Buôn làng người Gia Rai ngày nayNghiên cứu trường hợp làng Greo Pết

Tài liệu Buôn làng người Gia Rai ngày nayNghiên cứu trường hợp làng Greo Pết: TẠP CHÍ KHOA HỌC ĐẠI HỌC SÀI GÒN Số 24 (49) - Tháng 01/2017 30 Buơn làng người Gia Rai ngày nay- Nghiên cứu trường hợp làng Greo Pết 1 Village of the Gia Rai ethnic group today: A case study of the Greo Pet Village TS. Trần Hạnh Minh Phương Trường Đại học Thủ Dầu Một Tran Hanh Minh Phuong, Ph.D. Thu Dau Mot University Tĩm tắt Trong bối cảnh hiện đại hĩa và tồn cầu hĩa diện mạo Tây Nguyên khơng ngừng biến đổi nhưng điều đĩ khơng cĩ nghĩa là tất cả những yếu tố truyền thống hồn tồn biến mất. Nghiên cứu làng Greo Pết của người Gia Rai (xã Dun, huyện Chư Sê, tỉnh Gia Lai) cho thấy một số yếu tố văn hĩa truyền thống vẫn song song tồn tại với các yếu tố hiện đại, thể hiện trong việc quản trị làng, trong lĩnh vực kính tế, đời sống tín ngưỡng, các nghi lễ vịng đời, phương thức điều trị và chăm sĩc y tế, việc giáo dục thế hệ trẻ. Điều này rất cĩ ý nghĩa cho sự phát triển theo hướng bền vững của làng bởi những yếu tố này gĩp phần củng cố căn cước tính tộc người, l...

pdf17 trang | Chia sẻ: quangot475 | Lượt xem: 344 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem nội dung tài liệu Buôn làng người Gia Rai ngày nayNghiên cứu trường hợp làng Greo Pết, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
TẠP CHÍ KHOA HỌC ĐẠI HỌC SÀI GÒN Số 24 (49) - Tháng 01/2017 30 Buơn làng người Gia Rai ngày nay- Nghiên cứu trường hợp làng Greo Pết 1 Village of the Gia Rai ethnic group today: A case study of the Greo Pet Village TS. Trần Hạnh Minh Phương Trường Đại học Thủ Dầu Một Tran Hanh Minh Phuong, Ph.D. Thu Dau Mot University Tĩm tắt Trong bối cảnh hiện đại hĩa và tồn cầu hĩa diện mạo Tây Nguyên khơng ngừng biến đổi nhưng điều đĩ khơng cĩ nghĩa là tất cả những yếu tố truyền thống hồn tồn biến mất. Nghiên cứu làng Greo Pết của người Gia Rai (xã Dun, huyện Chư Sê, tỉnh Gia Lai) cho thấy một số yếu tố văn hĩa truyền thống vẫn song song tồn tại với các yếu tố hiện đại, thể hiện trong việc quản trị làng, trong lĩnh vực kính tế, đời sống tín ngưỡng, các nghi lễ vịng đời, phương thức điều trị và chăm sĩc y tế, việc giáo dục thế hệ trẻ. Điều này rất cĩ ý nghĩa cho sự phát triển theo hướng bền vững của làng bởi những yếu tố này gĩp phần củng cố căn cước tính tộc người, làng phát triển về kinh tế nhưng khơng đánh mất truyền thống văn hĩa. Từ khĩa: người Gia Rai, văn hĩa người Gia Rai, Tây Nguyên ngày nay. Abstract In the current context of modernization and globalization, cultures of the ethnic groups living in the Central Highlands have been constantly changing, but that does not mean the complete erasion of traditional elements. By studying the Greo Pet Village (in Dun Commune, Chu Se District, Gia Lai Province) of the Gia Rai ethnic people, this article shows that traditional elements co-exist with modern elements, which is expressed in village administration, economy, religion, belief, life-cycle rituals, medical treatment, education for younger generations, etc. This coexistence of traditional and modern elements ensures the sustainable development of the village, protecting the ethnic identity while developing economy. Keywords: Gia Rai people, Gia Rai people”s culture, Central Highlands. Buơn làng Tây Nguyên nĩi chung và buơn làng của người Gia Rai nĩi riêng là hình thái tổ chức xã hội cổ truyền tồn tại và tiến triển tương đối bền vững trên vùng đất này cho đến nửa đầu thế kỷ XX. Nhưng những chính sách của nhà nước trong các thời kỳ lịch sử, quá trình di dân và bối cảnh tồn cầu hĩa đã làm biến đổi sâu sắc văn hĩa Tây Nguyên. Trong bối cảnh đĩ, buơn làng của người Gia Rai ra sao? Những yếu tố truyền thống nào cịn được bảo tồn và đã bị biến đổi, những yếu tố văn hĩa nào mới xuất hiện là mục tiêu của bài viết này. Tư liệu chính của bài viết là nguồn thơng tin thu thập từ hai đợt khảo sát thực địa vào tháng 8 năm 2014 và tháng 1 năm 31 2015 bao gồm nghiên cứu định tính (phỏng vấn sâu, quan sát tham dự) và nghiên cứu định lượng trong khuơn khổ đề tài Vai trị các định chế phi chính thức đối với sự phát triển bền vững ở Tây Nguyên do TS. Nguyễn Mạnh Hùng, trường Đại học Nguyễn Tất Thành làm chủ nhiệm. Bài viết cũng trích dẫn từ bản thảo quyển Buơn làng Tây Nguyên ngày nay (kết quả nghiên cứu của đề tài) của tập thể tác giả Võ Cơng Nguyện, Trần Hữu Quang, Nguyễn Mạnh Hùng (chủ biên), Phan Văn Dốp, Nguyễn Đức Lộc, Phan Thanh Lời, Trần Hạnh Minh Phương, Vũ Ngọc Xuân Ánh (2015). Bài viết khái quát về diện mạo buơn làng người Gia Rai ngày nay trên các lĩnh vực: khơng gian và mơ hình cư trú, việc quản trị làng, đời sống kinh tế, hơn nhân gia đình, tín ngưỡng - tơn giáo, giáo dục, y tế, đời sống văn hĩa tinh thần qua kết quả nghiên cứu trường hợp làng Greo Pết (xã Dun, huyện Chư Sê, tỉnh Gia Lai). Làng Greo Pết là nơi cĩ đơng người Gia Rai sống tập trung và cịn giữ lại được nhiều yếu tố truyền thống nên được chúng tơi chọn nghiên cứu điển hình. Hiện vẫn chưa cĩ tài liệu thành văn nào viết về lịch sử của làng Greo Pết, chúng tơi chỉ cĩ thể dựa vào nguồn thơng tin từ các cuộc phỏng vấn hồi cố để phác họa đơi nét về ngơi làng. Làng Greo Pết là ngơi làng lâu đời của người Gia Rai nhưng khơng xác định được chính xác làng ra đời năm nào. Do chiến tranh, bệnh tật, thiếu đất canh tác làng cĩ ít nhất năm lần dời đổi vị trí nhưng đều nằm dọc theo suối Pết và nước giọt Pết. Theo già làng Rơ Mal P ban đầu làng chỉ 18 gia đình sinh sống, dần dần khơng gian làng được mở rộng do dân số đơng (Trần Hạnh Minh Phương, Ghi chép điền dã, tháng 8 - 2014). Theo Trần Văn Th (chủ tịch hội Nơng dân xã Dun) trước năm 1975, trong xã Dun chỉ cĩ khoảng hơn 1.000 người Gia Rai, hồn tồn chưa cĩ người Kinh. Những năm 1975-1980, cĩ năm hộ người Kinh - Gia Rai (chồng người Kinh vốn là bộ đội của vùng này cưới vợ người Gia Rai). Sau năm 1995, người Kinh và một số tộc người thiểu số phía Bắc di cư ồ ạt vào vùng này làm dân số của xã tăng cơ học một cách đột biến.Theo thống kê năm 2013, tại xã Dun cĩ 2076 người Gia Rai (so với người Kinh là 2010 người, trên tổng số 4324 người tồn xã. Tồn xã cĩ bảy thơn làng, trong đĩ cĩ sáu làng người Gia Rai, và một thơn người Kinh: làng Kueng Mép, Greo Sék, Ring Răng, làng Pan, Ia Long, Greo Pết và Bình Minh (thơn người Kinh). Người dân ở xã Dun (kể cả UBND) cĩ cách gọi “làng” để chỉ nơi cĩ đơng người Gia Rai và gọi “thơn” để chỉ nơi cĩ đơng người Kinh. Và qua tên gọi chúng ta cũng cĩ thể phân biệt làng người Gia Rai và thơn người Kinh. 2. Nội dung 2.1.Về khơng gian và mơ hình cư trú Trong quá khứ buơn làng của người Gia Rai gắn liền với rừng, thác nước, con suối và đặc biệt là phải gần giọt nước để cĩ nước uống và nước sinh hoạt. Tên gọi tộc người, tên làng mang dấu ấn của thiên nhiên. Jacques Dournes giải thích tộc danh Gia Rai đồng nghĩa với từ Giơ rai (thác nước), cho biết tổ tiên của tộc người Gia Rai từng tụ cư ở vùng núi, cĩ nhiều thác ghềnh. Khơng gian sinh