Biện pháp phòng chống bão lụt trong nuôi trồng thủy sản

Tài liệu Biện pháp phòng chống bão lụt trong nuôi trồng thủy sản: Thông tin KH-CN Nghệ AnSỐ 9/2013 [59] TRANG TIN 1. Đối với ao nuôi nước mặn Vào mùa mưa bão, người nuôi cần kiểm tra và gia cố lại bờ ao, cống xả tràn và chuẩn bị nguồn nước sạch để thay nước cho ao nuôi khi cần thiết. Rải vôi xung quanh bờ ao phòng nước rửa trôi phèn xuống làm biến động pH ao nuôi. Tăng cường thời gian chạy quạt nước tránh thiếu oxy và hiện tượng phân tầng nước ao nuôi. Đồng thời, cần chuẩn bị máy phát điện, máy sục khí đề phòng khi bị mất điện lưới. Kiểm tra và sửa chữa lại hệ thống điện cẩn thận để đảm bảo an toàn khi có gió bão. 2. Đối với ao nuôi nước ngọt Cần kiểm tra và tu bổ lại bờ ao chắc chắn đảm bảo giữ được nước và bờ phải cao hơn mức nước cao nhất trong ao 0,5m. Cần phát quang những cành, cây xung quanh bờ, để tránh cành lá rơi vào ao làm ô nhiễm ao nuôi. Chuẩn bị cọc tre, cuốc xẻng để gia cố sửa chữa hệ thống bờ, cống, đăng chắn, có lưới chắn phòng tràn bờ gây thất thoát thủy sản nuôi khi mưa to gió lớn. Khi mưa lũ xảy r...

pdf11 trang | Chia sẻ: quangot475 | Lượt xem: 345 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem nội dung tài liệu Biện pháp phòng chống bão lụt trong nuôi trồng thủy sản, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Thông tin KH-CN Nghệ AnSỐ 9/2013 [59] TRANG TIN 1. Đối với ao nuôi nước mặn Vào mùa mưa bão, người nuôi cần kiểm tra và gia cố lại bờ ao, cống xả tràn và chuẩn bị nguồn nước sạch để thay nước cho ao nuôi khi cần thiết. Rải vôi xung quanh bờ ao phòng nước rửa trôi phèn xuống làm biến động pH ao nuôi. Tăng cường thời gian chạy quạt nước tránh thiếu oxy và hiện tượng phân tầng nước ao nuôi. Đồng thời, cần chuẩn bị máy phát điện, máy sục khí đề phòng khi bị mất điện lưới. Kiểm tra và sửa chữa lại hệ thống điện cẩn thận để đảm bảo an toàn khi có gió bão. 2. Đối với ao nuôi nước ngọt Cần kiểm tra và tu bổ lại bờ ao chắc chắn đảm bảo giữ được nước và bờ phải cao hơn mức nước cao nhất trong ao 0,5m. Cần phát quang những cành, cây xung quanh bờ, để tránh cành lá rơi vào ao làm ô nhiễm ao nuôi. Chuẩn bị cọc tre, cuốc xẻng để gia cố sửa chữa hệ thống bờ, cống, đăng chắn, có lưới chắn phòng tràn bờ gây thất thoát thủy sản nuôi khi mưa to gió lớn. Khi mưa lũ xảy ra: phải tiến hành kiểm tra chất lượng nước trong ao nuôi để có các biện pháp điều chỉnh phù hợp như: bón vôi (1-3 kg/100m2) để ổn định môi trường nước trong ao hoặc có thể thay nước khi cần thiết. Rải vôi xung quanh bờ ao phòng nước rửa trôi phèn xuống làm biến động pH ao nuôi. Để giúp thủy sản tăng sức đề kháng tốt, cần bổ sung thêm Vi- tamin C vào thức ăn. 3. Đối với ruộng lúa kết hợp nuôi cá Để bảo đảm an toàn cho ruộng nuôi, bà con cần gia cố, tu bổ ruộng nuôi và tính thời vụ nuôi cho hợp lý. Ruộng nuôi cần phải có bờ bao chắc chắn, không rò rỉ nước, bố trí nhiều cống thoát nước xung quanh ruộng nuôi (tuỳ thuộc vào diện tích của ruộng nuôi để bố trí số lượng cho phù hợp). Trên bờ có lưới vây xung quanh và thường xuyên kiểm tra để khắc phục trường hợp lưới rách hoặc nước chảy làm trống dưới chân lưới sẽ thất thoát cá. Đồng thời kiểm tra hệ thống cống, bờ bao, mương rãnh để đảm bảo nước thoát nhanh, chuẩn bị máy bơm tiêu úng khi cần thiết. 4. Đối với nuôi lồng, bè Kiểm tra lại hệ thống dây neo, phao lồng có bị hư hỏng thì cần phải tu sửa lồng, vệ sinh lồng sạch sẽ và di chuyển vào những nơi kín gió, có dòng chảy nhẹ để tránh khi gió bão lớn làm vỡ lồng. Bên cạnh đó, cũng nên chuẩn bị thuyền máy để hỗ trợ khi cần thiết. Tuy nhiên, người nuôi cần theo dõi thường xuyên thông báo diễn biến mực nước lũ trên các con sông, biển và tình hình mưa bão trên các phương tiện thông tin đại chúng để có biện pháp bảo vệ thuỷ sản nuôi một cách an toàn, có hiệu quả. 5. Đối với nuôi nhuyễn thể Đầu vụ nuôi bà con nên thả giống có kích cỡ lớn để có thể thu hoạch trước mùa mưa, lũ. Vào mùa mưa bão, nếu nuôi đạt trọng lượng thương phẩm thì nên thu hoạch để hạn chế thiệt hại xảy ra. Nếu kích cỡ còn nhỏ chưa đạt trọng lượng thu hoạch thì người nuôi nên di chuyển bãi ra xa hơn nơi có độ mặn cao và ổn định. Lưu ý: Những ao nuôi đạt cỡ thương phẩm nên thu hoạch để hạn chế thiệt hại. Các chòi canh cần được trang thiết bị như đèn pin, phao cứu sinh. Người nuôi thuỷ sản tuyệt đối không được ở lại bên trong các chòi canh khi có bão đổ bộ vào./. Vũ Xuân Nam Trạm Khuyến nông TP.Vinh PHỔ BIẾN KHOA HỌC KỸ THUẬT BIỆN PHÁP PHÒNG CHỐNG BÃO LỤT TRONG NUÔI TRỒNG THỦY SẢN Trong những năm trở lại