Luận văn Các biện pháp quản lý đội ngũ giáo viên của hiệu trưởng trường trung học phổ thông đạt chuẩn quốc gia ở tỉnh Bà Rịa-Vũng tàu

Tài liệu Luận văn Các biện pháp quản lý đội ngũ giáo viên của hiệu trưởng trường trung học phổ thông đạt chuẩn quốc gia ở tỉnh Bà Rịa-Vũng tàu: 1 BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM TP.HỒ CHÍ MINH Lã Thị Oanh CÁC BIỆN PHÁP QUẢN LÝ ĐỘI NGŨ GIÁO VIÊN CỦA HIỆU TRƯỞNG TRƯỜNG TRUNG HỌC PHỔ THÔNG ĐẠT CHUẨN QUỐC GIA Ở TỈNH BÀ RỊA-VŨNG TÀU Chuyên ngành: Quản lý giáo dục Mã số: 60 14 05 LUẬN VĂN THẠC SĨ GIÁO DỤC HỌC NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC: TS. HỒ VĂN LIÊN Thành phố Hồ Chí Minh - Năm 2007 2 MỞ ĐẦU 1. Lý do chọn đề tài Đại Hội Đảng Cộng Sản Việt Nam toàn quốc lần thứ IX đã đề ra mục tiêu tổng quát của chiến lược phát triển kinh tế 10 năm từ 2001 - 2010 là : “Đưa đất nước ra khỏi tình trạng kém phát triển, nâng cao chất lượng rõ rệt đời sống vật chất, văn hóa tinh thần của nhân dân, tạo nền tảng để đến năm 2020 nước ta cơ bản trở thành một nước công nghiệp theo hướng hiện đại”. Nhân tố quyết định thắng lợi sự nghiệp CNH,HĐH mà Đảng đề ra chính là nguồn lực con người, bởi lẽ, con người vừa là mục tiêu, vừa là động lực của sự phát triển. Vì vậy, muốn tiến hành CNH,HĐH thành công t...

pdf129 trang | Chia sẻ: hunglv | Lượt xem: 1367 | Lượt tải: 2download
Bạn đang xem trước 20 trang mẫu tài liệu Luận văn Các biện pháp quản lý đội ngũ giáo viên của hiệu trưởng trường trung học phổ thông đạt chuẩn quốc gia ở tỉnh Bà Rịa-Vũng tàu, để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
1 BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM TP.HỒ CHÍ MINH Lã Thị Oanh CÁC BIỆN PHÁP QUẢN LÝ ĐỘI NGŨ GIÁO VIÊN CỦA HIỆU TRƯỞNG TRƯỜNG TRUNG HỌC PHỔ THÔNG ĐẠT CHUẨN QUỐC GIA Ở TỈNH BÀ RỊA-VŨNG TÀU Chuyên ngành: Quản lý giáo dục Mã số: 60 14 05 LUẬN VĂN THẠC SĨ GIÁO DỤC HỌC NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC: TS. HỒ VĂN LIÊN Thành phố Hồ Chí Minh - Năm 2007 2 MỞ ĐẦU 1. Lý do chọn đề tài Đại Hội Đảng Cộng Sản Việt Nam toàn quốc lần thứ IX đã đề ra mục tiêu tổng quát của chiến lược phát triển kinh tế 10 năm từ 2001 - 2010 là : “Đưa đất nước ra khỏi tình trạng kém phát triển, nâng cao chất lượng rõ rệt đời sống vật chất, văn hóa tinh thần của nhân dân, tạo nền tảng để đến năm 2020 nước ta cơ bản trở thành một nước công nghiệp theo hướng hiện đại”. Nhân tố quyết định thắng lợi sự nghiệp CNH,HĐH mà Đảng đề ra chính là nguồn lực con người, bởi lẽ, con người vừa là mục tiêu, vừa là động lực của sự phát triển. Vì vậy, muốn tiến hành CNH,HĐH thành công tất yếu phải thúc đẩy phát triển sự nghiệp giáo dục thực hiện mục tiêu nâng cao dân trí, đào tạo nhân lực và bồi dưỡng nhân tài. Đối với công tác GD&ĐT thì ĐNGV đóng vai trò cực kỳ quan trọng, điều này đã được Luật Giáo Dục khẳng định : “Nhà giáo giữ vai trò quyết định trong việc đảm bảo chất lượng giáo dục” (27). Đội ngũ giáo viên là nhân tố quyết định của giáo dục. Chính vì vậy việc phát triển và nâng cao chất lượng ĐNGV là nhiệm vụ cấp thiết của toàn ngành giáo dục. Thực tế hiện nay, chất lượng giáo dục còn nhiều hạn chế, chưa đáp ứng được yêu cầu của đất nước là do nhiều nguyên nhân, trong đó có các nguyên nhân cơ bản : Đội ngũ giáo viên vừa thiếu, vừa yếu, CSVC chưa đáp ứng được yêu cầu phục vụ cho công tác GD&ĐT, chưa quan tâm đúng mức đến vấn đề giáo dục toàn diện, chưa đầu tư thỏa đáng đúng với tinh thần “Giáo dục là quốc sách hàng đầu” “Đầu tư cho giáo dục là đầu tư phát triển”. Việc xây dựng các trường đạt chuẩn quốc gia nhằm có những chuyển biến thực sự về chất lượng giáo dục đào tạo là một trong những yêu cầu cấp thiết và đang đặt ra nhiều vấn đề về công tác quản lý đối với ngành Giáo dục & Đào tạo cũng như các cấp ủy Đảng, Chính quyền địa phương. Ngày 05/07/2001. Bộ trưởng Bộ GD&ĐT đã ra Quyết định số 27/2001 - QĐ- BGD&ĐT về việc “Ban hành Quy chế công nhận trường trung học đạt chuẩn quốc gia giai đoạn 2001 đến 2010”, song đến nay việc tổ chức thực hiện vẫn còn nhiều lúng túng, còn nhiều vấn đề cần được 3 quan tâm, tìm ra các giải pháp cho phù hợp để có thể vừa đáp ứng được yêu cầu đặt ra của ngành, vừa đáp ứng được yêu cầu thực tế của địa phương. Một trong những vấn đề đó chính là ĐNGV, mặc dù đã đạt được tiêu chí theo quy định của Bộ GD&ĐT, nhưng ĐNGV vẫn còn nhiều bất cập…tỷ lệ phần trăm giáo viên giỏi phải được duy trì bền vững, số giáo viên còn lại phải luôn được bồi dưỡng nâng cao trình độ chuyên môn nghiệp vụ, phải có kế hoạch đào tạo trên chuẩn như thạc sĩ, tiến sĩ cho cán bộ quản lý và đội ngũ giáo viên giỏi. Tỉnh Bà Rịa -Vũng Tàu có 27 trường THPT, đến nay đã có 10 trường được công nhận đạt chuẩn quốc gia, phấn đấu đến năm 2010 - 100% các trường THPT trong tỉnh đều đạt chuẩn quốc gia. Xuất phát từ những yêu cầu và thực tiễn của ngành GD&ĐT tỉnh nhà. Với cương vị là một người làm công tác quản lý của trường THPT chuẩn quốc gia đầu tiên của tỉnh được công nhận ngày 25/08/2005 theo Quyết định số 364/QĐ-UB của UBND tỉnh BR-VT, tôi đã chọn đề tài. “Các biện pháp quản lý đội ngũ giáo viên của hiệu trưởng trường THPT đạt chuẩn quốc gia ở tỉnh Bà Rịa -Vũng Tàu” 2. Mục đích nghiên cứu của đề tài Trên cơ sở nghiên cứu lý luận và thực trạng đề xuất các biện pháp quản lý nhằm nâng cao chất lượng ĐNGV của hiệu trưởng các trường THPT đạt chuẩn quốc gia ở tỉnh Bà Rịa-Vũng Tàu. 3. Khách thể và đối tượng nghiên cứu 3.1. Khách thể nghiên cứu Công tác QL ĐNGV ở các trường THPT đạt chuẩn quốc gia của tỉnh BR-VT. 3.2. Đối tượng nghiên cứu Các biện pháp quản lý ĐNGV của hiệu trưởng trường THPT chuẩn quốc gia ở tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu. 4. Giả thuyết nghiên cứu ĐNGV ở các trường THPT chuẩn quốc gia tỉnh BR-VT còn có những hạn chế: trình độ chuyên môn, nghiệp vụ chưa đáp ứng được yêu cầu đổi mới giáo dục hiện nay. Việc thực hiện các chức năng quản lý giáo dục như: hoạch định, tổ chức, chỉ đạo, kiểm tra của hiệu trưởng chưa được quan tâm đúng mức. Nếu khảo sát toàn diện thực trạng quản lý ĐNGV thì có thể đề xuất được các biện pháp quản lý của 4 hiệu trưởng nhằm nâng cao chất lượng ĐNGV ở các trường THPT đạt chuẩn quốc gia ở tỉnh BR-VT 5. Nhiệm vụ nghiên cứu của đề tài + Hệ thống hóa cơ sở lý luận của vấn đề quản lý đội ngũ giáo viên của trường THPT chuẩn quốc gia. + Khảo sát thực trạng công tác quản lý đội ngũ giáo viên của hiệu trưởng các trường THPT chuẩn quốc gia ở tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu. + Đề xuất những biện pháp quản lý nhằm nâng cao chất lượng đội ngũ giáo viên của hiệu trưởng các trường THPT đạt chuẩn quốc gia ở tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu. 6. Phạm vi và giới hạn nghiên cứu của đề tài Nghiên cứu ở các trường THPT đạt chuẩn quốc gia của tỉnh BR-VT giai đoạn từ 2004 – 2006 (10 trường). Vì thời gian hạn chế nên luận văn chỉ tập trung nghiên cứu công tác quản lý ĐNGV với hoạt động dạy học, không nghiên cứu hoạt động giáo dục ( theo nghĩa hẹp). 7. Phương pháp nghiên cứu 7.1. Phương pháp nghiên cứu lý luận • Phân tích, tổng hợp, so sánh, phân loại tài liệu, thông tin. 7.2. Phương pháp nghiên cứu thực tiễn • Điều tra bằng phiếu trưng cầu ý kiến cán bộ quản lý và giáo viên. • Tổng kết kinh nghiệm quản lý giáo dục của hiệu trưởng • Lấy ý kiến chuyên gia 7.3. Các phương pháp bổ trợ • Quan sát, trao đổi, phỏng vấn 7.4. Phương pháp xử lý số liệu bằng toán thống kê 5 8. Cấu trúc của luận văn Luận văn gồm 3 phần : Mở đầu - Nội dung - Kết luận và kiến nghị Mở đầu : Một số vấn đề chung Nội dung : Gồm 3 chương Chương 1 : Cơ sở lý luận của vấn đề nghiên cứu Chương 2 : Thực trạng ĐNGV và việc quản lý ĐNGV của hiệu trưởng các trường THPT chuẩn quốc gia ở tỉnh BRVT. Chương 3 : Các biện pháp quản lý đội ngũ giáo viên của hiệu trưởng trường THPT đạt chuẩn quốc gia ở tỉnh Bà Rịa -Vũng Tàu. Kết luận và kiến nghị Danh mục tài liệu tham khảo. Phụ lục 6 Chương 1 CƠ SỞ LÝ LUẬN CỦA ĐỀ TÀI 1.1. Lịch sử nghiên cứu vấn đề Ở Việt Nam ngay từ thời xưa, ông cha ta đã rất coi trọng vai trò người thầy giáo “không thầy đố mày làm nên”, không có thầy sẽ không có giáo dục. Điều đó nhắc nhở mọi người phải quan tâm mọi mặt đến giáo dục, đến đội ngũ giáo viên. Vấn đề phát triển giáo dục và nâng cao chất lượng đội ngũ giáo viên đã được Chủ tịch Hồ Chí Minh, Đảng và Nhà nước ta rất quan tâm. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã chỉ ra rằng: “Giáo dục nhằm đào tạo những người kế tục sự nghiệp cách mạng to lớn của Đảng và nhân dân, do đó các ngành, các cấp, Đảng, chính quyền và chính quyền địa phương phải thực sự quan tâm đến sự nghiệp này, phải chăm sóc nhà trường về mọi mặt, đẩy sự nghiệp giáo dục của ta lên những bước phát triển mới”. “Cán bộ và giáo viên phải tiến bộ cho kịp thời đại mới làm được nhiệm vụ, chớ tự túc, tự mãn cho là giỏi rồi thì dừng lại”. [29]. Nghị quyết TW khóa VIII đã nêu : “Khâu then chốt để thực hiện chiến lược phát triển giáo dục là phải đặc biệt chăm lo đào tạo, bồi dưỡng và chuẩn hóa ĐNGV cũng như cán bộ QLGD”. Trong chiến lược phát triển giáo dục 2001 - 2010 của Chính phủ cũng nêu rõ : “Phát triển đội ngũ nhà giáo đảm bảo đủ về số lượng, hợp lý về cơ cấu và chuẩn về chất lượng đáp ứng yêu cầu vừa tăng quy mô, vừa nâng cao chất lượng và hiệu quả giáo dục” [9]. Những năm gần đây Đảng, Nhà nước còn có nhiều các Chỉ thị, Nghị quyết, các chế độ chính sách để quan tâm tới đội ngũ giáo viên. Điều mong muốn là đất nước ta trở thành một xã hội học tập, trong đó đội ngũ thầy cô giáo có năng lực, trình độ ngang tầm với sự phát triển của thời đại. Xuất phát từ những tư tưởng có định hướng đó, nhiều công trình nghiên cứu về ĐNGV đã được triển khai và gần đây cũng đã có một số đề tài khoa học nghiên cứu về việc xây dựng, phát triển và nâng cao chất lượng ĐNGV của các trường và các cơ sở giáo dục như các luận văn Thạc sĩ quản lý giáo dục của các tác giả sau : - Lê Thị Hoan : “Các biện pháp quản lý của Hiệu trưởng nhằm nâng cao chất lượng dạy học ở trường PTTH tỉnh Thanh Hóa” - Năm 1999. 7 - Nguyễn Xuân Hường : “Một số giải pháp quản lý phát triển đội ngũ giáo viên Trường trung học Phòng Không” - Năm 2000. - Lê Thị Lan Phương : “Một số biện pháp quản lý của Hiệu trưởng nhằm nâng cao năng lực chuyên môn cho ĐNGV ở trường Tiểu học tỉnh Phú Thọ” - Năm 2001. - Đỗ Ngọc Mỹ - TP.Hồ Chí Minh : “Một số giải pháp phát triển đội ngũ giáo viên” - Năm 2002. - Đoàn Thị Bẩy : “Quản lý hoạt động dạy học của hiệu trưởng trường THPT thành phố Cà Mau tỉnh Cà Mau. Thực trạng và giải pháp”- Năm 2003. - Nguyễn Thị Hồng Hoa : “Thực trạng quản lý đội ngũ giáo viên của Hiệu trưởng trường Tiểu học ở thành phố Hồ Chí Minh và một số biện pháp nâng cao chất lượng quản lý đó” - Năm 2005. Các đề tài nói trên đã nghiên cứu rất nhiều khía cạnh khác nhau trong công tác quản lý cũng như phát triển ĐNGV nói chung. Tuy nhiên chưa có những nghiên cứu sâu về thực trạng công tác quản lý ĐNGV của hiệu trưởng các trường THPT chuẩn quốc gia từ đó đề xuất các biện pháp nâng cao chất lượng ĐNGV đáp ứng yêu cầu của trường THPT chuẩn quốc gia hiện nay. Vì vậy đề tài luận văn thạc sĩ “Các biện pháp quản lý đội ngũ giáo viên của hiệu trưởng trường THPT đạt chuẩn quốc gia ở tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu”, sẽ có những nét riêng phù hợp với địa phương nhằm góp phần nâng cao chất lượng đào tạo trong các trường THPT đạt chuẩn quốc gia của tỉnh. 1.2. Một số khái niệm cơ bản 1.2.1. Quản lý Trong lịch sử phát triển của xã hội loài người, hoạt động quản lý đã xuất hiện từ rất sớm. Từ khi con người biết tập hợp nhau lại, tập trung sức để tự vệ hoặc lao động kiếm sống thì bên cạnh lao động chung của mọi người đã xuất hiện những hoạt động có tổ chức, phối hợp, điều khiển đối với họ. Những hoạt động đó xuất hiện, tồn tại và phát triển như một tất yếu khách quan, là cơ sở đảm bảo cho các hoạt động chung của con người đạt được kết quả mong muốn. Đó chính là những dấu ấn đầu tiên của hoạt động quản lí. Khi nghiên cứu về cơ sở khoa học quản lý, C.Mác đã khẳng định : “Tất cả mọi lao động trực tiếp hay lao động chung nào tiến hành trên quy mô tương đối lớn, thì ít 8 nhiều cũng cần đến một sự chỉ đạo để điều hòa những hoạt động cá nhân và thực hiện những chức năng chung phát sinh từ sự vận động của toàn bộ cơ chế sản xuất, khác với sự vận động của những khách quan độc lập của nó” [11]. Như vậy, đã xuất hiện một dạng lao động mang tính đặc thù là tổ chức, điều khiển các hoạt động của con người theo những yêu cầu nhất định - được