệ giữa mục tiêu, phương pháp và nguyên tắc QTKD Khái niệm: Các phương pháp quản trị kinh doanh là tổng thể các cách thức tác động có thể có và có chủ đích của chủ doanh nghiệp đối tượng kinh doanh (cấp dưới và tiềm năng có được của doanh nghiệp) và khách thể kinh doanh, khách hàng, các ràng buộc của môi trường quản trị vĩ mô, các đối thủ cạnh tranh và các bạn hàng), để đạt được các mục tiêu kinh tế đề ra, trong điều kiện môi trường kinh doanh thực tế. Phương pháp quản trị có vai trò quan trọng trong hệ thống quản lý. Quá trình quản lý và quá trình ...

doc62 trang | Chia sẻ: haohao | Lượt xem: 1317 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem trước 20 trang mẫu tài liệu Các phương pháp quản trị kinh doanh, để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
CÁC PHƯƠNG PHÁP QUẢN TRỊ KINH DOANH Các mục tiêu quản trị kinh doanh, các quy luật kinh doanh và các nguyên tắc quản trị kinh doanh đã giúp cho chủ doanh nghiệp trả lời được câu hỏi “phải làm gì?”, một câu hỏi tiếp theo quan trọng hơn nhiều mà các doanh nghiệp cần phải giải đáp là “làm cái đó như thế nào?” Để trả lời được câu hỏi này, chủ doanh nghiệp cần có các phương pháp và nghệ thuật quản trị kinh doanh thích hợp Sơ đồ 1: Mối quan hệ giữa mục tiêu, phương pháp và nguyên tắc QTKD Khái niệm: Các phương pháp quản trị kinh doanh là tổng thể các cách thức tác động có thể có và có chủ đích của chủ doanh nghiệp đối tượng kinh doanh (cấp dưới và tiềm năng có được của doanh nghiệp) và khách thể kinh doanh, khách hàng, các ràng buộc của môi trường quản trị vĩ mô, các đối thủ cạnh tranh và các bạn hàng), để đạt được các mục tiêu kinh tế đề ra, trong điều kiện môi trường kinh doanh thực tế. Phương pháp quản trị có vai trò quan trọng trong hệ thống quản lý. Quá trình quản lý và quá trình hoạt động các chức năng quản trị theo những nguyên tắc, nhưng các nguyên tắc đó chỉ được vận dụng và thể hiện thông qua các phương pháp quản trị nhất định. Vì vậy, vận dụng các phương pháp quản trị là một nội dung cơ bản của quản trị kinh doanh. Mục tiêu, nhiệm vụ của quản trị được thực hiện thông qua tác động của các phương pháp quả trị kinh doanh. Trong những điều kiện nhất định, phương pháp quản trị có tác động quan trọng đến sự thành công hay thất bại trong việc thực hiện các mục tiêu và nhiệm vụ. Vai trò quan trọng của các phương pháp quản trị còn ở chỗ nó nhằm khơi dậy những động lực, kích thích tính năng sáng tạo của con người và tiềm năng của hệ thống cũng như các cơ hội có lợi bên ngoài. Phương pháp quản trị là biểu hiện cụ thể của mối quan hệ qua lại giữa chỉ thể với đối tượng và khách thể kinh doanh, tức là mối quan hệ giữa những con người cụ thể, sinh động với tất cả sự phong phú, phức tạp của đời sống. Vì vậy, các phương pháp quản trị mang tính chất hết sức đa dạng và phong phú, đó là vấn đề cần phải đặc biệt lưu ý trong kinh doanh vì nó chính là bộ phận năng động nhất của hệ thống quản trị. Phương pháp quản trị thường xuyên thay đổi trong từng tình huống cụ thể, tuỳ thuộc vào đặc điểm của đối tượng cũng như năng lực và kinh nghiệm của chủ doanh nghiệp. Tác động của các phương pháp quản trị luôn là tác động có mục đích, nhằm phối hợp hoạt động, bảo đảm sự thống nhất của hệ thống. Vì vậy, mục tiêu kinh doanh quyết định bằng việc lựa chọn phương pháp quản trị kinh doanh. Trong quá trình quản trị phải luôn luôn điều chỉnh các phương pháp nhằm đạt mục đích tốt nhất. Chủ doanh nghiệp có quyền lựa chọn phương pháp quản trị nhưng không có nghĩa là chủ quan, tuỳ tiện muốn sử dụng phương pháp nào cũng được. Mỗi phương pháp quản trị khi sử dụng lại tạo ra một cơ chế tác động mang tính khách quan vốn có của nó. Bên cạnh những yếu tố tích cực, phù hợp với mục tiêu dự đoán của chủ doanh nghiệp cũng có thể xuất hiện một số hiện tượng nằm ngoài dự đoán ban đầu, thậm trí trái ngược với mục tiêu đặt ra. Điều đó đòi hỏi chủ doanh nghiệp phải tỉnh táo, sâu sát thực tế, kịp thời có biện pháp bổ sung để khắc phục các mặt tiêu cực khi chúng xuất hiện. Như vậy, sử dụng các phương pháp quản trị vừa là khoa học vừa là nghệ thuật. Tính khoa học đòi hỏi phải nắm vũng đối tượng với những đặc điểm vốn có của nó, để tác động trên cơ sở nhận thức và vận dụng các quy luật khách quan phù hợp với đối tượng đó. Tính nghệ thuật biểu hiện ở chỗ biết lựa chọn và kết hợp các phương pháp trong thực tiễn để sử dụng tốt tiềm năng doanh nghiệp nhằm đạt mục tiêu kinh doanh đề ra. Quản trị có hiệu quả nhất khi biết lựa chọn đúng đắn và kết hợp linh hoạt các phương pháp quản trị. Đó chính là tài nghệ quản lý của chủ doanh nghiệp nói riêng, của các nhà quản lý nói chung. Để nắm vững những tác dụng đa dạng, phong phú của các phương pháp quản trị cần phân loại chúng và đi sâu nghiên cứu từng phương pháp. Tuỳ thuộc tiêu chuẩn phân loại và mục đích nghiên cứu mà có nhiều cách phân loại đối với phương pháp quản trị. Theo cách phân loại phổ biến, căn cứ vào nội dung và cơ chế hoạt động quản trị các phương pháp quản trị được chia thành: - Các phương pháp quản trị nội bộ doanh nghiệp - Các phương pháp tác động lên khách hàng - Các phương pháp quan hệ với cơ quan quản lý vĩ mô - Các phương pháp cạnh tranh với các đối thủ - Các phương pháp quan hệ với bạn hàng - Các phương pháp lôi kéo người ngoài doanh nghiệp CÁC PHƯƠNG PHÁP QUẢN TRỊ NỘI BỘ DOANH NGHIỆP Các phương pháp tác động lên con người Các phương pháp giáo dục Các phương pháp hành chính Các phương pháp kinh tế Các phương pháp tác động lên các yếu tố khác của doanh nghiệp Mô hình hoá toán học Các phương pháp dự đoán Các phương pháp phân đoạn thị trường 1. Các phương pháp tác động lên con người * Các phương pháp giáo dục Các phương pháp giáo dục là các cách tác động vào nhận thức và tình cảm của người lao động nhằm nâng cao tính tự giác và nhiệt tình lao động của họ trong công việc thực hiện nhiệm vụ. Các phương pháp giáo dục có ý nghĩa to lớn trong quản trị kinh doanh vì đối tượng cuả quản trị là con người - một thực thể năng động, tổng hoà nhiều mối quan hệ. Tác động vào con người không chỉ có hành chính, kinh tế, mà còn tác động tinh thần, tâm lý – xã hội v.v... Các phương pháp giáo dục dựa trên cơ sở vận dụng các quy luật tâm lý. Đặc trưng các phương pháp này là tính thuyết phục, tức là làm cho người lao động phân biết phải - trái, đúng - sai, lợi - hại, đẹp - xấu, thiện - ác, từ đó nâng cao tính tự giác làm việc và sự gắn bó với doanh nghiệp. Các phương pháp giáo dục thường được sử dụng kết hợp với các phương pháp khác một cách uyển chuyển, linh hoạt, vừa nhẹ nhàng vừa sâu sát đến từng người lao động, có tác động giáo dục rộng rãi trong doanh nghiệp, đây là một trong những bí quyết thành công của các xí nghiệp từ bản Nhật hiện nay (học thuyết Y, học thuyết Z). * Các phương pháp hành chính Các phương pháp hành chính là các phương pháp tác động dựa vào các mối quan hệ tổ chức của hệ thống quản lý và kỷ luật của doanh nghiệp. Bất kỳ hệ thống quản trị nào cũng hình thành mối quan hệ tổ chức trong hệ thống. Về phương diện quản trị, nó biểu hiện thành mối quan hệ giữa quyền uỷ và phục tùng, như người xưa thường nói: quản trị con người có hai cách, dùng ân và dùng uy. Dùng ân thì vững bền nhưng khó khăn và phù phiếm, dùng uy thì nhanh chóng và mất tình; cho nên quản trị trước tiên phải dùng uy sau đó mới tính đến việc dùng ân. Các phương pháp hành chính trong quản trị khinh doanh chính là những cách tác động trực tiếp của chủ doanh nghiệp lên tập thể những người lao động dưới quyền bằng các quyết định dứt khoát, mang tính bắt buộc; đòi hỏi người lao động phải chấp hành nghiêm ngặt nếu vi phạm sẽ bị bị xử lý kịp thời, thích đáng. Vai trò của các phương pháp hành chính trong quản lý kinh doanh rất to lớn; nó xác lập chật tự kỷ cương làm việc trong doanh nghiệp; khâu nối các phương pháp quản trị khác lại; dấu được bí mật ý đò kinh doanh và giải quyết các vấn đề đặt ra trong doanh nghiệp rất nhanh chóng. Các phương pháp hành chính tác động vào đối tượng quản trị theo hai hướng: tác động về mặt tổ chức và tác động điều chỉnh hành động của đối tượng quản trị. Theo hướng tác động về mặt tổ chức, chủ doanh nghiệp ban hành các văn bản quy định về quy mô, cơ cấu, điều lệ hoạt động, tiêu chuẩn nhằm thiết lập tổ chức và xác định những mối quan hệ hoạt động trong nội bộ theo hướng tác động điều chỉnh hành động của đối tượng quản trị. Chủ doanh nghiệp đưa ra những chỉ thị, mệnh lệnh hành chính bắt buộc cấp dưới thực hiện những nhiệm vụ nhất định, hoặc hoát động theo những phương hướng nhất định nhằm bảo đảm cho các bộ phận trong hệ thống hoạt động ăn khớp và đúng hướng, uốn nắn những lệch lạc... Các phương pháp hành chính đòi hỏi chủ doanh nghiệp phải có quyết định dứt khoát, rõ ràng, dễ hiểu, có địa chỉ người thực hiện, loại trừ khả năng có sự giải thích khác nhau đối với nhiệm vụ được giao. Tác động hành chính có hiệu lực ngay từ khi ban hành quyết định. Vì vậy, các phương pháp hành chính hết sức cần thiết trong những trường hợp hệ thống quản lý bị rơi vào nhưỡng tình huống khó khăn, phức tạp. Đối với những quyết định hành chính thì cấp dưới bắt buộc phải thực hiện, không được lựa chọn. Chỉ người có thẩm quyền ra quyết định mới có quyền thay đổi quyết định. Cần phân biệt các phương pháp hành chính với kiểu quản lý quan liêu do việc lạm dụng các kỷ luật hành chính, sử dụng mệnh lệnh hành chính thiếu cơ sở khoa học, theo ý muốn chủ quan. Thường những mệnh lệnh kiểu đó gây ra nhiều tổn thất cho doanh nghiệp hạn chế sức sáng tạo của người lao động. Đó cũng là nhược điểm của phương pháp hành chính. Cán bộ quản lý và các cơ quan quản lý nếu thiếu tỉnh táo; say sưa với mệnh lệnh hành chính thì dễ sa vào tình trạng lạm dụng quyền hành; là môi trường tốt cho bệnh chủ quan, duy ý chí; bệnh hành chính quan liêu, tham nhũng. Sử dụng các phương pháp hành chính đòi hỏi các cấp quản lý phải nắm vững những yêu cầu chặt chẽ sau đây: - Một là, quyết định hành chính chỉ có hiệu quả cao khi quyết định đó có căn cứ khoa học, được luận chứng đầy đủ về mọi mặt. Khi đưa ra một quyết định hành chính phải cân nhắc, tính toán đến các lợi ích kinh tế. Tất nhiên, các quyết định hành chính tập trung thường được tính toán xuất phát từ việc kết hợp hợp lý các loại lợi ích. Người ra quyết định phải hiểu rõ tình hình thực tế, nắm vững tình huống cụ thể. Cho nên, khi đưa ra quyết định hành chính phải cố gắng có đủ những thông tin cần thiết cho việc ra quyết định trên cơ sở có bảo đảm về thông tin. Nên giao quyền ra quyết định cho cấp nào có đủ thông tin hơn cả. Tập hợp đủ thông tin, tính toán đầy đủ đến các lợi ích và các khía cạnh có liên quan là bảo đảm cho quyết định hành chính có căn cứ khoa học. Người quản lý giỏi, có nhiều kinh nghiệm không chỉ ra quyết định khi có đủ thông tin mà còn dự đoán được nét pháp triển chính, những mặt tích cực cũng như những khía cạnh tiêu cực có thể diễn ra khi quyết định được thi hành. Từ đó sẵn sàng bổ sung các biện pháp phát huy mặt tích cực và hạn chế mặt tiêu cực nếu có. - Hai là, khi sử dụng các phương pháp hành chính phải gắn chặt quyền hạn của người ra quyết định. Mỗi bộ phận, mỗi cán bộ khi sử dụng quyền hạn của mình phải có trách nhiệm về việc sử dụng các quyền hạn đó. Ở cấp càng cao, phạm vi tác động của quyết định càng rộng, nếu càng sai thì tổn thất càng lớn. Người ra quyết định phải chịu trách nhiệm đầy đủ về quyết định của mình. Như vậy, phải bảo đảm gắn quyền hạn với trách nhiệm chống việc lạm dụng quyền hành nhưng không có trách nhiệm cũng như chống hiện tượng trốn tránh trách nhiệm, không chịu sử dụng những quyền hạn được phép sử dụng cũng phải chịu trách nhiệm. Tóm lại, các phương pháp hành chính là hoàn toàn cần thiết không có phương pháp hành chính thì không thể quản trị doanh nghiệp hiệu quả. * Các phương pháp kinh tế Các phương pháp kinh tế tác động vào đối tượng quản lý thông qua các lợi ích kinh tế, để cho đối tượng bị quản trị tự lựa chọn phương án hoạt động có hiệu quả nhất trong phạm vi hoạt động (môi trường làm việc) của họ mà không cần thường xuyên tác động về mặt kinh tế. Mọi hoạt động sản xuất, kinh doanh của con người đều tuân theo các quy luật kinh tế khách quan. Sự chi phối của các quy luật đối với hoạt động của con người đều thông qua lợi ích kinh tế. Các phương pháp kinh tế tác động thông qua các lợi ích kinh tế nghĩa là thông qua sự vận dụng các phạm trù kinh tế, các đòn bẩy kích thích kinh tế, các định mức kinh tế - kỹ thuật, đó thực chất là sự vận dụng các quy luật kinh tế. Tác động thông qua lợi ích kinh tế chính là tạo ra động lực thúc đẩy con người tích cực lao động. Động lực đó sẽ càng lớn nếu nhận thức đầy đủ và kết hợp đúng đắn các lợi ích tồn tại khách