đây, nghề nuôi trồng thuỷ sản ở Nghệ An đã và đang phát triển đa dạng cả về hình thức và đối tượng nuôi, mang lại hiệu quả kinh tế thiết thực cho người dân. Tuy nhiên, người nuôi trồng thuỷ sản cũng đang gặp nhiều khó khăn, thách thức do thiên tai và bão lũ luôn xảy ra. Nhằm khắc phục và giảm nhẹ những thiệt hại vào mùa mưa lũ, người nuôi trồng thủy sản cần phải thực hiện tốt một số biện pháp phòng chống thiên tai và bão lũ. Thông tin KH-CN Nghệ AnSỐ 9/2013 [60] TRANG TIN I. Trên cây ngô 1. Châu chấu - Sau khi thu hoạch lúa hè thu - mùa, châu chấu chuyển sang gây hại trên cây trồng vụ đông, đặc biệt gây hại trên cây ngô thời kỳ cây con trên đất 2 lúa với mật độ cao, gây trụi lá, làm ảnh hưởng đến tốc độ sinh trưởng phát triển. - Biện pháp phòng trừ: Dùng vợt bắt châu chấu: hạn chế mật độ châu châu gây hại ngô trên đồng ruộng, đồng thời dùng châu chấu làm nguồn thức ăn cho vật nuôi như: vịt, ngan, gà. Khi châu chấu phát sinh mật độ cao có nguy cơ ăn trụi lá, dùng máy động cơ phun cuốn chiếu, sử dụng các loại thuốc bảo vệ thực vật như: Ammate 150SC, 30WDG, Angun 5WDG, Pastac 5EC, Ofatox 400EC; Decis 2,5EC... phun theo liêù khuyêń caó. 2. Sâu cắn lá, sâu đục thân, đục bắp - Sâu cắn lá ngô: gây hại từ đầu đến cuối vụ; sâu tuổi nhỏ ăn lá nõn, cờ mới nhú; sâu tuổi lớn ăn khuyết lá, râu, hạt non, làm giảm năng suất, đặc biệt khi cây sinh trưởng ở giai đoạn 8-10 lá. - Sâu đục thân, đục bắp: Thời kỳ cây con, sâu đục ăn nõn; khi cây đã lớn, sâu đục vào thân, vào bắp làm cây dễ đổ ngã, ảnh hưởng đến sinh trưởng, phát triển và năng suất. Sâu gây hại nặng từ thời kỳ phun râu đến thu hoạch. - Biện pháp phòng trừ: Đối với sâu cắn lá: Vệ sinh đồng ruộng, làm sạch cỏ dại trong ruộng và xung quanh bờ. Dùng bả chua ngọt để diệt trưởng thành (Bả chua ngọt được pha chế từ các hỗn hợp các vật liệu sau: 4 phần mật mía hoặc đường đen + 4 phần dấm hoặc nước gạo chua + 1 phần rượu + 1 phần nước lã và 1% chất độc (thuốc trừ sâu)) có thể thu hút rất nhiều trưởng thành họ ngài đêm vào bả. Đối với sâu đục thân: Khi sâu đục vào thân, việc phòng trừ gặp nhiều khó khăn, chỉ phòng trừ có hiệu quả ở pha trưởng thành và trứng. Có thể dùng bẫy đèn để thu bắt trưởng thành và xác định thời điểm đẻ trứng, tiến hành ngắt ổ trứng để hạn chế mật độ sâu trên ruộng ngô. Bảo vệ ong ký sinh, đặc biệt ong mắt đỏ (Tri- chogramma sp) ký sinh pha trứng. Gieo đúng lịch thời vụ, tập trung trong vòng 10-15 ngày, không gieo lai rai sẽ tạo điều kiện cho sâu phá hại liên tục trên các trà ngô. 3. Sâu xám - Sâu xám hoạt động mạnh về ban đêm và phá hại mạnh ngô ở giai đoạn mọc mầm đến 4-5 lá, cắn đứt ngang thân cây. Khi thân cây đã cứng, chúng ít phá hại. - Biện pháp phòng trừ: Sau gặt lúa mùa: Tiến hành cày sâu và bừa ngay để tiêu diệt sâu non và nhộng trong đất; Trong quá trình chăm sóc, tiến hành xới xáo, làm cỏ và vun gốc; Bới đất quanh gốc cây để bắt sâu bằng tay khi mật độ còn thấp; Dùng bả chua ngọt để dẫn dụ trưởng thành; Trước khi gieo ngô, rạch hàng và rắc thuốc dạng hạt như: Vibaba 10H, Basudin 10H, Marshal 5G, Vifuran 3GR... 4. Rệp cờ - Rệp cờ phát sinh gây hại từ lúc ngô xoáy nõn đến trổ cờ, hút dinh dưỡng làm cho cờ hoa không tung phấn được, gây hiện tượng thiếu hạt phấn làm bắp ngô bị lép, ít hạt. Rệp gây hại trong điều kiện ngô gieo trồng quá dày, thiếu ánh sáng, ẩm độ không khí trong ruộng cao và phá hại ngô từ lúc 8- 9 lá cho tới khi ngô chín sáp. - Biện pháp phòng trừ: Vệ sinh đồng ruộng như làm cỏ dại và xung quanh bờ, tránh rệp từ các ký chủ dại lây lan phá hoại ngô. Trồng ngô đúng mật độ, theo quy trình Sở NN&PTNT và Khuyến nông huyện. Khi ngô phát triển cao 30cm, tiến hành tỉa bỏ những cây yếu, bị bệnh, tạo ruộng thông DỰ BÁO SÂU BỆNH CHÍNH HẠI CÂY TRỒNG VỤ ĐÔNG 2013 VÀ KỸ THUẬT PHÒNG TRỪ Kế hoạch sản xuất cây trồng vụ đông 2013 của tỉnh Nghệ An là 50.500ha, trong đó 30.000ha ngô, 7.500ha khoai lang, 2.000ha lạc, 10.500ha rau đậu các loại, 500ha cây trồng khác. Điều kiện thời tiết vụ đông diễn biến phức tạp, khó lường, mùa mưa bão đầu vụ tháng 9, 10 sẽ gây nhiều khó khăn trong sản xuất. Căn cứ vào kết quả theo dõi quy luật phát sinh gây hại của dịch hại những năm gần đây, có thể dự báo một số dịch hại chính sẽ gây hại trên cây trồng vụ đông 2013 và kỹ thuật phòng trừ. Thông tin KH-CN Nghệ AnSỐ 9/2013 [61] TRANG TIN thoáng, hạn chế rệp phát triển. Trồng xen ngô với đậu tương nhằm tăng cường hoạt động các loài thiên địch. Khi rệp phát sinh mật độ, tỷ lệ cao, có thể phun trừ bằng các loại thuốc như: Ofatox 400EC, Trebon 40EC, Actara 25WG, Victory 