gọi là hoạt động quản lí. Từ đó, có thể hiểu lao động xã hội và quản lý không tách rời nhau, quản lý là hoạt động điều khiển lao động chung. Xã hội phát triển qua các phương thức sản xuất, thì trình độ tổ chức, điều hành tất yếu cũng được nâng lên, phát triển theo với những đòi hỏi ngày càng cao hơn. Khi lao động xã hội đạt tới một trình độ và quy mô phát triển nhất định thì sự phân công lao động tất yếu sẽ dẫn đến việc tách quản lý thành một hoạt động đặc biệt, sẽ hình thành bộ phận lao động trực tiếp và bộ phận chuyên hoạt động quản lý, tạo thành các mối quan hệ trong quản lí. Cùng với sự phát triển của xã hội loài người, quản lý đã trở thành một khoa học và ngày càng phát triển toàn diện. Khái niệm quản lý đã được nhiều tác giả đề cập với những cách tiếp cận khác nhau. “Quản lý là chức năng của những hệ thống có tổ chức với những bản chất khác nhau (như kỹ thuật, sinh vật, xã hội), thực hiện những chương trình, mục đích hoạt động” [14]. Theo tác giả Nguyễn Minh Đạo nghiên cứu từ góc độ xã hội thì quản lý “là sự tác động liên tục có tổ chức, có định hướng của chủ thể quản lý lên khách thể quản lý về các mặt chính trị, văn hóa, xã hội, kinh tế…bằng một hệ thống các luật lệ, các chính sách, các nguyên tắc, các phương pháp và các biện pháp cụ thể nhằm tạo ra môi trường và điều kiện cho sự phát triển của đối tượng” [14]. Đối với hoạt động của một đơn vị, một tổ chức, tác giả Nguyễn Ngọc Quang xác định, quản lý “là tác động có mục đích, có kế hoạch của chủ thể quản lý đến tập thể những người lao động nói chung là khách thể quản lý nhằm thực hiện được những mục tiêu dự kiến” [30]. Từ các khái niệm trên, có thể hiểu : • Quản lý là các hoạt động thực hiện nhằm đảo bảo hoàn thành công việc qua những nỗ lực của mọi người trong tổ chức. • Quản lý là công tác phối hợp có hiệu quả hoạt động của những người cộng sự khác nhau cùng chung một tổ chức. 9 • Quản lý là những tác động có mục đích lên những tập thể người, thành tố cơ bản của hệ thống xã hội. • Quản lý được tiến hành trong một tổ chức hay một nhóm xã hội. • Quản lý là quá trình tác động có tổ chức, có hướng đích của chủ thể quản lí lên đối tượng quản lý nhằm sử dụng có hiệu quả nhất các tiềm năng, các cơ hội của hệ thống để đạt mục tiêu đề ra trong điều kiện biến động của môi trường. • Quản lý không chỉ là một khoa học mà còn là một nghệ thuật. • Quản lý là thuộc tính bất biến nội tại của mọi quá trình lao động xã hội. • Quản lý là một hệ thống mở và bản chất của nó là phối hợp các nỗ lực của con người thông qua việc thực hiện các chức năng quản lý. 1.2.2. Quản lý giáo dục Cùng với sự đi lên của tổ chức xã hội, khoa học quản lý ngày càng phát triển mạnh mẽ và có ý nghĩa quyết định trong mọi mặt của đời sống kinh tế xã hội. Từ các lĩnh vực kinh tế, quản lý hành chính Nhà nước, tới các lĩnh vực văn hóa - xã hội… đều khai thác hiệu quả các thành tựu của khoa học quản lý. Ứng với mỗi lĩnh vực, công tác quản lý đều đã phát triển thành một khoa học quản lý với những đặc thù riêng. Khoa học quản lý giáo dục đã hình thành và phát triển khá sớm, trở thành yếu tố quan trọng góp phần nâng cao chất lượng giáo dục. Về mặt lịch sử, khoa học quản lý giáo dục ra đời và phát triển sau khoa học quản lý kinh tế, vì vậy nó sử dụng được những thành tựu tiến bộ của khoa học quản lý. Trên thế giới tồn tại hai xu hướng phát triển về khoa học quản lý giáo dục. Xu hướng thứ nhất là thực hiện quá trình quản lý giáo dục trên cơ sở của quản lý kinh tế, coi quản lý cơ sở giáo dục như một loại “Xí nghiệp đặc biệt” [24]. Xu hướng thứ hai, quá trình quản lý giáo dục bắt nguồn từ lý luận quản lý xã hội, xã hội được chia thành ba lĩnh vực là “chính trị - xã hội”, “văn hóa - tư tưởng” và “kinh tế”, quản lý xã hội là quản lý ba lĩnh vực đó và như vậy, quản lý giáo dục nằm trong lĩnh vực quản lý văn hóa - tư tưởng [13]. Quản lý giáo dục, theo nghĩa rộng là quản lý mọi hoạt động giáo dục trong xã hội, quá trình đó bao gồm các hoạt động có tính giáo dục của bộ máy Nhà nước, của các tổ chức xã hội, của hệ thống giáo dục quốc dân, của gia đình… Quản lý giáo dục, theo nghĩa hẹp bao gồm : quản lý hệ thống giáo dục là quản lý các hoạt động 10 giáo dục đào tạo diễn ra trong các đơn vị hành chính (xã, huyện, tỉnh, toàn quốc) và quản lý nhà trường. “Một quy luật của tiến bộ xã hội là thế hệ đi sau phải lĩnh hội cả những kinh nghiệm xã hội mà các thế hệ đi trước đã tích lũy và truyền lại, đồng thời phải làm phong phú thêm những kinh nghiệm đó” [11]. Thực hiện quy luật này là chức năng của giáo dục nói chung và quản lý giáo dục nói riêng. QLGD có hai chức năng là : “ổn định duy trì quá trình đào tạo đáp ứng nhu cầu của nền kinh tế xã hội” và “đổi mới, phát triển quá trình đào tạo đón đầu tiến bộ kinh tế xã hội”. Như vậy, “QIGD là hoạt động điều hành các nhà trường để giáo dục, vừa là sức mạnh, vừa là mục tiêu của nền kinh tế” [11]. Với các chức năng trên quản lý giáo dục có vị trí cao nhất trong việc tạo điều kiện XHH cá nhân, hình thành và phát triển nhân cách, nhằm giúp con người đảm nhận và gánh vác được những yêu cầu phát triển kinh tế xã hội. 1.2.3. Quản lý nhà trường Nhà trường trong hệ thống giáo dục quốc dân được thành lập theo quy hoạch, kế hoạch của Nhà nước nhằm phát triển sự nghiệp GD&ĐT. Trường học là một bộ phận của hệ thống xã hội mà ở đó tiến hành quá trình giáo dục đào tạo, gọi chung là “cơ sở giáo dục”. “Nhà trường là một thiết chế đặc biệt của xã hội, là nơi thực hiện chức năng kiến tạo các kinh nghiệm xã hội cho một nhóm dân cư được huy động vào sự kiến tạo này một cách tối ưu theo quan niệm xã hội, thực hiện chức năng tạo nguồn cho các yêu cầu của xã hội, đào tạo các công dân cho tương lai”. [24] Trường học với tư cách là một tổ chức giáo dục cơ sở, vừa mang tính giáo dục, vừa mang tính xã hội, trực tiếp đào tạo thế hệ trẻ, nó là tế bào chủ chốt của bất kỳ hệ thống giáo dục nào từ trung ương đến địa phương. Như vậy “Quản lý nhà trường là gì ? Theo GS.VS Phạm Minh Hạc “ Quản lý nhà trường là thực hiện đường lối của Đảng trong phạm vi trách nhiệm của mình, tức là đưa nhà trường vận hành theo nguyên lý giáo dục để tiến tới mục tiêu giáo dục, mục tiêu đào tạo đối với ngành giáo dục, với thế hệ trẻ và từng học sinh” [19]. Ông cho rằng : “Việc quản lý nhà trường phổ thông là quản lý hoạt động dạy học, tức là làm sao đưa hoạt động đó từ trạng thái này sang trạng thái khác để dần dần tiến tới mục tiêu giáo dục” và “Quản lý nhà trường, quản lý giáo dục là tổ chức hoạt động dạy học, thực hiện được các tính chất của nhà trường phổ thông Việt Nam xã hội chủ nghĩa mới quản lý được 11 giáo dục, tức là cụ thể hóa đường lối giáo dục của Đảng và biến đường lối đó thành hiện thực, đáp ứng yêu cầu của nhân dân, của đất nước” [19]. Có thể thấy, công tác quản lý trường học bao gồm sự quản lý các tác động qua lại giữa trường học và xã hội, đồng thời quản lý chính nhà trường. Người ta có thể phân tích quá trình giáo dục của nhà trường như một hệ thống gồm sáu thành tố : Mục đích giáo dục, nội dung giáo dục, phương pháp giáo dục, thầy giáo, học sinh, cơ sở vật chất trang thiết bị phục vụ giáo dục. Như vậy, các thành tố này được chia làm ba loại : Thành tố con người, thành tố tinh thần và thành tố vật chất. Quản lý nhà trường là quản lý hệ thống xã hội - sư phạm chuyên biệt, hệ thống này đòi hỏi những tác động có ý thức, có khoa học và có hướng của chủ thể quản lý trên tất cả các mặt của đời sống nhà trường để đảm bảo sự vận hành tối ưu xã hội - kinh tế và tổ chức sư phạm của quá trình dạy học và giáo dục, mục tiêu đào tạo đối với ngành giáo dục, với thế hệ trẻ và từng học sinh. Người quản lý trường học là hiệu trưởng của các nhà trường. Vì vậy, quản lý trường học thực chất là quản lý quá trình lao động sư phạm của thầy, hoạt động học tập tự giáo dục của trò, diễn ra chủ yếu trong quá trình dạy học. Quản lý trường học là quản lý tập thể giáo viên và học sinh để chính họ lại quản lý (đối với giáo viên) và tự quản lý (đối với học sinh) quá trình dạy - học, nhằm tạo ra sản phẩm là nhân cách con người mới. Đồng thời, quản lý trường học còn bao gồm quản lý các công việc khác có tính chất điều kiện như : Đội ngũ, tổ chức hoạt động của các đoàn thể trong trường, quản lý cơ sở vật chất, chăm lo đời sống vật chất, tinh thần cho cán bộ giáo viên, học sinh .v.v… 1.2.4. Giáo viên Luật Giáo dục (2007) đã định rõ : “Nhà giáo là người làm nhiệm vụ giảng dạy, giáo dục trong nhà trường hoặc các cơ sở giáo dục khác”. “Nhà giáo dạy ở các cơ sở giáo dục mầm non, giáo dục phổ thông, giáo dục nghề nghiệp, gọi là giáo viên”. [27] Những tiêu chuẩn đối với nhà giáo là : - Phẩm chất, đạo đức, tư tưởng tốt. - Đạt trình độ chuẩn được đào tạo về chuyên môn nghiệp vụ . 12 - Đủ sức khỏe theo yêu cầu nghề nghiệp . - Lý lịch bản thân rõ ràng. [27] Theo tiến sĩ Philip Jackson : “Giáo viên là người ra quyết định có hiểu biết, hiểu được học sinh và có khả năng cấu trúc lại nội dung giảng dạy để học sinh có thể tiếp thu được nội dung đó, đồng thời trong khi dạy biết khi nào phải dạy cái gì”. Trong định nghĩa này Philip Jackson muốn nhấn mạnh phẩm chất năng lực và phương pháp giảng dạy của người giáo viên. -Nhà bác học AlberTeinstein cho rằng “Giáo viên là người có nghệ thuật tối thượng là làm thức dậy những thú vui trong trí thức và tình cảm sáng tạo của người học”. * Yêu cầu về mặt phẩm chất đạo đức, tư tưởng của người giáo viên hiện nay Đã là người cán bộ thì ở bất cứ lĩnh vực nào cũng cần phải có những phẩm chất tốt. Nhưng không có lĩnh vực nào mà phẩm chất lại ảnh hưởng sâu sắc đến người học như người giáo viên. Bởi vậy phẩm chất của người giáo viên vừa là điều kiện, vừa là phương tiện để giáo dục học sinh . Phẩm chất của người giáo viên được thể hiện chủ yếu ở các mặt sau đây: - Có niềm tin cách mạng: Niềm tin cách mạng là cơ sở để người giáo viên gắn bó cuộc đời mình với sự nghiệp cách mạng, của dân tộc, với sự nghiệp giáo dục là bồi dưỡng thế hệ cách mạng cho đời sau. - Có lý tưởng nghề nghiệp: Lý tưởng nghề nghiệp biểu hiện bằng lòng say mê nghề nghiệp , lương tâm nghề nghiệp, lòng tận tụy, hy sinh vì công việc, tác phong làm việc cần cù, có tinh thần trách nhiệm cao ... - Có niềm tin sư phạm: Tin vào bản chất tốt đẹp của con người, tin vào khả năng giáo dục, tin tưởng và tôn trọng nhân cách của người học. - Có lòng yêu nghề, yêu trẻ: Lòng yêu nghề, yêu trẻ gắn bó chặt chẽ với nhau, yêu người bao nhiêu, yêu nghề bấy nhiêu. Có yêu người mới có cơ sở để yêu nghề. - Có tình cảm trong sáng và cao thượng: Tình cảm này thể hiện ở lòng yêu nghề, yêu trẻ, hứng thú và nhu cầu làm việc với thế hệ trẻ, yêu thương và đùm bọc học sinh, vui sướng với những tiến bộ của học sinh . Ngoài ra người giáo viên còn phải có lòng nhân đạo, thái độ công bằng, thái độ chính trực, giản dị, khiêm tốn, biết tự kiềm chế, kiên trì, tự tin ... 13 Tóm lại: Các phẩm chất của người giáo viên càng toàn diện thì càng đạt hiệu quả giáo dục cao. *Yêu cầu về năng lực của người giáo viên Năng lực là tổ hợp các thuộc tính độc đáo của cá nhân phù hợp với những yêu cầu của một hoạt động nhất định đảm bảo cho hoạt động đó đạt kết quả. Theo kiến nghị của hội nghị Hội đồng giáo dục Australia và các Bộ trưởng Giáo dục Đào tạo và Việc làm tại Australia tháng 8 năm 1992 thì có 7 năng lực then chốt được đề ra. Đây là những năng lực then chốt để tham gia có hiệu quả vào những mô hình trội của lao động và tổ chức lao động, trong đó có lao động sư phạm: a. Năng lực thu thập, phân tích và tổ chức thông tin trí thức. b. Năng lực truyền bá ý tưởng thông tin trí thức. c. Năng lực kế hoạch hóa và tổ chức các hoạt động. d. Năng lực làm việc với người khác. đ. Năng lực đánh giá ước lượng nhằm vào mục đích thực tế. e. Năng lực giải quyết vấn đề. f. Năng lực sử dụng công nghệ, những kỹ năng thể chất và cảm xúc cần thiết. Theo tác giả Vũ Văn Tảo và Trần Văn Hà thì năng lực giải quyết vấn đề là năng lực có ý nghĩa quan trọng. Biểu hiện mang tính bản chất của năng lực này là một số khả năng sau: - Làm rõ, khoanh vấn đề, chỉ rõ nguồn gốc nảy sinh vấn đề. - Hoàn tất việc giải quyết thích hợp những vấn đề đã đặt ra. - Thấy trước vấn đề và nghĩ ra những chiến lược đáp ứng thích hợp. - Đánh giá kết quả, kiểm soát cả quá trình. Theo quan điểm của nhóm tác giả cuốn “Tâm lý học” do Phạm Minh Hạc chủ biên, đã phân chia những năng lực sư phạm riêng thành 3 nhóm. Nhóm thứ nhất: Đó là lòng yêu trẻ (đây chính là cái trục cơ bản trong cấu trúc của năng lực sư phạm nói chung), là năng lực kiềm chế, tự chủ, năng lực điều khiển được các trạng thái tâm lý, tâm trạng của mình khi tiến hành các hoạt động sư phạm. Nhóm thứ hai: Là các năng lực dạy học, năng lực truyền đạt thông tin đến cho học sinh, đó là năng lực giải thích, năng lực khoa học, năng lực ngôn ngữ, năng lực chuyên môn ... 