tồn của người Gia Rai là rừng, ngay cả “rẫy và làng là một phần cắt ra từ rừng, lấy đi của rừng bằng rìu và lửa” (Jacques Dournes, 2006, tr.4). “Rừng, phủ kín phần lớn khu vực sinh sống của cư dân tại chỗ, chiếm vị trí trung tâm của miền đất này (..). Rừng cĩ mặt ở khắp nơi, trong làng, ngồi rẫy.” (Jacques Dourenes, 2006, tr.13). Từ tháng 7 năm 1977, chính quyền địa 32 phương ở các nơi đồng loạt thực hiện chủ trương của nhà nước là trực tiếp đi vào rừng vận động, giải thích cho các tộc người thiểu số ích lợi của việc sống định cư, với phương châm “năm gần, ba cĩ” (gần Đảng, gần nhau, gần đường, gần chợ, gần trường học, cĩ nước, cĩ đất, cĩ bưng để sản xuất). Theo cuộc vận động này, dân làng Greo Pết dần dần làm nhà sống tập trung gần đường, gần trường học, trạm y tế, gần chợ để thuận lợi cho việc đi lại, buơn bán, học tập và chữa bệnh. Vì thế làng Greo Pết của người Gia Rai khơng gắn với rừng nữa mà ở gần đường giao thơng, và hiện tại gần Ủy ban nhân dân xã. Phần lớn các nhà trong làng được cất dọc theo đường làng, hoặc theo những con đường nhỏ chạy quanh làng. Xung quanh làng khơng cịn rừng mà thay vào đĩ là những mảnh vườn trồng bắp, vườn tiêu, cà phê hay vườn cây ăn trái, những luống rau để cải thiện bữa ăn hàng ngày. Tại làng Greo Pết nhà ở khơng san sát nhau, khoảng cách giữa các nhà cĩ vườn xung quanh, thường là một mảng bắp, 20-30 gốc cây cà phê hoặc đám mì (Trần Hạnh Minh Phương, Ghi chép điền dã, tháng 8 - 2014). Dân làng khơng sống trong rừng nữa và rừng thiêng cũng bị thu hẹp dần. Như lời của ơng Nguyễn Văn Th (chủ tịch Hội Nơng dân xã Dun) “Rừng cấm là do các cụ già xưa muốn giữ rừng đầu nguồn, bảo vệ nguồn nước, tránh sạt lở. Tuy nhiên, người Gia Rai sau này đã giảm bớt niềm tin vào điều này, họ chặt cây trong cả khu rừng cấm. Rừng cấm ở làng Pan trước đây rộng khoảng 5 héc-ta, nhưng hiện nay chỉ cịn khoảng 2 héc-ta” (Trần Hạnh Minh Phương, Ghi chép điền dã, tháng 8-2014). Khơng gian sống thay đổi, mơ hình cư trú cũng thay đổi. Chủ trương khuyến khích sản xuất và sở hữu cá thể hoặc hộ gia đình bằng việc tách đại gia đình thành các gia đình hạt nhân và những cặp vợ chồng trẻ muốn ra sống riêng để được tư hữu về tài sản, phát triển kinh tế hộ gia đình riêng, được tự do, khơng bị trĩi buộc bởi các mối quan hệ thân tộc. Điều này đã khiến buơn làng người Gia Rai ngày nay hồn tồn khơng cịn những ngơi nhà dài của đại gia đình sống chung mà thay vào đĩ là những ngơi nhà đất của gia đình hạt nhân. Dưới đây là một số câu chuyện liên quan đến lý do các cặp vợ chồng sau khi cưới khơng muốn ở chung trong gia đình mở rộng. Trường hợp gia đình ơng Rơ Mal Gl (người Gia Rai, sinh năm 1959, làng Greo Pết, xã Dun). Ơng kể, khi ơng cịn là thanh niên vẫn cịn tập quán sống chung trong ngơi nhà dài, Sau khi kết hơn ơng sống chung với bố mẹ vợ, vợ chồng chị gái của vợ, vợ chồng em gái, dù mỗi cặp vợ chồng làm kinh tế riêng nhưng vẫn hỗ trợ nhau khi cần, khơng cĩ chuyện xích mích do ganh tị về tài sản sở hữu giữa các gia đình nhỏ. Theo ơng từ khi cĩ nhiều người Kinh đến, người Gia Rai học được cách hạch tốn, so sánh của người Kinh nên các gia đình nhỏ khơng cịn muốn sống chung trong một ngơi nhà dài nữa. Chẳng hạn, gia đình ơng, người con gái lớn cĩ chồng người Kinh (quê ở Thanh Hĩa) sau lễ cưới vài ngày đã cĩ nguyện vọng ra ở riêng và ơng đã phải đồng ý để giữ hạnh phúc cho con gái, trong khi hai người con gái kế cĩ chồng người Gia Rai và người Ê Đê vẫn hiện đang sống chung với ơng và những người con chưa kết hơn (Vũ Ngọc Xuân Ánh, Ghi chép điền dã, tháng 8 - 2014). Theo Vũ Ngọc Xuân Ánh qua câu chuyện này cho thấy chính “trình độ hạch tốn” khiến cho những cặp vợ chồng khơng thể sống chung trong một mái nhà với nhau 33 được, hay nĩi cách khác đây cĩ lẽ là một trong những nguyên nhân (nếu cĩ những nguyên nhân khác) khiến người Gia Rai chuyển từ mơ hình sống chung trong một ngơi nhà sàn dài sang hình thức sống trong nhà nhỏ, với gia đình hạt nhân (Vũ Ngọc Xuân Ánh, Ghi chép điền dã, tháng 8 -2014). Việc chuyển đổi mơ hình cư trú từ nhà sàn dài sang nhà sàn ngắn hay nhà đất khơng đơn giản là chuyện tách hộ mà đã làm suy yếu tính cố kết của dịng họ mẫu hệ, từ đĩ làm biến mất hoặc suy giảm những điều khoản của luật tục vốn bảo vệ cho dịng họ nữ. Làn sĩng di dân tự do ồ ạt vào Tây nguyên sau năm 1975 đã làm dân số Tây Nguyên tăng cơ học đột biến, làm biến đổi tâm thế, đời sống và cấu trúc của buơn làng truyền thống ở đây. Đến năm 1999, trong số 586 xã ở Tây nguyên, khơng cịn xã nào chỉ cĩ các tộc người bản địa, nhưng đã cĩ đến 52 xã, chiếm 8,9% tổng số xã, chỉ gồm các tộc người từ nơi khác di dân vào đây, chủ yếu sau năm 1975 (Lê Văn Khoa, Phạm Quang Tú, 2014, tr. 227-228). Nếu vào năm 1906, chưa cĩ người Kinh cư trú ở Tây nguyên, thì đến năm 2002 đã cĩ 3,5 triệu người Kinh, làm giảm tỷ lệ dân số các tộc người thiểu số tại chỗ ở vùng này từ 95% xuống cịn 30% vào thời điểm này (Nguyên Ngọc, 2011, tr. 7-26). Làng Greo Pết cũng khơng nằm ngồi xu hướng này, năm 2010, thành phần tộc người ở làng như sau: người Kinh cĩ 31 hộ (115 nhân khẩu), người Mường 1 hộ (4 nhân khẩu) và 96 hộ người Gia Rai (514 nhân khẩu) (Ủy ban Nhân dân xã Dun, 2010). Điều này, sẽ cĩ ảnh hưởng đến sự biến đổi của làng. 2.2. Về việc quản trị làng Buơn làng cổ truyền của người Gia Rai được vận hành theo thiết chế tự quản bằng các vai trị của già làng, trưởng tộc, người xử kiện, ơng mai, người chủ mương nước, thầy cúng. Trong đĩ đứng đầu là già làng vì “già làng là người cao tuổi, cĩ uy tín trong cộng đồng, được mọi người tín nhiệm và được coi là tinh hoa của buơn làng. Uy tín và vị trí ấy nảy sinh và tồn tại trên cơ sở một số ưu thế cá nhân như tuổi tác, tri thức và tài sản của họ theo quan niệm chung của cộng đồng” (Lưu Hùng, 1994, tr. 174-175). Ngày nay buơn làng người Gia Rai khơng cịn là thiết chế xã hội tự quản độc lập làng trở thành một cấp hành chính trực thuộc xã, tại làng song song tồn tại hai định chế chính thức và phi chính thức cùng điều hành và quản trị làng. Định chế chính thức là chính quyền cấp thơn cĩ trách nhiệm triển khai và thực hiện những chủ trương của Đảng, chính sách của nhà nước trong làng, điều hành và quản lý các hoạt động của làng theo pháp luật, là “cánh tay nối dài” của nhà nước trung ương. Hệ thống quản lý chính thức của làng bao gồm chi bộ Đảng cĩ trách nhiệm lãnh đạo, trưởng thơn cĩ trách nhiệm quản lý chung; giúp việc cho trưởng thơn cĩ phĩ trưởng thơn, thơn đội trưởng, cơng an viên, các thành viên của tổ hịa giải, các nhân viên khuyến lâm, khuyến nơng, dân số và kế hoạch hĩa gia đình, y tế cộng đồng, mặt trận tổ quốc và các tổ chức đồn thể quần chúng (Đồn thanh niên, Hội phụ nữ, Hội nơng dân, Hội cựu chiến binh...) cĩ trách nhiệm vận động, tập hợp nhân dân tham gia vào việc xây dựng và bảo vệ buơn làng. Các cơng việc chung của làng do trưởng thơn điều hành với sự trợ giúp của người hịa giải. Khi cần họp dân làng, trưởng thơn đánh ba tiếng kẻng đến họp ở tại nhà rơng của làng hoặc ở nhà trưởng thơn