585EC, Dragon 858EC... pha theo hướng dẫn. 5. Bệnh khô vằn - Đây là bệnh hại phổ biến trên ngô, xâm nhập vào bẹ lá vào giai đoạn ngô 10-11 lá đến lúc thu hoạch, gây hại nặng ở những chân ruộng trồng dày bón nhiều phân đạm. Khi bệnh nặng có thể gây hại tới lá ngọn và lá bao của bắp làm giảm năng suất ngô. - Biện pháp phòng trừ: Vệ sinh đồng ruộng, tiêu diệt nguồn bệnh ngay từ đầu vụ sản xuất bằng cách cày sâu để vùi lấp hạch nấm. Gieo trồng đúng thời vụ, trồng thưa, đúng mật độ theo quy trình, bón phân cân đối tránh dư thừa phân đạm. Khi bệnh phát sinh với tỷ lệ cao, có thể dùng một số thuốc để phun trừ bệnh như: Validamycin, Tilt 250ND, Anvil 5SC... theo khuyến cáo. II. Trên cây lạc 1. Nhóm sâu ăn lá: sâu xanh, sâu khoang, sâu cuốn lá - Sâu phát sinh gây hại từ giai đoạn cây con, gây hại nặng từ khi lạc phân cành ra hoa với mật độ cao, ăn trụi lá, ảnh hưởng tới sinh trưởng và năng suất lạc. - Biện pháp phòng trừ: Dùng bả chua ngọt, bẫy pheromone giới tính để thu hút trưởng thành nhằm hạn chế mật độ sâu non trên đồng ruộng. Tổ chức bắt sâu khi sâu non phát sinh và gây hại. Trồng cây hướng dương để dẫn dụ trưởng thành sâu khoang đến đẻ trứng, sau đó ngắt bỏ ổ trứng, tiêu diệt sâu mới nở. Khi mật độ đến ngưỡng phòng trừ nên dùng thuốc bảo vệ thực vật để phun trừ như: Ammate 150SC, Virtako 40WG, Angun 5WDG, Map Winner 5WG, Match 50ND... hoặc các loại thuốc có hoạt chất sinh học Ebamectin, Abamectin... theo liều khuyến cáo. Ưu tiên sử dụng thuốc có nguồn gốc sinh học, các chế phẩm sinh học. 2. Nhóm bệnh hại gốc, thân, cành, lá - Bệnh nấm hại gốc (mốc đen, mốc trắng, mốc xám...) do nấm Pythium; Fusarium..., gây hại từ cây con đến củ già, hại nặng từ khi ra hoa đâm tia rộ đến củ vào chắc. - Bệnh héo xanh vi khuẩn phát sinh gây hại nặng ở giai đoạn từ đâm tia đến lạc có củ non, trong điều kiện mưa rào xen kẽ nắng hanh, đất ẩm ướt, thoát nước kém. - Bệnh đốm vòng, gỉ sắt do nấm, gây hại nhẹ giai đoạn cây con và bắt đầu phát sinh gây hại nặng từ giai đoạn đâm tia hình thành củ. - Biện pháp phòng trừ: + Đối với bệnh do nấm đất gây hại: Ủ phân chuồng với nấm đối kháng Trichoderma, chế phẩm EM để phân hoai mục, sau đó bón lót cho ruộng trước khi trồng lạc nhằm mục đích tạo ra nhiều vi sinh vật có lợi trong đất, kìm hãm và hạn chế sự phát sinh gây hại của tập đoàn nấm đất gây hại. Lên luống cao, thoát nước tốt. Xử lý hạt giống trước khi gieo bằng các loại thuốc trừ nấm như: Nativo 750WG, Vicarben S 70BTN, Cruiser plus 312,5FS... Khi cây chớm bị bệnh, trong điều thời thuận lợi cho bệnh phát triển, tiến hành phun một trong các loại thuốc sau: Rovral 50WP, Ami- tatop 325SC, Cavil 50SC, Carban 50SC, Moren 20WP theo liều khuyến cáo. + Đối với bệnh đốm vòng, gỉ sắt: Khi bệnh chớm xuất hiện, nếu gặp điều kiện thời tiết thuận lợi cho bệnh phát triển mạnh nên phun trừ bằng 1 trong các loại thuốc bảo vệ thực vật sau: Car- benda 50SC, Polyram 80DF, Mancozeb 80WP, Sumi Eight 12.5WP, Folicur 250EW, 250WG... + Đối với bệnh do vi khuẩn gây hại: Hiện tại chưa có thuốc đặc trị, do vậy chỉ thực hiện các biện pháp phòng bệnh là chính. Dùng các giống kháng bệnh héo xanh, vệ sinh đồng ruộng. Khi cây bị bệnh tiến hành nhổ bỏ, tiêu hủy và bón vôi bột ngay hốc cây nhằm hạn chế nguồn bệnh và lây lan trên đồng ruộng. III. Trên cây rau màu 1. Ruồi vàng hại quả mướp đắng - Ruồi bắt đầu gây hại khi quả mướp đắng được hình thành, làm cho quả quăn queo, không phát triển và rụng, gây ảnh hưởng đến chất lượng, năng suất. - Biện pháp phòng trừ: Thu gom những quả bị rụng đem tiêu hủy hoặc chôn sâu dưới đất. Sử dụng bẫy để hấp dẫn ruồi vàng: dùng thuốc có chất dẫn dụ và chất tiêu diệt ruồi vàng như: VIZUBON-D hoạt chất Eugenol 75% + Dibrom 25%. Cách sử dụng: Dùng 1-2ml thuốc/bẫy; bẫy được làm bằng chai nhựa và treo mồi có tẩm thuốc trong chai, hai bên chai khoét lỗ cho ruồi chui vào và ăn mồi, treo 20- 30 bẫy/ha; hàng tuần điều tra và thu mẫu ruồi trong bẫy; sau 14 ngày tẩm thuốc mới vào, tiếp tục treo bẫy lên cây; kết hợp phun bả protein (Ento-protein) khi thấy ruồi vào bẫy khoảng 10 con/bẫy. Lưu ý: Khi sử dụng bẫy, bả phải làm trên diện rộng mới đem Thông tin KH-CN Nghệ AnSỐ 9/2013 [62] TRANG TIN lại hiệu quả cao trừ ruồi vàng cho cả cánh đồng và không phun bả protein lên quả mướp mà chỉ phun điểm lên lá cây mướp đắng. 2. Sâu tơ, sâu xanh, sâu khoang hại rau - Cả 3 loại sâu này đều gây hại suốt trong quá trình trồng các loại rau như bắp cải, cải xanh, cải bẹ, ăn khuyết lá để lại gân lá chính. Sâu tuổi lớn ăn trụi lá làm ảnh hưởng đến năng suất và ảnh hưởng đến phẩm chất rau. Sâu tơ có tính kháng thuốc cao, do vậy cần luân phiên các loại thuốc tránh tình trạng sâu quen thuốc. Khi sử dụng thuốc cần tuân thủ các yêu cầu sau: Thuốc ít độc nằm trong danh mục được phép sử dụng cho cây rau, ưu tiên sử dụng các chế phẩm có nguồn gốc sinh học, thuốc thảo mộc, đảm bảo thời gian cách ly, chỉ phun khi sâu phát sinh gây hại tới ngưỡng phòng trừ. Ngoài ra, có thể sử dụng một số bẫy giới tính pheromone, bả chua ngọt... để hấp dẫn trưởng thành và tiêu diệt chúng. 