quan trong doanh nghiệp. Mặt mạnh của phương pháp kinh tế chính là ở chỗ nó tác động vào lợi ịch kinh tế của đối tượng quản trị (là cá nhân hoặc tập thể lao động), xuất phát từ đó mà họ lựa chọn phương án hoạt động, đảm bảo cho lợi ích chung cũng được thực hiện. Vì vậy, thực chất của các phương pháp kinh tế là đặt mỗi người lao động, mỗi tập thể lao động vào những điều kiện kinh tế để họ có khả năng kết hợp đúng đắn lợi ích của mình với lợi ích của doanh nghiệp. Điều đó cho phép người lao động lựa chọn con đường hiệu quả nhất để thực hiện nhiệm vụ của mình. Đặc điểm của các phương pháp kinh tế là tác động lên đối tượng quản trị không bằng cưỡng bức hành chính mà bằng lợi ích, tức là nếu mục tiêu nhiệm vụ phải đạt được, đưa ra những điều kiện khuyến khích về kinh tế, những phương tiện vật chất có thể huy động để thực hiện nhiệm vụ. Chính các tập thể lao động (với tư cách đối tượng quản trị) vì lợi ích thiết thân, phải tự xác định và lựa chọn phương án giải quyết vấn đề. Các phương pháp kinh tế chấp nhận có thể có những giải pháp kinh tế, chủ thể quản trị phải biết tạo ra những tình huống, nhũng điều kiện để lợi ích cá nhân và tập thể lao động phù hợp với lợi ích chung của doanh nghiệp và Nhà nước. Các phương pháơp kinh tế tạo ra sự quan tâm vật chất thiết thân của đối tượng quản trị chứa đựng nhiều yếu tố kích thích kinh tế cho nên tác động nhậy bén, linh hoạt, phát huy được tính chủ động và các tập thể lao động. Với một biện pháp kinh tế đúng đắn, các lợi ích được thực hiện thoả đáng thì tập thể con người trong doanh nghiệp quan tâm hoàn thành nhiệm vụ, người lao động hăng hái sản xuất và nhiệm vụ chung được giải quyết nhanh chóng, có hiệu quả. Các phương pháp kinh tế là các phương pháp quản trị tốt nhất để thực hành tiết kiệm và nâng cao hiệu quả kinh tế. Thực tế quản lý chỉ rõ khoán là biện pháp tốt để giảm chi phí, nâng cao năng suất sản xuất. Các phương pháp kinh tế mở rộng quyền hành động cho các cá nhân và cấp dưới, đồng thời cùng tăng trách nhiệm kinh tế của họ. Điều đó giúp chủ doanh nghiệp giảm được nhiều việc điều hành, kiểm tra, đôn đốc chi li, vụn vặt mang tính chất sự vụ hành chính, nâng cao ý thức kỷ luật tự giác của người lao động. Việc sử dụng các phương pháp kinh tế luôn luôn được chủ doanh nghiệp định hướng, nhằm thực hiện các nhiệm vụ kế hoạch, các mục tiêu kinh doanh của từng thời kỳ. Nhưng đây không phải là những nhiệm vụ có căn cứ khoa học và cơ sở chủ động. Chủ doanh nghiệp tác động vào đối tượng bằng các phương pháp kinh tế theo những hướng sau: - Định hướng phát triển doanh nghiệp bằng các mục tiêu, nhiệm vụ phù hợp với điều kiện thực tế của doanh nghiệp, bằng những chỉ tiêu cụ thể cho từng thời gian, từng phân hệ của doanh nghiệp. - Sử dụng các định mức kinh tế; các biện pháp đòn bẩy, kích thích kinh tế để lôi quấn, thu hút, khuyến khích các cá nhânphấn đấu hoàn thành tốtnhiệm vụ được giao. - Bằng chế độ thưởng phạt vật chất, trách nhiệm kinh tế chặt chẽ để điều chỉnh hoạt động của các bộ phận, các cá nhân, xác lập trật tự kỷ cương, xác lập chế độ trách nhiệm cho mọi bộ phận, mọi phân hệ cho đến từng người lao động trong doanh nghiệp. Ngày nay, xu hướng chung của các nước là mở rộng việc áp dụng các phương pháp kinh tế. Để làm việc đó, cần chú ý một số vấn đề quan trọng sau đây: + Một là, việc áp dụng các biện pháp kinh tế luôn luôn gắn liền với việc sử dụng các đò bẩy kinh tế như giá cả, lợi nhuận, tín dụng, lãi suất, tiền lương, tiền thưởng v.v.. Nói chung, việc sử dụng các phương pháp kinh tế có liên quan chặt chẽ đến việc sử dụng các quan hệ hàng hoá - tiền tệ. Để nâng cao hiệu quả sử dụng các phương pháp kinh tế, phải hoàn thiện hệ thống các đòn bẩy kinh tế, nâng cao năng lực vận dụng các quan hệ hàng hoá - tiền tệ, quan hệ thị trường. + Hai là, để áp dụng phương pháp kinh tế phải thực hiện sự phân cấp đúng đắn giữa các cấp quản lý. + Ba là, sử dụng phương pháp kinh tế đòi hỏi cán bộ quản trị phải có trình độ và năng lực về nhiều mặt. Bởi vì sử dụng các phương pháp kinh tế còn là điều rất mới mẻ, đòi hỏi cán bộ quản trị phải hiểu biết và thông thạo kinh doanh, đồng thời phải có phẩm chất kinh doanh vững vàng. 2. Các phương pháp tác động lên các yếu tố khác của doanh nghiệp Đó là phương pháp quản lý đi sâu vào từng yếu tố chi phối lên các đầu vào của quá trình kinh doanh (tài chính, lao động, công nghệ, thông tin, pháp chế, vật tư, sản phẩm, rủi ro v.v..). Các phương pháp quản trị mang tính nghiệp vụ gắn liền với kỹ thuật thông lệ của các chuyên ngành quản trị (quản trị tài chính, quản trị nhân sự, quản trị công nghệ, quản trị thông tin và marketing, quản trị vật tư, quản trị sản phẩm, quản trị đầu tư, đưa tin học vào quản trị kinh doanh v.v..); và thường gắn với các phương pháp toán kinh tế - một loại công cụ không thể thiếu trong việc lựa chọn các phương pháp quản trị kinh doanh ngày nay. Các phương pháp toán kinh tế là tên gọi chung chỉ một nhóm các bộ nôn khoa học tiếp giáp giữa kinh tế học, toán học và điều khiển học; ra đời và phát triển chủ yếu từ cuối những năm 40 của thế kỷ này và có thể chia thành 4 nhóm (xem sơ đò 3.2): Thống kê kế toán: Là một bộ phận của toán học ứng dụng dành cho các phương pháp xử lý và phân tích số liệu thống kê, mà các ứng dụng chủ yếu của nó trong quản lý là các phương pháp xử lý kiểm tra và dự toán ( dự đoán, điều tra chọn mẫu, lý thuyết sắp hàng, lý thuyết tồn kho sự trữ, lý thuyết thay thế bảo quản, lý thuyết thông tin, lý thuyết mã hoá v.v...). Mô hình hoá toán học: Là sự phản ánh những thuộc tính cơ bản nhất định của các đối tượng nghiên cứu kinh tế, là công cụ trọng cho việc trừu tựng hoá một cách khoa học các quá trình và hiện tượng kinh tế. Khoa học kinh tế từ lâu đã biết sử dụng các mô hình kinh tế lượng như mô hình hàm sản suất Cobb – Douglas, mô hình cung cầu, giá cả v.v... Vận trù học: Là khoa học có mục đích nghiên cứu các phương pháp phân tích nhằm chuẩn bị căn cứ chính xác cho các quyết định, đối tượng của nó là hệ thống, tức là tập hợp các phần tử và hệ thống còn có tác động qua lại với nhau nhằm đạt tới một mục tiêu nhẩt định. Vận trù học bao gồm nhiều nhánh khoa học ứng dụng gộp lại: (1) Lý thuyết tối ưu (bao gồm: quy hoạch tuyến tính, quy hoạch động, quy hoạch ngẫu nhiên, quy hoạch nguyên, quy hoạch khối, quy hoạch 0 – 1, quy hoạch mờ, quy hoạch nhiều mục tiêu, quy hoạch nhiều chỉ số, lý thuyết trò chơi...); (2) Lý thuyết đồ thị và sơ đồ mạng lưới; (3) Lý thuyết dự trữ bảo quản; (4) Lý thuyết phục vụ đám đông; (5) Lý thuyết tìm kiếm; (6) Lý thuyết các điểm chạy... Điều khiển học: Là khoa học về điều khiển các hệ thống động và phức tạp trong đó quá trình vận động của thông tin. Mục đích chính của điều khiển học là phát hiện ra các quy luật vận động của thông tin để điều khiển các hệ thống một cách có hiệu quả và để xây dựng bộ máy điều khiển có hiệu lực thực hiện chức năng này. Điều khiển học được coi như ra đời vào năm 1948 với cuốn sách của nhà bác N. Vine có nhan đề “Điều khiển học, hay sự điều khiển và mối liên hệ trong sinh vật và máy móc”. Điều khiển học đã phát triển theo các chiều hướng khác nhau: lý thuyết, ứng dụng và thực hiện. Một nhánh quan trọng của điều khiển học là điều khiển học kinh tế ra đời từ cuối những năm 50 đầu những năm 60 của thế kỷ này. Đối tượng nghiên cứu của điều khiển học kinh tế là các hệ thống kinh tế (như nền kinh tế quốc dân, một ngành kinh tế hoặc quá trình kinh tế phức tạp). Mục tiêu của điều khiển học kinh tế là nhằm phát hiện ra những quy luật về vận động thông tin trong các hệ thống kinh tế để đề ra nguyên lý, các phương pháp tổ chức quản lý các hệ thống một cách có hiệu quả và xây dựng bộ máy quản lý có hiệu lực thực hiện các chức năng đã vạch ra. Căn cứ vào nội dung cụ thể của các phương pháp toán kinh tế, có thể thấy rõ các phương pháp này có hai phương hướng tác dụng chủ yếu trong quản lý kinh tế: - Thứ nhất, nó là công luận của nhận thức luận. Chẳng hạn từ mô hình hàm sản xuất Cobb – Douglas của doanh nghiệp năm 1994 là: Y = 0,35. K0,61 . L0,48 (4) Nếu năm tới 1995, doanh nghiệp có thêm nguồn vốn đầu tư bổ sung 100 triệu đồng thì nên đầu tư tăng tài sản cố định (K) lên, hay tăng lao động (L) lên lợi nhuận (Y) năm sau sẽ đạt mức cao nhất? rõ ràng hệ số hiệu quả đầu tư tài sản cố định cho ở mô hình (4) là 0,61 lớn hơn hệ số hiệu quả lao động là 0,4 doanh nghiệp chỉ nên đầu tư tăng tài sản cố định. - Thứ hai, các phương pháp toán kinh tế còn được sử dụng làm công cụ để lượng hoá các hiện tượng và các quá trình kinh tế trong quản lý. Thông qua việc mô hình hoá toán học người ta trừu tượng hoá các đối tượng nghiên cứu trong quản lý thành những bài toán cụ thể có thể giải được trên các máy vi tính để từ một số hết sớc lớn các phương án có thể (hàng trăm, hàng nghìn, hàng vạn hoặc hàng triệu) nhanh chóng tìm được phương án tối ưu cần tìm, mà bằng các phương pháp cũ và các công cụ trước đây không thể tìm nổi. * Mô hình hoá toán học Như đã đề cập ở trên, mô hình hoá toán học là phương hướng ứng dụng của các phương pháp toán kinh tế trong quản lý kinh doanh. Tư tưởng cơ bản của phương pháp mô hình hoá thể hiện ở dựa vào các kinh nghiệm quản trị, con người trừu tượng hoá đối tượng nghiên cứu thành mô hình (có thể biểu thị bằng một phương trình, một bất phương trình, một hệ số phương trình và bất phương trình...) Mô hình này phản ánh được bản chất đối tượng, rồi từ phân tích mô hình sẽ rút ra kểt luận, những quyết định cho đối tượng. Tất nhiên, nếu mô hình hóa phản ánh không đúng đắng hoặc không đầy đủ bản chất của đối tượng, thì những kết luận và quyết định rút ra từ mô hình nếu đem sử dụng trong thực tiễn của đối tượng sẽ không có tác dụng hoặc tác dụng ngược lại ý muốn. Nói một cách khác, việc mô hình hoá toán học là cách thử nghiệm các vấn đề quản trị bằng các mô hình dựa trên kinh nghiệm của con người. Các mô hình toán học của một đối tượng kinh tế có thể rất khác nhau về tầm cỡ, về độ phức tạp và về tính chất của công cụ toán học sử dụng, tuỳ thuộc vào người thiết lập mô hình. Trong các mô hình này, mô hình dùng để chọn quyết định tối ưu được gọi là mô hình tối ưu. Mô hình tối ưu bao gồm hai bộ phận chủ yếu là hàm mục tiêu và hệ ràng buộc. Hàm mục tiêu là tiêu chuẩn đề ra về hiệu quả quản trị (chẳng hạn là tổng giá trị sản lượng đạt cực đại: tổng lợi nhuận doanh nghiệp tăng nhanh nhất; năng suất lao động tăng nhiều nhất; chi phí vật tư, thiết bị ít nhất...). Còn hệ ràng buộc là các hạn chế thực tế về khả năng trong khi tiến hành lựa chọn quyết định tối ưu ( như hạn chế về tài nguyên, đất đai, lao động, nguồn vốn, trình độ quản trị...). Quá trình mô hình hoá toán học bao gồm các bước: - Hiểu đối tượng nghiên cứu và diễn đạt đúng nó bằng các biến số (xj); - Xác định tiêu chuẩn đánh giá hiệu quả các quyết định quản trị bằng cách đề ra các hàm mục tiêu (H (x)); - Nghiên cứu tất cả những gì có liên quan tới việc giải quyết vấn đề, tức là thiết lập được một hệ ràng buộc cụ thể. - Chỉ rõ phương pháp và phương tiện giải quyết vấn đề, tức là nêu thuật toán và phương trình giải trên máy tính điện tử, sau đó tìm quyết định tối ưu; - Rà lại quyết định tối ưu trên thực tế và điều chỉnh nếu thấy cần thiết; - Chỉ đạo thực hiện quyết định. Chẳng hạn, phải quyết định phương án phân bổ 3000 ha diện tích gieo trồng 3 loại nông phẩm A, B, C của doanh nghiệp S có các định mức và chỉ tiêu kinh tế kỹ thuật như 3.1 sau: Bảng 3.1: Loại nông phẩm Chi phí sản xuất cho 1 ha Ước giá trị sản lượng thu được trên 1 ha 1000 (đồng) Vốn 1000 (Đ) Lao động 1000 (đồng) A 300 500 2.000 B 350 400 1.500 C 400 450 2.500 Khả năng của doanh nghiệp có về phí lao động là 1.600 triệu đồng, về vốn khác là 1.200 triệu đồng; ngoài ra để bảo đảm nhu cầu hợp đồng đã ký kết thì ít nhất phải gieo trồng 600 ha nông phẩm A. Căn cứ vào các bước quả quá trình mô hình hoá thì: - Đầu tiên, phải tìm hiểu thật rõ đối tượng. Ở đây cái chính là đem 3000 ha đất gieo trồng phân bổ như thế nằotngf loại nông phẩm A, B, C. Nói một cách khác là phải lấy số diện tích gieo trồng cần tìm của mỗi loại hàm biến số (ký hiệu là x1, x2, x3). - Thứ hai, xác định tiêu chuẩn đánh giá hiệu quả của quyết định quản lý. Ở đây rõ ràng là phải xác định các mức diện tích gieo trồng x1, x2, x3 ra sao để cho tổng giá trị sản lượng đạt được đến mức cực đại có thể, tức là phải có: H(x) = 2.000x1 + 1.500x2 + 2.500x3 ---> max (5) H(x) chính là hàm mục tiêu của mô hình đã đề cập ở trên. - Thứ ba, nghiên cứu tất cả những cái liên quan đến việc ra quyết định để thành lập hệ ràng buộc của mô hình. Đó là những ràng buộc về khả năng có hạn về diện tích gieo trồng (x1 + x2 + x3 = 3.000), về mức gieo trồng tối thiểu