để quyên gĩp tiền cho gia đình cĩ 34 người thân qua đời ở trong làng, đĩng gĩp các quỹ do xã vận động hoặc đĩng gĩp để mua tài sản chung cho làng (bộ chiêng chẳng hạn), hay phổ biến những cơng việc chung của làng, các chính sách của xã (như xây dựng đường, hệ thống thủy lợi...). Tiêu chuẩn dân làng bầu chọn trưởng thơn gần giống như tiêu chuẩn chọn già làng: tuổi trung niên trở lên, ăn nĩi lưu lốt, giỏi làm ăn kinh tế, gia đình khá giả, cĩ kinh nghiệm sống, người cĩ uy tín, nĩi dân làng nghe (giống như già làng ngày xưa) và là người Gia Rai. Theo chúng tơi trưởng thơn làng Greo Pết, Rahlan L đạt được những tiêu chuẩn vừa nêu. Trưởng thơn là cầu nối giữa dân làng với chính quyền địa phương, thay mặt dân làng tham gia các cuộc họp cĩ liên quan đến dân làng. Cùng với trưởng thơn, tại làng Greo Pết thầy cúng, ơng mai, người hịa giải, trưởng tộc, chủ mương nước vẫn tham gia điều hành và quản trị làng. Mỗi người đảm nhiệm một cơng việc cụ thể, giải quyết những việc nội bộ của làng. Làng Greo Pết hiện đang khuyết già làng vì già làng Rơ Mal P (trong lúc đang là già làng) cĩ con gái chết vì bệnh lúc 13 tuổi – một điều khơng may, ơng khơng cịn được cúng yang cho làng nên ơng mất đi vai trị già làng. Và phải đợi sau khi gia đình ơng tổ chức lễ bỏ mả cho con gái xấu số này, làng mới được bầu già làng mới. Hiện tại, ơng Rơ Mal B là người hịa giải phần nào kiêm luơn việc của già làng, cùng với trưởng thơn điều hành làng. Thầy cúng-chủ lễ là người đàn ơng cĩ năng lực đặc biệt, đảm nhận việc cúng bái, giao tế, làm mối dây liên hệ giữa con người với các thế lực siêu nhiên nhằm đáp ứng yêu cầu, nguyện vọng trong đời sống tâm linh của buơn làng. Uy thế của thầy cúng Rơ Mal H khơng cịn nguyên vẹn như xưa nhưng trong chừng mực nào đĩ vẫn giữ vai trị mang lại sự an lành về mặt tinh thần cho dân làng. Những gia đình cĩ người đau ốm, người vừa hết bệnh từ bệnh viện về, hay cĩ nhiều chuyện khơng may xảy ra đều mời ơng đến cúng yang sang để cầu hết bệnh và cầu bình an. Trong buơn làng người Gia Rai để trai gái cưới nhau khơng thể thiếu vai trị của ơng mai. Ơng mai là cầu nối giữa hai gia đình cơ dâu và chú rể, làm nhiệm vụ mai mối để hai bên gia đình biết nhau, là người đưa ra sự thương lượng giữa đơi bên để đi đến những điều hai bên đều đồng ý. Ơng mai cịn là người làm chứng cho cuộc hơn nhân, theo dõi suốt cuộc sống của đơi vợ chồng để kịp thời điều chỉnh những hành vi cĩ nguy cơ phá vỡ hơn ước. Ơng mai là người điều khiển buổi lễ trao vịng, là người đưa ra mức phạt, cũng như là người hịa giải cho đơi vợ chồng và dịng họ hai bên nếu cĩ xảy ra chuyện xung đột. Chính vì vai trị đĩ, ơng mai Ksor T ngồi cơng việc làm nơng cho gia đình, ơng thường xuyên bận rộn cho việc mai mối, giải quyết những xung đột vợ chồng. Ơng Rơ Mal B đĩng vai trị là người hịa giải của làng Greo Pết từ năm 1995 đến nay (Vũ Ngọc Xuân Ánh, Ghi chép điền dã, tháng 8-2014). Ơng được dân làng tín nhiệm trong việc hịa giải, phân xử các mâu thuẫn, xích mích giữa các thành viên trong làng. Theo ơng, việc xử kiện căn cứ vào các điều khoản luật tục để định tội đối với những ai vi phạm. Vì thế, người xử kiện thường là người cĩ khả năng bẩm sinh, thuộc lịng và thấu hiểu các điều khoản của luật tục. Ơng Rơ Mal B kể về cách ơng giải quyết những vụ xích mích trong làng “(..) đánh nhau [nè], vợ chồng ghét nhau (). thế này thế kia, cãi nhau. Nếu mà mình giải quyết theo luật dân tộc 35 mình, hồi xưa (mà) hai vợ chồng cứ đánh nhau miết, cãi nhau miết vậy, giải quyết cho tụi nĩ bỏ nhau, bỏ thử thơi, cho chồng đi một tháng, hai tháng rồi quay lại. Khơng phải giống luật nhà nước. Luật nhà nước là khác, luật dân tộc mình là như vậy đấy. () Hay con gái cĩ chồng rồi, hai đứa nĩ lấy nhau rồi, cuối cùng nĩ lại hiếp dâm đứa con gái khác, nĩ muốn bỏ vợ cũ. Theo phong tục mình chỉ phạt một con heo và một con gà cúng cho vợ nĩ để trở về. Tự mình làm thì mình xử như thế thơi”. Ngày nay, trong các vụ hịa giải khi đưa ra mức phạt ơng rất cân nhắc, vì “nếu mình phạt giống hồi xưa, đúng nhà nĩ nghèo thì nĩ lấy ở đâu ra (..) cuối cùng nĩ tức quá nĩ giết người, tự nĩ giết người mình chịu. (Hay) nếu mình phạt nĩ lấy heo 50 kg, 60 kg, nĩ khơng biết lấy ở đâu ra, nĩ đi ăn trộm ăn cặp người ta. Mình nghĩ là nĩ làm như thế khơng đúng cho nên mình phải thỏa thuận cho nĩ nhẹ nhàng. Hồi xưa là đâu cĩ biết xử như thế đâu. Nĩ chết cũng được, nĩ thắt cổ cũng được, kệ nĩ. Nĩ làm tầm bậy. Cịn bây giờ là mình đã biết rồi, mình là con người này mình phải sống tình cảm với nhau” (Vũ Ngọc Xuân Ánh, Nội dung phỏng vấn sâu ơng Rơ Mal B, làng Greo Pết, tháng 8-2014). Ngày nay, khơng cịn tồn tại những ngơi nhà dài của các đại gia đình nhưng vai trị của tộc trưởng vẫn cịn đĩ. Bà Siu C, ơng Rahlan Bl là tộc trưởng của chi họ Siu, họ Rahlan chịu trách nhiệm phân giải các tranh chấp thuộc về nội bộ dịng họ. Tộc trưởng là người tổ chức lễ cúng cho dịng họ. Làng Greo Pết nằm dọc con suối Pết cĩ mương nước do ơng Rah Lan Bl đào năm 1965 để dẫn nước lên ruộng bậc thang của làng.Về mặt hành chính, chính quyền xã quản lý con mương nhưng trên thực tế dân làng vẫn xem ơng Rahlan Bl là chủ con mương. Ơng quản lý và bảo vệ con mương bằng cả tình cảm, trách nhiệm và niềm tự hào. Mỗi năm hai lần, trước và sau khi làm vụ đơng xuân, dân ba làng Greo Sek – nơi bắt đầu con mương, dân làng Greo Pết và làng Ring Rang - nơi con mương mang nước đến, dưới sự chỉ huy của ơng Rahlan Bl (bên cạnh là chính quyền xã) nạo vét làm sạch mương nước. Như vậy, tại làng Greo Pết ngày nay được điều hành và quản lý bởi định chế chính thức – tổ chức chính quyền cấp thơn và định chế phi chính thức với vai trị của người hịa giải, ơng mai, thầy cúng và chủ mương nước. Cơ cấu của tổ hịa giải thể hiện rõ điều này. Tổ hịa giải của buơn làng thường cĩ thành phần gồm người hịa giải đĩng vai trị điều hành việc xử kiện, trưởng thơn đại diện cho chính quyền địa phương và già làng đại diện cho dân làng (làng Greo Pết đang khuyết già làng nên ơng Rơ Mal B vừa là người hịa giải vừa đĩng vai trị già làng vì ơng là người hiểu biết luật tục và là một trong những người lớn tuổi trong làng). Tổ hịa giải của làng giải quyết các một vụ tranh chấp đất đai, hay vi phạm về hơn nhân, xử các vụ trộm cắp trong làng. Chính quyền khuyến khích làng thực hiện cơng việc hịa giải dựa vào cả luật tục và luật pháp, vừa thấu tình vừa đạt lý để đơi bên nguyên đơn và bị đơn đều thấy hài lịng, xem như vụ việc đã được giải quyết. Trừ phi hịa giải ở nội bộ làng khơng thành cơng, sự việc mới được đưa lên chính quyền xã, huyện hay tỉnh. Điều đĩ cĩ nghĩa là chính quyền địa phương một mặt dựa vào trưởng thơn để quản lý làng theo xã hội hiện đại, một mặt vẫn muốn duy trì những điểm tích cực của cơ chế truyền thống để làng được vận hành một cách “trơn tru” nhất. Điều này cịn được thể hiện qua kết 36 quả khảo sát định lượng, 45,8% người Gia Rai (xã Dun và xã Ia Glai) trả lời già làng vẫn cĩ vai trị, vị trí quan trọng trong việc hịa giải, phân xử những xích mích hay tranh chấp