14 Nhóm thứ ba: Là những năng lực tổ chức, giao tiếp trong quá trình dạy học giáo dục. Năng lực này thể hiện ở hai mặt: Tổ chức tập thể học sinh và tổ chức công việc của bản thân. Năng lực này được thể hiện ở tính cẩn thận và chính xác, ở kỹ năng lập kế hoạch hoạt động và kỹ năng kiểm tra hoạt động. Ngoài ra còn là năng lực giao tiếp, óc quan sát sư phạm, sự khéo léo sư phạm, năng lực ám thị, óc tưởng tượng sư phạm, năng lực phân phối chú ý cho việc điều khiển và bảo quản lớp học. Theo tác giả Hà Nhật Thăng, khi bàn về cấu trúc nhân cách của người giáo viên chủ nhiệm, đã nhấn mạnh đến hệ thống các năng lực, kỹ năng sư phạm cần thiết, đó là: -Năng lực tiếp cận đối tượng (học sinh, phụ huynh, các đối tượng xã hội cần giao tiếp) và khả năng đối xử cá biệt. -Năng lực phán đoán về đối tượng, công việc, hiệu quả giao tiếp, hoạt động giáo dục. -Lập kế hoạch chỉ đạo, tổ chức thực hiện công tác chủ nhiệm, công tác GD. -Năng lực cảm hoá, thuyết phục, xây đựng uy tín. -Năng lực biểu lộ và kiềm chế tình cảm, chủ định. -Năng lực tổ chức hoạt động giáo dục. -Năng lực sử dụng ngôn ngữ, giải quyết các tình huống sư phạm. -Năng lực tích luỹ tri thức. -Năng lực tạo ra hứng thú, động cơ hoạt động. -Năng lực phân tích, tổng hợp và sự nhạy cảm sư phạm. -Năng lực giảng dạy môn học phụ trách. Hệ thống các năng lực trên thể hiện trong toàn bộ hoạt động giáo dục, chúng hỗ trợ và chi phối lẫn nhau tạo ra bộ mặt nhân cách của người giáo viên. Như vậy, năng lực sư phạm trong cấu trúc nhân cách của người giáo viên được biểu hiện ở ba nhóm: - Năng lực dạy học. - Năng lực giáo dục. - Năng lực tự hoàn thiện. Nhóm 1: Các năng lực dạy học được biểu hiện ở: - Nắm vững, lựa chọn và tổ chức sắp xếp các trí thức. - Lựa chọn, phân loại, phối hợp các phương thức dạy học. 15 - Nắm vững đối tuợng giảng dạy. - Khả năng sử dụng ngôn ngữ và khả năng diễn đạt ý tuởng. - Linh hoạt sử dụng các phương tiện dạy học. - Tổ chức, quản lý, điều khiển học sinh trong giờ học. - Lôi cuốn, thuyết phục học sinh trong các hoạt động học tập. - Biết ứng xử nhanh các tình huống có vấn đề trong lớp học, trong giờ học. - Biết cách hướng dẫn có hiệu quả việc dạy các đối tuợng cá biệt. Nhóm 2: Năng lực giáo dục được thể hiện qua các kỹ năng như: - Xây dựng kế hoạch cho các hoạt động giáo dục. - Tổ chức, chỉ đạo các hoạt động giáo dục. - Nắm vững đối tượng giáo dục. - Khả năng giáo dục học sinh cá biệt. - Biết đánh giá các hoạt động giáo dục và điều chỉnh kịp thời để đạt hiệu quả cao hơn, biết thuyết phục, cảm hoá HS để học sinh tự giác, tích cực tham gia vào các hoạt động giáo dục. Người giáo viên phải biết bồi dưỡng đội ngũ tự quản để HS tự điều hành các hoạt động giáo dục, ngoài ra người thầy còn phải biết vận động, lôi cuốn quần chúng tham gia vào hoạt động giáo dục. Nhóm 3: Năng lực tự hoàn thiện được thể hiện qua việc tự kiểm tra, đánh giá bản thân để bồi dưỡng tư tưởng tình cảm, nghề nghiệp. Ngoài ra còn phải biết tự học, tự bồi dưỡng để bổ sung, hoàn thiện về tay nghề, nâng cao kiến thức, rèn luyện kỹ năng và phương pháp. Một biểu hiện nữa của năng lực tự hoàn thiện là công tác nghiên cứu khoa học và tổng kết kinh nghiệm thực tiễn. Các hệ thống năng lực trên có mối quan hệ biện chứng với nhau, luôn hỗ trợ nhau, bổ sung cho nhau để tạo nên năng lực sư phạm. Nhà giáo có những nhiệm vụ sau đây: -Giáo dục, giảng dạy theo mục tiêu, nguyên lý giáo dục, thực hiện đầy đủ và có chất lượng chương trình giáo dục. -Gương mẫu thực hiện nghĩa vụ công dân, các quy định của pháp luật và điều lệ nhà trường. -Giữ gìn phẩm chất, uy tín, danh dự của nhà giáo; tôn trọng nhân cách của người học, đối xử công bằng với người học, bảo vệ các quyền, lợi ích chính đáng của người học. 16 -Không ngừng học tập, rèn luyện để nâng cao phẩm chất đạo đức, trình độ chính trị, chuyên môn, nghiệp vụ, đổi mới phương pháp giảng dạy, nêu gương tốt cho người học. -Các nhiệm vụ khác theo quy định của pháp luật. [27] Quyền của nhà giáo là: -Được giảng dạy theo chuyên ngành đào tạo. -Được đào tạo nâng cao trình độ, bồi dưỡng chuyên môn, nghiệp vụ. -Được hợp đồng thỉnh giảng và nghiên cứu khoa học tại các trường, cơ sở giáo dục khác và cơ sở nghiên cứu khoa học với điều kiện bảo đảm thực hiện đầy đủ nhiệm vụ nơi mình công tác. -Được bảo vệ nhân phẩm, danh dự. -Được nghỉ hè, nghỉ Tết âm lịch, nghỉ học kỳ theo quy định của Bộ trưởng Bộ Giáo dục và Đào tạo và các ngày nghỉ khác theo quy định của Bộ luật lao động. Nhà giáo không được có các hành vi sau: -Xúc phạm danh dự, nhân phẩm, xâm phạm thân thể của người học. -Gian lận trong tuyển sinh, thi cử, cố ý đánh giá sai kết quả học tập, rèn luyện của người học. -Xuyên tạc nội dung giáo dục. -Ép buộc học sinh học thêm để thu tiền. 1.2.5. Đội ngũ Theo từ điển Tiếng Việt - Nhà xuất bản Đà Nẵng - 1997 : “Đội ngũ là tập hợp gồm một số đông người cùng chức năng hoặc nghề nghiệp tạp thành một lực lượng” [31]. Theo cách hiểu thuật ngữ quân sự về đội ngũ, “đó là một tổ chức gồm nhiều người, tập hợp thành một lực lượng để chiến đấu hay bảo vệ”. Như vậy, có thể thống nhất “Đội ngũ là một nhóm người được tổ chức và tập hợp thành một lực lượng để thực hiện một hay nhiều chức năng, và đều cùng một mục đích nhất định”. Ngày nay khái niệm đội ngũ được sử dụng rộng rãi cho tổ chức trong xã hội như đội ngũ tri thức, đội ngũ công nhân viên chức… 1.2.6. Đội ngũ giáo viên Khi đề cập đến khái niệm đội ngũ giáo viên, một số tác giả nước ngoài đã nêu lên quan niệm : “Đội ngũ giáo viên là những chuyên gia trong lĩnh vực giáo dục, họ 17 nắm vững tri thức và hiểu biết dạy học và giáo dục như thế nào và có khả năng cống hiến toàn bộ sức lực và tài năng của họ đối với giáo dục” [16]. Đối với các tác giả trong nước, vấn đề này được quan niệm như sau : “Đội ngũ giáo viên trong ngành giáo dục là một tập thể người, bao gồm cán bộ quản lý, giáo viên và nhân viên, nếu chỉ đề cập đến đặc điểm của ngành thì đội ngũ đó chủ yếu là đội ngũ giáo viên và đội ngũ quản lý theo giáo dục” [16]. Từ những quan điểm đã nêu của các tác giả trong và ngoài nước, ta có thể hiểu đội ngũ giáo viên như sau : Đội ngũ giáo viên là một tập hợp những người làm nghề dạy học - giáo dục, được tổ chức thành một lực lượng (có tổ chức) cùng chung một nhiệm vụ là thực hiện các mục tiêu giáo dục đã đề ra cho tập thể đó, tổ chức đó. Họ làm việc có kế hoạch và gắn bó với nhau thông qua lợi ích về vật chất và tinh thần trong khuôn khổ quy định của pháp luật, thể chế xã hội. Họ chính là nguồn nhân lực quan trọng trong lĩnh vực giáo dục. Từ những khái niệm chung về đội ngũ giáo viên có thể quan niệm về đội ngũ giáo viên THPT đó là : Những người làm công tác giảng dạy - giáo dục trong trường THPT có cùng một nhiệm vụ giáo dục, rèn luyện học sinh của trường giúp các em hình thành và phát triển nhân cách để sau khi tốt nghiệp các em có đủ trình độ văn hóa tiếp tục học lên bậc Cao đẳng Đại học, Trung học chuyên nghiệp đồng thời giúp các em chọn đúng hướng đi phù hợp với năng lực sở trường và hoàn cảnh của mình. 1.2.7. Chất lượng Chất lượng biểu thị những thuộc tính bản chất của sự vật chỉ rõ nó là cái gì, tính ổn định tương đối của sư vật phân biệt nó với sự vật khác. Chất lượng là mức hoàn thiện, là đặc trưng so sánh hay đặc trưng tuyệt đối, dấu hiệu đặc thù, các dữ kiện, các thông số cơ bản của sản phẩm hoạt động thể hiện giá trị đích thực của nó, là sự thỏa mãn những yêu cầu đặt ra. Chất lượng giáo dục thể hiện ở nhân cách của người học đáp ứng được những yêu cầu đề ra. Chất lượng GD phụ thuộc vào nhiều yếu tố bên ngoài và bên trong, như: người học với những đặc trưng cơ bản về thể chất, tâm lý và xã hội, các thành tố của quá trình giáo dục (mục tiêu, chương trình, phương pháp, hình thức,điều kiện, phương tiện, môi trường GD), chất lượng đội ngũ giáo viên. Việc đánh giá kết quả GD cần phản ánh được chất lượng nhân cách có phù hợp hay không với yêu cầu của 18 cuộc sống. Cần phải xem xét chất lượng đầu vào, chất lượng của quá trình GD và chất lượng đầu ra. Tham gia vào quá trình đánh giá chất lượng GD không chỉ là ý kiến của thầy và trò mà còn cần có ý kiến của xã hội, đặc biệt là của người sử dụng sản phẩm giáo dục. Việc đánh giá chất lượng GD không chỉ thể hiện ở điểm số hay xếp loại mà quan trọng hơn là thấy được những ưu điểm và hạn chế trong quá trình hình thành và phát triển nhân cách , từ đó đề xuất những biện pháp phát huy và khắc phục. 1.2.8. Chất lượng đội ngũ giáo viên Chất lượng ĐNGV được thể hiện ở 3 mặt : Phẩm chất-Trình độ-Năng lực. + Phẩm chất của người giáo viên được thể hiện ở đạo đức, tư tưởng tốt có nhân cách xã hội chủ nghĩa, có tâm hồn cao thượng, thiết tha yêu nghề mến trẻ, có lý tưởng nghề nghiệp, trung thành với Tổ quốc, trung thực, giản dị…. + Về trình độ : Được đào tạo theo quy định chuẩn mà Luật Giáo dục đã đề ra. + Về năng lực : Năng lực của giáo viên được thể ở hiệu quả hoạt động dạy học và giáo dục, khả năng thích ứng với thay đổi trong thực tiễn, khả năng giao tiếp, ứng xử sư phạm… Tuy nhiên để đảm bảo chất lượng thì ĐNGV phải được bồi dưỡng thường xuyên, liên tục về chính trị tư tưởng đạo đức trình độ cũng như năng lực chuyên môn. Bởi lẽ trong bối cảnh xã hội trong nước và quốc tế đầy biến động như hiện nay sự bùng nổ thông tin, xu hướng toàn cầu hóa, các thành tựu khoa học kỹ thuật…đòi hỏi ĐNGV phải luôn học tập BDTX, bổ xung tri thức đáp ứng nhu cầu mới. 1.2.9. Trường trung học phổ thông Trường THPT là cấp học cuối cùng của giáo dục phổ thông, là bậc học hoàn thiện kiến thức phổ thông cho học sinh, có mục tiêu, nội dung, phương pháp giáo dục mang tính phổ thông cơ bản, toàn diện nhằm thực hiện nhiệm vụ : 1. Hoàn chỉnh học vấn phổ thông nhằm phát triển nhân cách người lao động mới, năng động, sáng tạo, tạo nguồn cho các yêu cầu đào tạo của xã hội, đồng thời chuẩn bị tích cực cho học sinh bước vào cuộc sống xã hội, lao động sản xuất, làm nghĩa vụ công dân, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa. 19 2. Chuẩn bị cho một bộ phận tiếp tục học lên bậc học cao hơn đáp ứng yêu cầu tạo nguồn cho đội ngũ cán bộ, công nhân kỹ thuật lành nghề và trí thức xã hội chủ nghĩa. 3. Tiếp tục phát hiện bồi dưỡng học sinh có năng khiếu nhằm góp phần đào tạo nhân tài cho đất nước. 4. Bảo đảm số lượng, chất lượng và hiệu quả đào tạo học sinh THPT phù hợp với nhu cầu và khả năng phát triển kinh tế xã hội của địa phương. 5. Phát huy tác dụng về mặt văn hóa, tư tưởng , khoa học kỹ thuật ở địa phương. Vào những năm đầu của quá trình đổi mới đất nước, với sự nghiệp CNH- HĐH, việc xây dựng cơ sở vật chất ở nước ta được tiến hành trong điều kiện tồn tại nhiều hình thức sở hữu thành phần kinh tế, vận hành theo cơ chế thị trường có sự định hướng xã hội chủ nghĩa. Sản xuất hàng hóa phát triển làm cho thị trường lao động được mở rộng, nhu cầu đào tạo tăng lên, tạo điều kiện cho GD&ĐT phát triển. Mặt khác kinh tế thị trường làm thay đổi quan niệm về giá trị, ảnh hưởng đến động cơ học tập, việc lựa chọn ngành nghề, tác động đến các quan hệ trong nhà trường và ngoài xã hội. Trước sự phát triển phong phú đa dạng của nền kinh tế tri thức, sự phân hóa trong xã hội cần hình thành hai xu hướng: Một là, những em có điều kiện đều có nguyện vọng học lên tiếp hoàn chỉnh học vấn theo ngành nghề. Hai là, một số em không có điều kiện hoặc do năng lực bản thân, hoặc do thi không được vào các trường Đại học thì tiếp tục vào học các trường trung học chuyên nghiệp - dạy nghề hoặc hòa nhập vào thị trường lao động, chờ đón cơ hội để học thêm. Như vậy bậc giáo dục THPT có “mục tiêu kép” là : Vừa chuẩn bị cho học sinh vào đại học, vừa chuẩn bị học sinh vào đời. Do đó, trong nhà trường THPT ngoài trang bị kiến thức còn phải hình thành được cho học sinh một số năng lực chủ yếu như : Năng lực thích ứng với mọi thay đổi của thực tiễn để chủ động, tự chủ trong lao động, trong cuộc sống và hòa nhập vào môi trường nghề nghiệp. Định hướng chiến lược phát triển giáo dục của Đảng ta đã chỉ ra đặc điểm chủ yếu các nhiệm vụ cơ bản và các đặc trưng về mục tiêu quản lý về nhà trường THPT [3]. 