loại nông phẩm A (x1 ≥600), về vốn (300x1 + 350x2 + 400x3 ≤ 1.200 triệu đồng); và về lao động (500x1 + 400x2 + 450x3 ≤ 1.600 triệu đồng); như vậy ở ví dụ đang xét, hệ ràng buộc gồm 1 phương trình và 3 bất phương trình: x1 + x2 + x3 = 3.000 x1 ≥ 600 300x1 + 350x2 + 400x3 ≤ 1.200.000 500x1 + 400x2 + 450x3 ≤ 1.600.000 Ngoài ra, vì x1, x2, x3 là số diện tích gieo trồng các loại nông phẩm nên nó phải là những số không âm, tức là: x1 ≥ 0, x2 ≥ 0 và x3 ≥ 0 - Thứ tư, căn cứ vào kết quả của bước 3, việc lựa chọn để đề ra quyết định (5), (6), (7) biến thành việc giải bài toán (5) – (6) – (7), bài toán này là mô hình toán học của vấn đề phải nghiên cứu. Để giải nó phải sử dụng phương pháp tương ứng của lý thuyết tối ưu trong quy hoạch tuyến tính, căn cứ vào loại máy tính cụ thể nào đó để viết chương trình giải tìm phương án tối ưu, là phương án cho giá trị của biến số x1, x2, x3 thoả mãn đồng thời cả ba điều kiện (5) – (6) – (7). - Thứ năm, sau khi đã có phương án tối ưu tìm được trên cơ sở giải bài toán (5) – (6) – (7) trên máy tính, cần đem xem xét một lần cuối trong thực tế điều chỉnh cho hợp lý hơn. - Cuối cùng, triển khai việc tổ chức thực hiện quyết định trong sản xuất. Như vậy, mô hình là sự trừu tựng hoá các đối tượng kinh tế cần phải nghiên cứu; nhưng khả năng trừu tượng hoá này không phải là vô hạn; nói một cách khác, việc sử dụng các phương pháp toán kinh tế trong quản lý là điều hết sức có ý nghĩa nhưng nó không thể thay thế cho mọi phương pháp khác hiện có của quản trị, mà nó chỉ là sự hỗ trợ tích cực trong hệ các phương pháp đã có. Sở dĩ có các giới hạn trong việc sử dụng các phương pháp toán kinh tế nói chung, trong việc mô hình hoá toán học các hiện tượng kinh tế nói riêng, là vì khi sử dụng các công cụ này còn cần phải có những điều kiện tương ứng: - Thứ nhất, muốn diễn tả được một cách cơ bản đúng các đối tượng kinh tế thì phải lượng hoá được nó bằng các phương trình hoặc bất phương trình... Điều này đòi hỏi phải có các điều kiện tiên quyết; các định mức kinh tế - kỹ thuật chính xác, sự ổn định của hệ thống, giá cả, sự nhận thức đúng đắn của con người; ngoài ra trong thực tế có nhiều ràng buộc không thể diễn đạt được thành các dạng số lượng như những ràng buộc không thể diễn đạt thành các dạng số lượng như những ràng buộc về tâm lý, tinh thần và thể chế, chế độ... - Thứ hai, trong nhiều trường hợp, mặc dù đã lượng hoá được đầy đủ đối tượng nghiên cứu thành những bài toán kinh tế cụ thể nhưng không có loại máy tính tiện tử đủ khả năng giải quyết được chúng để tìm ra phương án tối ưu trong khoảng thời gian cho phép nào đó (vì kích thước mô hình quá lớn do có quá nhiều biến số và nhiều phương trình các hệ ràng buộc, hoặc vì loại mô hình chưa có phương pháp giải quyết thoả đáng...). Việc sử dụng các mô hình hoá toán học trong quản trị kinh doanh phải hết sức linh hoạt và sáng tạo, không nên áp đặt; phải tuỳ vấn đề mà chọn công cụ, không được lấy công cụ để ràng buộc máy móc. Để sử dụng một cách có hiệu quả các mô hình toán kinh tế, các chủ doanh nghiệp phải hiểu rõ đặc điểm, tính chất và phạm vi ứng dụng của từng kiểu mô hình cụ thể. - Mô hình quy hoạch tuyến tính: Là loại mô hình được biểu hiện bằng các phương trình hoặc bất phương trình bậc nhất (tuyến tính như đã cho ở bài toán (5) - (6) - (7) của ví dụ đã xét ở trên. Đây là kiểu mô hình có nhiều ứng dụng nhất trong thực tế và vịêc giải nó cũng khá dễ dàng bằng thuật toán đơn hình (Simplex). Nó là mô hình lựa chọn các biến số x1, x2, không âm (x1,x2 > hoặc bằng 0) thoả mãn tối ưu một hàm mục tiêu bậc nhất và một hệ ràng buộc gồm các phương trình và bất phương trình bậc nhất. Cách giải là dùng thuật toán đơn hình (Simplex), đưa bài toán từ dạng tổng quát, rồi về dạng chính tắc và dạng chuẩn, cuối cùng lập bảng tính Thuật toán đơn hình (Simplex) Để giải bài toán quy hoạch tiến tính dạng chuẩn tắc dùng thuật toán gọi là thuật toán đơn hình. Ví dụ: Phải giải bài toán sau bằng thuật toán đơn hình. f(x) = 2x1 + 4x2 +0x3 + Mx4 → min 3x1 + 2x2 +x3 = 9 4x1 - 5x2 + x4 = 8 xj ≥ 0 (j = 1, 2, 3, 4) x3 là ẩn số phụ, x4 là ẩn giả, M > 0, lớn tuỳ ý Bước I: Lập bảng đơn hình xuất phát từ phương án ban đầu ( phần đầu bảng 3.2). Bảng 3.2: Bước Hệ số Ẩn cơ bản Phương pháp x1 x2 x3 x4 Dòng 1 2 4 0 M Dòng 2 1 0 M x3 x4 9 8 3 (4) 2 -5 1 0 0 1 A (bước 1) f(x) 8M 4M-2 -5M-4 0 0 Dòng cuối bước 1 A (bước 2) 2 0 x3 3 0 23/4 1 2 x1 2 1 -5/4 0 f(x) 4 0 -13/2 0 Dòng cuối bước 2 Bước II: NHận thấy Δj ≤ 0 (j = 1, 2, 3) thoả mãn tiêu chuẩn tối ưu, ta được phương án phải tìm: x1 = 2; x2 = 0 f min = 4 Cách lập bảng đơn hình như sau: Bước 1 Dòng 1: ghi các ẩn của bài toán x1, x2, x3, x4. Dòng 2: Ghi hệ số tương ứng của các ẩn (căn cứ vào hàm mục tiêu: 2; 4; 0 và M). - Cột (1) ghi bước. - Cột (2) ghi hệ số có ẩn cơ bản, căn cứ vào các dòng 1 và 2. - Cột ghi ẩn cơ bản. - Cột (4) ghi phương án ban đầu (các hệ số vế phải của ràng buộc) - Phần A (bước 1): Ghi các hệ số vế phải của hệ ràng buộc: 3 2 1 0 4 -5 0 1 - Ô nằm ở giao diện cột (4) và dòng cuối bước 1 tính như sau: Đem các hệ số ở cột (2) nhân tương ứng đối với các hệ số ở cột (4) rồi cộng kết quả lại: (2) (4) 0.9 0 9 M.8 = 8M M 8 ________________ Cộng 8M + 0 = 8M - Dòng cuối phần còn lại, ghi các Δj (ứng với x4) cũng như trên nhưng sau khi cộng thì đem kết quả trừ đi hệ số của xj tương ứng trên dòng (2), chẳng hạn tính Δ1. (2) (x1) 0,3 = 0 0 3 M.4 = 4M M 4 ________________ Cộng 4M + 0 = 4M Sau trừ hệ số của x2 là 2. Δ1 = 4M - 2 Bước 2: Kiểm tra tiêu chuẩn tối ưu: "Một phương án là tối ưu nếu ở dòng cuối mọi Δj đều không dương". Trong ví dụ đang làm, bước 1 dòng cuối có: Δ1 = 4M - 2 > 0 nếu chưa thoả mãn, phương án tương ứng của nó: x1 = 0, x2 = 0, x3 = 6, x4 = 8 chưa phải phương án cần tìm. Ta điều chính sang phương án khác. Bước 3: Điều chỉnh - Tìm ẩn thay thế: Là ẩn ứng với giá trị max (Δj > 0) Trong ví dụ đang xét đó là Δ1 và vì thế ẩn thay thế ở bước 2 là x1. Ta đóng khung xung quanh. (Δ1) = (4M - 2) - Tìm ẩn loại ra theo trình tự sau: X trên cột dưới Δ1 (phần A cũ, lấy ra các hệ số dương (nếu tất cả đều âm hoặc bằng không thì bài toán kết luận ngay là không có lời giải - việc tính toán ngưng lại). Trong ví dụ đang xét: 9 3 8 4 (8M) 4M - 2 Ta có hệ số dương là 3 và 4, lấy cả 2. - Trên cùng dòng của các hệ số dương ở trên: Xét phần nằm ở cột phương án, ta có các hệ số tương ứng (cùng dòng là 9 và 8). - Chi các hệ số trên cột phương án cho các hệ số của cột 1. 9 8 ------- = 3 ------ = 2 3 4 Ẩn bị loại là ẩn ứng với tỷ số chia bé nhất. Min ( 9/3, 8/4 )=2 Tức ứng với tỷ số 8/4 đánh dấu móc vào số (4) (4) được gọi là phần tử trụ cột (bước 1) Ứng với (4) cùng dòng nhìn vào cột (2) là ẩn x4, x4 chính là ẩn bị loại. - Biến đổi sang bước 2. + Cột (1) ghi: bước 2. + Cột (3) ghi các ẩn cơ bản. x3 x1 Ẩn giả x4 bị loại, trở về hàm f(x) ban đầu (tức là f hay f) + Cột (2) ghi hệ số các ẩn cơ bản mới: 0 2 + Tìm các hệ số ở cột phương án và phần A mới của bước 2 theo cách sau: + Tính dòng chuẩn trước, đó là dòng có cùng vị trí với dòng chứa phần tử trụ cột của bước trước (ở đây đang xét là bước 1). Trong ví dụ đang xét bước 1 có phần tử trụ cột (1) nằm ở dòng 2 do đó ở bước 2 dòng chuẩn là dòng 2. Muốn tính hệ số dòng chuẩn bước mới, đem các hệ số của dòng chứa phần tử trụ cột bước cũ chia cho chính phần tử trụ cột, tức là chia dòng cũ cho 4 ta được dòng mới. Dòng cũ 8 (4) -5 0 Dòng mới 2 1 -5/4 0 Cột chứa ẩn giả đã loại không cần tính vì ẩn giả đã bị loại không quay trở lại nữa. - Các dòng còn lại của phần A (bước 2) tính như sau: nếu phải tính dòng i (ví dụ dòng 1) thì lấy dòng chuẩn đã tính, đem nhân lên với số đối của số nằm trên dòng i cũ cắt với cột chứa phần tử trụ cột, rồi cộng tương ứng (theo dòng) vào dòng i cũ để được dòng i mới. Ví dụ, tính tiếp dòng 1 mới: (-3) 9 3 2 1 dòng 1 cũ 8 (4) -5 0 - dòng chứa phần tử trụ cột 2 1 -5/4 0 - dòng chuẩn của bước 2 Kết quả thành: 3 0 23/4 1 - Tính dòng cuối (như dòng cuối bước). Chú ý: Δj ứng với ẩn cơ bản bao giờ cũng bằng 0, nên không cần tính mà ghi luôn kết quả cho nhanh. Trở lại bài toán lức đầu (5) - (6) - (7) đưa về bài toán dạng chuẩn: - 2000x1 - 1500x2 - 2500x3 + Mx6 → min x1 + x2 + x3 + x4 = 3.000 x1 - x5 +x6 = 600 300x1 + 350x2 + 400x3 + x7 = 1.200.000 500x1 + 400x2 + 450x3 + x8 = 1.600.000 xj ≥ 0 (j = 1 / 8), M > 0 lớn tuỳ ý (x4, x5, x7, x8 là 4 ẩn phụ, x6 là ẩn giả) Lập bảng đơn hình Bảng 3.3: BẢNG ĐƠN HÌNH B H A P -2000 -1500 -2500 0 0 M 0 0 x1 x2 x3 x4 x5 x6 x7 x8 1 0 M 0 0 x4 x6 x7 x8 3.000 600 1.200.000 1.600.000 1 (1) 300 500 1 0 350 400 1 0 400 450 1 0 0 0 0 -1 0 0 0 1 0 0 0 0 1 0 0 0 0 1 g(x) 600M M+2.000 1500 2500 0 -M 0 0 0 2 0 -2.000 0 0 x4 x1 x7 x8 2.400 600 1.020.000 1.300.000 0 1 0 0 1 0 350 400 (1) 0 400 450 1 0 0 0 1 -1 300 500 0 0 1 0 0 0 0 1 g(x) -1.200.000 0 1500 2500 0 2000 0 0 3 -2.500 -2.000 0 0 x3 xi x7 x8 2.400 600 60.000 220.000 0 1 0 0 1 0 -50 -50 1 0 0 0 1 0 -400 -450 1 -1 -100 50 0 0 0 0 0 0 0 1 g(x) -7.200.000 0 -1000 0 -2500 -500 0 0 Đến bước 3, mọi Δj ≤ 0 thoả mãn tiêu chuẩn tối ưu. Phương án bố trí gieo trồng x1 = 600 ha, x3 = 2400 ha, mức tổng giá trị sản lượng tối đa là f(x) = - g(x) = 7.200.000 (nghìn đồng). Việc sử dụng qua các mô hình quy hoạch tuyến tính đặc biệt thu được kết quả tốt trong các bài toánvề lưu thông phân phối, về phân bố lực lượng sản xuất, về pha cắt nguyên liệu và phân bổ nhiệm vụ sản xuất, các bài toán thuộc loại sản xuất đồng bộ... Nhờ sử dụng các mô hình quy hoạch tuyến tính trong thực tế, có nhiều trường hợp những quyết định quản trị có hiệu quả làm giảm chi phí hoặc tăng thêm giá trị sản lượng từ 10% - 20%. - Các mô hình quy hoạch động gắn liền với quá trình ra quyết định qua nhiều bước. - Các mô hình quy hoạch phi tuyến: Là các mô hình cho như ở bài toán (5) - (6) - (7) nhưng trong đó, hoặc hàm mục tiêu, hoặc hệ ràng buộc, hoặc cả hai có dạng không phải là những hàm bậc nhất (phi tuyến tính). Điều này thường xảy ra trong thực tế. Chẳng hạn, nếu xét mối quan hệ tỷ lệ giữa giá thành sản phẩm và chi phí đầu tư. Mối quan hệ này thường không cùng tăng giảm theo tỷ lệ như nhau. Nếu vốn đầu tư lúc đầu đã lên mức K đồng mà ta lại tăng thêm 3% thì giá thành(theo quy luật hợp lý) có thể giảm xuống 2%, khi đó nếu tăng thêm vốn đầu tư lên không phải là 3% mà là 6% (2 lần lớn hơn) thì không phải nhất thiết giá thành cũng giảm xuống gấp 2 lần mà có thể chỉ là một tỷ lệ ít hơn, tức là giữa mức giảm tăng vốn đầu tư và mức giá giảm thành không phải theo tỷ lệ bậc nhất. - Các mô hình quy hoạch ngẫu nhiên (hoặc còn gọi là quy hoạch xác suất thống kê) trong đó một dạng quan trọng của nó là quy hoạch mờ (Fuzzy): Là một bộ phận của quy hoạch toán học, nghiên cứu lý thuyết và các phương pháp giải bài toán tối ưu trong trường hợp khi thông tin về các tham số điều kiện của bài toán không đầy đủ. Đây cũng là một mô hình thường gặp trong thực tế quản trị kinh doanh xét trong một khoảng thời gian khá dài (có sự biến động về giá cả; về trữ lượng tài nguyên, về điều kiện thiên nhiên; về các phương tiện cụ thể của hệ thống giao thông; về sự thay đổi của thị trường; về trình độ khoa học - kỹ thuật; trình độ quản lý...) mà thời điểm chuẩn bị ra quyết định, chủ thể quản lý không đủ thông tin để lường thấy trước mọi vấn đề. - Các mô hình quy hoạch nguyên: Là một trường hợp riêng của các mô hình quy hoạch tuyến tính nhưng có ràng buộc thêm là các biến số chỉ lấy các giá trị nguyên và không âm. Chẳng hạn nếu gọi biến số x1, x2 ... là số lượng các con gia súc loại I và loại II... ở bài toán chăn nuôi, thì hiển nhiên x1, x2... là những con số nguyên không âm. Việc giải các mô hình quy hoạch nguyên này thường cũng đưa về giải các bài toán quy hoạch tuyến tính thông thường tương ứng. - Các mô hình quy hoạch 0 - 1: Cũng là một trường hợp riêng của mô hình quy hoạch tuyến tính, thường được sử dụng trong việc xác định địa điểm chọn đặt xây dựng nhà máy, xí nghiệp... Chẳng hạn, trở lại việc tìm địa điểm xây dựng nhà máy, xí nghiệp... Chẳng hạn, trở lại việc tìm địa điểm xây dựng 2 nhà máy lắp đặt trong số 30 địa điểm đã biết T1, T2..., T30. Khi thiết lập mô hình để chọn quyết định phải đưa thêm vào 30 biến số x1, x2...x30 ứng với 30 điểm, các biến số này khác các biến số thông thường khác ở chỗ nó chỉ nhận hai trị số. Bằng 1 nếu địa điểm ứng với biến số này khác các biến số thông thường khác ở chỗ nó chỉ nhận hai trị số. Bằng 1 nếu địa điểm ứng với biến số này được xây dựng, và bằng 0 nếu địa điểm không được chọn, việc giải mô hình của bài toán thông thường đưa về giải nhiều bài toán quy hoạch tuyến tính tương ứng. Mô hình bài toán quy hoạch 0 - 1 cũng thường dùng khi sử dụng và lựa chọn bổ nhiệm cán