trong buơn làng theo phong tục và luật tục (Võ Cơng Nguyện, Trần Hữu Quang, Nguyễn Mạnh Hùng, 2015, tr.85) 2.3. Về đời sống kinh tế Từ sau năm 1975, theo chủ trương chung, hầu hết các tộc người thiểu số trên đất nước Việt Nam đều chuyển từ phương thức du canh, du cư sang định canh, định cư và người Gia Rai ở làng Greo Pết khơng nằm ngồi xu hướng này. Tuy nhiên về sinh kế cũng khơng khác xưa, dân làng vẫn sống bằng nơng nghiệp. Theo kết quả khảo sát bản câu hỏi định lượng tháng 1-2015, trên tổng số 692 người trong độ tuổi lao động (nam là 15-60 tuổi, và nữ là 15-55 tuổi), 611 người làm nghề nơng, 5 người là bộ đội, cơng an, 3 người làm việc cho chính quyền, trong lĩnh vực dịch vụ 3 người, thương mại 2 người, giáo dục, văn hĩa 3 người và đồn thể là 1 người (Võ Cơng Nguyện, Trần Hữu Quang, Nguyễn Mạnh Hùng, 2015, tr.90). Như vậy, sinh kế của Gia Rai ở làng Greo Pết là thuần nơng, mức độ chuyên mơn hĩa và đa dạng hĩa ngành nghề cịn rất thấp. Vì kinh tế thuần nơng nên mức thu nhập bình quân đầu người trong năm 2014 tương đối thấp: 10,86 triều đồng/ người (Võ Cơng Nguyện, Trần Hữu Quang, Nguyễn Mạnh Hùng, 2015, tr.85). Trước năm 1975, “buơn làng là chủ sở hữu tập thể đối với tồn bộ lãnh thổ của mình” và “buơn làng luơn là chủ nhân ơng trên hết, bao trùm tất cả” (Lưu Hùng, 1994, tr. 91). Nhưng ngày nay, với phương thức định canh định cư, đất đai gần như hồn tồn thuộc về các hộ gia đình cá thể, buơn làng hầu như khơng cịn quyền hành gì trên đất đai của các hộ gia đình nữa. Theo kết quả khảo sát, mỗi hộ người Gia Rai ở làng Greo Pết cĩ 0,64 héc-ta đất canh tác (Võ Cơng Nguyện, Trần Hữu Quang, Nguyễn Mạnh Hùng, 2015, tr.94). Cũng là làm nơng nhưng cơ cấu cây trồng của làng Greo Pết hiện nay đã khác trước đây, họ khơng cịn trồng lúa rẫy mỗi năm một vụ, chuyển sang trồng lúa nước mỗi năm hai vụ, áp dụng khoa học kỹ thuật cho năng suất cao: Đơng xuân và Hè thu, trồng cây lâu năm (cây cà phê vào làng năm 1995 và cây tiêu năm 1998) mang lại nguồn lợi lớn và ổn định. Theo chị Siu H’Kip, từ năm 1997, làm ruộng khỏe hơn trước đây nhờ cĩ máy mĩc: máy phay xới đất, máy phụt lúa (máy suốt lúa) do người Kinh ở địa phương khác đưa đến làm thuê (trong làng khơng cĩ máy này). Hiện nay, người làm ruộng chỉ làm bằng tay những việc nhẹ: sạ lúa, bĩn phân, nhổ cỏ, xịt cỏ (Trần Hạnh Minh Phương, Ghi chép điền dã, tháng 8 - 2014). Và theo quan sát của chúng tơi những gia đình khá giả trong làng đã cĩ xe cơng nơng, chiếc xe này rất đa năng: chở nơng sản, chở người, chở củi tại làng“sáng sáng chúng ta dễ dàng bắt gặp những chiếc xe cơng nơng chở đầy người đi ra đồng, ra rẫy, đến chiều họ cũng ngồi trên những chiếc xe này trở về nhà. Ngày mùa thì những chiếc xe này chở đầy các loại nơng sản, lúa, ngơ, khoai, sắn, cà phê” (Trần Hạnh Minh Phương, Ghi chép điền dã, tháng 8 - 2014). Đời sống kinh tế của dân làng Greo Pết đã hịa nhập vào nền kinh tế thị trường: xuất hiện việc thuê mướn nhân cơng, dùng tiền trong các giao dịch buơn bán. Trong làng diễn ra việc mua bán khá nhộn nhịp với ba điểm bán tạp hĩa, và hàng ngày cĩ nhiều người bán hàng dạo đi quanh làng (bán thức ăn hàng ngày, bán võng, bán 37 mùng mền), tại làng cĩ cả hai nhà máy xay xát gạo (loại nhỏ), cĩ dịch vụ nấu đám cưới. Tuy nhiên, dấu vết của nền kinh tế tự túc tự cấp vẫn cịn tồn tại: bên cạnh việc thuê mướn nhân cơng, hình thức vần đổi cơng giữa những người trong làng vẫn cịn rất phổ biến, gĩp phần giải quyết nhân cơng cho vụ mùa. Tại điểm bán tạp hĩa của chị Siu P trong làng vẫn chấp nhận vật đổi vật. Một đứa bé khơng cĩ tiền cĩ thể dùng một lon gạo để đổi một ít bánh kẹo hay người phụ nữ người bán thức ăn dạo quanh làng cĩ thể đổi vài thứ rau, đậu, hay thịt cho nhà chị L để lấy gạo. Vì theo chị gạo của người Gia Rai khá ngon, sau khi đổi gạo như vậy chị sẽ đem gạo bán ở chợ, lại hưởng thêm một lần lợi nhuận nữa nên chị rất vui vẻ thực hiện việc mua bán khơng dùng tiền như thế này. Sự phát triển kinh tế làm cuộc sống của dân làng cĩ phần khá hơn về vật chất (nhà cửa, quần áo, các tiện nghi sinh hoạt trong gia đình, bữa ăn hàng ngày) nhưng nền kinh tế thị trường khiến con người bị áp lực hơn, một phụ nữ Gia Rai (33 tuổi) nĩi “hồi xưa thì rằng nĩ khĩ khăn nhưng mà cuộc sống nĩ thoải mái hơn, khơng như bây giờ, bây giờ mình chạy theo đồng tiền, làm kinh tế vất vả hơn hồi xưa (Trần Hạnh Minh Phương, Nội dung phỏng vấn sâu, tháng 1-2015). Trong một cuộc thảo luận nhĩm Trần Hạnh Minh Phương nhận xét “Từ khi làng làm lúa hai vụ (cĩ thêm vụ đơng xuân), tình hình kinh tế của dân làng khá hơn trước nhưng cuộc sống nhiều lo toan hơn do hiện nay tất cả đều dùng bằng tiền. Ngày trước, trong gia đình tự túc hết mọi thứ lương thực, thức ăn: rau rừng, cá bắt dưới suối. Ngày nay, dân làng khơng thể tự túc hết thức ăn [nên] phải dùng tiền mua. Những gia đình chỉ làm nơng thường phải bán lúa non. Tình trạng bán lúa non khá phổ biến đối với những nhà ít ruộng. Mọi chi phí họ đều dựa vào gạo, khi cần mua chai nước mắm, bịch bột ngọt, hay bánh cho con đều mang gạo đi đổi, [do đĩ] gạo khơng cịn đủ ăn cho đến vụ sau.” (Dẫn theo Võ Cơng Nguyện, Trần Hữu Quang, Nguyễn Mạnh Hùng, 2015, tr.108). Đời sống kinh tế của dân làng khá hơn trước nhưng cũng cĩ thêm những lo toan do mỗi hộ gia đình là một đơn vị kinh tế độc lập, sự tương trợ của gia đình dịng họ chỉ cĩ tính chất hỗ trợ trong những lúc ngặt nghèo. Mặt khác, bản chất con người khơng ai muốn mình thua kém người khác, nên càng phải phấn đầu vươn lên, vì thế họ cảm thấy cuộc sống đầy sự khĩ khăn và cạnh tranh, nhất là khi họ so sánh với những gia đình người Kinh ở bên cạnh. 2.4. Hơn nhân – gia đình Tây Nguyên nĩi chung, làng Greo Pết nĩi riêng khơng cịn thuần nhất về mặt tộc người, đã xuất hiện hình thức hơn nhân ngoại tộc, trong tổng số 600 trường hợp người Gia Rai kết hơn cĩ 29 trường hợp kết hơn với người khác tộc người (4,83%) cịn lại 571 người kết hơn cùng tộc người (95,17%) (Trích từ bảng 4.7 theo Võ Cơng Nguyện, Trần Hữu Quang, Nguyễn Mạnh Hùng, 2015, tr.139) Theo nhận xét của một phụ nữ ở làng Greo Pết hơn nhân Việt – Gia Rai khơng ổn lắm, vì khơng biết khi nào người chồng Việt bỏ vợ đi, anh ta khơng cĩ sự ràng buộc nào, khi cĩ con, gia đình khĩ khăn, cĩ thể bỏ làng đi khơng trở lại nhưng hơn nhân giữa người Gia Rai với người Ba Na hay tộc người thiểu số từ phía Bắc đến cĩ phần ổn hơn do cùng là tộc người thiểu số dễ đồng cảm với nhau. Riêng hơn nhân giữa người Gia Rai với nhau ít khi xảy ra xung đột vì trong nhà cĩ gì ăn nấy, chồng khơng chửi vợ (Trần Hạnh Minh Phương, 38 Ghi chép điền dã, tháng 8-2014). Chị Siu P cĩ chồng là người Kinh kể ngày chị mới gặp chồng chị, gia đình chồng phản đối việc kết hơn của họ nhưng anh chị vẫn quyết tâm cưới, ngày cưới gia đình chồng chị vẫn đến dự. Lễ cưới của chị được tổ chức tại làng năm 1998 theo nghi thức truyền thống của người Gia Rai. Theo chị, cuộc sống hơn nhân giữa người Gia Rai và người Kinh đơi lúc cĩ nhiều điểm bất đồng về văn hĩa. Phụ nữ Gia Rai uống rượu, đi ăn nhà