20 1.2.10. Trường THPT chuẩn quốc gia Về cơ bản trường THPT chuẩn quốc gia cũng có đặc điểm giống như trường THPT nhưng trong thực tế, chất lượng giáo dục và đào tạo còn hạn chế, chưa đáp ứng được yêu cầu là do nhiều nguyên nhân, như do “Đội ngũ giáo viên vừa thiếu, vừa yếu”, “cơ sở vật chất chưa đáp ứng được yêu cầu phục vụ cho công tác giáo dục và đào tạo”. Việc xây dựng các trường đạt chuẩn quốc gia nhằm tạo những chuyển biến thực sự về chất lượng Giáo dục & Đào tạo, là một trong những yêu cầu cấp thiết và đang đặt ra nhiều vấn đề về công tác quản lý đối với ngành GD&ĐT cũng như các cấp ủy Đảng, Chính quyền địa phương. Bộ GD&ĐT đã ban hành Quyết định về tiêu chuẩn trường chuẩn quốc gia đối với cấp tiểu học cách đây trên bảy năm, song cũng còn nhiều điều bất cập trong việc tổ chức thực hiện. Ngày 05/7/2001 Bộ trưởng Bộ GD&ĐT đã ra Quyết định số 27/2001- QĐ – BGD & ĐT “V/v: Ban hành Qui chế công nhận trường trung học đạt chuẩn quốc gia (Giai đoạn 2001 đến 2010) “[6], song đến nay việc tổ chức thực hiện vẫn còn nhiều lúng túng, còn nhiều vấn đề cần được quan tâm tìm ra các giải pháp cho phù hợp để có thể vừa đáp ứng được yêu cầu đạt ra của ngành, vừa đáp ứng được yêu cầu thực tế của địa phương. 1.3. Trường THPT chuẩn quốc gia và đội ngũ giáo viên trường THPT chuẩn quốc gia 1.3.1. Vai trò của trường THPT chuẩn quốc gia trong sự nghiệp phát triển hiện nay a) Ở các nước phát triển Do có nền đại công nghiệp và đã có những bước phát triển dài, nên ở các nước này đã giành được những thành tựu to lớn về kinh tế xã hội, đồng thời có những bài học có giá trị về nghiên cứu giáo dục. Ở các nước này đã xây dựng được hệ thống, cơ cấu giáo dục thống nhất, ổn định có tiêu chuẩn hóa cao, phù hợp với điều kiện và nhu cầu xã hội nên không đặt ra vấn đề xây dựng trường chuẩn. Điều thường được đặt ra đối với các nước này là đổi mới về nội dung và phương pháp giáo dục. b) Ở các nước đang phát triển Do chịu ảnh hưởng của chủ nghĩa thực dân, nên ở các nước này, sau khi giành được độc lập bắt tay vào xây dựng một nền giáo dục mới, giáo dục được ưu tiên phát 21 triển với một tốc độ rất nhanh. Song bên cạnh những thành tựu hết sức to lớn về giáo dục, ở các nước này đều bộc lộ những mặt hạn chế cơ bản. Đó là : • Do phát triển giáo dục với tốc độ nhanh nên buộc phải sử dụng đội ngũ giáo viên có chất lượng thấp, không chỉ yếu về kiến thức mà còn yếu về phương pháp, điều đó dẫn đến sự xuống cấp giáo dục ngày càng lớn. Đồng thời do dân số bùng nổ, qui mô trường lớp có tốc độ tăng càng nhanh, dẫn đến đầu tư tài chính còn thiếu quá xa so với yêu cầu tối thiểu, CSVC nghèo nàn yếu kém. • Do trình độ quản lý, trình độ dân trí còn thấp nên sự đầu tư cho giáo dục còn hạn chế, chưa được quan tâm đúng mức và chưa đầy đủ. Xây dựng trường chuẩn là quá trình chuẩn hóa các nhà trường và là điều tất yếu phải đặt ra dưới hình thức này hoặc hình thức khác của mỗi quốc gia. c) Ở Việt Nam Tham khảo theo tài liệu “Giáo dục Việt Nam trước ngưỡng cửa thế kỷ XXI”- NXB Chính trị quốc gia của tác giả GS.VS Phạm Minh Hạc [17] rút ra được một số nhận xét như sau : 1. Giáo dục Việt Nam trước Cách mạng tháng Tám, thời Pháp thuộc được xây dựng theo tư tưởng chỉ đạo là chỉ phát triển giáo dục theo chiều nằm chứ không theo chiều đứng. Nhưng từ sau Cách mạng tháng Tám, Đảng và Nhà nước ta đã có những sự quan tâm phát triển giáo dục và đã liên tục có những cuộc cải cách giáo dục nhằm nâng cao chất lượng giáo dục và đào tạo. Đó là : • Đề án cải cách giáo dục được Hội đồng Bộ trưởng thông qua vào tháng 7/1950 được coi là “Cuộc cải cách giáo dục lần thứ nhất”. Từ đây nền giáo dục nước Việt Nam dân chủ cộng hòa được chính thức tuyên bố là nền giáo dục của dân, do dân và vì dân. • Tháng 8/1956, Chính phủ ban hành “Chính sách giáo dục phổ thông của nước Việt Nam dân chủ cộng hòa” - Đây là cuộc cải cách giáo dục lần thứ hai, với mục tiêu là “Đào tạo, bồi dưỡng thế hệ thanh niên và thiếu nhi trở thành những người phát triển về mọi mặt, những công dân tốt, trung thành với Tổ quốc, những người lao động tốt, cán bộ tốt của nước nhà, có tài, có đức…”. Phương châm giáo dục là liên hệ lý luận với thực tiễn, gắn nhà trường với đời sống xã hội. Nội dung giáo dục gồm bốn mặt:đức - trí - thể - mỹ. Về phương pháp có chú ý tăng cường 22 thực hành, tăng cường lao động sản xuất, chú ý nhiều hơn đến ứng dụng tri thức vào đời sống. Như vậy, nội dung giáo dục có tính chất toàn diện hơn. • Quyết định 14/1979 của Bộ Chính trị BCHTW Đảng cộng sản Việt Nam được coi là “Cuộc cải cách giáo dục lần thứ ba”. Nội dung và mục tiêu cơ bản là : Coi giáo dục là một bộ phận của cuộc cách mạng tư tưởng văn hóa, Giáo dục & Đào tạo là nhân tố có tính chất quyết định đối với việc đào tạo nhân tài, đào tạo và bồi dưỡng đội ngũ lao động mới có đạo đức, có kiến thức khoa học và kỹ thuật, có kỹ năng, có sức khỏe… Cuộc cách mạng này được diễn ra chủ yếu từ năm 1981 và đã xây dựng được một nền giáo dục quốc dân hoàn chỉnh. Qua ba cuộc cải cách, bên cạnh những thành tựu đạt được, còn bộc lộ nhiều những thiếu sót, tồn tại lớn về nội dung, chương trình và phương pháp, về đầu tư cơ sở vật chất và đầu tư ngân sách cho giáo dục, về cách tổ chức quản lý giáo dục, ít có trường đạt chuẩn về cơ sở vật chất và vệ sinh học đường, điều kiện về đội ngũ và cơ sở vật chất để thực hiện giáo dục toàn diện hầu như chưa có, ngân sách giáo dục của Nhà nước còn thấp, các nguồn khác còn hạn hẹp, nhiều năm chưa thực hiện đủ ngân sách mà Quốc hội và Chính phủ đã quyết định dành cho Giáo dục & Đào tạo. 2. Trong nhiều năm qua việc xây dựng các trường điển hình tiên tiến chủ yếu tập trung vào đánh giá ở phong trào thi đua, ở kết quả chung về GD&ĐT và công tác XHH giáo dục, chưa thật chú trọng đến một số tiêu chuẩn như cơ cấu tổ chức nhà trường, tiêu chuẩn về đội ngũ cán bộ quản lý, giáo viên , nhân viên và đặc biệt là chưa chú ý đánh giá về CSVC, trang thiết bị trường học. Dẫn đến có nhiều trường điển hình tiên tiến không duy trì thành tích được khi chuyển sang cơ chế mới. 3. Hội nghị BCHTW lần thứ tư - khóa VII của Đảng Cộng Sản Việt Nam về tiếp tục đổi mới sự nghiệp GD&ĐT đã nêu quan điểm chỉ đạo : GD là quốc sách hàng đầu và đầu tư cho GD là một hướng chính đầu tư cho sự phát triển. Mục tiêu nhằm nâng cao dân trí, đào tạo nhân lực, bồi dưỡng nhân tài, đào tạo những con người có kiến thức văn hóa, khoa học, có kỹ năng nghề nghiệp…Gắn chặt yêu cầu phát triển đất nước và phù hợp với xu thế tiến bộ của thời đại, đa dạng hóa các hình thức đào tạo, thực hiện công bằng xã hội trong GD [13] tiếp theo là Nghị quyết số 40/2000/QH được Quốc hội thông qua ngày 9/12/2000 về đổi mới chương trình giáo 23 dục phổ thông, NQ-TW II-Khóa VIII và các NQ-TW khóa IX của BCHTW Đảng Cộng Sản Việt Nam đã mở ra một thời kỳ mới cho sự phát triển GD nước nhà [13]. Như vậy, cuộc cải cách giáo dục lần ba đã chuyển sang điều chỉnh cải cách và đổi mới GD. Cuộc điều chỉnh đã chỉ rõ phải xây dựng nề nếp, kỉ cương, kỉ luật trong dạy và học, trong trường lớp, trong quản lý giáo dục, chú trọng chất lượng và hiệu quả trước mắt và lâu dài, kịp thời và đón đầu, thầy ra thầy trò ra trò, dạy ra dạy và học ra học, trường ra trường và lớp ra lớp…GD&ĐT đã xây dựng chương trình các bộ môn ở các cấp học nhằm phát triển toàn diện đức- trí -thể -mỹ - nghề để phục vụ phát triển nguồn nhân lực, cần tập chung vào mục tiêu chất lượng GD&ĐT. Đây là những tiền đề cho việc xây dựng các trường đạt chuẩn quốc gia. d) Phương hướng của giáo dục Việt Nam bước vào thế kỷ XXI NQ Đại hội lần thứ IX của Đảng nêu rõ : “Tiếp tục nâng cao chất lượng giáo dục toàn diện, đổi mới nội dung, phương pháp dạy và học…, thực hiện “chuẩn hóa, hiện đại hóa, xã hội hóa”. Phát huy tinh thần độc lập suy nghĩ và sáng tạo của học sinh, đề cao năng lực tự học, tự hoàn thiện học vấn và tay nghề. Thực hiện phương châm “học đi đôi với hành, giáo dục kết hợp với lao động sản xuất, nhà trường gắn liền với đời sống xã hội”. Coi trọng công tác hướng nghiệp và phân luồng học sinh trung học chuẩn bị đi vào lao động nghề nghiệp” [13] Chuẩn hóa Chúng ta đã có một hệ thống GD tương đối hoàn chỉnh, một nền quốc học nhân dân, đủ sức để chuẩn hóa tất cả các trường, hoạt động dạy và hoạt động học, các phương tiện GD đào tạo nhằm vào mục tiêu GD. Mọi thứ từng bước, từng phần, từ thầy cô giáo, nội dung chương trình, đến CSVC - trang thiết bị dạy học và nhất là trình độ phải đạt chuẩn, ban đầu đạt chuẩn quốc gia và dần đạt chuẩn quốc tế. Hiện đại hóa Phương pháp dạy học, nội dung chương trình, cơ sở vật chất trang thiết bị phải hiện đại hóa. Ngày nay, nhiều nước coi cá thể hóa phương pháp dạy - học và phương pháp “giải quyết vấn đề” là hướng chủ yếu hiện đại hóa giáo học pháp bộ môn, theo nguyên lý giáo dục nhằm thức tỉnh tối đa tiềm năng của người học và hình thành ở người học khả năng thích nghi tốt nhất, nhanh nhất, tinh thần phê phán khách quan, khoa học và đầu óc sáng tạo. 24 Dân chủ hóa Dân chủ hóa giáo dục trước hết là chống quan liêu, phiền hà, tham nhũng trong ngành giáo dục, là công minh, công khai, công bằng trong thực hiện chính sách, chế độ và mọi hoạt động trong nhà trường, trong ngành giáo dục, nhất là đối với các khoản thu - chi và thi cử. Dân chủ hóa quản lý giáo dục còn thể hiện ở ý thức tôn trọng các tổ chức chính trị của giáo giới, của người học và cơ chế phối hợp giữa chính quyền và các tổ chức. Xã hội hóa giáo dục Sự nghiệp giáo dục không phải chỉ là của Nhà nước mà là của toàn xã hội. Mọi người cùng làm giáo dục, nhà nước và xã hội, trung ương và địa phương cùng làm giáo dục, tạo nên một cao trào học tập trong toàn dân. XHH là một trong những con đường thực hiện dân chủ hóa giáo dục, trước hết là nâng cao trách nhiệm của mọi người đối với thế hệ trẻ, tạo nên một môi trường giáo dục thống nhất tốt đẹp của xã hội, gia đình, nhà trường. Động viên về tinh thần và vật chất, tạo thêm động lực cho người dạy, người học, nhất là những người dạy giỏi, học giỏi, chăm học. XHH giáo dục nhằm tăng thêm nhiều nguồn lực khác, nhất là nguồn lực tài chính - chính là gắn liền với đa dạng hóa các nguồn lực cho giáo dục. Tóm lại : Phương hướng tổng quát của Giáo dục & Đào tạo Việt Nam hiện nay là xây dựng nền giáo dục theo hướng chuẩn hóa, hiện đại hóa, xã hội hóa và phát triển giáo dục toàn diện gồm đức -trí -thể -mỹ - nghề nhằm giáo dục con em chúng ta thành người và làm người với những đức tính : Có tinh thần yêu nước, tự cường dân tộc, phấn đấu vì độc lập dân tộc và CNXH, có ý chí vươn lên đưa đất nước thoát khỏi nghèo nèn, lạc hậu, đoàn kết với nhân dân thế giới trong sự nghiệp đấu tranh vì hòa bình, độc lập dân tộc, dân chủ và tiến bộ xã hội. Có ý thức tập thể đoàn kết, phấn đấu vì lợi ích chung, có lối sống lành mạnh, nếp sống văn minh, cần kiệm, trung thực, nhân nghĩa, tôn trọng kỷ cương phép nước, quy ước của cộng đồng, có ý thức bảo vệ và cải thiện môi trường sinh thái. Lao động chăm chỉ với lương tâm nghề nghiệp, có kỹ thuật, sáng tạo, năng suất cao, vì lợi ích của bản thân, gia đình, tập thể và xã hội, thường xuyên học tập, nâng cao hiểu biết, nâng cao trình độ về chuyên môn, thẩm mỹ và thể lực. Đây là phương thức tất yếu phải thực hiện trên con đường công nghiệp hóa - hiện đại hóa và hội nhập Quốc tế. 25 e) Chủ trương của Đảng, Nhà Nước, Bộ Giáo dục & Đào tạo về việc xây dựng trường chuẩn quốc gia ở bậc THPT. 1. Hội nghị BCH TW lần thứ tư - khóa VII là một bước chuyển mới trong phát triển giáo dục nước nhà. Lần đầu tiên trong lịch sử, Đảng Cộng Sản Việt Nam đã ra một nghị quyết riêng về tiếp tục đổi mới sự nghiệp giáo dục & đào tạo [13]. Đường lối đổi mới đã đưa sự phát triển giáo dục đất nước đi vào một thời kỳ mới. Song vẫn còn bảy vấn đề gay cấn được nêu ra trong kết luận của “Đề án nghiên cứu tổng thể về giáo dục và nguồn nhân lực VIE - 9/022” do Chương trình phát triển Liên Hiệp Quốc tài trợ, UNESCO phối hợp với Bộ GD&ĐT thực hiện, đó là : Công tác GD&ĐT không phù hợp với xã hội trong giai đoạn chuyển tiếp, thiếu và kém hiệu quả trong việc sử dụng các nguồn lực kinh tế cho GD&ĐT, giảm sút giữa số lượng và chất lượng ở các cấp học, liên kết kém giữa giáo dục tay nghề với sản xuất và việc làm, sự cung ứng không đầy đủ giáo dục đại học, còn nhiều nhược điểm và khó khăn về đội ngũ giáo viên - nhân viên, hệ thống tổ chức, quản lý và pháp luật trong GD& ĐT không phù hợp [17]. 