bộ lãnh đạo. - Các mô hình quy hoạch nhiều hàm mục tiêu: Là biến dạng của mô hình trên bằng cách thay một hàm mục tiêu bằng nhiều hàm mục tiêu; tức là từ chỗ chỉ có hàm H(x) max thì có các hàm H1(x) → max, H2(x) → min,..., Hm(x) → max... Còn các điều kiện ràng buộc khác vẫn giữ nguyên. Chẳng hạn, khi lập kế hoạch phát triển kinh doanh của doanh nghiệp không chỉ nhằm làm cho tổng doanh số tăng lớn nhất, mà còn phải kết hợp giải quyết bảo đảm mức chất lượng sản phẩm cao nhất, hạn chế rủi ro tới mức thấp nhất, nhiên liệu, vật liệu chi phí ở mức nhỏ nhất... Các mô hình quy hoạch nhiều hàm mục tiêu này, rất nhiều trường hợp còn chưa được giải quyết trọn vẹn, nguyên tắc xử lý là nguyên tắc nhượng bộ nhằm dung hoà các loại mục tiêu. Hiện nay các mô hình thuộc loại này còn ít được sử dụng. - Các mô hình lý thuyết trò chơi: Là các mô hình toán học ra quyết định tối ưu trong các điều kiện xung đột. Đây cũng là một loại mô hình thường dùng trong quản trị kinh doanh. Chẳng hạn, nhưng chúng ta đã biết, trong một doanh nghiệp thường tồn tại nhiều loại lợi ích khác nhau đòi hỏi các chủ doanh nghiệp phải có một sự kết hợp hài hoà hợp lý các loại lợi ích đó, chúng không phải không có mâu thuẫn, và khi xử lý không thể cắt bỏ đi một loại lợi ích nào mà ngược lại đều phải thực hiện tất cả dựa trên cơ sở phát triển sản xuất, nâng cao không ngừng năng xuất lao động. Quyết định cụ thể cho việc giải quyết sẽ dẫn tới việc lập và giải các mô hình lý thuyêt trò chơi nhằm phân định một cách rõ ràng khối lượng và tỷ lệ hợp lý cho từng loại lợi ích phù hợp với các nguyên tắc quản lý kinh tế kinh tế xã hội chủ nghĩa . Việc giải quyết bài toán với mô hình lý thuyết trò chơi thông thường cũng được đưa về giải các bài toán quy hoạch tuyến tính, tuy có những ràng buộc phức tạp hơn đôi chút. - Mô hình mạng lưới (PERT - Program Evaluation and Review Technique): là một nhóm của mô hình quy hoạch toán, thường dùng trong việc xác định hợp lý công nghệ làm việc của một quá trình nào đó. Nói một cách rõ hơn, nó là khoa học sắp xếp, bố trí các công việc nhằm tìm ra khâu xung yếu nhất cần phải biết để có biện pháp bố trí vật tư, thiết bị và cán bộ; là cách làm việc vừa nắm được toàn cục vấn đề vừa nắm được từng phần cụ thể cụ thể, chi tiết. Ưu điểm nổi bật của mô hình mạng lưới so với các hình thức biểu diễn kế hoạch khác là ở chỗ nó nếu rõ tất cả các mối liên hệ lẫn nhau theo thời gian của các công việc. Kế hoạch được thực hện bằng sơ đồ mạng lưới có thể được chi tiết hoá ở mức độ bất kỳ tuỳ theo yêu cầu toàn bộ các công việc trong hệ thống và thứ tự thời gian thực hiện các công việc đó. Chẳng hạn, doanh nghiệp phải triển khai trong năm 14 công việc với thời gian cần thiết và logic hợp lý phải tuân thủ là: Bảng 3.4: Công việc Thời gian chi phí (tuần) Trình tự công việc X1 X2 X3 X4 X5 X6 X7 X8 X9 X10 X11 X12 X13 X14 3 3 4 3 6 5 6 4 3 5 2 4 2 3 Làm ngay không trì hoãn Làm ngay không trì hoãn Làm sau khi X1 xong Làm sau khi X1 xong Làm sau khi X1 xong Làm sau khi X2, X3 xong Làm sau khi X2, X3 xong Làm sau khi X4 xong Làm sau khi X5, X6, X8 xong Làm sau khi X5, X6, X8 xong Làm sau khi X5, X6, X8 xong Làm sau khi X7, X11 xong Làm sau khi X9 xong Làm sau khi X10, X12 xong Trình tự sử dụng phương pháp sơ đồ mạng lưới như sau: Bước 1: Vẽ sơ đồ logic của toàn bộ các công việc, mỗi công việc biểu thị bằng một mũi tên, mỗi đầu có một vòng tròn gọi là các đỉnh, trên mỗi mũi tên ghi rõ nội dung và thời gian chi phí thực hiện các công việc. (Trường hợp chi phí lao độ, vật tư, tiền vốn... cũng làm tương tự). Việc vẽ sơ đồ được thực hiện trên máy vi tính hoặc trên bản tính vẽ tay (giấy, bảng v.v...) phản ánh đúng logic của bảng các công việc đã cho. Trong trường hợp thời gian không khẳng định được chắc chắn, người ta thường sử dụng công thức tính: ti = ai + 4mi +bi / 6 ti là thời gian chi phí trung bình để thực hện xong công việc xi, ai là thời hạn làm xong xi một cách nhanh nhất, còn mi là thời hạn thông thường sử dụng để làm xong việc xi, bi là thời hạn làm lâu nhất. Bước 2: Đánh số thứ tự cách đỉnh, ghi vào góc trên cùng theo quy tắc sau: - Đỉnh nào chỉ có mũi tên đi ra thì đánh số trước. - Đánh số từ trên xuống dưới, từ trái qua phải. SƠ ĐỒ MẠNG LƯỚI CÔNG VIỆC - Đỉnh nào được đánh số rồi, thì các mũi tên đi ra từ nó coi như bị xoá. Bước 3: Tính thời hạn bắt đầu sớm các đỉnh, ghi vào góc bên trái, theo quy tắc: - Tính từ đỉnh nhỏ tới đỉnh lớn kế tiếp 1, 2... - Đỉnh 1 có một thời hạn bắt đầu sớm bằng 0. - Các đỉnh còn lại lấy số lớn nhất của tổng giữa thời hạn bắt đầu sớm ở đỉnh liền trước cộng với thời gian thực hiện công việc tiến về nó. Trong sơ đồ 3.5: Đỉnh 2 có 1 mũi tên (công việc) tiến về nó là X1 có thời hạn t1 = 3 tuần, nên thời hạn bắt đầu sớm ở đỉnh 2 sẽ là: 0 + 3 = 3. Còn đỉnh 3, có 2 mũi tên tiến về nó là X2 và X3 nên thời hạn bắt đầu sớm ghi ở đỉnh 3 sẽ là: max (0+3; 3+4) = 7 Bước 4: Tính thời hạn kết thúc muộn các đỉnh ghi vào góc phải của mình; theo quy tắc: - Tính lùi từ đỉnh có số thứ tự lớn về đỉnh có thứ tự nhỏ kế tiếp. - Đỉnh cuối có thời hạn kết thúc muộn bằng thời hạn bắt đầu sớm. Trong ví dụ đang xét ở sơ đồ 3.5, đỉnh 9 là đỉnh cuối có thời hạn bắt đầu sớm bằng thời hạn kết thúc muộn = 21 tuần. - Các đỉnh còn lại lấy số nhỏ nhất của hiệu giữa hai hạn kết thúc muộn đỉnh trước trừ với thời gian thực hiện công việc của tên (công việc) lùi về nó. - Chẳng hạn, trong sơ đồ 3.5 sau khi tính thời hạn kết thúc muộn đỉnh 9 là 21, lùi về đỉnh 8 có 1 mũi tên X14 co thời gian thực hiện 3 tuần, đỉnh 8 sẽ có thời gian kết thúc muộn là 21 - 3 = 18; tương tự, đỉnh 7 có thời hạn kết thúc muộn là 21 - 2 = 19. Đỉnh 6 có thời hạn kết thúc muộn là 18 - 4 = 14 tuần. Còn đỉnh 5 có tới 3 mũi tên lùi về nó là X9 (3 tuần), X10 (5 tuần) và X11 (2 tuần). Thời hạn kết thúc muộn đỉnh 5 sẽ là: min (19 - 3, 18 - 5, 14 -2) = 12 Bước 5: Tìm các đỉnh găng, là các đỉnhcó hiệu số giữa thời hạn kết thúc muộn với thời hạn bắt đầu sớm bằng không (ghi ở góc dưới); trong cơ sơ đồ 3.5 là các đỉnh: 1, 2, 3, 5, 6, 8, 9. Bước 6: Tìm các cộng việc găng là các công việc nối liền 2 đỉnh găng. Trong hình 5 là các công việc không có thời gian dự trữ, nếu doanh nghiệp thực hiện trậm trễ ảnh hưởng đến công việc khác (trong sơ đồ, công việc găng được vẽ 2 nét). Bước 7: Tìm đường găng: Là đường nối liền các công việc găng và đỉnh găng liên tục từ đỉnh 1 về đỉnh cuối và có tổng thời hạn thực hiện sớm các công việc bằng đúng thời hạn kết thúc muộn đỉnh cuối.Trong ví dụ đang xét đó là đường găng X1, X3, X6, X11, X12, X14 (trong sơ đồ: công việc nằm trên đường găng ghi 2 nét có gạch). Đường găng biểu thị tất cả các công việc xung yếu mà công ty phải đặc biệt quan tâm. - Việc sử dụng mô hình mạng lưới cho phép áp dụng rộng rãi các phương tiện kỹ thuật tính toán nhằm giúp xử lý thông tin cần thiết cho người lãnh đạo ở các cấp và các tuyến để đề ra những quyết định có tính chiến lược, chiến thuật hay tác nghiệp. Vì vậy, phần lớn hệ thống kế hoạch hoá và quản lý theo sơ đồ mạng lưới thuộc hệ thống quản trị tự động hoá. Việc lập và giải bài toán của các mô hình này thường được đưa vào thực hiện trên các máy vi tính. - Mô hinh mô phỏng (hoặc còn gọi là mô hình tương tự) là mô hình dùng làm công việc để phân tích và thiết kế các hệ thống quản lý kinh tế trên các mày móc và thiết bị hiện đại. Nó được áp dụng trong các trường hợp khi không thể giải được bài toán bằng các mô hình đã được đề cập, va cũng không thể tiến hành thể nghiệm trên thực tế vì không hợp lý, do không thể tính toán trước hậu quả của các quyết định quản trị, của sự thay đổi cơ cấu hoặc chức năng cũng như của các tác động khác nhau thu nhận từ môi trường xung quanh. Kết quả của mô phỏng trên máy kà thu được các kết luận thống kế cho phép đánh giá những đặc điểm nào đó của hệ thống quản trị. * Các phương pháp dự đoán Đó là việc dự kiến khả năng nguồn khách hàng và số lượng chủng loại sản phẩm và các yêu cầu khác về sản phẩm mà số khách hàng này cần doanh nghiệp đáp ứng cho họ. Các phương páhp dự đpán cụ thể thường sử dụng là; - Các phương pháp thống kế toán học: Đó là việc dựa vào chuỗi các số liệu của quá khứ, hoặc các số liệu qua điều tra xã hội hoạc để suy diễn các số liệu trong tương lai gần đó. Có thể kể ra các phương pháp như sau; - Phương pháp trung bình trượt. Giả sử có chuỗi số liệu quá khứ của doanh nghiệp như bảng 3.5 Bảng 3.5: SỐ LƯỢNG SẢN PHẨM BÁN ĐƯỢC TRONG QUÁ KHỨ 1994 - 2002 Số sản phẩm đã bán trong năm (1000) 40 53 31 37 59 45 50 44 54 Năm 1994 1995 1996 1997 1998 1999 2000 2001 2002 Biểu thị chuỗi số liệu ở bảng 3.5 trên đồ thị 3.1 sẽ được một đường gấp khúc nối các điểm (dấu chấm) Trên sơ đồ 3.5 trục tung biểu thị số lượng sản phẩm đã bán ra qua các năm ( đơn vị 10000 SP ) còn trục hoành là các năn trượt, bằng các cộng lẻ chia ( cộng chia 3, cộng chia 5 vv...) chẳng hạn lấy chung bình cộng của 3 số một. Năm mở đầu ( năm 1994 có số trục hoành bằng 1) lấy ngay số liệu gốc, tức là 40 nghìn sản phẩm) năm thứ 2 ( số số trục hoành bằng 2 ứng với năm 1995 ) lấy số trưng bình công các sản phẩn bán được của 3 năm 1994, 1995, 1996 40 + 53 + 31 = 41 thứ ba ( là trung bình cộng số sản phẩm bán ra trong 3 năm 1995, 1996, 1997 53 + 31 + 37 = 40 vv... chuỗi các số liệu trung bình cộng được cho ở. Bảng 3.6 SỐ LIỆU TRUNG BÌNH TRƯỢT Số lượng sản phẩm 40 41 40 42 47 51 46 49 54 Năm 1994 1995 1996 1997 1998 1999 2000 2001 2002 Biểu diễn trên đồ thị các số liệu ( lấy giá trị trung bình ) của bảng 3.6 trên cùng sssôd thị sẽ được môtk đướng fấp khúc ( đường nối các điểm dấu vuông và nối bằng các đoạn chấm ) đường này ít gồ ghề hơn (mịn hơn, trơn hơn đường gấp khúc lúc đầu ) Dựa vào đường trung bình trượt này có thể phác hoạ xu thế số sản phẩm bán ra qua các năm bằng một đường cong liên tục y = f(x). Dựa trên đường cong này có thể dự đoán số sản phẩm có thể bán được cho các năm ( xem bảng 3.7 ) BẢNG 3.7 SỐ LIỆU DỰ ĐOÁN Số sản phẩm dự đoán 50 52 ..................... Năm 2003 2004 ..................... Kết quả dự đoán có thể sử dụng đuợc tương đối chính xác trong phạm vi vài ba năm (bằng 1/4 đến 1/3 số các số liệu của quá khứ). + Phương pháp hàm số: Cũng là nguyên lý của phương pháp dự đoán xu thế ở trên ; nhưng việc thực hiện khong phải lấo số trung bình trượt mà sử dụng phương pháp bình phương nhỏ để tìm ra tham số của hàm số y = f (x). Ví dụ: y = 40 + x khi đó muốn dự đoán số lượng sản phẩm có thể bán đựoc trong năm 1994 vớ ( x = 10) thay vào biểu thức hàm số y = 40 + x = 40 + 10 = 40 (SP). + Các phương pháp khác: Cps thể sử dựng các phương pháp điều tra (điều tra xã hội học), tính các hệ số co giãn đã biết, dự đoán kép ( ví dụ dự đoán mức thu nhập bình quan của các gia đình khách hàng có khả năng tiêu thụ sản phẩm của doanh nghiệp trong những năm phải dự đoán, sau dự đoán mối quan hệ giữa số lượng sản phẩm mua hàng của khách với mức thu nhập bình quân gia đình hàng năm của họ vv....) Toàn bộ các phương pháp này được các giáo trình dự đoán kinh tế xã hội học hoặc thống kê toán nghiên cứu kỹ lưỡng và đều đã được đưa vào các chương trình cài đặt sẵn của các loại máy vi tính hiện nay. * Các phương pháp phân đoạn thị trường - Phương pháp bảng kẻ ô. Là phương pháp phân đoạn thị trường dựa theo các dấu hiệu quan sát khách nhau phân theo từng cặp đôi một trên các bảng kẻ ô. Chẳng hạn, nghiên cứu nhu cầu phưong tiện đi lại của thành phố X ta thu được kết quả cho ở bảng kẻ ô 3.8 sau. Qua bảng trên ta thấy, số viên chức nhà nước sử dụng xe máy đi lại có tỷ lệ cao nhất (22%) tức là nếu muốn bán xe máy thì đoạn thị trường viên chức nhà nước có khả năng cao nhất. Từ phân tích đó, nếu chuyển tiếp sang các bảng kẻ ô tiếp theo để phân tích các thông tin cần thiết khác ta sẽ thu được những kết luận bổ ích chẳng hạn nghiên cứu tiếp bảng viên chức nhà nước/ xe máy/ thu nhập/ loại cỡ xe máy ta có kết quả trong bảng 3.9 Từ bảng vừa thiết lập qua khảo sát thực tế, ta rút ra được kết luận quan trọng là loại viên chức nhà nước có thu nhập cao đi xe máy 70 phân khối là chủ yếu ( 34%) cho nên cần chú ý nghiên cứu thêm mảng thị trường này ( viên chức - xe máy cỡ 70 phân khối có thu nhập cao) - Phương pháp sức hút thương mại: Là phương pháp do W.J Reilley đề xuất để dự đoán thị trường. - Phương pháp momen lực: Là phương pháp dự đoán vùng ảnh hưởng có thể có mà doanh nghiệp dự kiến lựa chọn từ các vùng có nhu cầu dùng xung quanh. Giả sử có 3 vùng A ( nghìn dân vùng B ( 250 nghìn dân ) và vùng C (200 dân ) cho trên bản đồ thu gọn từ thực địa ( sơ đồ 3.7) Nối tâm của ba vùng A,B,C ( cho tam giác ABC). Trên cạch chọn điểm sao cho AD: DE = EB x 250 rồi vuông góc với BC tại điểm E. Còn trên AC chọn điểm