mả như đàn ơng, lúc đầu chồng chị rất khĩ chịu nhưng về sau đã quen dần. Hay chuyện tính tốn làm ăn người Kinh chi tiêu cĩ kế hoạch hơn nên đơi khi vợ chồng chị mâu thuẫn nhau về cách chi tiêu. Kết quả khảo sát 1.250 hộ của đề tài vào tháng 1-2015 cho thấy cĩ đến 38 trường hợp ly hơn và 12 trường hợp ly thân. Đáng ngạc nhiên là số trường hợp ly hơn ở người Gia Rai vượt cao hơn hẳn so với các tộc người khác: ly hơn 22 trường hợp, ly thân: 4 trường hợp (Võ Cơng Nguyện, Trần Hữu Quang, Nguyễn Mạnh Hùng, 2015, tr.131). Dù luật hơn nhân quy định độ tuổi kết hơn là 18 nhưng người Gia Rai cĩ tỷ lệ kết hơn dưới 18 tuổi khá cao, trong đĩ cĩ 17 người kết hơn ở độ tuổi 11 – 14 tuổi (chiếm 10,43%), 146 người kết hơn từ 15 - 17 tuổi (chiếm 89,57%) (Võ Cơng Nguyện, Trần Hữu Quang, Nguyễn Mạnh Hùng, 2015, tr.138). Bảng 1. Tuổi kết hơn của người Gia Rai ngày nay Giới Số người Tuổi kết hơn phổ biến nhất (mode) Tuổi kết hơn nhỏ nhất Tuổi kết hơn trung bình Độ lệch chuẩn Nam 267 20 13 21 4.2 Nữ 332 18 11 19 3.7 Tổng cộng 599 18 11 20 4.0 Nguồn: Đề tài “Vai trị của một số định chế xã hội phi chính thức đối với sự phát triển bền vững Tây nguyên” (mã số: TN3/X21), điều tra vào tháng 1-2015. (Trích từ bảng 4.7 theo Võ Cơng Nguyện, Trần Hữu Quang, Nguyễn Mạnh Hùng, 2015, tr.139) Người Gia Rai theo chế độ mẫu hệ nên việc cư trú bên nhà vợ chiếm ưu thế (82,98% cặp vợ chồng mới cưới cư trú bên nhà vợ, theo khảo sát tháng 1-2015) như các cơng trình nghiên cứu dân tộc học đều đã khẳng định về việc cư trú bên nhà vợ từ lâu, và cho đến nay vẫn chưa thay đổi, bất chấp những thay đổi mạnh mẽ về kinh tế và cả về tổ chức xã hội (gia đình, buơn làng) (Dẫn theo Võ Cơng Nguyện, Trần Hữu Quang, Nguyễn Mạnh Hùng, 2015, tr.148) Vì theo chế độ mẫu hệ nên chỉ cĩ con gái được thừa kế tài sản của bố mẹ và trong gia đình người vợ cĩ vai trị quản lý tài sản, người đàn ơng lao động làm ra của cải mà khơng cĩ quyền quyết định về tài sản. Trong trường hợp ly dị vợ hoặc vợ chết, người đàn ơng đi lấy vợ khác, họ khơng được mang theo thứ gì khi ra khỏi nhà vợ, tất cả tài sản của người vợ quá cố sẽ do dịng họ của vợ quản lý, người chồng khơng cĩ quyền trừ phi anh ta khơng kết 39 hơn nữa và ở vậy nuơi con. Và tình hình này ở làng Greo Pết cũng khơng khác với mơ tả của Jacque Dournes cách nay hơn nửa thế kỷ “người đàn ơng chẳng cĩ gì là của riêng mình, nhà và tồn bộ của cải, ruộng nương và gia súc, tất cả đều thuộc về gia đình người vợ, là người duy nhất cĩ quyền thừa kế. Khi gĩa vợ hay ly dị, người đàn ơng trở về làng gốc của mình mình trần thân trụi, chỉ cịn giữ được cái khố” (Jacque Dournes, 2006, tr.18). Điều này được ơng Rơ Mal A. khẳng định thêm: tất cả tài sàn trong gia đình đều do người vợ quản lý và dịng họ nhà vợ là người cĩ quyền quyết định về số tài sản. Nếu chẳng may người vợ ấy chết sớm, người đàn ơng khơng cĩ quyền thừa kế hay quản lý tài sản của gia đình riêng. Ơng Rơ Mal A. nĩi “tơi lấy vợ ở bên nhà vợ, nếu vợ tơi chết hay tơi ly dị vợ, tơi buộc phải rời nhà vợ tơi mà khơng được mang theo thứ gì. Những người con của tơi sẽ được dịng họ vợ nuơi và họ cũng cĩ quyền quyết định về tài sản của gia đình tơi và khi ấy tơi trở về xin đất của họ hàng để làm, khi tơi chết dịng họ lấy lại” (Rơ Mal A., Nội dung phỏng vấn, ngày 07-08-2014). Ơng Rơ Mal A. ví dụ thêm về những trường hợp mà ơng biết “mấy ơng chú ở đây nè, cả đời làm việc chăm chỉ xây được hai ngơi nhà to tướng, cĩ nhiều đất đai trồng tiêu và cà phê, khi ổng lấy vợ khác, ổng đi ra tay trắng luơn đấy. Bây giờ ổng xin lại ruộng bên họ hàng ổng, ổng làm được hai sào, và ổng chỉ làm như thế thơi, sau này ổng chết là họ hàng bên ổng đến lấy lại” (Dẫn theo Trần Hạnh Minh Phương, 2015, tr.40). Mặc dù tính chất của xã hội mẫu hệ ở làng Greo Pết vẫn được bảo lưu nhưng về mặt loại hình gia đình đã khác biệt. Tại làng, gia đình mở rộng, với nhiều thế hệ và nhiều cặp vợ chồng ở chung ngày càng ít đi và gia đình hạt nhân trở nên chiếm ưu thế. Trong số 250 hộ khảo sát cĩ 153 gia đình hạt nhân (61,2%), 64 gia đình ghép chung (25,6%), 30 gia đình mở rộng (12%), hộ khơng cấu thành gia đình hạt nhân 1 (0,4%) và hộ một thành viên 2 (0,8%) (Trích bảng từ 4.10, dẫn theo Võ Cơng Nguyện, Trần Hữu Quang, Nguyễn Mạnh Hùng, tr.150) Đời sống hơn nhân, gia đình của dân làng Greo Pết ngày nay vừa cĩ những chuyển biến mới: hơn nhân khác tộc người, gia đình hạt nhân chiếm ưu thế, bỏ tục nối dây 2 , cĩ thể chấp nhận việc ly hơn. Song song đĩ một số yếu tố cổ truyền vẫn được bảo lưu: quyền tự do hơn nhân giữa nam và nữ, chế độ mẫu hệ và quyền quản lý tài sản thuộc về người vợ vẫn được tơn trọng. 2.5. Đời sống tín ngưỡng Điều đặc biệt là dân làng Greo Pết hồn tồn “dửng dưng” trước làn sĩng truyền đạo Cơng giáo và Tin Lành (trong khi làng Ngol của người Gia Rai cĩ thời gian cả làng theo đạo Tin Lành) nên hiện nay trong làng khơng ai theo bất cứ tơn giáo nào. Theo Rơ Mal P trước đây cĩ một gia đình theo đạo Tin Lành đến sống ở làng, do dân làng cơ lập mà hiện nay họ cũng đã bỏ đạo. Vì thế dù trước nhiều đổi thay của bối cảnh xã hội, tâm thức của dân làng về vật thiêng vẫn chưa phai nhạt, họ vẫn e sợ những khu vực thiêng. Tại làng Greo Pết, người Gia Rai vẫn cịn duy trì niềm tin vào những khu vực thiêng như: khu đất bùn thiêng (giữa cánh đồng lúa, cĩ một khu đất bùn, mọc đầy cĩ dại, tương truyền đây là nơi của Yang bùn ở nên khơng ai dám phát hoang làm lúa. Nếu ai cố ý xâm phạm khu đất này sẽ bị lún, khơng kéo người lên được nữa); khu đất thiêng ở làng Greo Pết được người dân 40 truyền rằng đây vốn là nơi dừng chân của các vị pơtao. Hay nhà rơng là trung tâm sinh hoạt tín ngưỡng của cả làng. Nĩ cịn mang tính thiêng vì nơi đây con người gặp gỡ với thần linh thơng qua những nghi lễ cúng thần. Đối với người Gia Rai, người nữ đang trong độ tuổi cĩ kinh nguyệt thì khơng được bước vào nhà rơng này, bởi người đĩ được cho là “dơ” (Vũ Ngọc Xuân Ánh, Ghi chép điền dã, tháng 8-2014). Đặc biệt, dân làng vẫn “rất sợ những khu đất nhà mồ, những vật lạ, họ tránh xa để hy vọng mình khơng gây ra một điều sai trái gì nếu thần ngụ trong những vật lạ đĩ, hoặc nếu lỡ mắc phải những điều sai trái, phạm đến thần thì họ thờ cúng như một hành động để tạ lỗi” (Trần Hạnh Minh Phương, Ghi chép điền dã, tháng 8-2014), nên những trường hợp bệnh khơng biết lý do người dân nghĩ ngay đến việc do thần phạt, và tìm đến thầy chữa bệnh người dân tộc (bà Rahlan Kr) đề cúng tạ lỗi thần. Hiện nay, người Gia Rai ở làng Greo Pết vẫn kiêng giết hại, kiêng ăn rất nhiều loại động vật như cĩc, rắn, trăn, tê tê, kì đà, kì nhơng, khỉ, cù lần... Bà thầy chữa bệnh kiêm thầy cúng ở làng này cịn cho biết thêm: thời gian mẹ mang bầu, khơng được đi lấy củi, khơng nên giết hại những con vật rắn, khỉ, tê tê, bởi lẽ nếu giết hại chúng thì đứa con sinh ra sẽ bị chúng hại. Cũng nĩi về việc kiêng kỵ này, anh N giải thích: “Theo phong tục người Gia Rai hồi xưa, những con đĩ là nĩ thiêng, từ xưa rồi. Họ cũng là những con vật, nhưng mà giống như mình nĩi là thần linh