2. Hội nghị lần thứ hai BCH TW Đảng khóa VIII (12/1996) mở ra một thời kỳ mới, chấn hưng nền GD nước nhà, tập trung vào 10 chữ : “Chấn chỉnh”, “sắp xếp”, “củng cố”, “nâng cao”, và “phát triển” [13]. Tinh thần Nghị quyết TW II-Khóa VIII tiếp tục được khẳng định trong Đại hội Đảng IX và trong NQ TW IV-Khóa IX [13]. Với định hướng chiến lược phát triển GD&ĐT, phương hướng tổng quát của GD Việt Nam bước vào thế kỷ XXI là : Chuẩn hóa, hiện đại hóa, dân chủ hóa, xã hội hóa và đa dạng hóa công tác GD. Chuẩn hóa là tiêu chuẩn CNH, văn minh, hiện đại. 3. Bộ Giáo dục & Đào tạo đã có Quyết định số 27/2001 - QĐ – BGD & ĐT, ngày 5 tháng 7 năm 2001 về việc ban hành qui chế công nhận trường trung học đạt chuẩn quốc gia (giai đoạn từ năm 2001 đến năm 2010) và ban hành kèm theo Quyết định này bản. “Qui chế công nhận trường trung học đạt chuẩn quốc gia (giai đoạn từ năm 2001 đến năm 2010)”. [6] 1.3.2. Yêu cầu đối với trường THPT chuẩn quốc gia a) Yêu cầu về tổ chức nhà trường Trường có nhiều nhất là 45 lớp, mỗi lớp không quá 45 học sinh. Tổ chuyên môn thường xuyên có kế hoạch bồi dưỡng nâng cao trình độ chuyên môn nghiệp vụ 26 cho giáo viên và đạt các chỉ tiêu đề ra về bồi dưỡng trong năm học, hàng năm tập trung giải quyết được ít nhất một nội dung chuyên môn có tác dụng nâng cao chất lượng hiệu quả dạy - học. Tổ hành chính quản trị có đủ số người đảm nhận các công việc hành chính, có đủ các loại sổ, hồ sơ quản lý và sử dụng đúng theo các qui định của Điều lệ trường trung học. Hội đồng giáo dục và ban đại diện CMHS hoạt động có kế hoạch, nề nếp, đạt hiệu quả thiết thực góp phần nâng cao chất lượng giáo dục, xây dựng nề nếp, kỷ cương của nhà trường. Tổ chức Đảng và Đoàn thể đạt tiêu chuẩn trong sạch, vững mạnh, tiên tiến trong hoạt động ở địa phương được từ cấp huyện (thị) trở lên công nhận. b) Yêu cầu về chất lượng giáo dục Về học lực, xếp loại giỏi đạt từ 3% trở lên, loại khá đạt từ 30% trở lên, loại yếu và kém không quá 5%. Về hạnh kiểm, xếp loại khá, tốt đạt từ 80% trở lên, xếp loại yếu không quá 2%, hàng năm học sinh bỏ học không quá 1%, lưu ban không quá 5%. Các hoạt động giáo dục được thực hiện đúng qui định của Bộ Giáo dục và Đào tạo,về thời gian tổ chức và nội dung các hoạt động trong và ngoài giờ lên lớp, tổ chức được hoạt động tập thể theo qui mô toàn trường. c) Yêu cầu về cơ sở vật chất trang thiết bị Khuôn viên nhà trường là một khu riêng biệt, cơ cấu các khối công trình trong trường có đủ về phòng học, phòng thí nghiệm, phòng tin học, phòng tiếng, thư viện, phòng truyền thống, khu thể thao, phòng làm việc, khu vệ sinh, khu để xe…được bố trí hợp lý, luôn sạch đẹp, đảm bảo thoáng mát, đủ ánh sáng , đảm bảo vệ sinh với đầy đủ trang thiết bị theo qui định tại Qui chế thiết bị GD trong trường phổ thông do do Bộ Giáo dục & Đào tạo ban hành. d) Yêu cầu về đội ngũ cán bộ quản lý, giáo viên và nhân viên Hiệu trưởng và các phó hiệu trưởng đạt tiêu chuẩn qui định theo Điều lệ trường trung học, thực hiện tốt qui chế dân chủ trong hoạt động của nhà trường, được cấp QIGD trực tiếp xếp loại từ khá trở lên về năng lực và hiệu quả quản lý. Đặc biệt đối với hiệu trưởng trường chuẩn quốc gia phải đáp ứng những yêu cầu dưới đây ở mức độ cao : 27 * Về chính trị Phải đạt trình độ lý luận chính trị cao cấp, nắm chắc đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước về giáo dục. * Về pháp lý Phải hiểu và nắm vững luật pháp trong lao động của mình sao cho trong quá trình làm việc không vi phạm pháp luật. * Về chuyên môn Phải được đào tạo trên chuẩn, am hiểu chuyên môn của mình biết tổ chức các hoạt động đạt hiệu quả cao, nắm vững trình độ chuyên môn của cán bộ giáo viên để bố trí công tác cho phù hợp với khả năng , trình độ của họ. * Về tâm lý - Xã hội Nắm được tâm tư, tình cảm của cán bộ giáo viên trong trường để động viên, kích thích họ phấn khởi say mê công tác, phải vận dụng linh hoạt các đòn bẩy kích thích cả về vật chất và tinh thần, không chỉ chú ý đến bản thân họ mà còn phải chú ý đến gia đình đến điều kiện sống, tương lai của họ. * Về nghệ thuật lãnh đạo Phải biết vận dụng linh hoạt các phương pháp, ứng xử đúng mức độ, đúng liều lượng đối với từng người, biết vận động quần chúng tự giác, phát huy tinh thần dân chủ sáng tạo và đoàn kết để thực hiện nhiệm vụ, đưa nhà trường đạt đến mục tiêu dạy học và giáo dục. Phải nắm chắc tình hình nhà trường, đánh giá đúng thực trạng vấn đề, dự kiến các tình huống có thể xảy ra và đưa ra các quyết định kịp thời, đồng thời phải dám chịu trách nhiệm về các quyết định đó, “Ra quyết định là quá trình xác định vấn đề và lựa chọn một phương án hành động trong số những phương án khác nhau” [26]. Theo Chủ tịch Hồ Chí Minh, “Người cán bộ lãnh đạo quản lý phải có tính quyết đoán, tính sáng tạo cao và dám nghĩ, dám làm, chứ không phải là loại cán bộ tròn trĩnh, dễ bảo, dập đi, hò đứng” [29]. * Về đạo đức tác phong Phải là người có phẩm chất chính trị tốt tuân theo các chuẩn mực xã hội. Mọi biểu lộ ra qua ý thức đối với xã hội, thái độ công tác, hành vi đối với lợi ích cá nhân và lợi ích tập thể…phải được mọi người đồng tình ủng hộ. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã nhấn mạnh “Đức là gốc, tài là cần thiết”. Tác phong thể hiện thông qua các phương 28 pháp và thủ thuật được vận dụng để thực hiện nhiệm vụ. Mỗi người có thể có tác phong riêng tùy thuộc vào phẩm chất đạo đức, tài năng cá nhân và môi trường cụ thể. Tác phong thích hợp nhất là tác phong quần chúng. Muốn vậy, phải vì quyền lợi của quần chúng, tranh thủ được sự ủng hộ của quần chúng, phải biết lắng nghe, tin yêu và thuyết phục được quần chúng. Có đủ giáo viên các bộ môn đạt trình độ chuẩn được đào tạo theo qui định hiện hành có ý thức tự học, tự bồi dưỡng thường xuyên để nâng cao năng lực chuyên môn và năng lực sư phạm, có phẩm chất đạo đức tốt (trong đó ít nhất có 20% giáo viên đạt tiêu chuẩn dạy giỏi từ cấp cơ sở ở trở lên, không có giáo viên xếp loại yếu về chuyên môn, đạo đức), có đủ giáo viên hoặc nhân viên phụ trách thư viện, phòng thí nghiệm, phòng thực hành bộ môn, được đào tạo hoặc bồi dưỡng về nghiệp vụ và luôn hoàn thành tốt nhiệm vụ. 1.4. Quản lý đội ngũ giáo viên trường THPT chuẩn quốc gia 1.4.1. Công tác tuyển dụng giáo viên Việc tuyển chọn GV có trình độ đào tạo chuẩn để bổ sung vào ĐNGV các trường THPT là một công tác quan trọng nhằm thúc đẩy quá trình phát triển ĐNGV theo hướng đảm bảo cho việc tăng nhanh về số lượng với cơ cấu hợp lý và chất lượng cao. Với vị trí và tầm quan trọng của công tác tuyển dụng GV như vậy thì công tác này cần phải thực hiện tốt những yêu cầu sau : - Việc tuyển dụng phải tuân thủ một cách chặt chẽ nghiêm túc quá trình qua công tác quản lý nhân sự tức là từ khâu lập kế hoạch, tổ chức thực hiện, chỉ đạo, kiểm tra, đánh giá… - Phối hợp với Sở GD-ĐT xây dựng kế hoạch tuyển chọn mang tính chiến lược nhằm tuyển chọn được một đội ngũ giáo viên vừa đáp ứng yêu cầu trước mắt vừa đảm bảo định hướng phát triển lâu dài của GD - ĐT. - Đối với giáo viên được tuyển chọn phải nằm trong kế hoạch, chỉ tiêu biên chế tuyển dụng hàng năm. - Chỉ tuyển chọn những giáo viên thực sự có nhu cầu, có tâm huyết với công việc và gắn bó với nghề nghiệp (hạn chế tình trạng khi đã nằm trong biên chế nhà nước lại tìm cách chuyển ngành làm ở những cơ quan có thu nhập cao hơn, gây tình trạng bất ổn cho đội ngũ) 29 - Cần có cơ chế chính sách đãi ngộ để thu hút giáo viên giỏi, sinh viên tốt nghiệp Đại học Sư phạm có kết quả cao. 1.4.2. Công tác bồi dưỡng giáo viên Bồi dưỡng nâng cao trình độ cho cán bộ, giáo viên là một trong những yêu cầu cơ bản thường xuyên trong công tác quản lý nhà trường. Sự cần thiết của nội dung này đã được các chuyên viên, cán bộ quản lý và giáo viên đều đánh giá cao. Các nội dung bồi dưỡng thường xuyên là : * Bồi dưỡng thường xuyên về mọi mặt cho đội ngũ giáo viên - Bồi dưỡng thường xuyên về chính trị tư tưởng, giúp cho ĐNGV nắm vững đường lối, chủ trương và chính sách về GD&ĐT, về tình hình kinh tế - xã hội trong nước và quốc tế, về xu thế phát triển của xã hội và giáo dục là công việc cần thiết, có tác động lớn đến nhận thức của ĐNGV về tư tưởng đổi mới trong giai đoạn mới. - Bồi dưỡng thường xuyên về trình độ chuyên môn Đội ngũ giáo viên phải luôn có ý thức tự học, tự bồi dưỡng thông qua tài liệu tham khảo, dự giờ, thao giảng, dự các lớp bồi dưỡng theo chu kỳ thường xuyên của Bộ, của ngành tổ chức để nâng cao về trình độ chuyên môn, nghiệp vụ của mình. * Tổ chức các hội thảo chuyên đề - Giới thiệu chuyên đề mới và khó nhầm bổ sung cập nhật kiến thức cho GV - Bồi dưỡng về đổi mới phương pháp giảng dạy Việc đổi mới phương pháp giảng dạy là một trong những tiêu chí đánh giá tay nghề của giáo viên hàng năm. Nó có tác dụng thúc đẩy sự vươn lên tìm tòi sáng tạo trong chuyên môn (cách trình bày, cách khai thác nội dung, cách kiểm tra đánh giá…), để nâng cao chất lượng giờ giảng trên lớp. Nhiều trường đã tổ chức tốt các Hội nghị đổi mới phương pháp giảng dạy, tổ chức soạn giáo án mẫu và dạy thử nghiệm để cùng trao đổi rút kinh nghiệm. - Dạy bồi dưỡng học sinh giỏi Đây là biện pháp góp phần tích cực trong việc nâng cao trình độ cho đội ngũ giáo viên và cũng là để thực hiện đúng với yêu cầu của chiến lược phát hiện và bồi dưỡng nhân tài của Đảng để có thể thực hiện việc đi trước, đón đầu về khoa học kỹ thuật, nhanh chóng tiến kịp với các nước phát triển. 30 1.4.3. Công tác đào tạo trên chuẩn đội ngũ giáo viên Có kế hoạch cử giáo viên đi học sau đại học (đào tạo thạc sĩ , tiến sĩ) để nâng dần chuẩn đào tạo, có đội ngũ cốt cán vẫn vàng, đầu tư cho mũi nhọn và làm nòng cốt trong chuyên môn. Để thực hiện các điều này phải thực hiện việc giao chỉ tiêu cho từng tổ chuyên môn, chỉ đạo các tổ chuyên môn trong việc động viên và giao trách nhiệm cho giáo viên đi học trên chuẩn, đồng thời tạo ra những cơ chế chính sách thích hợp không chỉ về vật chất mà cả về quy chế sắp xếp, bố trí, đãi ngộ sau khi học xong để giáo viên an tâm và hăng hái đi học trên chuẩn. 1.4.4. Quản lý hoạt động dạy học ở trường THPT đạt chuẩn quốc gia a) Hướng dẫn giáo viên xây dựng kế hoạch giảng dạy Phải hướng dẫn qui trình xây dựng kế hoạch, xác định mục tiêu, hướng dẫn cách tìm ra các biện pháp để đạt được các mục tiêu đã đề ra theo đúng các yêu cầu về chuẩn kiến thức, coi việc giáo viên thực hiện tốt kế hoạch giảng dạy là yêu cầu quan trọng nhất để đảm bảo chất lượng giảng dạy trường chuẩn. Vì vậy, phải sử dụng nhiều biện pháp quản lý phù hợp với tình hình đội ngũ giáo viên để giúp họ hoàn thành kế hoạch. b) Quản lý giáo viên thực hiện đúng và đủ chương trình dạy học Chỉ có thực hiện đúng và đủ chương trình dạy học thì những cơ sở khoa học, tính chất GD toàn diện, mục đích đào tạo của chương trình dạy học mới trở thành hiện thực. Nếu chương trình dạy học là “bản thiết kế” của một công trình, thì hoạt động dạy của thầy là sự “thi công” và hiệu trưởng là “tổng công trình sư”, phải điều khiển “thi công” đúng “thiết kế”. Do đó, phải quản lý chặt chẽ để GV thực hiện nghiêm chỉnh, không được tùy tiện thay đổi, thêm bớt làm sai lệch chương trình. c) Quản lý giáo viên soạn bài và chuẩn bị giờ lên lớp theo đúng yêu cầu qui chuẩn, thực hiện theo một kế hoạch đồng bộ và có hiệu quả Cần phải tạo mọi điều kiện thuận lợi để giáo viên thực hiện tốt hai công việc nêu trên, đồng thời thường xuyên kiểm tra, giám sát để phát huy những ưu điểm, điều chỉnh uốn nắn kịp thời những sai sót nếu có và đảm bảo thực hiện đúng những qui định đã đề ra. 31 d) Quản lý giờ lên lớp của giáo viên chặt chẽ, đảm bảo chất lượng giờ dạy Cần xây dựng tiêu chuẩn và biểu điểm cụ thể đánh giá giờ lên lớp của giáo viên theo đúng chuẩn đề ra một cách phù hợp để quản lý, kiểm tra và hướng đích đối với các loại giờ lên lớp, từng bước nâng cao dần chất lượng toàn diện giờ lên lớp. Do hình thức tổ chức lên lớp khác nhau tùy thuộc vào từng bài học, môn học, đối tượng…nên đòi hỏi hệ thống tiêu chuẩn giờ lên lớp phải linh động và phù hợp với tình hình cụ thể của mỗi giờ lên lớp. Biểu điểm được xây dựng phải đồng thời đánh giá được nội dung, kiến thức của giờ dạy, đánh giá được khả năng vận dụng các phương pháp giảng dạy của giáo viên, có tác động đến nhận thức của học sinh nhằm đạt hiệu quả giờ dạy cao nhất. Phải thường xuyên đánh giá hiệu quả của những biện pháp quản lý giờ lên lớp đã đề ra thông qua việc xây dựng thời khóa biểu một cách khoa học hợp lý và hệ thống các sổ sách như : Phiếu báo giảng, sổ đầu bài, kế hoạch giảng dạy của giáo viên. Từng tháng, từng học kỳ, cần tổng kết phân tích tình hình giờ lên lớp của giáo viên về các mặt : Trình độ giảng dạy của giáo viên, trình độ học tập của học sinh, chất lượng toàn diện của giờ lên lớp, nguyên nhân của tình hình, những vấn đề mới cần đặt ra để có những biện pháp thích hợp tác động