F sao cho có AF x 100 = FC x 200. Ba đường thẳng vuông góc sẽ cắt nhau tạo thành một tam giác nhỏ (gạch chéo) trên bản đồ và đó là nơi xí nghiệp có thể chọn để chiếm lĩnh thị trường - đó là phân đoạn thị trường có lợi nhất cho xí nghiệp. - Phương pháp đồ thị: Cũng là phương pháp quen dùng để dự đoán phân đoạn thị trờng, có thể nghiên cứu phương pháp này qua ví dụ minh hoạ ở đồ thị 3.2. Sơ đồ 3.2 có hai trục, trục tung biểu thị chất lượng xe máy từ thấp lên cao, còn trục hoành biểu thị cỡ xe máy từ nhỏ ( 50 phân khối) đến lớn ( trên 90 phân khối ), các vòng tròn với kích cỡ to nhỏ và vị trí khác nhau biểu thị các công ty bán xe máy tương ứng với tiềm năng to lớn. Trong đồ thị 3.2 công ty C là lớn nhất chuyên cung cấp xe máy cỡ lớn với chất lượng trung bình, công ty D lớn thức 2 chuyên cung cấp xe máy cỡ lớn với chất lượng thấp, còn công ty A là công ty cỡ thức 3 chuyên cung cấp xe máy chất lượng cao với cỡ xe máy trung bình. Công ty B nằm ngay ở gốc toạ độ, có quy mô nhỏ nhất chuyên cung cấp xe máy cỡ trung bình với chất lượng trung bìn. Nhìn vào đồ thị ta thất còn hai góc một phần thứ III và thứ IV còn trống trải, nếu công ty định tham gia cung cấp kinh doanh xe máy thì nên chọn hai phân đpạn thị trường này; góc III ứng với xe máy chất lượng thấp cỡ xe nhỏ, góc IV ứng với xe máy chất lượng cao và cỡ xe nhỏ. CÁC PHƯƠNG PHÁP PHỤC VỤ VÀ KÍCH THÍCH KHÁCH HÀNG MUA HÀNG Chào hàng Bán hàng trực tiếp Quảng cáo tuyên truyền Chiêu hàng - Chiêu thị (Promtion): Là các hoạt động xúc tiến việc bán sản phẩm của xí nghiêp (người bán) trên thị trường nói chung và thị trường mục tiêu (Target Marker ) nói riêng của Xí nghiệp. - Mục tiên của chiêu thị: Là nhằm bán hết được số sản phầm mà xí nghiệp đã tạo ra trong điều kiện có nhiều chủ thể cạnh tranh khác trên thị trường. Chiêu thị có một tác dụng hết sức to lớn trong hoạt động của xí nghiệp và nó được coi như một bộ phận hữu cơ gắn liền với hoạt động sản xuất. Có nhiều sản phẩm, nhiều doanh nghiệp nhiều nớc chi phí cho hoạt động chiêu thị chiếm một tỷ lệ khá lớn trong tổng chi phí chứa trong giá bán sản phẩm 9 tù 10-25%). Các hoạt động chiêu thị được đặc biệt phát triển ở các nước kinh tế phát triển nơi mà sự cạnh tranh là thường xuyên gay gắt. Chiêu thị có các nội dung cơ bản như: + Chào hàng + Bán hàng trực tiếp + Quảng cáo Tuyên truyền + Chiêu hàng + Các biện pháp của Nhà nước vv... 1. Chào hàng Là phương pháp sử dụng các nhân viên giao hàng (Personal Selling) để đưa hàn đến nơi giới thiệu và bán trực tiếp cho khách. Chào hàng có vị trí khá quan trọng trong các hoạt động chiêu thị vì nó sử dụng số lao động sư thừa của xã hội và có thể đưa sản phẩm đi rất xa khỏi nơi sản xuất. Muốn chào hàng có kết quả, nhân viên chào hàng phải đáp ứng đủ hai điều kiện sau: - Hiểu rõ sản phẩm của xí nghiệp đem đi chào hàng (giá trị của sản phẩm, cách bảo quản sử dụng sản phẩm, sự khác biệt giữa nó với các sản phẩm cạnh tranh tương tự vv....) - Biết nghệ thuật trình bầy sản phẩm cho khách hàng để thuyết phục người tiêu dùng từ, chưa biết, biết ưu thích, mua sản phẩm (nhân viên chào hàng phải phân biệt một cách chuẩn xác, khôn ngoan giữa sản phẩm đem chào hàng với các sản phẩm tương tự khác hiểu rõ thắc mắc của khách hàng để giải thích một cách đúng đắn, trung thực, biết đặt các câu hỏi gợi mở cho người tiêu dùng để tìm đúng nguyện vọng của khách đối với sản phẩm chứng minh cho khách hàng thấy việc mua ngay sản phẩm của mình là có lợi nhất....) 2. Bán hàng trực tiếp Tại các cửa hàng mẫu của Xí nghiệp đó là các điểm bá có tính thực nghiệm để xem xét khảo sát thị hiếu nguyện vọng của khách hàng góp phần thúc đẩy sản xuất kinh doanh nắm chắc và nắm chắc và nắm cụ thể điều mà thị truờng và người tiêu dùng đòi hỏi. 3. Quảng cáo tuyên truyền (Advertising): Quảng cáo tuyên truyền là cách sử dụng chữ viết, tiếng nói hình ảnh sản phẩm mẫu đễ trình bày thông báo cho người tiêu dùng sản phẩm của người bán (xí nghiệp) với mục đích thu hút sự chú ú và lôi kéo hành vi mua sản phẩm của người tiêu dùng. - Các phương tiện quảng cáo: Quảng cáo tuyên truyền có thể dùng hàng loạt các phương tiện sau: + Áp phích, Pano quảng cáo đặt tại những nơi có đông người qua lại với những hình ảnh đậm nét nhằm thu hút người qua lại, lưu ý đến sản phẩm của xí nghiệp. + Đóng gói, bao bì để sản phẩm tự giới thiệu mình, để khách dừng chân lại với sản phẩm, tìm hiểu nó và quyết định mua nó. + Đài phát thanh: Có khả năng thông báo rộng rãi sản phẩm trong cả nước. + Vô tuyến, băng hình: là các biện pháp tác động thông qua hình ảnh của sản phẩm ở các góc độ lợi nhất, để người tiêu dùng bị kích thích, lôi quấn và quan tâm đến sản phẩm. + Tờ rơi, dùng chữ viết hình ảnh để thông báo rộng rãi cho khách mua biết. + Sách, báo ( nhất là nhật báo ) để người đọc có thông tin ban đầu về sản phẩm, tạo đường mòn về ý thức có tồn tại sản phẩm xí nghiệp ở trong đầu khách hàng. + Tạp chí, phim ảnh riêng cề các sản phẩm của xí nghiệp do xí nghiệp, công ty lớn tự tổ chức và phát hành chủ động trên thị trường vv... - Các nguyên tắc quảng cáo: Quảng cáo trên thị trường phải đảm bảo các nguyên tắc sau: + Gợi mở: Để khách hiểu và tò mò thích thứ muốn tiếp cận sát hơn, trực tiếp hơn nữa đến sản phẩm. + Đặc trưng, tiêu biểu độc đáo. Chỉ rõ ưu điểm chủ yếu của sản phẩm so với sản phẩm cạnh tranh tương tự, tránh quảng cáo thô thiển ( sản phẩm rẻ bằng 1/3 sản phẩm khác là lại tốt hơn sản phẩm đó ... là vô lý. + Thường xuyên lặp lại. Tại thành đường mòn tâm lý trong người tiêu dùng về sản phẩm của mình. + Trung thực: Không được đánh lừa khách hàng. giới thiệu sản phẩm này lại bán cho sản phẩm khác. + Văn minh, tôn trọng người tiêu dùng, tránh lối quảng cáo dung tục, kệnh cỡm, thiếu văn hoá, thiếu tôn trọng khách hàng. + Thiết thực hiệu quả: Tránh quảng cáo bừa bãi bất kết hiệu quả thu lại những gì vv.. 4. Chiêu hàng (Yểm trợ, xúc tiến bán hàng): Là các biện pháp tổng hợp ngoài các biện pháp đã xét ở trên để khuyến khích việc bán. Đó lá các giải pháp độc đáo công phu và chuyên gia marketing của xí nghiệp tổ chức thực hiện (ở số sản phẩm, hội nghị khách hàng, chiêu đãi, các hoạt động từ thiện xã hội, các biện pháp bảo hiểm sản phẩm vv...) CÁC PHƯƠNG PHÁP SỬ DỤNG ĐỐI VỚI CÁC ĐỐI THỦ CẠNH TRANH Khái niệm cạnh tranh Cạnh tranh trong kinh tế giữa các doanh nghiệp. Các loại hình cạnh tranh Căn cứ vào chủ thể tham gia thị trường Căn cứ theo phạm vu nghành kinh tế Căn cứ vào tính chất cạnh tranh Căn cứ vào thủ đoạn sử dụng trong cạnh tranh Các công cụ cạnh tranh Cạnh tranh sản phẩm Cạnh tranh bằng giá bán sản phẩm Cạnh tranh bằng nghệ thuật tiêu thụ sản phẩm Cạnh tranh bằng các công cụ khác 1. Khái niệm cạnh tranh Cạnh tranh nói chung, cạnh tranh trong kinh tế nói riêng là một khái niệm có nhiều cách hiểu khác nhau. Khái niệm này được sử dụng cho cả phạm vi doanh nghiệp, phạm vi nghành, phạm vi quốc gia hoặc phạm vi khu vực liên quốc gia vv..điều này chỉ khác nhau ở chỗ mục tiêu được đặt ra ở chỗ quy mô doanh nghiệp hay ở quốc gia mà thôi. Trong khi đối với một doanh nghiệp mục tiêu chủ yếu là tồn tại và tìm kiếm lợi nhuận trên cơ sở cạnh tranh quốc gia hay quốc tế, thì đối với một quốc gia mục tiêu là nâng cao mức sống và phúc lợi cho nhân dân vv.. Theo K. Marx: "Cạnh tranh là sự ganh đua, đấu tranh gay gắt giữa các nhà tư bản nhằm dành giật những điều kiện thuận lợi trong sản xuất và tiêu dùng hàng hóa để thu được lợi nhuận siêu ngạch ". Nghiên cứu sâu về sản xuất hàng hóa tư bản chủ nghĩa và cạnh tranh tư bản chủ nghĩa Marx đã phát hiện ra quy luật cơ bản của cạnh tranh tư bản chủ nghĩa là quy luật điều chỉnh tỷ suất lợi nhuận bình quân, và qua đó hình thành nên hệ thống giá cả thị trường. Quy luật này dựa trên những chênh lệch giữa giá cả chi phí sản xuất và khả năng có thể bán hành hoá dưới giá trị của nó nhưng vân thu đựơc lợi nhuận. - Theo từ điển kinh doanh (xuất bản năm 1992 ở Anh) thì cạnh tranh trong cơ chế thị trường được định nghĩa là " Sự ganh đua, sự kình địch giữa các nhà kinh doanh nhằm giành tài nguyên sản xuất cùng một loại hàng hoá về phía mình. - Theo Từ điển Bách khoa Việt nam (tập 1) Cạnh tranh (trong kinh doanh) là hoạt động tranh đua giữa những người sản xuất hàng hoá, giữa các thương nhân, các nhà kinh doanh trong nền kinh tế thị trường, chi phối quan hệ cung cầu, nhằm dành các điều kiện sản xuất , tiêu thụ thị trường có lợi nhất. - Hai nhà kinh tế học Mỹ P.A Samuelson và W.D.Nordhaus trong cuốn kinh tế học (xuất bản lần thứ 12) cho. Cạnh tranh (Competition) là sự kình địch giữa các doanh nghiệp cạnh tranh với nhau để dành khách hàng hoặc thị trường. Hai tác giả này cho cạnh tranh đồng nghĩa với cạnh tranh hoàn hảo (Perfect Competition). Ba tác giả Mỹ khác là D.Begg, S. Fischer và R. Dornbusch cũng cho cạnh tranh là cạnh là cạnh tranh hoàn hảo, các tác giả này viết. Một cạnh tranh hoàn hảo, là nghành trong đó mọi người đều tin rằng hành động của họ không gây ảnh hưởng tới giá cả thị trường, phải có nhiều người bán và nhiều người mua. - Cùng quan điểm như trên, R.S. Pindyck và D.L Rubinfeld trong cuốn kinh tế học vĩ mô cho rằng: Một thị trường cạnh tranh hoàn hảo, hoàn thiện có rất nhiều người mua và người bán, để cho không có người mua hoặc người bán duy nhất nào có ảnh hưởng có ý nghĩa đối với giá cả. - Các tác giả trong cuốn "Các vấn đề pháp lý về thể chế và chính sách cạnh tranh kiểm soát độc quyền kinh doanh, thuộc sự án VIE/97/016 thì cho: Cạnh tranh có thể được hiểu là sự ganh đua giữa các doanh nghiệp trong việc giành một số nhân tố sản xuất hoặc khách hàng nhằm nâng cao vị thế của mình trên thị trường, để đạt đựơc một mục tiêu kinh doanh cụ thể, ví dụ như lợi nhuận, doanh số hoặc thị phần. Cạnh tranh trong một môi trường như vậy đồng nghĩa với ganh đua. - Tác giả Nguyễn Văn Khôn trong từ điển Hán việt giải thích: "Cạnh tranh là ganh đua hơn thua" - Ở Phạm vi quốc gia, theo Uỷ ban cạnh tranh công nghiệp của Tổng thống mỹ thì. Cạnh tranh đối với một quốc giá là mức độ mà ở đó, dưới các điều kiện thị trường tự do và công bằng, có thể sản xuất các hàng hoá và dịch vụ đáp ứng được các đòi hỏi của thị trường Quốc tế, đồng thời duy trì và mở rộng đợc thu nhập thực tế của người dân nứơc đó. - Tại diễn đàn Liên hợp quốc trong báo cáo về cạnh tranh toàn cầu năm 2003 thì định nghĩa cạnh tranh đối với một quốc gia là" Khả năng của nước đó đạt được những thành quả nhanh và bền vững về mức sống, nghĩa là đạt đựơc các tỷ lệ tăng trưởng kinh tế cao được xác định bằng các thay đổi của tổn sản phẩm quốc nội (GDP) tính trên đầu người theo thời gian. Từ những định nghĩa và các cách hiểu không giống nhau trên có thể rút ra các điểm hội tụ chung sau đây. Cạnh tranh là cố gắng nhằm giành lấy phần hơn phần thắng về mình trong môi trường cạnh tranh. Để có cạnh tranh phải có các điều kiện tiên quyết sau: - Phải có nhiều chủ thể cùng nhua tham gia cạnh tranh: Đó là các chủ thể có cùng các mục đích, mục tiên và kết quả phải giành giật, tức là phải có một đối tượng mà chủ thể cùng hớng đến chiếm đoạt. Trong nền kinh tế, với chủ thể canh tranh bên bán, đó là các loại sản phẩm tưng tự có cùng mục đích phục vụ một loại nhu cầu của khách hàng mà các chủ thể tham gia canh tranh đều có thể làm ra và đợc người mua chấp nhận. Còn với các chủ thể cạnh tranh bên muc là giành giật muc được các sản phẩm theo đúng mong muốn của mình. - Việc cạnh tranh phải được diễn ra trong một môi trường cạnh tranh cụ thể, đó là các ràng buộc chung mà các chủ thể tham gia cạnh tranh phải tuân thủ. Các ràng buộc này trong cạnh tranh kinh tế giữa các dianh nghiệp chính alf các đặc điểm nhu cầu về sản phẩm của khách hàng và các ràng buộc của luật pháp và thông kệ kinh doanh ở trên thị trường. Còn giữa người mua với người muc, hoặc giữa những người mua và người bán là các thoả thuận được thực hiện có lợi hơn cả đối với người mua. - Cạnh tranh có thể diễn ra trong một khoảng thời gian không cố định hoặc ngắn 9 từng vụ việc) hoặc dài (trong suốt quá trình tồn tại và hoạt động của mỗi chủ thể tham gia cạnh tranh). Sự cạnh tranh có thể diễn ra trong khoảng thời gian không nhất định hoặc hẹp (một tổ chức, một địa phương, một nghành) hoặc rộng (một nước, giữa các nứơc) 2. Cạnh tranh trong kinh tế giữa các doanh nghiệp Là việc sử dụng có hiệu quả nhất các nguồn lực, các cơ hội của doanh nghiệp để giành lấy phần thắng, phần hơn về mình trước các doanh nghiệp khác trong quá trình kinh doanh, bảo đảm cho foanh nghiệp phát triển nhanh chóng và bền vũng. - Trong nền kinh tế thị trường, trớc mỗi nhu cầu cảu những người tiêu dùng (người muc- bên A) dới dạng các loại sản phẩn tương tự - sản phẩn thường có rất nhiều các nhà sản xuất (người