họ biến thành những con vật đĩ á.” (ý nĩi những con vật đĩ là tơ tem của người Gia Tai) (Vũ Ngọc Xuân Ánh, Nội dung phỏng vấn sâu, tháng 8 -2014). Như đã nĩi ở trên làng Greo Pết chưa cĩ già làng khác lên thay già làng Rơ Mal P (cĩ con gái chết lúc 13 tuổi) nên từ năm 2010 đến nay làng khơng tổ chức lễ cúng yang tại nhà rơng, tiến hành nghi thức hiến sinh trâu để cầu được mùa, cầu bình an cho tồn dân làng. Tuy nhiên, nghi thức cúng yang sang vẫn được thực hiện tại gia đình hàng năm, hay khi cĩ người từ bệnh viện về, lúc gia đình cĩ nhiều điều khơng may xảy ra. Bên cạnh đĩ hiện tượng cúng cho linh hồn người đào giếng mới xuất hiện khi người dân chuyển từ việc dùng nước giọt sang nước giếng. Người Gia Rai quan niệm rằng, nếu chủ nhà khơng thực hiện nghi thức cúng gọi linh hồn cho người đào giếng thì hồn của người này sẽ ở luơn nơi giếng sâu, người đào giếng mất hồn – chết. Quan niệm con người cĩ linh hồn và khi thể xác chết đi, linh hồn đĩ vẫn cịn tồn tại nên người Gia Rai cũng như một số tộc người khác ở Tây Nguyên vẫn thực hiện việc chia của cho người chết nếu khơng người chết sẽ hiện về trong giấc mơ và địi của. Theo lời tường thuật của chị Siu H, lễ tang và lễ bỏ đơi khi rất tốn kém, đặc biệt là việc mua đồ chơn theo người chết. Những đồ chơn theo người chết gồm đồ dùng sinh hoạt hằng ngày như quần áo, chén, bát, xoong nồi, thức ăn, xà bơng, heo, gà..., và dụng cụ lao động (cuốc, liềm). Thậm chí gia đình chị đã từng chơn cho anh trai chiếc xe gắn máy mới mua 13 triệu đồng bằng cách đập nát chiếc xe và chơn cùng người chết (Trần Hạnh Minh Phương, Ghi chép điền dã, tháng 8-2014). Và cũng vì quan niệm này, người Gia Rai ở Greo Pết vẫn mang cơm ra mộ cúng cho người chết mỗi ngày hai hoặc ba bữa. Gia đình cĩ thức gì cúng thức ấy khơng cầu kỳ. 2.6. Về giáo dục và y tế Giáo dục hiểu theo nghĩa rộng bao gồm giáo dục trí và đức. Việc đào tạo một con người cĩ trí thức do hệ thống giáo dục 41 nhà trường đảm nhận, và giáo dục đạo đức, nhân cách, lối sống là trách nhiệm của gia đình, cộng đồng và xã hội. Ngày nay, hệ thống giáo dục phổ thơng đã phủ khắp xuống tận buơn làng, tại mỗi làng đều cĩ trường tiểu học để tạo điều kiện thuận lợi cho trẻ em trong làng đến trường, trình độ học vấn chung của người Gia Rai hiện nay cao hơn trước năm 1975, nhưng so với cả nước cịn rất thấp. Theo mẫu điều tra năm 2015, trong 1263 nhân khẩu (100%) người Gia Rai ở xã Dun và xã Ia Glai cĩ 123 trẻ cịn nhỏ chưa đi học (9,7%), 77 trẻ đi mẫu giáo, nhà trẻ (6,1%), 283 người mù chữ (22,4%), 430 người cĩ trình độ cấp 1 (34%), 274 người đạt trình độ cấp 2 (21,7%), 45 người trình độ cấp 3 (3,6%), 10 người tốt nghiệp trung cấp (0,8%), 4 người tốt nghiệp cao đẳng (0,3%), 6 người đại học (0,5%), khơng cĩ người nào đạt trình độ trên đại học, và 11 người khơng cĩ thơng tin (0,9%) (Trích từ bảng 6.1, dẫn theo Võ Cơng Nguyện, Trẩn Hữu Quang, Nguyễn Mạnh Hùng, tr.223). Trong khi nền giáo dục phổ thơng đảm nhiệm việc nâng cao dân trí (tất nhiên cũng cĩ giáo dục đạo đức) cha mẹ, trưởng tộc, những vị cao niên trong làng cĩ trách nhiệm giáo dục nhân cách. Trưởng tộc Siu C hay Rahlan Bl đĩng vai quan trọng trong việc điều hành và giáo dục các thành viên trong dịng họ sống tốt cho bản thân mình và sống tốt với người khác. Họ giáo dục con cháu trong dịng tộc các đức tính: (1) chăm chỉ lao động, lao động để làm ra của cải vật chất trang trải cuộc sống của mình mà khơng sinh lịng tham với tài sản của người khác, tránh được tội ăn trộm (một tội xấu nhất đối với người Gia Rai); (2) sống chan hịa, yêu thương những người trong dịng tộc, tạo nên sức mạnh của dịng họ, (3) yêu quê hương buơn làng – nơi chơn nhau cắt rốn mà khơng bỏ đi làm ăn xa. Và bản thân những trưởng tộc này chính là tấm gương để các thành viên trong dịng tộc noi theo, khơng phương pháp giáo dục nào tối ưu bằng phương pháp giáo dục nêu gương. Ngồi trưởng tộc, cha mẹ là người chịu trách nhiệm chính trong việc giáo dục con cái. Luật tục quy định làng phạt luơn cha mẹ nếu con cái vi phạm điều sai trái và rộng hơn khi một cá nhân trong dịng họ bị phạt, gia đình đĩ khơng cĩ điều kiện nộp phạt, cả dịng họ phải cùng nhau đĩng gĩp. Điều này cho thấy mối quan hệ ràng buộc giữa cá nhân và gia đình, dịng họ cịn rất chặt chẽ trong cộng đồng người Gia Rai ở làng Greo Pết ngày nay. Việc chăm sĩc y tế của người Gia Rai tại làng Greo Pết cũng đã khác trước năm 1975. Tại xã đã cĩ trạm y tế, nhà thuốc tây, cán bộ dân số, y tá chữa bệnh tại nhà nên người Gia Rai đã quen với việc sử dụng thuốc tây để chữa bệnh nhưng vẫn cĩ một số trường hợp họ tìm đến thầy cúng (Rơ Mal H), thầy chữa bệnh người dân tộc (pơjâo, bà Rahlan Kr) Bảng 2. Cách chữa trị của người Gia Rai khi bệnh nặng Khơng chữa trị Số người 2 Tỷ lệ % 0,80 Tự tìm thảo dược nấu uống Số người 4 Tỷ lệ % 1,60 Hốt thuốc Đơng y uống Số người 1 Tỷ lệ % 0,40 Tự mua thuốc tây uống Số người 74 Tỷ lệ % 29,60 Xơng Số người 3 Tỷ lệ % 1,20 Làm lễ cúng Số người 78 Tỷ lệ % 31,20 Tìm thầy chữa bệnh người dân tộc Số người 50 Tỷ lệ % 20,00 Đến y tá/ y sĩ, phịng mạch tư Số người 65 Tỷ lệ % 26,00 42 Đến trạm xá xã, bệnh viện Số người 234 Tỷ lệ % 93,60 Cách khác Số người 6 Tỷ lệ % 2,40 Tổng cộng Số người 250 Tỷ lệ % 100,00 Ghi chú: Câu hỏi này cĩ thể được trả lời bằng nhiều câu, do đĩ tổng cộng tỷ lệ cĩ thể vượt quá 100%. Nguồn: Đề tài “Vai trị của một số định chế xã hội phi chính thức đối với sự phát triển bền vững Tây nguyên” (mã số: TN3/X21), điều tra vào tháng 1-2015. Trích từ bảng 6.5, dẫn thao Võ Cơng Nguyện, Trần Hữu Quang, Nguyễn Mạnh Hùng, 2015, tr.237. Khi bệnh nặng 93,6% người Gia Rai trả lời sẽ đến điều trị tại các cơ sở y tế (trạm xá, bệnh viện), 26% người tìm đến y tá, y sĩ hay phịng mạch tư nhưng tỷ lệ người trả lời thực hiện lễ cúng cũng khá cao 31,2%, và 20% người tìm đến bà Rahlan Kr. Chúng tơi cĩ thể lý giải điều này với hai nguyên nhân: tại làng Greo Pết cĩ bà Rahlan Kr đã chữa bệnh bằng tâm linh cho dân làng từ năm 2000 và dân làng niềm tin rằng cịn cĩ một thế lực linh thiêng nào đĩ (yang), nếu con người vơ tình hay cố ý xúc phạm đến thần sẽ bị thần phạt. Và khi thần phạt thân thế bị đau dữ dội nhưng các xét nghiệm y khoa khơng tìm ra nguyên nhân. Hay họ đã được các bác sĩ điều trị nhưng khơng thuyên giảm. Khi họ phĩ thác căn bệnh khơng giải thích được cho thầy chữa bệnh bằng tâm linh. Chị Siu P kể chồng P là người Kinh cũng từng nhờ bà Rahlan K chữa lành bệnh. Là người Kinh, từng là bộ đội, nên anh D khơng tin vào chuyện chữa bệnh bằng tâm linh. Một lần, từ nhà một người bạn về trong đêm, đi ngang qua đài tưởng niệm (theo dân làng nĩi, khu vực này rất linh thiêng, ai đi qua đây vào ban đêm về sẽ đổ bệnh, nhưng anh khơng tin), sau đĩ vài ngày anh bị đau tim dữ dội, nằm ngồi gì cũng khơng yên, tối khơng ngủ được, thậm chí cịn đập phá. Anh được vợ anh và người ở làng khuyên nên tìm đến bà Rahlan K để chữa trị, nhưng anh vẫn khơng tin. Đến lúc khơng cịn chịu đựng được nữa, anh mới mang gà đến cúng và xin bà chữa bệnh. Bà đã cúng và dùng