trực tiếp đến giờ lên lớp của giáo viên nhằm tạo khả năng, điều kiện thuận lợi cho giáo viên lên lớp có hiệu quả. e) Quản lý việc giáo viên kiểm tra, đánh giá kết quả học tập của học sinh theo yêu cầu trường chuẩn Cần lập ra những mẫu báo cáo thống kê để thu thập chính xác số liệu về tình hình thực hiện việc kiểm tra, đánh giá kết quả học tập của học sinh của giáo viên. Cần phân công cho hiệu phó, thư ký, hội đồng Nhà trường, tổ trưởng chuyên môn theo dõi và tổng hợp tình hình trên hàng tuần, hàng tháng, đồng thời tự mình xem các sổ sách (sổ ghi điểm, sổ đầu bài) và một số bài kiểm tra của học sinh để nắm tình hình cụ thể mà có sự điều chỉnh, uốn nắn kịp thời. g) Quản lý việc dự giờ và rút kinh nghiệm sư phạm Để nâng cao chất lượng của việc dự giờ, phân tích sư phạm bài học, cần phải tổ chức các chuyên đề về giờ lên lớp như : Thảo luận về nội dung, phương pháp giảng dạy các giờ dạy mẫu, giờ thao giảng…Qua đó giúp giáo viên nắm vững lý thuyết, rút kinh nghiệm về phương pháp giảng dạy, khuyến khích lao động sáng tạo 32 của giáo viên, góp phần tích cực vào việc đổi mới phương pháp giảng dạy và nâng cao chất lượng đào tạo. h) Quản lý hồ sơ chuyên môn giáo viên Cần qui định nội dung và hướng dẫn cụ thể yêu cầu của từng loại hồ sơ, đảm bảo có đầy đủ các loại hồ sơ cần thiết. Thường xuyên kiểm tra bằng nhiều hình thức để kịp thời điều chỉnh những sai lệch trong việc thực hiện nhiệm vụ chuyên môn. l) Quản lý việc bồi dưỡng đội ngũ giáo viên Phải chủ động xây dựng chương trình, kế hoạch bồi dưỡng thường xuyên nhằm từng bước nâng cao trình độ và năng lực sư phạm cho giáo viên đạt tiêu chuẩn trường chuẩn quốc gia. 33 Chương 2 THỰC TRẠNG ĐỘI NGŨ GIÁO VIÊN VÀ VIỆC QUẢN LÝ ĐỘI NGŨ GIÁO VIÊN CỦA HIỆU TRƯỞNG TRƯỜNG TRUNG HỌC PHỔ THÔNG ĐẠT CHUẨN QUỐC GIA Ở TỈNH BÀ RỊA - VŨNG TÀU 2.1. Khái quát tình hình phát triển kinh tế - xã hội và giáo dục tỉnh BR-VT 2.1.1. Kinh tế - xã hội Tỉnh Bà Rịa -Vũng Tàu nằm ở phía Đông khu vực Đông Nam bộ được thành lập vào ngày 12/8/1991 bao gồm đặc khu Vũng tàu - Côn Đảo và ba huyện Long Đất, Châu Thành và Xuyên Mộc tách ra từ tỉnh Đồng Nai theo Nghị định của Quốc Hội nước Cộng Hòa Xã Hội Chủ Nghĩa Việt Nam, khóa VIII, kỳ họp thứ 9. Lãnh thổ bao gồm hai phần : Phần đất liền có Bắc giáp Đồng Nai, Đông giáp Bình Thuận, Tây giáp huyện Cần Giờ (Thành phố Hồ Chí Minh), phía Nam và Đông Nam giáp biển. Phần Hải đảo có huyện Côn Đảo cách thành phố Vũng Tàu 200km về phía Tây Nam và cách mũi Cà Mau 200km. Diện tích tự nhiên toàn tỉnh là 1.975,14km2. Theo số liệu thống kê năm 2004 thì dân số của tỉnh là 908.233 người. Dân cư phân bố ở các địa bàn không đều. Thành phố và các thị xã có lượng dân cư tương đối đông đúc trong khi đó ở các vùng nông thôn và Hải đảo thì dân cư thưa thớt. Mật độ dân cư ở thành phố Vũng Tàu là 1.793 người/km2 trong khi đó ở Côn Đảo lại là 36 người/km2. Bà Rịa -Vũng Tàu có bốn dân tộc chung sống trong đó : Dân tộc Kinh chiếm khoảng 97,66%, dân tộc Hoa chiếm khoảng 1,36%, dân tộc Khơme khoảng 0,18%, dân tộc Châu Ro chiếm khoảng 0,8% dân số. Tỉnh Bà Rịa -Vũng Tàu có 08 đơn vị hành chính trực thuộc tỉnh, trong đó có : 01 Thành Phố (Vũng Tàu), 01 thị xã (Bà Rịa) và 06 huyện (huyện Long Điền, Đất Đỏ, Tân Thành, Xuyên Mộc, Châu Đức và Côn Đảo) bao gồm 52 xã, 24 phường, 06 thị trấn (Địa chí Bà Rịa - Vũng Tàu, 32,33 ,34 105, 188). Thế mạnh của Bà Rịa -Vũng Tàu là nông - ngư nghiệp kết hợp dịch vụ du lịch và dầu khí và hiện nay đang có sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng phát triển công nghiệp và dịch vụ một cách tích cực. Năm 2007, tỷ trọng công nghiệp, xây dựng : 82,57% - Dịch vụ : 13,64% - nông nghiệp : 3,8%. 34 Công nghiệp tiếp tục phát huy được lợi thế, giá trị sản xuất công nghiệp từ năm 2001 đến 2007 tăng 1,7 lần, tốc độ tăng 11,52% / năm. Các ngành dịch vụ phát triển đa dạng, doanh thu tăng bình quân 17,1%/năm trong đó : Dịch vụ du lịch phát triển trên diện rộng, doanh thu tăng 13,29% /năm, xuất khẩu có nhiều tiến bộ mở rộng thị trường, kim ngạch xuất khẩu tăng 16,46% /năm, riêng xuất khẩu hải sản tăng 5 lần sau 5 năm. Các ngành nông nghiệp, ngư nghiệp đều có bước tăng trưởng khá, trong nông nghiệp cơ bản đã cơ giới hóa các khâu sản xuất, giá trị sản xuất nông nghiệp tăng 8% /năm trong đó trồng trọt tăng 7,92%, chăn nuôi tăng 7,92% sau 5 năm, thủy sản tăng 10,8% / năm, sản lượng hải sản nuôi tăng 3 lần so với năm 2000. Trình độ dân trí được nâng lên, chất lượng nguồn nhân lực được cải thiện, khoa học công nghệ được quan tâm ứng dụng. Các lĩnh vực văn hóa, xã hội có nhiều tiến bộ, hoàn thành chi tiêu xóa đói, giảm tỷ lệ hộ nghèo, quan tâm thực hiện các chính sách và phúc lợi xã hội. (văn kiện Tỉnh, tra 12,14) Báo cáo Chính trị của BCH Đảng bộ tỉnh tại Đại hội đại biểu Đảng bộ tỉnh lần thứ IV nhiệm kỳ 2005 - 2010. Tình hình kinh tế, xã hội phát triển trên đã tạo nhiều điều kiện thuận lợi để thúc đẩy sự phát triển vững bền của giáo dục và đào tạo tỉnh nhà. 2.1.2. Giáo dục Trong những năm qua, tình hình GD&ĐT tỉnh BR-VT đã có nhiều chuyển biến tích cực, mang lại diện mạo mới cho GD-ĐT của tỉnh và đặc biệt là đã đạt được nhiều thành tựu đáng kể. Tuy nhiên, bên cạnh đó vẫn còn tồn tại một số vấn đề cần phải giải quyết trong thời gian tới. a) Về thành tựu - Chất lượng giáo dục và đào tạo các bậc học được nâng lên đáng kể. Đến cuối năm 2004, tỉnh hoàn thành chỉ tiêu phổ cập giáo dục trung học cơ sở (THCS). Đầu tư cho giáo dục tăng nhanh, chiếm tỷ lệ 14,8% tổng chi ngân sách địa phương, phát triển thêm nhiều trường học phổ thông và mầm non đạt chuẩn quốc gia. Tính đến năm học 2006 – 2007, đã có 62 trường đạt chuẩn quốc gia, trong đó : 13 trường mầm non, 24 trường tiểu học, 15 trường THCS, 10 trường THPT. 35 - Về quy mô : Hệ thống mạng lưới trường học phát triển tương đối nhanh. Năm học 2006 - 2007 toàn tỉnh có tổng cộng 108 trường mầm non, mẫu giáo và nhà trẻ với 170 cơ sở , 141 trường tiểu học, 70 trường THCS và 27 trường THPT. Bình quân mỗi phường, xã có 1,5 trường mẫu giáo, mầm non, 02 trường tiểu học, ít nhất 01 trường THCS. Mỗi huyện, thị xã, Thành Phố có bình quân 03 trường THPT. Tổng số người đi học trong độ tuổi của của toàn tỉnh là 241.281, bình quân cứ 04 người dân có 01 người đi học. - Về đội ngũ CBQL và GV: Thực hiện chỉ thị 40 - CT/TW của Ban Bí thư TW Đảng và quyết định 09/2005/QĐTTg của Thủ tướng Chính phủ về việc xây dựng, nâng cao chất lượng đội ngũ nhà giáo và cán bộ QLGD, ngành đã xây dựng đề án triển khai kế hoạch đào tạo, bồi dưỡng GV, cán bộ quản lý Giáo dục, trong đó có việc đào tạo, bồi dưỡng GV chưa đạt chuẩn và nâng chuẩn. Cho đến nay, đội ngũ giáo viên của ngành nhìn chung đã đạt chuẩn trình độ chuyên môn nghiệp vụ so với qui định : Giáo dục mầm non đạt 95,56% chuẩn và 9,8% trên chuẩn, giáo dục tiểu học đạt 85,58% chuẩn và 14,7% trên chuẩn, giáo dục THCS đạt 95,67% chuẩn và 30,15% trên chuẩn, Giáo dục THPT đạt 92,53% chuẩn và 2,7% trên chuẩn. - Chất lượng GD&ĐT ngày càng được nâng cao, đặc biệt là ở các trường thuộc vùng sâu đã có nhiều chuyển biến tích cực trong việc đổi mới phương pháp dạy học. - Về đầu tư cho giáo dục và đào tạo trong năm 2007, bằng nguồn vốn địa phương toàn tỉnh đã xây dựng mới 564 phòng học với tổng số kinh phí trên 200 tỷ đồng. Hiện nay, hầu hết là lớp học kiên cố, không có lớp học ca ba. Ngành đã được đầu tư 9,87 tỷ đồng để trang bị máy vi tính cho 52 trường THCS, trang bị phòng nghe nhìn cho các trường THPT với số tiền 1,29 tỷ đồng. b) Về tồn tại Mặc dầu đã đạt được những thành tựu đáng kể, ngành giáo dục và đào tạo của tỉnh còn có những tồn tại, hạn chế lớn sau. - Chất lượng giáo dục toàn diện ở các vùng sâu, vùng xa chưa cao. Ở một số đơn vị trường học, việc giảng dạy một số bộ môn như : Thể dục, kỹ thuật, nhạc họa còn chưa đảm bảo vì thiếu giáo viên. - Việc xây dựng trường chuẩn quốc gia đã có nhiều cố gắng xong còn chưa đạt kế hoạch, việc triển khai vận dụng các điều kiện, phương tiện hỗ trợ vào giảng dạy 36 vẫn còn khó khăn vì thiếu cơ sở, thiếu phòng thiết bị, phòng thực hành bộ môn và đặc biệt là thiếu các nhân viên chuyên trách được đào tạo chuẩn. - Đội ngũ giáo viên còn thiếu, chưa đồng bộ là một khó khăn lớn cho việc triển khai việc đổi mới phương pháp dạy học. - Công tác quản lý giáo dục đã có nhiều cố gắng song chưa kịp so với yêu cầu đổi mới của sự nghiệp giáo dục và đào tạo. Một số cán bộ quản lý ở cấp cơ sở chưa được đào tạo trên chuẩn, chưa phát huy hết vai trò trách nhiệm của mình, có lúc, có chỗ còn buông lỏng trong công tác quản lý nhà trường, quản lý chuyên môn, quản lý cơ sở vật chất và quản lý tài chính . c) Thực trạng giáo dục trung học phổ thông tỉnh Bà Rịa-Vũng Tàu * Về quy mô phát triển Năm học 2006-2007, toàn tỉnh có 36.337 học sinh, 27 trường THPT trong đó có 02 trường chuyên biệt (trường THPT chuyên và trường THPT dân tộc nội trú), 18 trường công lập, 04 trường bán công và 01 trường dân lập (Nguồn : Sở Giáo dục & Đào tạo tỉnh Bà Rịa -Vũng Tàu) * Thực trạng về đội ngũ giáo viên và cán bộ quản lý - Về đội ngũ giáo viên : Năm học 2006 - 2007 có 1684 giáo viên, tỷ lệ giáo viên / lớp hiện nay là 2,0 so với chuẩn 2,25 còn thiếu 0,25 giáo viên/ lớp. Hầu hết các bộ môn đều thiếu (giáo viên đạt chuẩn là 97,3% , trên chuẩn là 2,7% ). - Về đội ngũ cán bộ quản lý các trường THPT : Có 82 người, đều đã tốt nghiệp ĐHSP. Đa số chưa qua các lớp bồi dưỡng QLGD và có thâm niên quản lý còn ít (do tốc độ phát triển trường học quá nhanh nên Sở GD&ĐT chưa có kế hoạch đào tạo kịp thời). Nhìn chung, đội ngũ CBQL có tuổi đời tương đối trẻ, nhiệt tình, yêu công việc nhưng năng lực quản lý trường học, đặc biệt là quản lý hoạt động giảng dạy vẫn còn nhiều hạn chế do còn số đông chưa được đào tạo qua các lớp bồi dưỡng về QLGD. (Nguồn : Sở Giáo dục & Đào tạo tỉnh Bà Rịa -Vũng Tàu) * Về kết quả học tập - Kết quả thi tốt nghiệp: Năm học 2006-2007 có 9.917/10.625 thí sinh đậu tốt nghiệp THPT, chiếm tỷ lệ 73%, trong đó giỏi: 4,24%, khá 15,31%. Đối chiếu với bảng xếp loại trên với tỷ lệ học lực loại yếu và kém chiếm tương đối nhiều (gần 20%) có thể thấy kết quả dạy học tuy có nhiều cố gắng nhưng vẫn còn thấp. 37 * Về cơ sở vật chất, phương tiện dạy học Tất cả các trường THPT trong tỉnh đều có CSVC đầy đủ với phòng học cấp 3, trường lớp khang trang, tường bao xung quanh, khuôn viên rộng rãi, thoáng mát, sạch đẹp. Trừ một số trường ở TPVũng Tàu do điều kiện đất đai chật hẹp, còn hầu hết tất cả các trường đều có sân tập thể dục cho HS, một số trường đã có nhà thi đấu đa năng rộng lớn. Hầu hết các trường đều được trang bị đầy đủ thiết bị, phương tiện dạy học hiện đại. Mỗi trường đều có 01 phòng nghe nhìn, 02 phòng vi tính với 50 máy, 03 phòng học bộ môn Vật lý, Hóa học và Sinh vật, 01 phòng thư viện. Tuy nhiên thiết bị dạy học trang bị cho các trường vẫn còn lạc hậu, còn thiếu, chưa đồng bộ và mau hỏng. Đặc biệt chưa có nhân viên chuyên trách có chuyên môn phụ trách phòng thiết bị. Nhìn chung, giáo dục THPT tỉnh BR-VT trong những năm gần đây đã có rất nhiều chuyển biến tích cực, khoảng cách giữa thành thị và nông thôn, đặc biệt là các vùng sâu, vùng xa đã được rút ngắn dần, đáp ứng được nhu cầu học tập của nhân dân, tạo nền tảng vững chắc trong việc đào tạo nguồn nhân lực cho tỉnh nhà. Tuy nhiên, bên cạnh đó vẫn còn nhiều yếu kém, bất cập về ĐNGV, CBQL về cách thức quản lý cũng như tầm nhìn chiến lược…và đây là mấu chốt cần cải tiến để nâng cao chất lượng GD nói chung và chất lượng dạy học nói riêng. 