bán - bên B) tham gia đáp ứng, họ luôn phải cố gắng để giành chiến thắng, sự cạnh tranh diễn ra là tất yếu trong môi trường luật pháp của nhà nước, các thông lệ của thị trường và các quy luật khách quan vốn có của nó. 3. Các loại hình cạnh tranh Dựa vào các tiêu thức khác nhau, cạnh tranh được phên ra thành nhiều loại. * Căn cứ vào chủ thể tham gia thị trường Cạnh tranh được chia thành 3 loại. - Cạnh tranh giữa người mua và người bán: Người bán muốn bán hàng hoá của mình với giá cao nhất, còn người mua muốn bán hàng hoá của mình với gái cao nhát, còn người mua muốn muc với giá thấp nhất. Giá cả cuối cùng được hình thành sau quá trình thương lượng giữ hai bên. - Cạnh tranh giứa những người mua với nhau: Mức độ cạnh tranh phụ thuộc vào quan hệ cùng cầu trên thị trường. Khi cung nhỏ hơn cầu thì cuộc cạnh tranh trở nên gay gắt, giá cả hàng hoá và dịch vụ sẽ tăng lê, người mua phải chấp nhận giá cao để mua được hàng hoá hoá mà họ cần. - Cạnh tranh giữa những nguời bán với nhau: Là cuộc cạnh tranh nhằm giành giật khách hàng và thị trường, kết quả là giá cả giảm xuống và có lợi cho người mua. Trong cuộc cạnh tranh này, doanh nghiệp nào tỏ ra đuối sức, không chịu được sức ép sẽ phải rút lui khỏi thị trường, nhường thị phần của mình cho các đối thủ mạnh hơn. * Căn cứ theo phạm vu nghành kinh tế Cạnh tranh được phân thành hai loại. - Cạnh tranh trong nội bộ nghành: là cuộc cạnh tranh giữa các doanh nghiệp trong cùng một ngành, cùng sản xuất ra một loại hàng hoá hoặc dịch vụ. Kết quả của cuộc cạnh tranh này là làm cho kỹ thuật phát triển. - Cạnh tranh giữa các nghành: Là cuộc cạnh tranh giữa các doanh nghiệp trong các nghành kinh tế với nhau nhằm thu được lợi nhuận cao nhất. Trong quá trình này có sự phận bổ vốn đầu tư một cách tự nhiên giuqã các nghành, kết quả là hình thành tỷ suất lợi nhuận bình quân. * Căn cứ vào tính chất cạnh tranh Cạnh tranh được phân thành 3 loại. - Cạnh tranh hoàn hảo (Perfect Cometition): Là hình thức cạnh tranh giữa nhiều người bán trên thị trờng trong đó không người nào có đủ ưu thế khống chế giá cả trên thị trường. Các sản phẩm bán ra đều được người mua xem là đồng thức, tức là không khác nhua về quy cách, phẩm chất mẫu mã. Để chiến thắng trong cuộc cạnh tranh các doanh nghiệp buộc phải tìm cách giảm chi phí, hạ giá thành hoặc làm khác biệt hoá sản phẩm của mình so với các đối thủ cạnh tranh. - Cạnh tranh không hoàn hảo (Imperfect Competition) Là hình thức cạnh tranh giữa những người bán có các sản phẩm không đồng nhất với nhau. Mỗi sản phẩn đều mang hình ảnh hay uy tín khác nhau cho nên để giành đựơc ưu thế trong cạnh tranh, người bán phảo sử dụng các công cụ hỗ trợ bán như: Quảng cáo, khuyến mại, cung cấp dịch vụ, ưu đãi giá cả, đây là loại hình cạnh tranh phổ biến trong giai đoạn hiện nay. - Cạnh tranh độc quyền (Monopolistic Competition): Trên thị trường chỉ có nột hoặc một số ít người bán một sản phẩm hoặc dịch vụ vào đó, giá cả của sản phẩm hoặc dịch vụ đó trên thị trường sẽ do họ quyết định không phụ thuộc vào quan hệ cung cầu. * Căn cứ vào thủ đoạn sử dụng trong cạnh tranh Cạnh tranh được chia thành. - Cạnh tranh lành mạnh. Là cạnh tranh đúng luật pháp, phù hợp với chuẩn mực xã hội và đợc xã hội thừa nhận, nó thướng diễn ra sòng phẳng, công bằng và công khai. - Cạnh tranh không lành mạnh. Là cạnh tranh dựa bào kẽ hổ của luật pháp, trái với chuẩn mực xã hội và bị xã hội lên án ( như trốn thuế buôn lậu, móc ngoặc, khủng bố vv...) 4. Các công cụ cạnh tranh * Cạnh tranh sản phẩm: là tổng thể những chỉ tiêu, thuộc tính của sản phẩm thể hiện mức độ thoả mãn nhu cầu trong những điều kiện xác định phù hợp với công dụng của sản phẩm. Ngày nay, chất lượng sản phẩm đã trở thành một công cụ cạnh tranh quan trọng của các doanh nghiệp trên thị trờng. Chất lượng sản phẩm cành cao tức là mức độ thoả mãn nhu cầu càng cao, dẫn tới đẩy mạnh tốc độ tiêu thụ, làm tăng khả năng trong thắng thế trong cạnh tranh của doanh nghiệp. Trong điều kiện hiện nay, mức sống của người dân ngày càng đựơc nâng cao, tức là nhu cầu có khả năng thanh toán của người tiêu dùng tăng lên thì sự cạnh tranh bằng giá cả đã và sẽ có xu hướng vị trí cho sự cạnh tranh bằng chất lượng. Chất lượng sản phẩm là tập hợp các thuộc tính của sản phẩm trong điều kiện nhất định về kinh tế kỹ thuật. Chất lượng là một chỉ tiêu tổng hợp thể hiện ở nhiều mặt khác nhau tính cơ lý hoá đúng như các chỉ tiêu quy định, hình dáng mầu sắc hấp dẫn. Với mỗi loại sản phẩm khác nhau, tuy nhiên vấn đề đặt ra la doanh nghiệp phải luôn luôn giữ vũng và không ngừng năng cao chất lượng sản phẩm. Đó là điều kiện không thể thiết nếu doanh nghiệp muốn giành được thắng lợi trong cạnh tranh, nói một cách khác chất lượng sản phẩm là vấn đề sống còn đối với doanh nghiệp. Khi chất lượng không còn được đảm bảo, không thoả mãn nhu cầu khách hàng thì ngay lập tức khách hàng sẽ rời bỏ doanh nghiệp. Nâng cao chất lượng sản phẩm có ý nghĩa hết sức quan trọng đối với việc tăng khả năng cạnh tranh thể hiện trên các giác độ. - Chất lượng sản phẩm tăng lên sẽ thu hút được khách hàng tăng đựơc khối lượng hàng hoá tiêu thụ, tăng uy tín sản phẩm mở rộng thị trường, từ đó tăng doanh thu, tăng lợi nhuận, đảm bảo hoàn thành các mục tiêu mà doanh nghiệp đã đề ra. - Nâng cao chất lượng sản phẩm có nghĩa là nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh. * Cạnh tranh bằng giá bán sản phẩm Giá cả sản phẩm là biểu hiện bằng tiền của giá trị sản phẩm mà người bán hay doanh nghiệp bán dự định có thể nhận được từ người mua thông qua việc trao đổi hàng hoá đó trên thị trường. Giá cả của sản phẩm phụ thuộc vào các yếu tố sau: - Các yếu tố kiểm soát được: Chi phí sản xuất sản phẩm, chi phí bán hàng, chi phí lưu động và chi phí yểm trợ xúc tiến bán hàng. - Các yếu tố không kiểm soát được quan hệ cung cầu cường độ cạnh tranh trên thị trường, chính sách điều tiết thị trường của Nhà nước. Giá cả được sử dụng làm công cụ cạnh tranh thông qua các chính sách định giá bán sản phẩm của doanh nghiệp trên thị trường, một doanh nghiệp có thể có các chính sách định giá sau: - Chính sách định giá thấp. - Đây là cách định giá bán thấp hơn mức giá thị trờng. Chính sách định giá thấp có thể hướng vào các mục tiêu khác nhau, tuỳ theo tình hình sản xuất và thị trường và đựơc chia ra các cách khác nhau. + Định giá thấp hơn so với thị trường nhưng cao hơn giá trị sản phẩm, doanh nghiệp chấp nhận mức lãi thấp. Nó được ứng dụng trong trưòng hợp sản phẩm mới thâm nhập thị trường, cần bán hàng nhan với khối lượng lớn, hoặc dùng giá để cạnh tranh với các đối thủ. + Định giá bán thấp hơn giá thị trường và cũng thấp hơn giá trị sản phẩm: Doanh nghiệp bị lỗ. Cách này đựơc áp dụng trong trường hợp bán hàng trong thời kỳ khai trương hoặc muốn bán nhanh để thu hồi vốn ( tương tự bán phá gia ) + Chính sách định giá cao. Tức là mức giá bán cao hơn mức giá thống trị trên thị trường và cao hơn giá trị sản phẩm. Được áp dụng trong các trường hợp sau: + Sản phẩm mới tung ra thị trường, người tiêu dùng chưa biết rõ chất lượng của nó, chưa có cơ hội để so sánh về giá áp dụng giá bán cao sau đó giảm dần. + Doanh nghiệp hoạt động trong thị trường độc quyền, áp dung giá cao ( giá độc quyền ) để thu lợi nhuận độc quyền. + Sản phẩm thuộc loại cao cấp, hoặc sản phẩm có chất lượng đặc biệt tốt phù hợp với người tiêu dùng thuộc tầng lớp thượng lưu. + Sản phẩm thuộc loại không khuyến khích người tiêu dùng mua, áp dụng giá bán cao để thúc đẩy họ tìm sản phẩm thay thế. + Chính sách ổn định giá bán. Tức là giữ nguyên giá bán theo thời kỳ và địa điểm. Chính sách này giúp doanh nghiệp thâm nhập, giữ vũng và mở rộng thị trường. - Chính sách định giá theo giá thị trường. Đây là cách định giá phổ biến của các doanh nghiệp hiện nay tức là giá bán sản phẩm xoay quanh mức giá thị trường của sản phẩm đó. Ở đây do không sử dụng yếu tố giá làm đòn bẩy kích thích người tiêu dùng nên để tiêu thụ được sản phẩm, doanh nghiệp tăng cường công tác tiếp thị thực hiện nghiêm ngặt các biện pháp giảm chi phí sản xuất kinh doanh. - Chính sách giá phân biệt. Với cùng một loại sản phẩm nhưng doanh nghiệp định ra nhiều mức giá khác nhau dựa theo nhiều tiêu thức khác nhau: + Phân biệt theo lượng mưa: Mua khối lượng nhiều hoặc giảm giá hoặc hưởng chiết khấu. + Phân biệt theo chất lượng: Các loại chất lượng ( 1,2,3 ) có mức giá khác nhau phục vụ cho các nhóm đối tượng khác nhau. + Phân biệt theo phương thức thanh toán: Thanh toán ngay hay trả chậm, thanh toán bằng tiền mặt hay chuyển khoản. + Phân biệt theo thời gian: Tại các thời điểm khác nhau, giá cả khác nhau. - Chính sách bán phá giá. - Định mức giá bán thấp hơn hẳn giá thị trường và thấp hơn cả giá thành sản xuất. Mục tiêu của bán giá là tối thiểu hoá rủi ro hay thua lỗ hoặc để tiêu diệt đối thủ cạnh tranh. Muốn đạt đựơc mục tiêu này đòi hỏi doanh nghiệp phải có tiềm lực về tài chính, về khoa học công nghệ sản phẩm đã có uy tín trên thị trường. Bán phá giá chủ nên áp dụng khi sản phẩm bị tồn đọng quá nhiều, bị cạnh tranh gay gắt, lạc hậu không phù hợp với nhu cầu tiêu dùng, sản phẩm mang tính thời vụ, dễ hư hỏng, càng để lâu càng lỗ lớn. Ngày nay cùng với sự phát triển của nền sản xuất xã hội mức sống của người dân không ngừng nâng cao, giá cả không còn là công cụ cạnh tranh quan trọng nhất của doanh nữa nhưng nếu doanh nghiệp biết kết hợp công cụ giá với các công cụ khác thì kết quả thu được sẽ rất to lớn. * Cạnh tranh bằng nghệ thuật tiêu thụ sản phẩm Đối với mỗi doanh nghiệp hoạt động trong cơ chế thị trường, sản xuất tốt chưa đủ để khẳng định khả năng tồn tại và phát triển của mình, mà còn phải biết tổ chức mạng lướt bán hàng, đó là tập hợp các kênh đưa sản phẩm hàng hoá từ nơi sản xuất đến người tiêu dùng sản phẩm ấy. Thông thường kênh tiêu thu sản phẩm của doanh nghiệp được chia thành 4 loại sau: A: Kênh trực tiếp ngắn, từ doanh nghiệp đưa sản phẩm đến tay người tiêu dùng (NTD). B: Kênh trực tiếp dài ( từ DN tới người bán lẻ, sau đó đến tay NTD) C: Kênh gián tiếp ngắn ( từ DN tới các đại lý, tiếp đó phân tới các người bán lẻ và sau cùng đến tay NTD) Bên cạnh đó, để thúc đẩy quá trình bán hàng. doanh nghiệp có thể tiến hành một loạt các hoạt động hỗ trợ như: Tiếp thị, quảng cáo, yểm trợ bán hàng, tổ chức hội nghị khách hàng, tham gia các tổ chức liên kết kinh tế.... Ngày nay, nghệ thuật tiêu thụ sản phẩm đóng vai trò vô cùng quan trọng, thậm trí quyết định đến sự còn của doanh nghiệp trên thị trường bởi vì nó tác động đến khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp trên các khía cạnh sau: - Tăng khả năng tiêu thụ hàng hoá thông qua việc thu hút sự quan tâm của khách hàng tới sản phẩm của doanh nghiệp. - Cải thiện vị trí hình ảnh của doanh nghiệp trên thị trường ( thương hiệu, chữ tín của doanh nghiệp) - Mở rộng quan hệ làm ăn với các đối tác trên thị trường, phối hợp với các chủ thể trong việc chi phối thị trường, chống hàng giả. * Cạnh tranh bằng các công cụ khác Trách nhiệm của doanh nghiẹp đối với sản phẩm của mình không phải chấm dứt sau khi giao hàng và nhận tiền của khách hàng bởi vì có một nguyên tắc chung kà " Ai sản xuất thì người ssó phục vụ kỹ thuật. Tốt hơn nữa là chuẩn bị cho việc phục vụ kỹ thuật sớm hơn việc cung cấp sản phẩm đó ra thị trường. Doanh nghiệp sẽ bán được nhiều sản phẩm nếu khách hàng cảm thấy yên tâm rằng sản phẩm đó đảm bảo chất lượng ngay cả khi quan hệ mua bán đã chấm dứt. Dịch vụ sau bán hàng thường áp dụng đối với trường hợp sau: + Sản phẩm mang tính kỹ thuật cao. + Đơn giá sản phẩm cao + Sản phẩm đựơc bán đơn chiếc + Người mua không am hiểu tính năng và cách sử dụng của sản phẩm. + Sản phẩm chiếm lĩnh thị trường nhiều. Nội dung của dịch vụ sau bán hàng gồm: + Cam kết thu lại sản phẩm và hoàn trả tiền lại cho khách hàng hoặc đổi lại hàng nều sản phẩm không đúng với thoả thuận ban đầu hoặc không thoả mãn nhu cầu của họ. + Cam kết bảo hành trong thời gian nhất định. + Cung cấp các dụch vụ bảo dưỡng kỹ thuật cho các sản phẩm có tuổi thọ dài. Phương thức thanh toán cũng là một công cụ cạnh tranh được nhiều doanh nghiếp sử dụng. Phương thức thanh toán gọn nhẹ, rườm rà hay chậm chễ ảnh huởng đến công tác tiêu thụ và do đó ảnh hưởng đến công tác tiêu thụ và do đó ảnh hưởng đến khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp trên thị trường. - Yếu tố thời gian. Những thay đổi nhanh chóng của khoa học công nghệ làm thay đổi nhanh chóng cách nghĩ, cách làm việc của con người, tạo thời cơ cho mỗi người, mỗi đất nước tiến nhành về phía trước. Đối với các doanh nghiệp yếu tố quyết định trong chiến lược kinh doanh hiện tại là tốc độ chứ không phải là yếu tố cổ truyền như nguyên vật liệu, lao