3. Giòi đục thân, sâu cuốn lá hại đậu tương * Giòi đục thân: - Gây hại từ khi cây có hai lá đơn đến cuối vụ, chủ yếu từ giai đoạn cây hai lá đơn đến 2-3 lá kép làm cây bị chết hàng loạt. Khi cây lớn, giòi đục thân chỉ làm chết ngọn. Trong vụ đông, giòi có thể làm chết 40-50% cây con, gây ảnh hưởng lớn đến năng suất. - Biện pháp phòng trừ: Gieo đúng lịch thời vụ, chăm sóc tốt cây con để cây sinh trưởng khỏe. Gieo hạt đều, nhổ và hủy bỏ những cây bị chết ngọn để diệt trừ sâu. Phát hiện kịp thời sự xuất hiện và gây hại giòi để tổ chức phun trừ bằng các loại thuốc đặc hiệu. Thời gian phun thuốc bắt đầu từ khi cây đậu có 2 lá đơn, kết thúc phun khi cây có 3 lá kép. Khi bị giòi phá hoại mạnh, có thể phun kép 2-3 lần. * Sâu cuốn lá: - Sâu phát sinh gây hại từ khi cây có 2-3 lá kép cho đến cuối vụ, bắt đầu gây hại nặng sau trồng 28 ngày, đặc biệt trên những ruộng trồng đậu tương bón thừa đạm. Sâu cuốn các mép lá lại với nhau và ăn phần thịt lá để lại gân chính. - Biện pháp phòng trừ: Biện pháp thủ công: Tổ chức bắt sâu khi sâu còn phát sinh với mật độ thấp. Biện pháp hóa học: Khi sâu phát sinh với mật độ cao, tổ chức phun khi sâu còn tuổi nhỏ, lựa chọn thuốc ít độc nằm trong danh mục được phép sử dụng trừ sâu trên cây rau như hoạt chất: Abamectin, Alpha - Cyperme- thrin..., khi phun phải đảm bảo thời gian cách ly và theo hướng dẫn trên bao bì. 4. Bệnh hại rau màu * Bệnh lở cổ rễ: - Bệnh gây hại nặng nhất giai đoạn cây con, đặc biệt phát sinh mạnh nhất trong điều kiện thời tiết ẩm ướt, độ ẩm cao. - Biện pháp phòng trừ: Vệ sinh đồng ruộng và xử lý đất nếu vụ trước ruộng bị nặng. Xử lý hạt giống trước khi gieo bằng các loại thuốc trừ nấm. Khi bệnh phát sinh tỷ lệ cao dùng: Anvil 5SC, Score 250EC, Cavil 50SC * Bệnh sương mai: Gây hại trên cà chua, khoai tây, bệnh hại nặng khi thời tiết thay đổi lạnh giá, trời mưa phùn có nhiều sương mù. Bệnh làm hỏng lá, nặng có thể làm chết toàn bộ vườn cây. * Bệnh thán thư: Gây hại trên nhiều loại cây rau nhưng hại nặng nhất trên cây ớt, bệnh làm chết cây con, rụng lá và thối trái, ảnh hưởng nghiêm trọng đến năng suất và chất lượng. - Biện pháp phòng trừ: Vệ sinh sạch sẽ đồng ruộng, thu gom các tàn dư cây bị bệnh. Lên luống cao, thoát nước tốt. Bón phân cân đối tạo điều kiện cho cây sinh trưởng phát triển khỏe, tăng sức chống chịu sâu bệnh, có thể thêm tro và kali bón ở những nơi đất xấu và nơi bệnh thường xảy ra. Khi bệnh đã phát sinh gây hại và thời tiết thuận lợi cho bệnh phát triển dùng các loại thuốc như: Rhidomil MZ 72BTN, Zinep 80WP, Aliette 80WP.../. Nguyễn Huy Khánh Trung tâm BVTV vùng Khu 4 Kiểm tra sâu hại đậu tương Ảnh ngang 27 (7x10.8cm) Thông tin KH-CN Nghệ AnSỐ 9/2013 [63] TRANG TIN Phân viên nhả chậm đã được sử dụng trên 27 tỉnh thành trong cả nước, trong đó các tỉnh như: Thanh Hóa, Yên Bái, Tuyên Quang, Bắc Cạn, Hà Giang sử dụng nhiều nhất và mang lại những hiệu quả, lợi ích thiết thực đáng ghi nhận. Sử dụng phân viên nhả chậm giúp tăng năng suất cây trồng từ 10-25% so với sử dụng phân đơn, phân tổng hợp NPK, tăng chất lượng và tăng hiệu quả kinh tế trên đơn vị diện tích; Giảm giống, giảm phân hóa học, hạn chế thất thoát phân do được bón dúi sâu dưới mặt đất và lượng bón ít hơn từ 25-30% so với sử dụng phân tổng hợp NPK và phân đơn N, P, K đồng thời có tác dụng làm giảm khí N20 phát thải vào bầu khí quyển gây hiệu ứng nhà kính làm biến đổi khí hậu, giảm thuốc bảo vệ thực vật, giảm công lao động do chỉ bón phân viên nhả chậm 1 lần duy nhất và giảm công làm cỏ. Kết quả nghiên cứu của Trung tâm phân bón quốc tế cho biết: Phương pháp nông dân bón phân vãi NPK, phân đơn thì hiệu suất sử dụng phân đạm của cây chỉ đạt 30%, trong khi đó sử dụng PVNC bón dúi thì hiệu suất sử dụng phân đạm của cây đạt 70%. Bên cạnh đó, góp phần tăng cường an ninh lương thực, xóa đói giảm nghèo; góp phần chuyển đổi tập quán canh tác; hiện đại hóa nông nghiệp; bảo vệ môi trường và góp phần giữ gìn tình cảm cộng đồng. Ở Nghệ An, phân viên nhả chậm đã được thí điểm ở một số huyện như: Quế Phong, Anh