2.2. Các trường THPT chuẩn quốc gia ở tỉnh Bà Rịa -Vũng Tàu * Tổng số trường THPT toàn tỉnh : 27 trường * Tổng số trường THPT đã đạt chuẩn : 10 trường Bảng 2.1 : Thống kê các trường THPT đạt chuẩn quốc gia giai đoạn 2004 -2006 của tỉnh Bà Rịa-Vũng Tàu Đơn vị Số lượng Tên trường Năm đạt chuẩn THPT Vũng Tàu 2004 THPT Chuyên Lê Qúy Đôn 2005 TP.Vũng Tàu 03 THPT Nguyễn Huệ 2006 Thị xã Bà Rịa 01 THPT Châu Thành 2005 Huyện Long Điền 01 THPT Trần Văn Quan 2005 Huyện Đất Đỏ 01 THPT Võ Thị Sáu 2005 Huyện Xuyên Mộc 01 THPT Xuyên Mộc 2005 Huyện Tân Thành 01 THPT Phú Mỹ 2005 THPT Nguyễn Du 2006 Huyện Châu Đức 02 THPT Ngô Quyền 2006 (Nguồn : Phòng tổ chức cán bộ Sở Giáo dục – Đào tạo tỉnh BR-VT) 38 2.3. Thực trạng đội ngũ giáo viên của các trường THPT chuẩn quốc gia ở tỉnh Bà Rịa -Vũng Tàu 2.3.1. Thực trạng về số lượng Theo thống kê thì số lượng giáo viên các trường THPT chuẩn quốc gia biến đổi qua các năm được thể hiện như sau : Bảng 2.2 : Thống kê số lượng giáo viên các trường THPT chuẩn quốc gia .Năm học 2004 – 2005 (tỷ lệ GV/ lớp chuẩn là : 2,1) STT Tên trường Tổng số GV Tổng Số lớp Tỷ lệ GV/lớp Thừa Thiếu 1. THPT Vũng Tàu 100 48 2,08 0 01 2. Chuyên Lê Qúy Đôn 50 24 2,1 0 0 3. Nguyễn Huệ 80 39 2,1 0 0 4. Châu Thành 102 53 1,92 0 9 5. Phú Mỹ 89 52 1,71 0 20 6. Trần Văn Quan 67 39 1,72 0 14 7. Võ Thị Sáu 73 44 1,66 0 19 8. Xuyên Mộc 76 45 1,69 0 18 9. Nguyễn Du 72 42 1,71 0 16 10. Ngô Quyền 76 39 1,92 0 05 102 Năm học 2005 – 2006 (tỷ lệ GV/ lớp chuẩn là : 2,1) STT Tên trường Tổng số GV Tổng Số lớp Tỷ lệ GV/lớp Thừa Thiếu 1. THPT Vũng Tàu 100 48 2,08 0 1 2. Chuyên Lê Qúy Đôn 50 24 2,1 0 0 3. Nguyễn Huệ 80 40 2,0 0 4 4. Châu Thành 102 55 1,85 0 13 5. Phú Mỹ 91 44 2,068 0 01 6. Trần Văn Quan 67 33 2,0 0 02 7. Võ Thị Sáu 74 36 2,05 0 02 8. Xuyên Mộc 78 46 1,7 0 18 9. Nguyễn Du 72 40 1,8 0 12 10. Ngô Quyền 76 39 1,92 0 05 58 Năm học 2006 – 2007 (tỷ lệ GV/ lớp chuẩn là : 2,25) STT Tên trường Tổng số GV Tổng Số lớp Tỷ lệ GV/lớp Thừa Thiếu 1. THPT Vũng Tàu 108 48 2,25 0 0 2. Chuyên Lê Qúy Đôn 50 24 2,1 0 4 39 3. Nguyễn Huệ 80 40 2,0 0 10 4. Châu Thành 120 55 2,18 0 3 5. Phú Mỹ 101 44 2,3 02 0 6. Trần Văn Quan 55 29 1,9 0 10 7. Võ Thị Sáu 68 34 2,0 0 9 8. Xuyên Mộc 80 46 1,74 0 19 9. Nguyễn Du 77 40 1,93 0 13 10. Ngô Quyền 76 39 1,92 0 12 80 (Nguồn : Phòng tổ chức cán bộ Sở Giáo dục – Đào tạo tỉnh BR-VT) Qua số liệu cho thấy rằng số lượng giáo viên trong vài năm qua tăng lên đáng kể song vẫn chưa đáp ứng được nhu cầu của trường THPT chuẩn quốc gia. Hàng năm đã có một số lượng lớn giáo viên được bổ sung nhưng tình trạng thiếu GV cũng chỉ cải thiện được chút ít. Ngoài việc thiếu về số lượng thì đội ngũ giáo viên THPT tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu còn chưa đồng bộ về cơ cấu đội ngũ. Tính riêng năm 2006 – 2007 số lượng còn thiếu 80 giáo viên cụ thể ở các bộ môn là: - Môn Toán : 5 giáo viên - Môn Văn : 5 giáo viên - Môn Anh : 5 giáo viên - Môn Vật Lý : 7 giáo viên - Môn Hóa Học : 7 giáo viên - Môn Sinh Vật : 6 giáo viên - Môn Lịch Sử : 7 giáo viên - Môn Địa Lý : 7 giáo viên - Môn GDCD : 8 giáo viên - Môn Kỹ Thuật : 11 giáo viên - Môn Tin học : 12 giáo viên Dự báo kế hoạch phát triển bậc THPT : Trong 3 năm tới từ năm 2007 – 2010 ngành GD&ĐT tỉnh BR-VT cần 358 giáo viên THPT với các môn cụ thể như sau : - Môn Toán : 27 giáo viên - Môn Văn : 27 giáo viên - Môn Anh : 30 giáo viên 40 - Môn Vật Lý : 35 giáo viên - Môn Hóa Học : 35 giáo viên - Môn Sinh Vật : 30 giáo viên - Môn Lịch Sử : 30 giáo viên - Môn Địa Lý : 30 giáo viên - Môn GDCD : 30 giáo viên - Môn Kỹ Thuật : 27 giáo viên - Môn Thể Dục : 27 giáo viên - Môn Tin học : 30 giáo viên Tổng số sinh viên của tỉnh đang học ở các trường Đại học Sư phạm khoảng 400 người nhưng chủ yếu lại tập trung ở các môn : Toán, Văn, Tiếng Anh, nên các môn khác hiện nay nguồn tuyển thiếu. - Một thực trạng nữa là việc phân bổ số lượng giáo viên giữa các vùng miền còn nhiều bất cập. + Ở khu vực thành phố và thị xã : Nói chung là đủ, số lượng giáo viên được phân bổ đồng đều tương ứng với tỷ lệ phát triển và tình trạng thiếu giáo viên là không đáng kể. + Ở khu vực nông thôn và các huyện : Số lượng giáo viên phát triển chậm, tình trạng thiếu giáo viên phổ biến ở hầu hết các trường THPT nên ảnh hưởng rất lớn đến hiệu quả hoạt động giảng dạy và học tập ở các nhà trường. Bảng 2.3 : Năm học 2006 – 2007 (tỷ lệ GV/ lớp chuẩn là : 2,25) STT Tên trường Số HS Số lớp Số GV Tỷ lệ GV/lớp Ghi chú 1. THPT Vũng Tàu 2105 48 108 2,25 2. Chuyên Lê Qúy Đôn 765 24 50 2,1 3. Nguyễn Huệ 1800 40 80 2,0 4. Châu Thành 2351 55 120 2,18 5. Phú Mỹ 1936 44 101 2,3 6. Trần Văn Quan 1305 29 55 1,9 7. Võ Thị Sáu 1530 34 68 2,0 8. Xuyên Mộc 2010 46 84 1,8 9. Nguyễn Du 1741 40 77 1,9 10. Ngô Quyền 1716 39 76 1,95 Nguồn : Phòng tổ chức cán bộ Sở Giáo dục – Đào tạo tỉnh BR-VT 41 Qua các bảng số liệu thống kê về số liệu giáo viên THPT trường chuẩn quốc gia. Đối chiếu về quy định của Bộ Giáo dục & Đào tạo tại thông tư : 35/2006/TTLT- BGDĐT-BNV, ngày 23 tháng 8 năm 2006 về việc hướng dẫn định mức biên chế viên chức ở các cơ sở giáo dục phổ thông công lập : “Mỗi lớp được bố trí biên chế không quá 2,25 giáo viên”. Vậy theo thông tư này thì tỷ lệ GV/ lớp ở các trường THPT của tỉnh BR-VT hiện nay chưa đủ đáp ứng yêu cầu dạy học và tổ chức các hoạt động GD trong nhà trường. Theo nhu cầu của trường THPT chuẩn quốc gia và xu hướng phát triển giáo dục và đào tạo cấp THPT thì trong thời gian tới nhu cầu về đội ngũ giáo viên THPT là rất lớn để có thể đảm bảo được tỷ lệ 2,25 GV/ lớp. 2.3.2. Thực trạng về chất lượng giáo viên Chất lượng giáo viên THPT được đánh giá theo các mặt : Phẩm chất, trình độ đào tạo, năng lực chuyên môn nghiệp vụ và sức khỏe. a) Phẩm chất chính trị, đạo đức của đội ngũ giáo viên Phẩm chất là một mặt quan trọng của chất lượng ĐNGV có tác động trực tiếp đến việc thực hiện mục tiêu, chiến lược phát triển GD&ĐT, trong những năm qua mặc dù kinh tế - xã hội của cả nước và của tỉnh có nhiều biến động nhưng ĐNGV THPT trường chuẩn quốc gia vẫn giữ được phẩm chất trong sáng của người GV. Vị trí, vai trò, uy tín của các thầy cô giáo được xã hội tin cậy. Nhiều thầy cô giáo thực sự có tâm huyết với nghề, bám trường, bám lớp là tấm gương sáng cho học sinh noi theo. Công tác giáo dục tư tưởng - đạo đức cho ĐNGV được cấp ủy Đảng, chính quyền và các cơ quan quản lý giáo dục luôn quan tâm. Toàn tỉnh, năm 2006, tỷ lệ Đảng viên trong ĐNGV là 22%; 100% Chi bộ đạt trong sạch vững mạnh. b) Về trình độ đào tạo chuyên môn, nghiệp vụ Muốn có đội ngũ giáo viên có chất lượng cao trước hết phải chú ý đến trình độ của đội ngũ, trình độ đào tạo ảnh hưởng rất lớn đến chất lượng đội ngũ. 42 Bảng 2.4 : Thống kê tỷ lệ giáo viên phân theo trình độ đào tạo Năm 2004 - 2005 Năm 2005 - 2006 Năm 2006 - 2007 T T Tên trường TS GV Số GV trên chuẩ n Số GV đạt chuẩn TS GV Số GV trên chuẩn Số GV đạt chuẩn TS G V Số GV trên chuẩn Số GV đạt chuẩn 1. THPT Vũng Tàu 100 2 98 100 2 98 10 8 2 106 2. Chuyên Lê Qúy Đôn 50 3 47 50 3 47 50 3 47 3. Nguyễn Huệ 80 80 80 80 80 80 4. Châu Thành 102 102 102 102 12 0 120 5. Phú Mỹ 89 89 91 91 10 1 101 6. Trần Văn Quan 67 67 67 67 55 55 7. Võ Thị Sáu 73 1 72 74 1 73 68 1 67 8. Xuyên Mộc 76 76 78 78 84 84 9. Nguyễn Du 72 72 72 72 77 77 10. Ngô Quyền 76 76 76 76 76 76 785 6 0,8% 779 99,2% 790 6 0,76% 784 99,24% 81 9 22 2,7% 797 97,3% (Nguồn : Phòng tổ chức cán bộ, Sở giáo dục - đào tạo tỉnh Bà Riạ-Vũng Tàu) Qua bảng số liệu trên đã cho thấy 100% giáo viên ở các trường THPT chuẩn quốc gia của tỉnh Bà Rịa -Vũng Tàu đã được đào tạo chuẩn (tốt nghiệp Đại học Sư phạm). Nhưng số giáo viên có trình độ Thạc sĩ (trên chuẩn) còn rất ít : Năm học 2004 – 2005 : 6/785 (0,8%) Năm học 2005 – 2006 : 6/790 (0,76%) Năm học 2006 – 2007 : 22/819 (2,7%) Trong những năm qua việc đào tạo, bồi dưỡng nhằm nâng cao trình độ nghiệp vụ cho giáo viên THPT đã được quan tâm thực hiện. Sở Giáo dục và Đào tạo kết hợp với các trường ĐHSP Thành phố Hồ Chí Minh, ĐHSP Huế liên tục mở các lớp đào tạo bồi dưỡng để nâng cao chất lượng cho ĐNGV bằng nhiều hình thức khác nhau như bồi dưỡng theo chuyên đề, bồi dưỡng đổi mới phương pháp giảng dạy, bồi dưỡng thường xuyên các chu kỳ 1,2,3… 43 Để phục vụ tốt cho việc thực hiện mục tiêu chiến lược GD trong những năm tới Sở GD&ĐT cũng cần quy hoạch công tác đào tạo đáp ứng kịp thời yêu cầu của sự nghiệp giáo dục trong giai đoạn mới. c) Về năng lực chuyên môn Qua phiếu trưng cầu ý kiến cán bộ quản lý giáo dục ở các trường về năng lực chuyên môn của đội ngũ giáo viên THPT có kết quả cụ thể như sau : + Về năng lực chuyên môn : Đạt loại tốt : 45,5% Đạt loại khá : 38,5% Đạt loại trung bình : 16% + Về năng lực sư phạm : Đạt loại tốt : 40% Đạt loại khá : 43% Đạt loại trung bình : 17% + Năng lực nghiên cứu khoa học : Đạt loại tốt : 20% Đạt loại khá : 30% Đạt loại trung bình : 50% + Về tổ chức các hoạt động : Tốt : 20% Khá : 55% Trung bình : 25% + Về hoạt động thực tiễn : Tốt : 40% Khá : 40% Trung bình : 20% Từ những số liệu trên ta có thể nhận xét về năng lực chuyên môn của đội ngũ giáo viên THPT những mặt mạnh và những mặt hạn chế như sau : - Nhìn chung đội ngũ giáo viên THPT có năng lực chuyên môn và trình độ sư phạm đáp ứng được nhu cầu giáo dục và đào tạo. 44 - Công tác tự học, tự bồi dưỡng kiến thức ngày càng được ĐNGV quan tâm và đầu tư thời gian, công sức…phục vụ yêu cầu giáo dục ngày càng cao, càng hiện đại. - Tuy nhiên hoạt động nghiên cứu khoa học của giáo viên THPT còn nhiều hạn chế. GV ít tập trung nghiên cứu sâu những nội dung thiết thực phục vụ cho công tác giảng dạy các bộ môn văn hóa mà họ đã được đào tạo một cách chính quy ở trường sư phạm. Chủ yếu GV chỉ đừng lại ở chỗ nghiên cứu tài liệu giáo khoa và những tài liệu (Những vấn đề cần thiết) được cung cấp ở các lớp BDTX do ngành GD&ĐT tổ chức. GV chưa có ý thức triệt để trong việc nghiên cứu mở rộng những vấn đề nên biết, những vấn đề gần gũi với nội dung sách giao khoa bộ môn mà họ giảng dạy. Công tác thanh tra giáo viên được tính theo tỷ lệ 1/5 hoặc 1/4 trên tổng số giáo viên sau thời gian từ 3 - 5 năm giáo viên được thanh tra toàn diện một lần, bình quân có 45,5% giáo viên được xếp loại tốt, 38,5% xếp loại khá 16% xếp loại trung bình. Qua thanh tra toàn diện giáo viên của Sở GD&ĐT và của trường thì thấy rằng đại đa số giáo viên trường THPT đều đạt yêu cầu. Bảng 2.5 : Thống kê kết quả thanh tra toàn diện GV THPT các trường chuẩn quốc gia năm học 2006 – 2007 Xếp loại ST T Tên trường TSGV Số GV được thanh tra Tốt TL % Khá TL % T B TL % Yếu TL % 1. THPT Vũng Tàu 108 26 20 77 6 23 2. Chuyên Lê Qúy Đôn 50 14 10 71 4 29 3. Nguyễn Huệ 80 20 10 50 10 50 4. Châu Thành 120 27 10 37 10 37 7 26 5. Phú Mỹ 101 26 6 23 10 38,5 10 38,5 6. Trần Văn Quan 55 15 6 40 6 40 3 20 7. Võ Thị Sáu 68 18 8 44,5 8 44,5 2 11 8. Xuyên Mộc 84 20 8 40 10 50 2 10 9. Nguyễn Du 77 17 7 41 7 41 3 18 10. Ngô Quyền 76 17 6 35 6 35 5 30 819 200 91 45,5 77 38,5 32 16 (Nguồn : Phòng Thanh tra Sở Giáo dục và Đào tạo tỉnh Bà Rịa-Vũng Tàu) 45 Hàng năm hội thi giáo viên dạy giỏi, hội giảng nhằm đánh giá năng lực giảng dạy của giáo viên được các cấp quản lý giáo dục quan tâm tổ chức. Các hội thi này còn có mục đích thúc đẩy động viên đông đảo giáo viên tự học tập nghiên cứu nâng cao tay nghề. Qua các đợt như vậy có thể phát hiện bổ sung những giáo viên có năng lực vào đội ngũ giáo viên cốt cán của từng bộ môn góp phần bồi dưỡng ngay tại trường cho giáo viên. Bảng 2.6 : Số lượng giáo viên dạy giỏi cấp cơ sở và cấp tỉnh năm 2006 – 2007 Cấp cơ sở Cấp tỉnh Trường Tổng số GV Số dự thi Số đạt Số dự thi Số đạt THPT Vũng Tàu 108 20 15 14 11 Chuyên Lê Qúy Đôn 80 15 11 10 8 Nguyễn Huệ 120 18 12 10 6 Châu Thành 102 21 14 11 6 Phú Mỹ 101 18 11 9 7 Trần Văn Quan 55 15 10 10 6 Võ Thị Sáu 68 14 10 10 5 Xuyên Mộc 84 18 14 14 6 Nguyễn Du 77 16 12 12 5 Ngô Quyền 76 16 10 10 4 Nguồn : Phòng tổ chức các bộ Sở Giáo dục - Đào tạo tỉnh Bà Rịa-Vũng Tàu Để thúc đẩy giáo viên hoàn thành nhiệm vụ và từng bước nâng cao tay nghề công tác thanh tra giáo dục và hội thi giáo viên giỏi còn là động lực gần nhất thúc đẩy giáo viên không ngừng phấn đấu nâng cao năng lực chuyên môn đáp ứng nhu cầu ngày càng cao của sự nghiệp giáo dục ở địa phương. Tuy nhiên năng lực chuyên môn của giáo viên THPT ở các trường chuẩn quốc gia tỉnh Bà Rịa-Vũng Tàu còn có nhiều hạn chế : - Giáo viên có năng lực chuyên môn tập trung chủ yếu ở các thị trấn, thị xã có điều kiện kinh tế - xã hội phát triển. Do yêu cầu xã hội cao, do động cơ tự khẳng định mình và do uy tín của nhà trường, của cá nhân nên mỗi giáo viên phải tự học, tự nghiên cứu nhằm nâng cao năng lực chuyên môn và phương pháp giảng dạy. - Ở các trường vùng sâu, vùng xa điều kiện kinh tế xã hội còn thấp, nhiều khó khăn, số lượng giáo viên cùng một bộ môn ít, tổ chuyên môn được ghép nhiều môn, 46 giáo viên ít có điều kiện học tập trao đổi giúp đỡ lẫn nhau, bên cạnh đó động cơ nghiên cứu để nâng cao trình độ nghiệp vụ chuyên môn không rõ ràng dẫn đến trình độ năng lực dạy học còn nhiều hạn chế. - Trong cuộc vận động đổi mới phương pháp dạy học ở trường phổ thông hiện nay đa phần GV còn ngại khó, bằng lòng với kiến thức và trình độ chuyên môn nghiệp vụ đã có, chưa thật sự phấn đấu để bắt kịp sự tiến bộ của xã hội và của khoa học giáo dục hiện đại. - Đội ngũ GV trẻ, mới ra trường ít kinh nghiệm trong giảng dạy và giáo dục, còn lúng túng gặp nhiều khó khăn, trong hoạt động thực tiễn phải có thời gian dài mới có thể vận dụng được những kiến thức đã được đào tạo vào thực tế giảng dạy. 