lá mì chính, xoa vào vùng tim, lấy ra những mũi tên màu đen và anh đã hết bệnh. Từ đĩ về sau, khi cĩ những cơn đau đột ngột và khơng rõ nguyên nhân, anh đều đến tìm bà Rahlan K. Cho đến lúc anh kể với chúng tơi chuyện này thì anh đã từng được bà K chữa khỏi bốn lần. Anh nĩi với chúng tơi rằng, khi bị đau trong người, đầu tiên sẽ đến bệnh viện để khám tìm ra bệnh gì, nếu sau khi đã uống hết thuốc ở bệnh viện nhưng vẫn khơng hết đau, anh tìm đến bà K. Bà Rahlan K đã chữa lành bệnh cho rất nhiều người. Và chị Siu P cũng nĩi sau khi sinh đứa con gái thứ hai, tự dưng chị bị mù mắt, cĩ người nĩi chị đã bị thư, và bà K đã chữa lành, mắt chị sáng trở lại cho đến nay (Trần Hạnh Minh Phương, Ghi chép điền dã, tháng 8-2014). Như vậy, những thầy cúng đĩng vai trị chữa bệnh cho các thành viên trong cộng đồng theo mơ tả của Jacques Dournes về thời đầu thế kỷ XX và vào thời hiện nay về cơ bản khơng khác nhau bao nhiêu. Những thầy cúng, những pơjâo, khơng chỉ chữa cho bệnh nhân bằng các loại thảo mộc, xoa bĩp, mà cịn gĩp phần chữa bệnh tâm lý, giúp họ cĩ sức mạnh tinh thần để đối diện với căn bệnh của mình. 2.7. Đời sống văn hĩa tinh thần Trước năm 1975, dân làng Greo Pết sống bằng kinh tế nương rẫy, mỗi năm chỉ trồng một vụ, quỹ thời gian của mỗi cá nhân, mỗi hộ gia đình và cả cộng đồng tương đồng nhau với nhiều tháng nơng nhàn sau khi kết thúc mùa vụ (khoảng tháng 11, tháng 12). Làng cĩ: lễ cúng nhà 43 rơng, lễ cầu mưa, lễ mừng lúa mới, lễ hội cồng chiêng, lễ hội đua voi... Hiện nay, việc chuyển đổi sang trồng cây cơng nghiệp, trồng lúa nước và hoa màu khiến dân làng bận rộn hơn, và cùng với sự thay đổi của tư duy kinh tế (tiết kiệm, làm giàu), người dân khơng cịn mặn mà với những lễ hội cộng đồng kéo dài nhiều ngày, ảnh hưởng cơng việc làm ăn và tốn kém, nên họ khơng duy trì. Hiện nay, dân làng chỉ cịn tổ chức lễ cầu an được tổ chức trong khoảng thời gian tháng 11, tháng 12 dương lịch hàng năm, tức vào thời điểm thu hoạch mùa màng xong, với mong muốn cầu cho dân làng ấm no, khỏe mạnh, xua đuổi các thế lực siêu nhiên xấu, các loại ma xấu, xua đuổi những xui xẻo, tai họa đến với dân làng... để buơn làng yên bình, khỏe mạnh, no đủ, cầu cho mùa màng bội thu (Trần Hạnh Minh Phương, Ghi chép điền dã, tháng 8 - 2014). Đời sống văn hĩa tinh thần của người Gia Rai thể hiện qua sinh hoạt cộng đồng và nghi lễ vịng đời người. Do các sinh hoạt cộng đồng đã giảm đi rất nhiều nên dù tại làng Greo Pết hiện cĩ hai nhà rơng: nhà rơng cúng yang từng là nơi rất linh thiêng nhưng đã bị bỏ hoang từ năm 2010 do làng khơng cĩ người cúng yang (hiện làng khuyết già làng), xung quanh nhà rơng đã bị người dân lấn chiếm cất nhà ở và trồng bắp. Cịn nhà rơng sinh hoạt cộng đồng được lợp bằng mái tơn, vách bằng tre đan, bên trong khơng cĩ vật dụng gì và rất dơ bẩn vì đã lâu khơng ai đến sinh hoạt, khơng cĩ người trơng coi, thậm chí vào những ngày mưa, người bán tạp hĩa trong làng cịn ngồi bên dưới nhà rơng bán hàng để tránh mưa. Đời sống văn hĩa của dân làng Greo Pết hiện nay được thể hiện rõ qua những nghi lễ diễn ra tại gia đình, là nghi lễ liên quan đến vịng đời người: nghi lễ dành cho đứa trẻ mới chào đời, lễ cưới và những nghi lễ liên quan đến người quá cố. Theo truyền thống người Gia Rai sẽ tổ chức lễ thổi tai như nghi thức khai tâm cho những đứa trẻ nhưng người Gia Rai ở làng Greo Pết khơng cịn duy trì nghi lễ này. Ngày nay, cha mẹ sẽ tổ chức lễ cúng (Ming Yang) để cầu xin trời đất phù hộ cho đứa bé mới chào đời (thường cúng trong hai năm đầu đời), cầu cho đứa bé được khỏe mạnh. Năm đầu cúng gà, năm thứ hai cúng heo. Nhưng cũng cĩ thể thay đổi vật cúng và tăng thêm lần cúng (tùy theo điều kiện kinh tế gia đình). Đặc biệt, hiện nay, khi đứa bé lên lớp chín tuồi, gia đình tổ chức cúng cầu xin sức khỏe và xin cho cháu học đến nơi đến chốn (Vũ Ngọc Xuân Ánh, Ghi chép điền dã, 2014). Lễ cưới của người Gia Rai ở làng Greo Pết ngày nay vừa bảo lưu những tập tục truyền thống vừa tiếp thu nét văn hĩa của người Kinh. Nghi thức quan trọng và linh thiêng nhất là nghi thức “ra mắt” yang bằng ghè rượu và con gà, đơi nam nữ trao vịng cho nhau trước sự chứng kiến của yang và họ hàng đơi bên như một sự cam kết đơi nam nữ phải yêu thương nhau, cĩ trách nhiệm với nhau và với con cái, cùng sống với nhau đển trọn đời. Bên cạnh đĩ người Gia Rai cĩ xu hướng tổ chức lễ cưới giống người Kinh: gửi thiệp mời, mừng cưới bằng tiền, thuê dịch vụ dựng rạp và đãi ăn, cơ dâu, chú rể mặc soire và veston. Và điều này được thể hiện qua kết quả khảo sát bản câu hỏi “cách tổ chức lễ cưới cho con” số người trả lời tổ chức theo tập tục truyền thống (68%) gần tương đương với số người tổ chức theo người Kinh (67,6%) (Trích từ bảng 6.7, dẫn theo Võ Cơng Nguyện, Trần Hữu Quang, Nguyễn Mạnh Hùng, 2015, tr.257). 44 Lịng thủy chung, sự tận tụy, tình yêu thương và sống với nhau đến trọn đời là chuẩn mực của một cuộc hơn nhân được biểu trưng bằng chiếc vịng mà đơi vợ chồng trao cho nhau trong lễ hỏi. Ơng mai là người làm chứng cho sự thề nguyện của đơi nam nữ về mặt thế tục, trong một khung cảnh linh thiêng cĩ sự hiện diện của yang là phần cốt lõi nhất của lễ cưới được người Gia Rai ở làng Greo Pết bảo tồn đến ngày nay cho dù theo quan sát bên ngồi đám cưới của họ khơng khác gì một đám cưới của người Kinh. Lễ tang và những tập tục, nghi thức liên quan đến người chết (như tục chia của cho người chết, ăn nhà mả, cúng giỗ hàng năm, lễ bỏ mả) vẫn được dân làng Greo Pết thực hiện theo truyền thống. Nghi thức truyền thống của lễ tang được duy trì trong việc báo tang và việc liệm thi hài người quá cố. Khi trong gia đình cĩ người chết, người ta đánh một hồi chiêng để báo cho dân làng biết. Nghe tiếng chiêng, dân làng sẽ đến giúp gia đình đĩ lo liệu lễ tang. Thi hài người quá cố được các thành viên gia đình lau rửa sạch sẽ, mặc quần áo ngày lễ và đeo đồ trang sức quý giá. Thi hài được phủ chăn kín ở phịng cuối nhà, sát gĩc phỉa đơng, đầu đặt về hướng đơng (những người chết giữ đầu quay về hướng tây). So với lễ cưới, đa phần người Gia Rai trả lời sẽ tổ chức lễ tang theo tập tục truyền thống (82,4%), chỉ cĩ 12,4% trả lời nên tổ chức theo người Kinh (Trích từ bảng 5.1. dẫn theo Võ Cơng Nguyện, Trần Hữu Quang, Nguyễn Mạnh Hùng, 2015, tr.196). Theo Vũ Ngọc Xuân Ánh, ở làng Greo Pết, việc cúng cho người chết rất phức tạp với các lễ ăn mả (Dor Sat): cúng hàng tháng cho người chết; lễ nhà mả (Dec Quẹ ađơr Sat): cúng hàng năm; và quan trọng nhất và lớn nhất là lễ bỏ mả (Pơ Thi ađơr Sat): ít nhất là ba năm đối với gia đình cĩ điều kiện, và nếu khơng cĩ điều kiện cĩ thể để đến hơn 10 năm (Vũ Ngọc Xuân Ánh, Ghi chép điền dã, tháng 8-2014). Lễ bỏ mả thường được tổ chức trong tháng něng nŏng (theo lịch nơng nghiệp của người Gia Rai), tức khoảng từ tháng 12 đến tháng 4 – đây là thời gian nghỉ ngơi dành cho người và cho đất, là mốc thời gian kết thúc vịng quay mùa nơng nghiệp cũ để buớc sang mùa mới. Lễ bỏ mả được chuẩn bị lâu dài, tổ chức trang trọng và lớn nhất trong đời sống văn hĩa