Sơn bón cho cây trồng, đặc biệt là lúa, ngô. 1. Kỹ thuật bón phân viên nhả chậm cho lúa Đối với cây lúa, phân viên nhả chậm thường được sử dụng trong thời điểm trước khi gieo, cấy và có thể sử dụng theo một trong hai cách: bón dúi hoặc bón vãi. 1.1. Kỹ thuật bón dúi * Chuẩn bị Bón lót từ 300-400kg phân chuồng hoai/sào (500m2). Cày bừa làm đất như với ruộng cấy lúa bình thường. Giữ mực nước trong ruộng từ 3-5cm từ lúc cấy cho đến khi bón phân, những KỸ THUẬT BÓN PHÂN VIÊN NHẢ CHẬM CHO CÂY TRỒNG Phân viên nhả chậm (còn gọi là phân viên nén hay phân viên dúi sâu) là một biện pháp canh tác mới do PGS.TS. Nguyễn Tất Cảnh là người đầu tiên đưa ra ý tưởng, cùng với các nhà khoa học thuộc Trường Đại học Nông nghiệp Hà Nội (HUA) nghiên cứu và đã được Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn công nhận là tiến bộ kỹ thuật theo Quyết định số 1046 QĐ/BNN-KHCN ngày 11/5/2005. Phân viên nhả chậm Kỹ thuật bón dúi Thông tin KH-CN Nghệ AnSỐ 9/2013 [64] TRANG TIN ruộng kém màu mỡ, cần bón thêm 11-13kg phân lân Văn Điển hoặc supe Lâm Thao/sào. * Cấy lúa: Cấy thẳng hàng, cứ 8 hàng lúa thì để 1 khoảng rộng 30cm (đường công tác); Cấy 1-2 dảnh/khóm, khoảng cách giữa các khóm 18cm (lúa thuần)-20cm (lúa lai). * Kỹ thuật bón phân viên nhả chậm - Thời điểm bón: Bón ngay sau khi cấy, thời gian bón càng ngắn càng tốt (vụ xuân sau cấy từ 1-5 ngày, vụ hè thu - mùa sau cấy từ 1-3 ngày). - Cách bón: Dúi 1 viên phân sâu 6-8cm giữa 4 khóm lúa, cách 1 hàng dúi 1 hàng. - Lượng bón: Tùy theo mật độ cấy mà có thể bón từ 17,5-18 kg/sào 500m2. Sau khi bón dúi phải lấp đất bùn lại trên phân. - Lưu ý: Trong vòng 20-25 ngày sau khi dúi phân không được bước vào vị trí đã dúi phân để không làm xê dịch viên phân. 1.2. Kỹ thuật bón vãi * Nguyên tắc chung - Ruộng được cày bừa kỹ, đất phải nhuyễn, sạch cỏ và bừa phẳng để thuận lợi cho quá trình bón phân và tạo điều kiện cho cây lúa sinh trưởng, phát triển tốt. - Viên phân phải được nằm sâu trong lớp đất bùn, tốt nhất là ở độ sâu từ 6-8cm. - Các biện pháp kỹ thuật khác vẫn thực hiện như bình thường. * Làm đất và thời điểm bón phân viên nhả chậm - Cày lật đất (hoặc máy lồng) lần 1 để rạ và tàn dư thực vật được nằm sâu trong đất. Trong điều kiện cho phép, trước khi cày lật đất, phun dung dịch vi sinh vật (EMINA, AZOTOBACTER,...) để rạ và tàn dư thực vật phân hủy nhanh hơn và bổ sung vi sinh vật cố định đạm cho đất. - Đối với loại đất có tầng canh tác mỏng: Bón vãi phân viên nhả chậm trước lần bừa (hoặc lồng máy) cuối cùng. Bón xong cho bừa (hoặc máy lồng) đất lần cuối và trang phẳng. Làm đất xong sẽ tiến hành gieo sạ hoặc cấy. Đối với loại đất có tầng canh tác dày, đất lầy thụt: Ngay sau khi bừa lần cuối cùng, khi bùn đất còn loãng sẽ bón phân viên nhả chậm ngay. Khi bón ném mạnh tay để phân chìm sâu trong đất, bón xong trang phẳng. Sau khi trang phẳng sẽ tiến hành gieo sạ hoặc cấy. * Theo dõi sinh trưởng của lúa: Sử dụng bảng so màu lá để xác định tình hình sinh trưởng của lúa. Nếu màu lá có biểu hiện thiếu đạm, cần bón bổ sung phân vào cuối vụ. * Lượng phân bón - Phân chuồng hoai: từ 300- 400kg/sào (500m2) bón lót trước khi bừa cấy, trước khi bón phân viên nhả chậm. - Lượng bón phân viên nhả chậm: 18-19kg/sào (500m2). - Khuyến cáo: 1/ Đối với các ruộng kém màu mỡ cần bón thêm phân lân với lượng 11-13kg/sào (bón lót, trước khi bón phân viên). 2/ Khi làm đất lần cuối, tránh phân bị dồn trên bề mặt làm cho chỗ nhiều chỗ ít phân. 2. Kỹ thuật bón phân viên nhả chậm cho cây ngô 2.1. Đối với đất bãi * Kỹ thuật làm đất - Đất trồng ngô cần cao, thoát Sử dụng phân viên nhả chậm cho ngô và lúa Thông tin KH-CN Nghệ AnSỐ 9/2013 [65] TRANG TIN nước tốt không bị úng khi gặp mưa to. - Đất có thành phần cơ giới nhẹ, tầng canh tác dầy, tơi xốp giầu dinh dưỡng, có độ pH trung tính từ 6-7. - Đất phải đạt độ ẩm 70-80%. - Đất được cày sâu, san phẳng, làm sạch cỏ dại và tàn dư cây trồng vụ trước để phòng trừ và hạn chế sâu bệnh hại. - Rạch hàng sâu 15-20cm, mật độ trồng 70 x 25cm hay 70 x 30cm * Bón lót phân - Bón lót: 300-400kg/sào phân chuồng hoai mục. - Phân lân Lâm Thao bón 14- 16kg/sào (hoặc phân lân vi sinh 20kg/sào). - Nên kết hợp bón Basudin 10H để diệt sâu xám, dế, sâu bọ khác... có trong đất. Lượng bón từ 1-1,3kg/sào. - Sau khi bón phân lấp phủ lên bề mặt một lớp đất mỏng trước khi gieo hạt. * Gieo hạt - Gieo mỗi hốc 1-2 hạt khoảng cách giữa các hạt là 25-30cm. - Khi cây 2-3 lá thật tiến hành kiểm tra và nhổ tỉa cây chỉ để 1 cây/hốc. * Bón phân viên nhả chậm cho ngô - Bón 2 viên cho 1 cây/hốc. Viên