2.3.3. Thực trạng về cơ cấu giáo viên a) Cơ cấu giáo viên bộ môn Như trên đã trình bày ngoài tỷ lệ GV/ lớp còn thiếu, cơ cấu GV bộ môn cũng mất cân đối. Bảng 2.7:Thống kê số lượng GV thiếu ở các trường THPT chuẩn quốc gia STT Tên trường Tổng số giáo viên Tổng Số lớp Tỷ lệ GV/lớp Thừa Thiếu 1 THPT Vũng Tàu 108 48 2,25 0 0 2 Chuyên Lê Qúy Đôn 50 24 2,1 0 4 3 Nguyễn Huệ 80 40 2,0 0 10 4 Châu Thành 120 55 2,18 0 3 5 Phú Mỹ 101 44 2,3 02 0 6 Trần Văn Quan 55 29 1,9 0 10 7 Võ Thị Sáu 68 34 2,0 0 9 8 Xuyên Mộc 80 46 1,74 0 19 9 Nguyễn Du 77 40 1,93 0 13 10 Ngô Quyền 76 39 1,92 0 12 80 (Nguồn : Phòng tổ chức cán bộ Sở Giáo dục – Đào tạo tỉnh BR-VT) Bảng thống kê số lượng giáo viên thiếu trên đây chúng ta nhận thấy : Tất cả các môn đều thiếu giáo viên. Riêng môn Kỹ thuật, Tin học là thiếu nhiều hơn cả. Với cơ cấu giáo viên bộ môn như trên trong những năm qua các trường đã phải khắc phục bằng nhiều biện pháp như giáo viên dạy kiêm môn, giáo viên dạy chéo 47 môn, cụ thể giáo viên Toán dạy Tin học hoặc giáo viên Vật lý hoặc Sinh vật dạy kiêm Kỹ thuật hoặc mời giáo viên thỉnh giảng. Ngoài ra việc phân bổ giáo viên không đồng đều ở các trường cũng gây những phức tạp không đáng có trong việc phân công, phân nhiệm cho giáo viên tham gia các hoạt động giáo dục khác trong nhà trường. Tình hình không đồng bộ về cơ cấu giáo viên dẫn đến những tồn tại sau : - Những giáo viên được phân công dạy chéo môn, kiêm môn do không được đào tạo nên không thể giảng dạy tốt được làm ảnh hưởng lớn đến chất lượng dạy học, các cấp quản lý cũng không thể yêu cầu bộ phận giáo viên này giảng dạy phải đạt chất lượng như những môn mà họ được đào tạo. - Đối với những trường có điều kiện hợp đồng giáo viên thì kinh phí của nhà trường một mặt phải chi trả cho giáo viên dôi ra, mặt khác phải chi trả cho giáo viên hợp đồng giảng dạy những môn thiếu giáo viên dẫn đến tình trạng không có kinh phí cho các hoạt động dạy - học và các hoạt động giáo dục khác gây cản trở không nhỏ đến các hoạt động giáo dục của nhà trường. Để giải quyết tình trạng thiếu giáo viên những năm qua Sở GD-ĐT tỉnh Bà Rịa-Vũng Tàu đã liên kết với trường Đại học Sư phạm thành phố Hồ Chí Minh đào tạo sinh viên Sư phạm hệ cử tuyển gọi là lớp tỉnh gửi, kinh phí do tỉnh trả. Ở một số khu vực thuận lợi thì số giáo viên so với số lớp học hiện nay đã đạt tỷ lệ chuẩn do Bộ GD-ĐT quy định. Do đó việc tuyển dụng giáo viên kể cả các môn học còn thiếu cũng gặp không ít khó khăn, vướng mắc dẫn đến tình trạng mâu thuẫn giữa tỷ lệ giáo viên và cơ cấu giáo viên. b) Cơ cấu theo độ tuổi Bảng 2.8 : Số lượng GV THPT chuẩn quốc gia theo độ tuổi Năm 2006 – 2007 < 30 tuổi 31- 40 tuổi 40-50 tuổi 51-55 tuổi 56-60 tuổi Tên trường TST SL TL% SL TL % SL TL % SL TL % SL TL % Vũng Tàu 108 28 26 30 28 31 29 15 14 4 3 Lê Quý Đôn 50 11 22 10 20 18 36 9 18 2 4 Nguyễn Huệ 80 19 24 22 27 29 36 7 9 3 4 Châu Thành 120 41 34,2 35 29 35 29 8 7 1 0,98 Phú Mỹ 101 49 48,5 27 27 16 16 8 7,9 1 1 Trần Văn Quan 55 27 49 15 27 9 17 4 7 - - 48 Võ Thị Sáu 68 26 38 18 26,5 18 26,5 4 6 2 3 Xuyên Mộc 84 31 37 26 31 24 28,5 2 2,3 1 1,2 Nguyễn Du 77 34 44 17 22 20 26 5 6,5 1 1,5 Ngô Quyền 76 33 43,5 29 38,5 10 13 4 5 - - Tổng cộng 819 299 36,5 229 28 210 25,5 66 8 15 2,0 - Nam : 270 - 33%, Nữ : 549 - 67% Nguồn : Phòng tổ chức cán bộ Sở Giáo dục – Đào tạo tỉnh Bà Rịa-Vũng Tàu Căn cứ vào thống kê độ tuổi đội ngũ giáo viên THPT chúng ta thấy có đến 10% giáo viên ở độ tuổi trên 50 tuổi, số giáo viên này tuy thâm niên nghề nghiệp cao nhưng lại ít có điều kiện bồi dưỡng học thêm, tâm lý ngại học nâng cao trình độ chuyên môn, do đó hạn chế lớn năng lực giảng dạy. - Số GV có độ tuổi từ 31 - 50 tuổi chiếm tỷ lệ lớn 53,5%. Đây thực sự là một thuận lợi lớn vì ở độ tuổi này giáo viên đã đạt độ chín muồi về năng lực chuyên môn và nghiệp vụ sư phạm. Những GVnày nếu được quản lý phát triển tốt sẽ có tác động rất tốt đến chất lượng của ĐNGV.THPT và chất lượng giáo dục THPT tuy nhiên, trong số này giáo viên có trình độ trên đại học trở lên còn rất thấp dưới 5%, vì vậy cơ cấu tổ chức các lớp bồi dưỡng theo khả năng nhu cầu, điều kiện có hiệu quả của giáo viên kịp thời bổ xung những nội dung cần thiết cho ĐNGV còn thấp. Số GV ở độ tuổi dưới 30 chiếm tỷ lệ khá cao 36,5%. Trong số này có nhiều GV mới được tuyển dụng trong vài năm gần đây. Đây là ĐNGV được đào tạo cơ bản, đủ chuẩn, trẻ khỏe, nhiệt tình, rất thuận lợi cho việc quy hoạch đào tạo, bồi dưỡng nâng cao trình độ. Tuy nhiên đội ngũ này phần nhiều còn thiếu kinh nghiệm trong giảng dạy và tổ chức hoạt động giáo dục. c) Về cơ cấu giới tính Tỷ lệ giáo viên nam và nữ có chênh lệch tương đối lớn, (nam 270/819 - 33% ; 549/819 - 67%) điều đó cũng dễ giải thích vì nghề giáo viên phù hợp với nữ giới hơn. Tuy nhiên nếu xét về năng lực chuyên môn giữa nam và nữ thì giáo viên nam lại có tỷ lệ cao hơn qua điều tra có 48/50 giáo viên nam đạt chuyên môn từ khá trở lên còn tỷ lệ này ở giáo viên nữ chỉ là 45/50. Bên cạnh đó số GV hiện nay xếp loại trung bình về năng lực chuyên môn chủ yếu là giáo viên nữ. Vấn đề này được giải thích là do bị chi phối bởi nhiều công việc gia đình, do tâm lý an phận nên điều kiện, 49 nhu cầu đi học nâng cao trình độ ở nữ giới là rất ít, do đó công tác phát triển đội ngũ giáo viên cần chú ý vấn đề này để có biện pháp hợp lý đối với đối tượng nữ. 2.4. Thực trạng việc quản lý đội ngũ giáo viên ở các trường THPT chuẩn quốc gia ở tỉnh Bà Rịa -Vũng Tàu. 2.4.1. Thực trạng về công tác tuyển chọn, sử dụng đội ngũ giáo viên Những năm trước đây việc tuyển chọn và sử dụng GV THPT chưa thực sự được quan tâm đúng mức. Công tác tuyển dụng, bố trí GV thường theo cơ chế xin việc…do đó dẫn đến nơi thừa, nơi thiếu GV. Có thể thấy rõ tình trạng này khi so sánh ĐNGV ở các trường vùng địa bàn thuận lợi như thành phố, thị xã và các trường vùng khó khăn. Những năm gần đây công tác tuyển chọn, sử dụng GV đã có nhiều đổi mới phần nào khắc phục được những nhược điểm của việc tuyển dụng giáo viên. Sở Giáo dục & Đào tạo và Sở Nội vụ phối hợp cải tiến nội dung hình thức xét tuyển công chức, tuyển chọn bổ sung ĐNGV có phẩm chất, kiến thức năng lực sư phạm đáp ứng yêu cầu định mức lao động, giảng dạy, dạy đủ các bộ môn ở các cấp học, bậc học. Hàng năm trên cơ sở biên chế và kế hoạch phát triển quy mô trường, lớp, học sinh, Sở GD&ĐT đã có kế hoạch thực hiện công tác bố trí điều động thuyên chuyển giáo viên nhằm điều hòa chất lượng giáo dục cũng như hợp lý hóa địa bàn sinh sống và đơn vị công tác của giáo viên. Đồng thời tuyển dụng bổ sung giáo viên cho các trường THPT theo biên chế và nhu cầu. Tuy nhiên vẫn còn gặp một số khó khăn nhất định như tâm lý, hoàn cảnh giáo viên không muốn đi xa, không muốn thay đổi.Giáo viên về dạy ở các trường chuẩn đòi hỏi phải luôn có nỗ lực bồi dưỡng chuyên môn, đổi mới phương pháp giảng dạy, cường độ làm việc nhiều. Bảng 2.9 : Bảng thống kê số lượng giáo viên THPT được tuyển từ năm 2004 - 2007 Văn Toán Lý Hóa Sinh KT TD Sử Địa GD CD Anh Tin Pháp Số Hồ sơ xét 65 38 20 10 18 2 14 21 10 11 24 7 5 Cần tuyển 37 68 49 23 23 43 42 14 28 22 31 37 3 2004- 2005 Trúng tuyển 37 38 20 10 18 2 14 14 10 11 24 7 3 50 Văn Toán Lý Hóa Sinh KT TD Sử Địa GD CD Anh Tin Pháp Số Hồ sơ xét 35 39 12 14 9 2 33 25 16 32 17 9 0 Cần tuyển 19 60 45 29 19 38 27 9 29 18 19 36 0 2005- 2006 Trúng tuyển 19 39 12 14 9 2 27 9 16 18 17 9 0 Văn Toán Lý Hóa Sinh KT TD Sử Địa GD CD Anh Tin Pháp Số Hồ sơ xét 29 31 30 25 20 2 9 17 15 7 10 20 0 Cần tuyển 15 48 44 26 16 36 20 11 25 12 17 49 0 2006- 2007 Trúng tuyển 15 31 30 25 16 2 9 11 15 7 10 20 0 Hầu như tất cả các môn đều có nhu cầu tuyển song không có nguồn tuyển ví dụ giáo viên Địa – Thể dục - Tin học - Kỹ thuật thiếu nhưng không có hồ sơ đăng ký xét tuyển (không có nguồn) hoặc một số bộ môn khác thì số lượng cần tuyển lại nhiều hơn số hồ sơ nộp vào xét tuyển. Tuy nhiên trong công tác tuyển dụng giáo viên còn bộc lộ nhiều bất cập chẳng hạn : + Công tác xét tuyển giáo viên phải làm kết hợp với Sở Nội vụ tỉnh nên đôi khi còn bất cập là phân bố không theo quy hoạch của Sở, hoặc bị chậm trễ do phải đợi quyết định của Sở Nội vụ tỉnh. + Việc tuyển dụng giáo viên còn phụ thuộc vào nhiều yếu tố như : Số giáo viên cần tuyển vào biên chế Nhà nước so với tổng số cán bộ công chức của toàn tỉnh do Sở Nội vụ tỉnh quy định và số lượng công chức được tuyển vào biên chế Nhà nước do Sở Nội vụ tỉnh cho phép thực hiện hàng năm ở mỗi địa phương. 2.4.2. Thực trạng về công tác bồi dưỡng và đào tạo đội ngũ giáo viên Công tác bồi dưỡng nghiệp vụ sư phạm và trình độ chuyên môn cho ĐNGV.THPT đã được quan tâm thực hiện trong những năm qua, qua nhiều hình thức khác nhau, bồi dưỡng nâng cao trình độ nghiệp vụ thông qua chương trình bồi 51 dưỡng thường xuyên của Bộ GD&ĐT tổ chức, bồi dưỡng chuyên môn nghiệp vụ theo chuyên đề cho các cấp quản lý từ Sở đến trường tổ chức, bồi dưỡng tại các tổ nhóm chuyên môn, tự bồi dưỡng do nhu cầu dạy học của cá nhân, nội dung bồi dưỡng ngày càng được cải tiến theo hướng phân hóa sâu. - Công tác bồi dưỡng giáo viên do Sở Giáo dục - Đào tạo tổ chức Hàng năm vào những dịp hè Sở GD&ĐT phối hợp với Trường ĐHSP thành phố. Hồ Chí Minh tổ chức thực hiện công tác bồi dưỡng thường xuyên cho giáo viên THPT. Ngoài nội dung bồi dưỡng các chuyên đề thiết thực qua các chu kỳ bồi dưỡng thường xuyên do Bộ GD&ĐT hướng dẫn thì đội ngũ giáo viên THPT còn được bổ xung kiến thức phổ thông về tình hình chính trị, thời sự trong nước và quốc tế. Cung cấp cho giáo viên lý luận về phương pháp dậy học mới. Qua các đợt bồi dưỡng giáo viên có kiến thúc bộ môn sâu hơn, hình dung và làm quen với phương pháp dạy học mới theo yêu cầu đổi mới của giáo dục. Qua đợt kiểm tra đánh giá của các đợt bồi dưỡng cho thấy 93% số giáo viên được tham gia bồi dưỡng và đạt yêu cầu (nguồn trường ĐHSP Thành Phố.Hồ Chí Minh và Sở GD&ĐT tỉnh BR-VT). Mặc dù công tác bồi dưỡng GV đã được các cấp QLGD chỉ đạo và quan tâm nhưng thực tế hiệu quả bồi dưỡng vẫn còn thấp thể hiện ở chỗ là chất lượng đội ngũ giáo viên không được nâng lên là bao nhiêu, có thể nói là “dậm chân tại chỗ”. - Công tác bồi dưỡng ở các trường THPT Hàng năm do yêu cầu của nhà trường, do phong trào thi đua…hầu hết các trường THPT đều quan tâm đến công tác bồi dưỡng và tự bồi dưỡng thông qua nhiều hình thức phong phú. Căn cứ vào nhu cầu bồi dưỡng giáo viên thông qua ý kiến nhà trường, các tổ chuyên môn, đội ngũ cốt cán của Sở Giáo dục và Đào tạo phối hợp với trường Đại học Sư phạm thành phố. Hồ Chí Minh thành lập tổ bộ môn của từng môn xây dựng chương trình và thực hiện bồi dưỡng cho đội ngũ giáo viên. Tuy nhiên công tác này không được thực hiện thường xuyên liên tục nội dung không đáp ứng được yêu cầu bồi dưỡng của giáo viên, hiệu quả cũng chưa cao. - Nguyên nhân dẫn đến tình trạng này là do Về mặt nhận thức : Vẫn còn nhiều cán bộ quản lý, giáo viên chưa nhận thức rõ ý nghĩa, tầm quan trọng của công tác bồi dưỡng. Do đó không quan tâm, chú trọng 52 đến công tác này, nhiều giáo viên chỉ tham gia bồi dưỡng để có được chứng chỉ công nhận là đã qua lớp bồi dưỡng, ý thức học tập và tự trau dồi chuyên môn của một số việc còn quá yếu, hầu như không giành thời gian đi nghiên cứu tài liệu, sách tham khảo, bài soạn chỉ dựa vào sách giáo khoa và sách giáo viên một bộ phận khác thì chủ quan, thiếu khiêm tốn trong chuyên môn. Về nội dung bồi dưỡng + Chương trình bồi dưỡng có những chuyên đề, hoặc các phần của chuyên đề chưa hợp lý, chưa gắn với giáo dục phổ thông, chưa phù hợp với đối tượng bồi dưỡng, chưa gắn với thực tế địa phương. + Nội dung bồi dưỡng chưa đi sâu vào phương pháp dạy học cụ thể của từng môn học, chỉ nặng về lý thuyết. Hình thức bồi dưỡng + Công tác vào ngày trong hè, phương pháp bồi dưỡng chủ yếu là thuyết trình chưa gắn nội dung bồi dưỡng với thực hành soạn giáo án, lên lớp khiến cho người học thấy nặng nề, ức chế nên hiệu quả thấp. + Bồi dưỡng ở các trường, các tổ chuyên môn thông qua các báo cáo chuyên đề, đề tài khoa học, sáng kiến kinh nghiệm chỉ nhằm mục đích phong trào nội dung rất sơ sài… Những hình thức bồi dưỡng thông qua sinh hoạt tổ, nhóm chuyên môn ở trường hoặc giáo viên tự bồi dưỡng bằng việc báo cáo các chuyên đề, qua thao giảng hoặc viết sáng kiến kinh nghiệm, đề tài khoa học…công tác này được tổ chức hàng năm nhưng không triết để chỉ mang tính chất phong trào nên hiệu quả thấp. Về lực lượng thực hiện bồi dưỡng Lực lượng thự

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • pdfLVQLGD009.pdf
Tài liệu liên quan