tinh thần, và đây là nghi lễ cuối cùng trong các nghi lễ tang ma của người Gia Rai. Lễ bỏ mả kết thúc giai đoạn quan hệ gắn bĩ giữa người sống và người chết. Sau nghi lễ này, người đàn ơng gĩa vợ hoặc người đàn bà gĩa chồng sẽ được tự do tái giá; những bổn phận chăm sĩc mả và những ràng buộc với người chết vốn được luật tục bảo vệ một cách nghiêm ngặt cũng chấm dứt kể từ đây. Ngày nay, lễ bỏ mả ở làng Greo Pết trở thành dịp sinh hoạt chung của cộng đồng. Trong thời gian diễn ra lễ bỏ mà ở làng, mọi hoạt động sản xuất của làng được dừng lại, mọi người trong làng đều tham dự. Ngồi phần thức ăn, rượu ghè do gia đình, họ hàng người quá cố chuẩn bị, ai đến tham dự đều mang theo ít thức ăn (tùy điều kiện từng người). Ngồi phần nghi thức chia ly vĩnh viễn với người chết là phần vui chơi, đánh cồng chiêng, múa xoang của dân làng. Lễ bỏ mà của dân làng Greo Pết ngày nay kéo dài trong ba ngày khơng kéo dài hàng tháng như trước đây, dù vậy về mặc ý nghĩa vẫn khơng thay đổi. 3. Kết luận Cuộc đại di dân của người Kinh và các tộc người thiểu số ở miền núi phía Bắc vào Tây Nguyên dẫn đến sự thay đổi đột biến về cơ cấu dân cư và thành phần tộc người, 45 các tộc người ở Tây Nguyên khơng cịn sống độc lập riêng lẻ trên lãnh thổ tộc người truyền thống mà sống xen cư với những tộc người khác. Các chính sách kinh tế, văn hĩa của nhà nước ở các thời kỳ đều nhắm đến mục tiêu rút ngắn khoảng cách giữa các tộc người Tây Nguyên và người Kinh, sự du nhập của đạo Tin Lành là những nguyên nhân làm biến đổi mạnh mẽ văn hĩa Tây Nguyên trong 40 năm qua, văn hĩa của người Gia Rai ở Gia Lai cũng khơng nằm ngồi xu thế chung này. Nghiên cứu trường hợp người Gia Rai ở tỉnh Gia Lai, Đào Huy Quyền kết luận "xã hội Tây Nguyên đang diễn ta quá trình biến đổi nhanh chĩng sâu sắc. Đứng truớc quá trình “đổi mới” mạnh mẽ hịa nhập quốc gia và quơc tế, điều tất yếu là xã hội cổ truyền sẽ nhanh chĩng mất đi" (Đào Huy Quyền, 2008). Hay nghiên cứu trường hợp người Gia Rai ở buơn Lê A (Buơn Ma Thuột) Đặng Hồng Giang đã chỉ ra “mối liên hệ nhân quả giữa sự biến đổi khơng gian buơn làng với sự tàn lụi của vốn văn hĩa truyền thống và sự tiếp nhận các khuơn mẫu văn hĩa mới” (Đặng Hồng Giang). Nguyễn Tấn Đắc trong cơng trình Văn hĩa xã hội và con người Tây Nguyên cho rằng “Đứng trước quá trình hội nhập quốc gia và xây dựng xã hội hiện đại, mạnh mẽ như hiện nay, xã hội cổ truyền sẽ nhanh chĩng mất đi. Đĩ là điều cần thiết và tất yếu” (Nguyễn Tấn Đắc, 2005, tr.229). Tuy nhiên, kết quả nghiên cứu trường hợp người Gia Rai ở làng Greo Pết của chúng tơi cĩ phần khác với những kết luận trên. Làng Greo Pết chưa mất hẳn những thiết chế văn hĩa truyền thống. Làng Greo Pết đang trong gia đoạn chuyển tiếp “từ mơ hình tự quản xã hội của buơn làng theo luật tục chuyển sang mơ hình quản lý xã hội của thơn xã theo pháp luật” (Võ Cơng Nguyện, Trần Hữu Quang, Nguyễn Mạnh Hùng, 2015, tr.83) nên các yếu tố cổ truyền cịn đang tồn tại đan xen với những yếu tố mới. Như nhận xét của ơng N.V.Q (cán bộ lãnh đạo của xã Dun) cho rằng làng Greo Pết là làng cịn giữ được nhiều định chế cổ truyền so với những làng khác ở xã Dun trên tất cả các chiều kích: chính trị cấp buơn làng, kinh tế, cư trú và cơ cấu dân cư và chiều kích văn hĩa, tín ngưỡng. Hầu hết các lĩnh vực trong đời sống của buơn làng đều chứa đựng các yếu tố: truyền thống – hiện đại, chính thức – phi chính thức. Trưởng thơn, thay mặt chính quyền địa phương chịu trách nhiệm quản lý chung nhưng vẫn cần cĩ sự trợ giúp của người hịa giải để dàn xếp những xích mích trong làng, cần ơng mai để hịa giải những vấn đề về hơn nhân, gia đình, cần một thầy cúng để đốn mộng cho dân làng vì rằng người Gia Rai vẫn cịn niềm tin về thế giới yang cho dù cĩ phần giảm bớt so với trước đây. Đời sống kinh tế của dân làng đã hồn tồn hịa nhập vào kinh tế thị trường nhưng trong một số trường hợp vẫn chấp nhận vật đổi vật, nơng nghiệp được sản xuất theo hướng hàng hĩa, nhưng nhân cơng trong làng phần lớn do vần đổi cơng. Hơn nhân hỗn hợp Gia Rai – Kinh đã khơng cịn hiếm hoi, đại gia đình nhiều thế hệ cư trú trong ngơi nhà dài bằng gỗ đã biến mất thay vào đĩ là những gia đình hạt nhân sống trong những ngơi nhà khang trang tiện nghi (giống người Kinh). Tín ngưỡng đa thần được giản lược trong lễ cúng thần nhà (yang sang), các nghi lễ vịng đời cịn bảo lưu ở lễ cưới, lễ tang và lễ bỏ mả. Chú thích: (1) Bài viết trong khuơn khổ đề tài “Vai trị cùa một số định chế xã hội phi chính thức đối với sự phát triển bền vững vùng Tây Nguyên” Mã số: TN3/X21 do TS. Nguyễn Mạnh Hùng, trường 46 Đại học Nguyễn Tất Thành làm chủ nhiệm. (2) Trước năm 1975, tục nối dây của những tộc người Tây Nguyên nĩi chung, người Gia Rai nĩi riêng cho phép người chồng được phép lấy chị hoặc em gái trong dịng họ của vợ khi vợ mất, người vợ được phép lấy anh hoặc em trai trong dịng họ của chồng khi chồng chết. Cuộc hơn nhân mới sẽ đem lại cho những đứa trẻ mất cha, hoặc mất mẹ sự nuơi dưỡng ân cần và chu đáo từ chính người cĩ chung dịng máu với cha hoặc mẹ chúng. Người cịn sống sẽ cĩ nơi nương tựa để tiếp tục nối dịng, cũng như bảo đảm sự nguyên vẹn tài sản đã gây dựng nên. Ngày nay, tại làng Greo Pết do chính người chồng, người vợ gĩa khơng muốn thực hiện tục này và cộng đồng cũng khơng được khuyến khích nên tục nối dây khơng cịn được duy trì ở làng. TÀI LIỆU THAM KHẢO 1. Dournes, Jacques (2006). Rừng, đàn bà, điên loạn: Đi qua miền mơ tưởng Giarai (Forêt, femme, folie: Une traversée de l’imaginaire Jưrạ, 1978), Nguyên Ngọc dịch, Nxb Hội Nhà văn, Hà Nội. 2. Đặng Hồng Giang, Biến đổi văn hĩa của các dân tộc Tây Nguyên trong bối cảnh chuyển đổi cấu trúc khơng gian buơn làng, Tạp chí Văn hĩa Nghệ thuật, số 375, Theo Truy cập ngày 27/12/2016. 3. Đào Huy Quyền (2008), “Những biến đổi về cơ cấu xã hội và bản sắc văn hĩa trong quá trình đổi mới của các dân tộc bản địa ở Tây Nguyên Việt Nam – Trường hợp tỉnh Gia Lai”, Tham luận Hội thảo quốc tế Việt Nam học lần 3, Theo Truy cập ngày 27/12/2016. 4. Lê Văn Khoa, Pham Quang Tú (chủ biên) (2014), Hướng tới phát triển bền vững Tây nguyên, Nxb Tri thức, Hà Nội. 5. Lưu Hùng (1994), Buơn làng cổ truyền xứ Thượng, Nxb Văn hĩa dân tộc, Hà Nội. 6. Nguyên Ngọc (2011), Một số vấn đề văn hĩa xã hội cần chú ý trong phát triển ở Tây nguyên hiện nay, Nxb Đà Nẵng, Đà Nẵng. 7. Nguyễn Tấn Đắc (2005), Văn hĩa xã hội và con người Tây Nguyên, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội. 8. Trần Hạnh Minh Phương (2015), “Quan hệ dịng họ của cộng đồng người Jrai – từ cách tiếp cận chức năng”, Tạp chí Văn hĩa và nguồn lực, số 4, tr.36-46. 9. Ủy ban Nhân dân xã Dun (2010), Thống kê thành phần dân tộc trên địa bàn xã Dun năm 2010, Bản đánh máy. 10. Võ Cơng Nguyện, Trần Hữu Quang, Nguyễn Mạnh Hùng (chủ biên) và những người khác (2015), Buơn làng Tây Nguyên ngày nay, Bản thảo. Ngày nhận bài: 25/8/2016 Biên tập xong: 15/01/2017 Duyệt đăng: 20/01/2017

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • pdf137_3027_2215189.pdf
Tài liệu liên quan