phân được bón cách hạt ngô khoảng 10cm, độ sâu bón 10cm so với mặt luống ngô. - Lượng bón: 400 - 490kg/ha, (20-24,5kg/sào 500m2). - Phân viên nhả chậm chỉ bón một lần cho cả vụ. Do đó, yêu cầu việc bón phải chính xác, hạn chế sai sót trong quá trình thực hiện. - Nếu đất trồng khô, ngô không đủ độ ẩm khi bón phân viên nhả chậm cần ấn chặt đất để giảm sự bốc hơi của viên phân. * Chăm sóc + Tưới nước Thời kỳ cây con 7-8 lá: Độ ẩm đất 75-85%, tuyệt đối không để ruộng ngô bị ngập úng. Thời kỳ 9 lá đến trỗ cờ, phun râu, kết hạt: Cần tưới nhiều nước tốt nhất là lượng nước tưới thấm rãnh ngô. Thời kỳ chín không cần tưới nhiều nước, chỉ giữ độ ẩm 75- 85%. + Làm cỏ xới xáo tỉa dặm - Sau khi gieo ngô xong, nên tủ mặt luống bằng rơm rạ, thân ngô hoặc cỏ khô. - Sau khi gieo ngô một tuần cần kiểm tra các cây bị khuyết để giặm lại bằng hạt ngô đã ủ cho nứt nanh. - Khi ngô 4-5 lá cần loại cây yếu, quá dày, chỉ để lại các cây để đảm bảo mật độ. - Làm cỏ: Nếu không tủ luống như đã hướng dẫn cần làm cỏ, xới xáo đất và vun gốc. + Lần 1: Khi ngô đạt từ 3-4 lá, làm cỏ, xới xáo đất kết hợp vun nhẹ đất vào gốc cây. + Lần 2: Khi ngô đạt 7-8 lá, làm cỏ, xới xáo đất kết hợp vun gốc cao. - Theo dõi sâu bệnh phát sinh để kịp thời phòng trừ theo hướng dẫn của ngành Bảo vệ thực vật. 2.2. Bón phân cho ngô trên ruộng hai vụ lúa - Sau khi gặt lúa vụ hè thu - mùa còn nhiều nước hoặc quá ẩm ướt cần phải dùng biện pháp lên luống để gieo hạt hoặc đặt bầu. - Lên luống rộng 80-90cm, rãnh 50-60cm. - Đặt hạt giống hoặc bầu cách mép luống 5-10cm, hạt cách nhau 25-30cm. - Mỗi hạt/bầu dúi 2 viên phân, viên phân cách hạt/bầu 10cm và dúi ở độ sâu 8-10cm. 2.3. Đối với đất dốc, đất đồi * Đối với đất có độ dốc thấp 7-100 - Cày rạch hàng sâu 15-20cm, hàng cách hàng 70cm để bón phân và gieo hạt. - Bón phân, chăm sóc, phòng trừ sâu bệnh hại: giống như áp dụng với đất bãi (mục A). - Cần áp dụng biện pháp che phủ đất bằng tàn dư thực vật hoặc nilon để chống xói mòn và giữ ẩm cho đất. * Đối với đất có độ dốc cao trên 100 - Không cày bừa giống như đối với đất bãi bằng, chỉ dùng dụng cụ chọc lỗ bỏ hạt và bỏ phân viên nhả chậm. - Chọc lỗ bỏ hạt: Mỗi hốc bỏ 1-2 hạt ngô giống. Mật độ: 80cm x 25-30cm (hàng cách hàng 80 cm, hốc cách hốc 25-30cm). - Bón phân viên nhả chậm: Chọc 2 lỗ cách 8-10cm và sâu 10cm ở hai bên hốc đã gieo ngô. Mỗi lỗ bỏ 1 viên phân, bỏ xong lấp đất và ấn nhẹ để đất đủ chặt. - Cần phải che phủ cho đất sau khi trồng bằng tàn dư thực vật như thân ngô, cỏ khô,... * Lưu ý chung - Phân viên nhả chậm chỉ bón một lần duy nhất cho cả vụ sản xuất lúa, ngô. Do đó, yêu cầu về liều lượng phân bón, phương pháp bón phải chính xác, hạn chế sai sót trong quá trình thực hiện. - Nếu đất khô cây ngô sẽ thiếu độ ẩm. Khi bón phân viên nhả chậm cần ấn chặt đất để giảm sự bốc hơi của viên phân, tốt nhất nên che phủ cho ngô sau trồng bằng các tàn dư thực vật, cỏ khô để giữ ẩm cho đất./. Nguyễn Huy Khánh Trung tâm BVTV Vùng Khu 4 Thông tin KH-CN Nghệ AnSỐ 9/2013 [66] TRANG TIN TIN KH&CN TRONG NưỚC CHế TẠO ĐIỆN CỰC xử Lý CHấT THẢI CÔNG NGHIỆP Được sự hỗ trợ của Chương trình đối tác đổi mới sáng tạo Việt Nam - Phần Lan (IPP), Công ty TNHH Phát triển ứng dụng kỹ nghệ mới - SAV đã nghiên cứu chế tạo thành công máy sấy thóc bằng năng lượng mặt trời, sử dụng ống nhiệt thủy tinh chân không. Máy gồm bộ thu năng lượng mặt trời kiểu ống nhiệt thủy tinh chân không có cánh, công suất tạo nhiệt 5kW; buồng sấy thóc cơ khí theo kiểu đối lưu cưỡng bức, công suất 500kg (từ thóc ướt có độ ẩm 30-33% xuống độ ẩm 13- 14% trong 1 ngày nắng). Máy phù hợp với quy mô nông hộ./. MÁY SấY THÓC BằNG NăNG LượNG MặT TRờI TS. Nguyễn Ngọc Phong và các đồng nghiệp của Viện Khoa học Vật liệu, Viện Hàn lâm Khoa học và Công nghệViệt Nam đã nghiên cứu và chế tạo thành công điện cực anot trơ, có độ bền cao, dùng trong công nghiệp điện hóa, oxy hóa điện hóa gián tiếp hoặc trực tiếp các chất độc hại trong nước thải công nghiệp. Theo đó, nước thải sẽ qua một bể chứa để làm sạch với nhiều công đoạn. Trong khâu điện phân, điện cực được chế tạo sẽ phân hủy các chất như phenol, các chất trong thuốc nổ, thuốc phóng Nước đầu ra đảm bảo Tiêu chuẩn Việt Nam loại B cho phòng thí nghiệm, với công suất 7m3/ngày. Kết quả của đề tài đã được áp dụng thành công nhiều năm nay ở Nhà máy sản xuất Thuốc nổ - Pháo hoa Z121 của quân đội./. Nông dân Nguyễn Hoàng Phi (ấp Hòa Thạnh, xã Châu Phong, TX.Tân Châu) đã sáng chế thành công máy phun thuốc điều khiển từ xa và tự động cuộn dây trên đồng đem lại nhiều lợi ích thiết thực và kinh tế