động .. muốn chiến thắng trong cuộc cạnh tranh này, các doanh nghiệp phải biết tổ chức nắm bắt trong tin nhanh chóng tiêu thụ để thu hồi vốn nhanh trước khi chu kỳ sản xuất sản phẩm kết thúc. - Cạnh tranh về thời cơ thị trường. Doanh nghiệp nào dự báo trước thời cơ thị trường và nắm được thời cơ thị trường sẽ có thêm điều kiện để chiến thắng trong cạnh tranh. Thời cơ thị trường thường xuất hiện do các yếu tố sau: + Sự thay đổi của môi trường công nghệ. + Sự thay đổi về yếu tố dân cư, điều kiện tự nhiên. + Các quan hệ tạo lập được của từng doanh nghiệp. Cạnh tranh về thời cơ thị trường thể hiện ở chỗ doanh nghiệp dự báo được những thay đổi của thị trường, từ đó có các chính sách khai thác thị trường hợp lý và sớm hơn các doanh nghiệp khác. Tuy nhiên cạnh tranh về thời cơ thị trường cũng có thể thể hiện ở chỗ doanh nghiệp tìm ra được những lợi thế kinh doanh, sớm đi vào khai thác thị trường và một loạt sản phẩm của doanh nghiệp cũng sẽ sớm bị bão hoà. Yêu cầu này đòi hỏi phải thích ứng nhanh với những thay đổi đó. - Thương lượng trong cạnh tranh. Đó là việc thoả thuận giữa các chủ doanh nghiệp để chia sẻ thị trường một cách ôn hoà ( hơn là cạnh tranh gây bất lợi ) đó là việc sử dụng các kỹ thuật tính toán của lý thuyết trò chơi. ( Theory of Game ) Chẳng hạn giữa hai doanh nghiệp I và II có thể diễn ra hai chiến lựơc: Chiêu thị ở mức thấp và chiêu thị ở mức cao. Với hai chiến lược cạnh tranh này sẽ có kết quả thu được như ở bảng 3.10 Doanh nghiệp I II Chiêu thị mức thấp Chiêu thị mức cao Chiêu thị mức thấp L1 = 120 L2 = 120 ( A ) L1 = 180 L2 = 60 ( B ) Chiêu thị mức cao L2 = 60 L1 = 180 ( C ) L1 = 100 L2 = 100 ( D ) Với giải pháp A Trò chơi diễn ra là cả hai doanh nghiệp I và II không tiến hành chi phí nhiều về các biện pháp chiêu thị và kết quả là cả hai thu được mức lợi nhuận bằng nhau là L1 = L2 = 120. Còn nếu một doanh nghiệp chọn giải pháp chiêu thị tích cực hơn doanh nghiệp kia thì sẽ tạo một kết quả là bên này được thì bên kia mất ( giải pháp B và C 0. Rõ ràng nếu hai doanh nghiệp khong có sự thoả thuận với nhau được thi tất yếu cả hai phải tiến hành chiến lược theo giải pháp D, là giải pháp hai bên cùng có mức lợi nhuận bằng nhau nhưng bị mất đi một lượng không nhỉ ( 100 = 120 -20 ) cho nên tốt nhất trong trường hợp này là cả hai bên cần gặp gỡ nhau bàn bạc và thoả thuận để chia khu vực thị trường ( để quay về giải pháp A là giải pháp có lợi nhất cho cả hai bên ). - Các phương pháp né tránh: Đó là cách rút lui khỏi cuộc cạnh tranh bằng việc tìm một thị trường khác ( xa hơn, ít hiệu quả hơn vv.... thậm trí phải từ bỏ mặt hàng mà doanh nghiệp không thể trụ được sang một mặt khác. CÁC PHƯƠNG PHÁP SỬ DỤNG ĐỐI VỚI BẠN HÀNG 1. Các phương pháp sử dụng đối với bạn hàng Bàn hàng là những người cung cấp các đầu vào cho doanh nghiệp, họ có thể bán sản phẩm cho người khác và giữa họ (bên bán với nhau) cũng sẽ xuất hiện hiện tượng cạnh tranh, phương pháp sử dụng chủ yếu là tôn trọng lợi ích của nhau (giữ chữ tín thanh toán sòng phẳng và thông cảm. Nhưng cũng cần né tránh sự o ép của mặt hàng (nếu họ là những người bán không biết điều trục lợi và bất tín) mà phương pháp chủ yếu là thay quan hệ buôn bán bằng quan hệ bạn hàng và thay quan hệ song phương bằng quan hệ đa phương. 2. Các phương pháp sử dụng đối với các cơ quan và viên chức của các cơ quan quản lý vĩ mô Đó là sự sử dụng kết hợp các phương pháp sau: - Chủ động tới mức cao nhất không đối đầu với luật pháp và thông lệ Nghiêm chỉnh thực hiện nghĩa vụ ( đã chấp nhận, thuế nộp doanh lợi và các khoản khác vv...) - Tạo và chuyển đổi quan hệ pháp lý thành quan hệ thông cảm, tôn trọng thân tình. THÔNG TIN VÀ QUYẾT ĐỊNH QUẢN TRỊ KINH DOANH Khái niệm, vai trò của thông tin trong quá trình quản trị kinh doanh Khái niệm thông tin Vai trò thông tin trong quá trình quản trị kinh tế Yêu cầu của thông tin kinh tế Vấn đề nhiễu trong hệ thống thông tin Cách tổ chức lấy tin Quyết định quản trị kinh doanh Khái niệm Các nguyên tắc cơ bản ra quyết định Yêu cầu với các quyết định Các bước ra quyết định Trở ngại của chủ doanh nghiệp khi ra quyết định 1- Khái niệm, vai trò của thông tin trong quá trình quản trị kinh doanh 1.1- Khái niệm thông tin Thông tin là một khái niệm đã có từ lâu đời, là một khái niệm rất rộng. Tùy thuộc vào từng lĩnh vực nghiên cứu, mà đưa ra những định nghĩa khác nhau và giới hạn khái niệm đó lại phục vụ mục đích nghiên cứu. Chẳng hạn: - Thông tin là nội dung của thế giới bên ngoài được thể hiện trong sự nhận thức của con người (N.Viner). - Thông tin là sự chống lại của sự bất định (Shannon.K). - Thông tin là sự truyền đưa độ đa dạng (Esbi.R). - Thông tin là thực thể là độ đo tính phức tạp (Mole.A) - Thông tin là xác suất sự lựa chọn (Iaglom). - Thông tin là những tín hiệu được thu nhận, được hiểu và được đánh giá là có ích cho việc ra quyết định (các nhà quản lý kinh tế). - Thông tin là một phạm trù phản ánh nội dung và hình thức vận động của các sự vật và hiện tượng. Theo quan điểm hệ thống thì thông tin là sự hạn chế tính đa dạng của mỗi hệ thống sự vật đối với môi trường, thông tin là tính trật tự của các đối tượng vật chất có những mối liên hệ biện chứng (các nhà điều khiển học). - Thông tin là một phạm trù triết học phản ánh sự vận động và tương tác của các hiện tượng, sự vật và quá trình tư duy (các nhà triết học). Hay gọn hơn: Thông tin là quá trình phản ánh và tiếp nhận phản ánh, biến phản ánh thành hiểu biết, thành tri thức. - Thông tin quản lý trong hệ thống kinh tế xã hội là sự phản ánh nội dung và hình thức vận động, liên hệ giữa các đối tượng, yếu tố của hệ thống đó và giữa hệ thống đó với môi trường (các nhà xã hội học). Từ những định nghĩa trên, có thể rút ra khái niệm sau: Thông tin kinh tế là những tín hiệu, được thu nhận, được hiểu và được đánh giá là có ích trong việc ra quyết định quản trị kinh doanh của chủ doanh nghiệp. Một số đặc trưng cơ bản của thông tin. a. Thông tin gắn liền với quá trình điều khiển Bản thân thông tin không có mục đích tự thân. Nó chỉ tồn tại và có ýnghĩa trong một hệ thống điều khiển nào đó. Dù thông tin ở bất kỳ hình thức nào: bảng biểu, ký hiệu, mã hiệu, biểu đồ, xung điện v.v... đều có thể dễ dàng thấy rằng nó là yếu tố cơ bản của một quá trình thành lập, lựa chọn và phát ra quyết định để điều khiển một hệ thống nào đó, hệ thống này có thể là trong tự nhiê, trong xã hội hoặc trong tư duy. b. Thông tin có tính tương đối Phương pháp phân tích hệ thống để khẳng định tính bất định của một quá trình điều khiển phức tạp. Tính bất định đó chính là tình trạng không có đầy đủ thông tin. Điều này cũng có nghĩa là mỗi thông tin chỉ là một sự phản ánh chưa đầy đủ về hiện tượng vào sự vật được phản ánh, đồng thời nó cũng phụ thuộc vào trình độ và khả năng của nơi phản ánh. Tính tương đối của thông tin thể hiện rất rõ nét đối với các hệ thống kinh tế xã hội, vì đây là các hệ thống động, hệ thống mờ, đối với nhiều mặt còn có thể coi là một hệ thống hộp đen. c. Tính định hướng của thông tin Thông tin phản ánh mối quan hệ giữa đối tượng được phản ánh và nơi nhận phản ánh. Đây là một quan hệ hai ngôi. Sơ đồ 1: Từ đối tượng được phản ánh tới chủ thể nhận phản ánh được coi là hướng của thông tin, thiếu một trong hai ngôi thông tin không có hướng và thực tế không còn ý nghĩa của thông tin nữa. Trong thực tế, thường được hiểu hướng của thông tin là từ nơi phát đến nơi nhận. d. Mỗi thông tin đều có vật mang tin và lượng tin Hình thức vật lý cụ thể của thông tin là vật mang tin. Có thể so sánh thông tin là linh hồn còn vật mang tin là cái vỏ vật chất. Để rõ nét khi nói về vật mang tin người ta sử dụng khái niệm nội dung tin và vật mang tin. Nội dung tin bao giờ cũng phải có một vật mang tin nào đó. Trên một vật mang tin có thể có nhiều nội dung tin và thông tin thường thay đổi vật mang tin trong quá trình lưu chuyển của mình. Khái niệm vật mang tin rất quan trọng trong tin học - khoa học nghiên cứu và xử lý thông tin tự động. Hiện nay, xử lý thông tin trên máy tính điện tử mới chỉ hoàn toàn xử lý lôgic và số học vật mang tin. Còn máy tính suy lý hay nói cách khác máy tính xử lý theo nội dung tin thì đang là niềm hy vọng là mục tiêu phấn đấu tiến tới của khoa học máy tính và tin học. Lý thuyết thông tin có những đóng góp rất quan trọng mang ý nghĩa cách mạng đó là thông tin đo được. Một trong những đơn vị đo lường là sự đối nghịch của sự bất định (Entropi) do Shannon K. và M.Iaglom trên cơ sở xác suất toán học phát minh ra. Khái niệm khối lượng tin được dùng cho việc đo quy mô của vật mang tin. Đơn giản có thể gọi là độ dài bản tin. Đơn vị kỹ thuật tin học để đo bản tin hiện nay là Bit. Một thông tin được mã hóa sang hệ nhị phân (Binary Digit), số lượng chữ số nhị phân của bản tin đã mã hóa đó chính là độ dài của thông tin. Trong lĩnh vực quản trị kinh tế - hệ thống phát triển cao nhất của các hệ thống trong tự nhiên và xã hội, vấn đề thông tin được đề cập trong rất nhiều các công trình nghiên cứu. Thông tin quản trị kinh doanh là những đại lượng được đo lường, miêu tả các hiện tượng kinh tế - xã hội phát sinh một cách có chọn lọc để phục vụ quá trình quản trị kinh doanh. Thông tin kinh tế thường được thực hiện dưới các hình thức chủ yếu sau: - Các sự kiện và sự hiểu biết của con người về các đối tượng và quá trình kinh tế, trong đó con người đồng thời cũng là thành phần của chính hệ thống đó. - Những mối liên hệ bên trong giữa các đối tượng và thành phần của hệ thống. - Những bộ phận và yếu tố phi vật chất của hệ thống như tri thức, phương hướng tư duy hoạt động, quan hệ tâm lý, yếu tố sinh lý. - Những thông báo vận động trong hệ thống, hoặc trao đổi giữa hệ thống này với hệ thống khác, giữa hệ thống và môi trường. - Những quy định nhận thức chung, hoặc pháp chế chung nhất về sự phối hợp hành động giữa các đối tượng và thành phần hệ thống. - Những mục tiêu và nhiệm vụ mà hệ thống và các phần tử trong đó cần phải thực hiện. 1.2 - Vai trò thông tin trong quá trình quản trị kinh tế Để hiểu rõ vai trò thông tin trong quá trình quản trị cần phải xem xét khái niệm về các quá trình quản trị - Một trong những nội dung nghiên cứu quan trọng của môn khoa học quản lý. Như đã biết quản trị bao giờ cũng được xem xét trên hai mặt: mặt cơ cấu và mặt quá trình của sự tác động mà các chủ thể quản trị tiến hành đối với đối tượng quản trị. Mặt quá trình của sự tác động được biểu hiện trong những tác động thường xuyên và tác động định kỳ. Tác động quản trị thường xuyên do các chức năng quản lý, cơ cấu quản trị, các thể chế hiện hành v.v... gây ra. Tác động loại này có tính ổn định dài ngày và được tiến hành ít cần sự tham gia của hệ điều khiển. Tác động quản trị định kỳ kể cả tác động nhất thời, gắn liền với những quyết định quản trị cụ thể. Nó có đặc điểm là diễn ra trong một thời điểm nhất định và nhằm vào những mặt khác nhau của đối tượng quản trị trong những tình huống cụ thể. Do đó, nó được đưa ra và thực hiện khi chủ doanh nghiệp trực tiếp tiến hành phân tích tình huống chuẩn bị các phương án quyết định quản trị và thực hiện các quyết định quản trị lựa chọn. Phương tiện tiến hành đặc trưng cho hoạt động quản trị là thông tin, bởi vì tác động quản trị đều được chuyển tới người chấp hành thông qua thông tin. Trong tổng thể tác nghiệp quản trị, các tác nghiệp về thu nhập, truyền đạt và lưu trữ thông tin chiếm tỷ trọng rất lớn. Mặt khác các phương tiện kỹ thuật được sử dụng trong bộ máy quản trị trong đó đa số có liên quan đến hệ thống thông tin cũng là các phương tiện trong quá trình quản lý - hai loại phương tiện tiến hành trên đây có quan hệ bổ sung nhau và đều gắn liền với hoạt động trí tuệ của cán bộ nhân viên trong bộ máy quản trị. Ngay cả các hoạt động trí tuệ và suy luận của con người cũng được coi là hoạt động xử lý thông tin cao cấp đặc biệt. Quá trình quản trị có thể được trình bày dưới góc độ khoa học hệ thống và tin học như sau: Sơ đồ 2: Đối tượng quản trị biến đổi các yếu tố đầu vào dạng vật chất (lao động, vốn, đất đai...) thành các yếu tố đầu ra nằm trong dạng vật chất cụ thể (sản phẩm, dịch vụ...). Tóm lại, vai trò của thông tin trong quản trị kinh doanh là ở chỗ nó làm tiền đề, làm cơ sở và là công cụ của quản trị kinh doanh, quá trình quản trị kinh doanh là quá trình thông tin kinh tế. 1.3 - Yêu cầu của thông tin kinh tế Thông tin kinh tế phải bảo đảm các yêu cầu sau: - Tính chính xác: Nếu đưa tin sai lệch thì quản lý sẽ thất bại. - Tính kịp thời: Thông tin mà không kịp thời sẽ không có giá trị trong việc đưa ra quyết định. - Tính đầy đủ, tính hệ thống, tính tổng hợp: Thông tin phải phản ánh được mọi mặt của quá trình sản xuất kinh doanh. - Tính pháp lý: Quản lý là hoạt động làm giàu trong xã hội nên nói phải tuân thủ luật pháp và thông lệ quốc tế. - Tính có ích. - Tính có thẩm quyền: Tránh né, tránh đùn đẩy trách nhiệm. - Tính tối ưu, tính đầy đủ: Vì muốn có tin phải có tiền, nếu thu nhập nhiều tin mà không thu nhập nhiều tin mà không dùng tới sẽ rất tốn kém. - Tính bí mật. 1.4 - Vấn đề nhiễu trong hệ thống thông tin Một nguyên nhân quan trọng làm ảnh hưởng tới chất lượng của thông tin trong hệ thống là vấn đề nhiễu trong quá trình truyền tin. Nhiễu thông tin là hiện tượng thông tin từ nguồn tới nơi nhận bị sai lệch, méo mó. Có 3 nguyên nhân dẫn đến nhiễu là: - Nhiễu vật lý: Do sự cố kỹ thuật gây ra hoặc do ảnh hưởng của môi trường. Để khắc phục nhiễu này có thể dùng các biện pháp kỹ thuật. - Nhiễu ngữ nghĩa: Do các hiện tượng ngôn ngữ gây ra như các từ đồng âm dị nghĩa, dị nghĩa đồng âm, các khái niệm chưa thống nhất hoặc mắc lỗi văn phạm. - Nhiễu thực dụng: Do các hiện tượng xã hội gây ra. Tin của người phát và người nhận có một mối quan hệ về lợi ích. Đây là nguyên nhân thường xuyên và rất khó khắc phục. Khi xây dựng hệ thống thông tin cần phải sử dụng nhiều biện pháp đồng bộ như: giáo dục, kỹ thuật, tổ chức, hành chính, kinh tế v.v... để khắc phục tối đa nhiễu gây ra cho thông tin. 1.5 - Cách tổ chức lấy tin Việc lấy tin có thể thông qua 3 hình thức: +Do các nhân viên và chuyên gia của bộ phận marketing, + Đi mua tin từ các trung tâm tư vấn về tin, + Sử dụng nội gián và các hội nghị, các tư liệu trên hội trường. 