cho nông dân. Chiếc máy phun thuốc điều khiển từ xa này có trọng lượng tương đương với những chiếc bình phun thuốc trừ sâu bình thường, song điểm đặc biệt của nó nằm ở chỗ, chỉ cần mang máy đến ruộng, đặt bình trên bờ ruộng là máy đã có thể hoạt động. Ưu điểm nổi trội của máy là giảm thời gian trộn thuốc, nông dân ít tiếp xúc với hóa chất. Cục Sở hữu trí tuệ đã chấp nhận đơn xin cấp bằng sáng chế độc quyền cho sản phẩm này của anh Nguyễn Hoàng Phi. Trong tương lai gần, anh hi vọng sản phẩm của mình sẽ đến được tay nhiều người nông dân trong cả nước./. MÁY PHUN THUỐC TRỪ SÂU ĐIềU KHIểN TỪ xA Thông tin KH-CN Nghệ AnSỐ 9/2013 [67] TRANG TIN Tập đoàn ABI (Nhật Bản) vừa chuyển giao cho Việt Nam công nghệ CAS thông qua hợp tác quốc tế. Đây là công nghệ bảo quản thực phẩm hiện đại nhất hiện nay giúp cho nông sản, thủy sản, thực phẩm tươi ngon đạt tới mức 99,7% như dạng “tươi sống”. Công nghệ này hứa hẹn giải quyết bài toán khó cho nền nông nghiệp Việt Nam khi xuất khẩu ra thị trường thế giới. CAS là công nghệ hoạt động theo nguyên lý kết hợp giữa đông lạnh nhanh ở nhiệt độ - 450C với từ trường, đối tượng được đông lạnh là hải sản, nông sản, thực phẩm... Các nhà khoa học Nhật Bản đã chứng minh trong thực tế, sau từ 1-2 năm, thậm chí là 10 năm tùy theo sản phẩm, thực phẩm sau khi bảo quản có chất lượng tươi ngon đạt 99,7% so với khi mới thu hoạch, giữ nguyên được cấu trúc, hương vị, màu sắc và dinh dưỡng. Trong khi ở Việt Nam, hoa quả đã qua thuốc bảo quản cũng chỉ để được cùng lắm 2 tháng; gạo bị mủn sau 1-2 năm. Thời gian tới, Trung tâm công nghệ CAS sẽ hợp tác nghiên cứu ứng dụng, trao đổi công nghệ CAS với các viện nghiên cứu, trường đại học có liên quan đến bảo quản chế biến nông sản, hải sản, thực phẩm, và y học để sử dụng có hiệu quả thiết bị và công nghệ CAS vào các lĩnh vực./. CÔNG NGHỆ CAS GIúP NÔNG, THỦY SẢN, THỰC PHẩM TươI NGON ĐẠT TỚI 99,7% CHế TẠO THÀNH CÔNG MÁY xử Lý RÁC THẢI VỚI GIÁ THấP Từ thực tế hoạt động của doanh nghiệp, anh Trần Văn Kiều - Giám đốc Công ty TNHH Tân Thiên Phú, huyện Xuân Trường, tỉnh Nam Định, đã chế tạo thành công máy nghiền rác thải. Máy có công suất nghiền 5-7 tấn rác thải tổng hợp/giờ, có thể nghiền 3-5 tấn rác thải rắn thành bột/giờ, tiêu thụ 15kW điện/giờ. Bên cạnh đó, máy có khả năng nghiền các loại rác hữu cơ, vô cơ; tách được chất thải nhẹ như túi nilon và nghiền nhỏ các loại chất thải rắn sinh hoạt như gạch, ngói Ưu điểm của máy là đơn giản, dễ vận hành. Tổng vốn đầu tư máy thấp, khoảng 300 triệu đồng/máy và chi phí xử lý rác thấp, khoảng 15.000 đồng/tấn. Năm 2012, máy xử lý rác thải trên đã được Tổng cục Tiêu chuẩn đo lường chất lượng kiểm định và cấp phép quyền sử dụng./. Các giáo sư, tiến sĩ Trường Đại học Y Dược thành phố Hồ Chí Minh đã nghiên cứu thành công màng sinh học chữa bỏng chất lượng cao, có khả năng che phủ, giúp vết bỏng mau lành, dễ dàng lấy màng ra khỏi vết thương, giảm đau đớn cho bệnh nhân. Các nhà khoa học đã chọn được một vật liệu khá độc đáo để nghiên cứu đó là nước dừa khô. Vật liệu này là nguồn nguyên liệu để nuôi cấy vi khuẩn Acetobacter xylinum tạo màng. Màng này sẽ kết hợp với các hoạt chất tái sinh mô từ dầu mù u và tinh dầu tràm trà Ôxtrâylia, kết quả tạo ra chế phẩm có tên là màng Acetul. Nhờ thành phần chế tạo, màng Acetul có tính cản khuẩn tuyệt đối, đồng thời có tác dụng chống viêm, phù nề và kích thích tái tạo mô và biểu mô hóa vết thương. Được thiết kế rất nhẹ và mỏng (0,2mm) nên khi đắp lên vết thương, màng Acetul không khác gì một miếng da tự nhiên./. CHế PHẩM SINH HọC CHữA BỏNG Thông tin KH-CN Nghệ AnSỐ 9/2013 [68] TRANG TIN TIN KH&CN THế GIỚI Một hệ thống an ninh mới có tên Canary do 3 nhà sáng chế người Mỹ là Adam Sager, Chris Rill và Jon Troutman chế tạo hoạt động thông minh hơn. Thiết bị này dài hơn 15cm, tích hợp camera có khả năng quan sát ban đêm, microphone để theo dõi những thay đổi về âm thanh, các cảm biến không khí, độ ẩm, nhiệt độ phát hiện chuyển động hồng ngoại chủ động. Có thể tùy chỉnh chế độ cài đặt vào những khoảng thời gian nhất định trong ngày hoặc trong tuần. Những cảm biến khác có thể được kích hoạt hoặc vô hiệu hóa tùy thuộc vào nó có cần thiết hay không. Người dùng có thể kiểm tra hệ thống từ xa vì thiết bị này có thể sử dụng mạng wifi và được đồng bộ với điện thoại thông minh. Nếu có kẻ trộm xâm nhập, Ca- nary sẽ quét hình ảnh và gửi báo cáo tình hình cho người sử dụng. Khi đó, người sử dụng sẽ nhận được một tin nhắn báo động và có thể chọn cách gọi cảnh sát, phát chuông báo động để xua đuổi kẻ trộm. Hệ thống cũng cảnh báo người sử dụng nếu có bất cứ diễn biến nào khác thường, chẳng hạn những thay đổi đột ngột về THIếT Bị BÁO ĐộNG THÔNG MINH nhiệt độ có thể do một đám cháy. Càng gửi đi nhiều báo động, thiết bị càng theo dõi được cách ứng xử và thói quen của người sử dụng, từ đó có phản ứng khôn ngoan hơn đối với những thay đổi nhất định. Thiết bị này có 3 màu trắng, đen, bạc và được bán với giá 199 USD./. SÁNG CHế VẢI CHỐNG THấM LÀM RÁO MỒ HÔI Các chuyên gia công nghệ sinh học tại Đại học California đã sáng chế ra loại vải chống thấm làm bay mồ hôi bằng cách ứng dụng công nghệ vi lỏng. Loại vải mới hoạt động như da người, định hình mồ hôi dư thừa thành giọt và để chúng tự khô. Ứng dụng công nghệ sử dụng những rãnh siêu nhỏ để điều khiển chất lỏng, nhóm nghiên cứu phát triển một kỹ thuật dệt vi lỏng mới sử dụng chỉ ưa nước (hút nước) khâu vào loại vải không thấm nước tốt, từ đó tạo ra các mẫu hoa văn hút các giọt nước ở một mặt của tấm vải, đẩy chúng dọc các sợi chỉ và tống ra ở mặt bên kia. Không chỉ có các sợi chỉ dẫn nước thông qua tác động mao dẫn, các thuộc tính chống thấm nước của vải xung quanh cũng giúp đẩy nước xuống các rãnh. Tác dụng đẩy nước vẫn hoạt động ngay cả khi các sợi dẫn nước đã thấm đẫm, do độ chênh lệch áp suất phát sinh bởi độ căng bề mặt của các giọt nước. Trong khi đó, phần còn lại của vải vẫn hoàn toàn khô ráo và thoáng khí. Bằng cách điều chỉnh hoa văn của các sợi dẫn nước và cách khâu chúng trên mỗi mặt của vải, các nhà nghiên cứu kiểm soát được vị trí mồ hôi đọng lại và nơi nó bay hơi ở mặt ngoài. Nhóm nghiên cứu cho biết họ chủ tâm không sử dụng bất kỳ kỹ thuật gia công lạ nào nên nó phù hợp với quy trình dệt may và dễ mở rộng quy mô sản xuất./. Thông tin KH-CN Nghệ AnSỐ 9/2013 [69] TRANG TIN Các nhà nghiên cứu Singapore và Hoa Kỳ đã chế tạo được một loại gel xốp gắn các hạt nano, có khả năng diệt khuẩn, giúp người dân ở các vùng thiên tai được sử dụng nước uống an toàn. Các nhà khoa học lựa chọn sử dụng các hạt nano bạc vì các vật liệu diệt khuẩn hiệu quả khi chúng được gắn vào các màng lọc. Nhưng, các hạt nano bạc có thể gây ra trở ngại khi bạc rò rỉ vào trong nước uống. Họ hi vọng chế tạo được một vật liệu khai thác các đặc tính diệt khuẩn của bạc mà không làm bẩn nước và không gây ảnh hưởng ngoài ý muốn đến sức khỏe. Để làm được điều này, các nhà khoa học đã tổng hợp poly (sodium acrylate) trong nước ở nhiệt độ thấp, do đó băng hình thành các đốm bên trong gel polime. Khi các nhà nghiên cứu làm tan và rửa TIÊU DIỆT VI KHUẩN BằNG LOẠI GeL MỚI HỘP THƯ TÒA SOẠN Trong tháng 8-9/2013, Tòa soạn Thông tin KH&CN Nghệ An đã nhận được tin, bài, ảnh của các Vị: Hoan Châu, Nguyễn Trọng Cường, Nguyễn Quang Đạo, Lê Đình Định, Nguyễn Hữu Đức, Trần Hữu Đức, Lê Đức Hoàng, Trần Xuân Học, Nguyễn Quang Hồng, Nguyễn Huy Khánh, Hoàng Kỳ, Nguyễn Thị Lan, Nguyễn Tuấn Lộc, Vũ Xuân Nam, Trương Quế Phương, Trần Trung Thành, Nguyễn Khắc Thuần, Đào Tam Tỉnh, Nguyễn Thái Tuấn, Doãn Trí Tuệ, Nguyễn Thái Tự. HĐBT và Tòa soạn xin trân trọng cảm ơn và mong tiếp tục nhận được sự cộng tác của Quý vị! Thông tin KH&CN Nghệ An Nguồn: Khoa học phổ thông, Báo Xây dựng, Tạp chí Hoạt động khoa học, Báo Đất Việt, NASATI Tổng hợp tin: Trần Hoa, Huyền Trang vật liệu, băng tan chảy để lộ các lỗ trong gel. Tiếp theo, gel được nhúng trong dung dịch bạc nitrat, sau đó là sodium borohy- dride, đã làm giảm các ion bạc và phủ lên bề mặt lỗ của gel những hạt nano bạc. Vật liệu xốp, nhẹ được tạo thành hấp thu nước dễ dàng và trở lại hình dạng ban đầu sau khi được ép. Thử nghiệm gel bằng cách sử dụng nó để hút nước có chứa 2 loại vi khuẩn Es- cherichia coli và Bacillus subtilis. Sau 15 giây ở trong gel, số lượng vi khuẩn trong nước được ép ra chiếm 0,1% mức ban đầu. Khi thời gian tiếp xúc tăng lên 5 phút, lượng vi khuẩn trong nước đã xử lý chiếm khoảng 1 phần triệu số lượng vi khuẩn có trong nước bẩn. Với thời gian xử lý như vậy, nhóm nghiên cứu có thể biến nước không an toàn thành nước uống. Hơn nữa, hàm lượng bạc trong nước đã lọc nằm trong giới hạn cho phép theo khuyến cáo của Tổ chức Y tế Thế giới. Các nhà nghiên cứu cho rằng gel giải phóng ít bạc vì các hạt nano liên kết chặt với vật liệu polime của gel. Kết quả nghiên cứu cho thấy, 4g vật liệu - hình trụ có đường kính 1,5cm và dài 9cm - có thể hấp thu và lọc một nửa lít nước trong một lần ép. Gel có thể tái sử dụng hơn 20 lần mà không bị hỏng hoặc mất khả năng diệt khuẩn./.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • pdfbv1_3756_2130591.pdf
Tài liệu liên quan