2. Quyết định quản trị kinh doanh 2.1 - Khái niệm Như đã đề cập ở trên. Quyết định quản trị là phương cách hành động mang tính sáng tạo của chủ doanh nghiệp (Giám đốc) nhằm xử lý một vấn đề đã chín muồi trên cơ sở hiểu biết các quy luật vận động khách quan của hệ thống bị quản trị và việc phân tích các thông tin về hiện trạng của hệ thống. Từ khái niệm này có thể xác định nội dung của một quyết định là nhằm để trả lời được các câu hỏi sau đây: Làm gì? Ai làm? Khi nào làm? Làm ở đâu? Điều kiện vật chất để thực hiện là gì? Làm như thế nào? Bao giờ kết thúc? Kết quả tối thiểu phải đạt là gì? Tổ chức kiểm tra và tổng kết báo cáo như thế nào? 2.2 - Các nguyên tắc cơ bản ra quyết định a. Nguyên tắc về định nghĩa Người ta chỉ có thể đạt được một quyết định lôgic khi vấn đề đã được định nghĩa. Muốn giải quyết có hiệu lực một vấn đề, đầu tiên phải hiểu rõ vấn đề đó. Thời gian dùng để tìm ra giải pháp cho một vấn đề thường là vô ích, bởi vì người ta hay tự thỏa mãn trong việc xử lý các diễn biến của nó mà quên không bàn tới nội dung sâu sắc của nó. b. Nguyên tắc về sự xác minh đầy đủ Một quyết định lôgic phải được bảo vệ bằng các lý do xác minh đúng đắn. Tất cả mọi quyết định lôgic phải được dựa trệ những cơ sở vững chắc. Người ta phải bảo vệ được quyết định đã đề ra bằng cả một tổng thể những sự việc hiển nhiên và có thể kiểm tra lại để chứng tỏ quyết định đó là hợp lý và lôgic. Mà một người khác nếu quan sát tình hình cũng dưới góc độ đó và trong hoàn cảnh đó, thì dù họ có thể có những ý kiến bất đồng hay những định kiến và lợi ích khác thì họ cũng buộc phải đi tới cùng kết luận đó. c. Nguyên tắc về sự đồng nhất Thực tế thường xảy ra tình trạng cùng một sự việc, có thể có nhiều quan điểm, nhiều cách nhìn nhận khác nhau tùy thuộc vào người quan sát và không gian, thời gian diễn ra sự việc đó. Chẳng hạn, cạnh tranh dưới cơ chế quản lý bao cấp của các nước XHCN bị coi là một hiện tượng xấu, thì ngày nay tất cả các nước thực hành nền kinh tế thị trường đều coi là một hiện tượng tất yếu và lành mạnh. Cho nên ta cần phải xác định một cách rõ ràng những sự việc và để làm việc đó, cần phải tin chắc rằng ta đã nghĩ tới những sự khác nhau có thể có do các sự thay đổi về địa điểm hay về thời đại gây ra. 2.3 - Yêu cầu với các quyết định a. Tính khách quan và khoa học Các quyết định là cơ sở quan trọng đảm bảo cho tính hiện thực và hiệu quả của việc thực hiện chúng, cho nên nó không được chủ quan tùy tiện, thoát ly thực tế. Vì quyết định là sản phẩm chủ quan sáng tạo của con người, do đó đảm bảo tính khách quan không phải là việc đơn giản, nhất là trong những trường hợp việc thực hiện các quyết định có liên quan đến lợi ích của người ra quyết định. Tính khoa học của các quyết định là sự thể hiện của những cơ sở, căn cứ, thông tin, nhận thức, kinh nghiệm của nhà quản trị trong việc xử lý, giải quyết những tình huống cụ thể xuất hiện đòi hỏi có sự can thiệp bằng các quyết định của họ, nó phải tuân thủ đòi hỏi của các quy luật khách quan. b. Tính có định hướng Một quyết định quản trị bao giờ cũng phải nhằm vào các đối tượng nhất định, có mục đích, mục tiêu, tiêu chuẩn xác định. Việc định hướng của quyết định nhằm để người thực hiện thấy được phương hướng công việc cần làm, các mục tiêu phải đạt. Điều này đặc biệt quan trọng đối với các quyết định có tính lựa chọn mà người thực hiện được phép linh hoạt hơn, sáng tạo hơn trong quá trình thực hiện quyết định. c. Tính hệ thống Yêu cầu tính hệ thống đối với các quyết định trong quản trị kinh doanh đòi hỏi mỗi một quyết định đưa ra phải nhằm đạt được một nhiệm vụ nhất định, nằm trong một tổng thể các quyết định đã có và sẽ có nhằm đạt tới mục đích chung. d. Tính tối ưu Trước mỗi vấn đề đặt ra cho doanh nghiệp thường có thể xây dựng được nhiều phương án khác nhau cùng nhằm đạt tới mục tiêu. Yêu cầu phải đảm bảo tính tối ưu có nghĩa là quyết định sẽ đưa ra để thực hiện phải là quyết định có phương án tốt hơn những phương án quản trị khác và trong trường hợp có thể được thì nó phải là phương án quyết định tốt nhất. e. Tính cô đọng dễ hiểu Dù được biểu hiện dưới hình thức nào các quyết định đều phải ngắn gọn, dễ hiểu, để một mặt tiết kiệm được thông tin tiện lợi cho việc bảo mật và di chuyển, mặt khác làm cho chúng đỡ phức tạp giúp cho người thực hiện tránh việc hiểu sai lệch về mục tiêu, phương tiện và cách thức thực hiện. f. Tính pháp lý Đòi hỏi các quyết định đưa ra phải hợp pháp và các cấp thực hiện phải thực hiện nghiêm chỉnh. g. Tính góc độ đa dạng hợp lý Trong nhiều trường hợp các quyết định có thể phải điều chỉnh trong quá trình thực hiện. Những quyết định quá cứng nhắc sẽ khó thực hiện và khi có biến động của môi trường sẽ khó điều chỉnh được. h. Tính cụ thể về thời gian thực hiện Trong mỗi quyết định cần bảo đảm những quy định về mặt thời gian triển khai, thực hiện và hoàn thành để cấp thực hiện không được kéo dài thời gian thực hiện. 2.4 - Các bước ra quyết định Sơ đồ 3: Các bước quyết định Quá trình đề ra quyết định bao gồm các bước sau: a. Sơ bộ đề ra nhiệm vụ Quá trình ra quyết định phải bắt đầu từ việc đề ra nhiệm vụ, nhưng không phải bao giờ cũng đề ra được ngay nhiệm vụ môt cách chính xác. Tùy theo mức độ nghiên cứu những vấn đề mới xuất hiện, giải quyết những vấn đề này có ảnh hưởng nhiều hay ít đến kết quả của quyết định. Vì thế, trong quá trình đề ra quyết định, phải làm rõ thêm nhiệm vụ đã đề ra và đôi khi phải thay đổi nhiệm vụ. Khi đề ra nhiệm vụ, nếu tương tự như những nhiệm vụ đã được quyết định trước đây, có thể sử dụng kinh nghiệm đã có và đạt ngay được mức độ chính xác cao. Khi quyết định những nhiệm vụ có nội mới ở bước đầu phải sơ bộ đề ra nhiệm vụ và là rõ dần nó trong quá trình quyết định nhiệm vụ. Muốn đề ra nhiệm vụ, trước hết cần phải xác định: - Vì sao phải đề ra nhiệm vụ, nhiệm vụ đó thuộc loại nào, tính cấp bách của nó. - Tình huống nào trong sản xuất có liên quan đến nhiệm vụ đề ra, những nhân tố ảnh hưởng đến nhiệm vụ. - Khối lượng thông tin cần thiết đã có để đề ra nhiệm vụ, cách thu thập những thông tin còn thiếu. b. Chọn tiêu chuẩn đánh giá các phương án và các mô hình xử lý Muốn so sánh các phương án một cách khách quan để lựa chọn phương án tốt nhất cũng như thấy rõ khả năng thực hiện mục đích đề ra cần phải có tiêu chuẩn đánh giá hiệu quả. Tiêu chuẩn đánh giá hiệu quả phải thể hiện được bằng số lượng, cố gắng phản ánh đầy đủ nhất những kết quả dự tính sẽ đạt, phải cụ thể, dễ hiểu và đơn giản. Thường các tiêu chuẩn được chọn từ các chỉ tiêu: chi phí nhỏ nhất, năng suất cao nhất, sử dụng thiết bị nhiều nhất, sử dụng vốn sản xuất tốt nhất v.v... Tùy theo mục đích chính của nhiệm vụ được đề ra. Ngoài ra còn có nhiều chỉ tiêu: chất lượng sản phẩm làm ra, sức cạnh tranh của sản phẩm trên thị trường v.v... Việc chọn các tiêu chuẩn đánh giá hiệu quả là quá trình quan trọng và phức tạp. Nếu không chú ý đến điều này, khi đề ra nhiệm vụ dễ nêu những mục đích chung chung, do đó dẫn tới những khó khăn lớn khi chọn quyết định. Các phương án của những quyết định phức tạp được nghiên cứu bằng mô hình toán học. Mô hình phản ánh hoặc tái tạo đối tượng, thay thế đối tượng để sau khi nghiên cứu mô hình thu được những thông tin về đối tượng đó. Mô hình của đối tượng đơn giản hơn và chỉ phản ánh những mặt cơ bản để đạt mục tiêu. Các mô hình cho phép nghiên cứu các phương án của quyết định với hao phí về sức lực, phương tiện và thời gian. Nhờ mô hình và máy vi tính người ta xác định nhanh chóng hiệu quả các phương án theo tiêu chuẩn đánh giá đã chọn. Trên cơ sở đó, có thể chọn được phương án quyết định tối ưu. c. Thu thập thông tin để làm rõ nhiệm vụ đề ra Chỉ có thể giải quyết đúng đắn một vấn đề nào đó nếu như có thông tin đầy đủ và chính xác. Lượng thông tin cần thiết phụ thuộc vào tính phức tạp của nhiệm vụ được xét và phụ thuộc vào trình độ thành thạo, kinh nghiệm của người ra quyết định. Người lãnh đạo lành nghề có kinh nghiệm khi giải quyết những vấn đề thường gặp, có thể bổ sung những tin đã nhận được, xuất phát từ kinh nghiệm của mình trong các trường hợp tương tự. Nhưng cần thiết phải thu thập mọi thông tin, nếu điều kiện cho phép, về tình huống nhất định. Nếu thông tin chưa đủ để quyết định vấn đề một cách chắc chắn, phải có biện pháp bổ sung tin. Đôi khi cần giải quyết những vấn đề cấp bách và quan trọng, người lãnh đạo có thể trực tiếp tìm hiểu tình hình tại chỗ. Công việc này thường không tốn nhiều thời gian mà lại giúp cho người lãnh đạo có thông tin cần thiết, đầy đủ và chính xác nhất. Không phải tất cả mọi thông tin thu nhận được luôn luôn chính xác đầy đủ. Trong một số trường hợp, thông tin bị sai lệch đi một cách có ý thức do xuất phát từ các lợi ích cục bộ, hoặc do phải truyền đạt quá nhiều cấp bậc. Nhưng đôi khi thông tin bị méo đi một cách vô ý thức vì cùng một hiện tượng những người khác nhau có thể có những ý kiến chủ quan khác nhau hoặc trong cạnh tranh nhiều thông tin giả (nhiễu) được các đối thủ tung ra để đánh lạc hướng đối phương v.v... Cho nên, người lãnh đạo phải chú ý tất cả những điều đó khi đánh giá các nguồn thông tin. d. Chính thức đề ra nhiệm vụ Bước này có ý nghĩa rất quan trọng để đề ra quyết định đúng đắn. Chỉ có thể chính thức đề ra nhiệm vụ sau khi xử lý các thông tin thu được do kết quả nghiên cứu về tính chất của nhiệm vụ, tính cấp bách của việc giải quyết nhiệm vụ đó, tình huống phát sinh, việc xác định mục đích và tiêu chuẩn đánh giá hiệu quả. e. Dự kiến các phương án quyết định Nêu những phương án quyết định sơ bộ trình bày dưới dạng kiến nghị. Những phương án sơ bộ này thường xuất hiện ngay ở bước đề ra nhiệm vụ. Cần xem xét kỹ lưỡng mọi phương án quyết định có thể, ngay cả đối với những phương án mà mới nhìn qua tưởng như không thực hiện được. Trước hết, nên sử dụng kinh nghiệm đã có khi giải quyết những vấn đề tương tự. Nếu như kinhnghiệm đó là kinh nghiệm tốt và những phương án riêng biệt đã cho những kết quả tốt thì nên đưa các phương án đó vào trong số các phương án quyết định. Tuy nhiên, không nên dừng lại ở đó mà nên tìm các phương pháp giải quyết nhiệm vụ có hiệu quả hơn. Có thể dùng phương pháp lập luận lôgic và trực giác của người lãnh đạo để lựa chọn phương án. Cần xác định xem xây dựng phương án nào thì có lợi, còn phương án nào khó thực hiện do nguyên nhân nào đó. Để lựa chọn lần cuối chỉ nên để lại nhữngà phương án quyết định thiết thực nhất, bởi vì số lượng các phương án càng nhiều thì càng khó phân tích, đánh giá hiệu quả của chúng. f. Đề ra quyết định Sau khi đánh giá những kết quả dự tính của quyết định và lựa chọn được phương án tốt nhất, chủ doanh nghiệp phải trực tiếp đề ra quyết định và chịu trách nhiệm trực tiếp về quyết định đó. g. Truyền đạt quyết định đến người thi hành và lập kế hoạch tổ chức Trước hết quyết định cần được nêu thành mệnh lệnh hay chỉ thị để có hiệu quả của một văn bản hành chính. Trong bản thân quyết định không phải chỉ dự tính làm cái gì mà còn phải quy định ai làm, ở đâu, khi nào làm và làm bằng cách nào, ai kiểm tra việc thực hiện quyết định, bao giờ thì kiểm tra và kiểm tra

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docPhuong phap QTKD.doc