Báo cáo Tìm hiểu quản trị học

Tài liệu Báo cáo Tìm hiểu quản trị học: PHẦN I: MỞ ĐẦU Hàng ngày, trong cuộc sống hay trong kinh doanh thì chúng ta thường phải đối mặt với rất nhiều vấn đề cần giải quyết. Trong mỗi vấn đề, chúng ta cần xác định nội dung, mục tiêu cần đạt đến và thu thập thông tin, nhận diện và đánh giá những khả năng có thể xảy ra để đưa ra các quyết định hợp lý nhất. Như vậy có thể nói việc ra quyết định là một công việc rất quan trọng và nó cũng là một chức năng chính yếu của các nhà quản trị. Thông qua các quyết định, nhà quản trị thể hiện vai trò của mình và thúc đấy tổ chức đạt đến mục tiêu đã chọn. Việc ra quyết định thành công trong một tổ chức phụ thuộc vào việc bổ nhiệm công việc và phân công nhiệm vụ rõ ràng, cụ thể cho từng đối tượng. Việc này nghe thì có vẻ đơn giản, nhưng nhiều công ty phải khó khăn lắm để đưa ra được các quyết định bởi vì có quá nhiều các thành viên trong tổ chức đều cảm thấy rằng mình phải có trách nhiệm - hoặc chẳng ai nghĩ là mình có tí trách nhiệm nào cả. Để làm được điều trên, bạn có thể bắt đầu bằng...

doc37 trang | Chia sẻ: haohao | Lượt xem: 1386 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem trước 20 trang mẫu tài liệu Báo cáo Tìm hiểu quản trị học, để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
PHẦN I: MỞ ĐẦU Hàng ngày, trong cuộc sống hay trong kinh doanh thì chúng ta thường phải đối mặt với rất nhiều vấn đề cần giải quyết. Trong mỗi vấn đề, chúng ta cần xác định nội dung, mục tiêu cần đạt đến và thu thập thông tin, nhận diện và đánh giá những khả năng có thể xảy ra để đưa ra các quyết định hợp lý nhất. Như vậy có thể nói việc ra quyết định là một công việc rất quan trọng và nó cũng là một chức năng chính yếu của các nhà quản trị. Thông qua các quyết định, nhà quản trị thể hiện vai trò của mình và thúc đấy tổ chức đạt đến mục tiêu đã chọn. Việc ra quyết định thành công trong một tổ chức phụ thuộc vào việc bổ nhiệm công việc và phân công nhiệm vụ rõ ràng, cụ thể cho từng đối tượng. Việc này nghe thì có vẻ đơn giản, nhưng nhiều công ty phải khó khăn lắm để đưa ra được các quyết định bởi vì có quá nhiều các thành viên trong tổ chức đều cảm thấy rằng mình phải có trách nhiệm - hoặc chẳng ai nghĩ là mình có tí trách nhiệm nào cả. Để làm được điều trên, bạn có thể bắt đầu bằng việc tìm hiểu cách ra quyết định của cá nhân mình. Hãy tự hỏi rằng khi phải ra một quyết định, bạn sẽ có xu hướng dựa vào bản thân là chính hay đi tìm tiếng nói chung của mọi người? Bạn có chọn một giải pháp trung hòa là tham khảo ý kiến của những người khác, nhưng sẽ tự mình ra quyết định cuối cùng không? PHẦN II: NỘI DUNG KHÁI NIỆM. Quyết định là việc công bố hay công nhận một vấn đề đối với tổ chức hay cá nhân nào đó có tính thực thi bắt buộc. Ra quyết định là nhiệm vụ quan trọng nhất của nhà quản trị. Quyết định quản trị có thể có ảnh hưởng đến vấn đề rất quan trọng của tổ chức như sự tồn tại và phát triển của tổ chức đó, hoặc có thể ảnh hưởng đến vấn đề thứ yếu hơn. Tuy nhiên, tất cả các quyết định đều có ảnh hưởng, dù lớn hay nhỏ, đến kết quả hoạt động của của tổ chức. Vì sự sống còn của các tổ chức, những nhà quản trị cần phải phát triển được những kỹ năng ra quyết định. Kỹ năng ra quyết định là một loạt các kết luận và hoạt động của bản thân để đưa ra một quyết định đảm bảo đạt được một kết quả nào đó theo mong muốn của bản thân. BẢN CHẤT, VAI TRÒ VÀ CHỨC NĂNG CỦA QUYẾT ĐỊNH. Trong mọi tổ chức luôn luôn tồn tại nhu cầu giải quyết các vấn đề nảy sinh trong quá trình quản trị. Để giải quyết các vấn đề này người ta thường phải xây dựng và lựa chọn các phương án tối ưu, đòi hỏi các nhà quản trị phải cân nhắc, lựa chọn và đi đến quyết định. Bản chất. Quyết định quản trị là hành vi sáng tạo của nhà quản trị nhằm định ra chương trình và tính chất hoạt động của tổ chức để giải quyết một vấn đề đã chín muồi, trên cơ sở sự hiểu biết các quy luật vận động khách quan của hệ thống bị quản trị và việc phân tích các thông tin của hệ thống đó. Vai trò. Các quyết định quản trị có vai trò rất quan trọng vì: Các quyết định luôn luôn là sản phẩm chủ yếu và là trung tâm của mọi hoạt động về quản trị. Sự thành công hay thất bại của cá nhân, tổ chức phụ thuộc rất nhiều vào các quyết định của nhà quản trị. Không thể thay thế các quyết định quản trị bằng tiền bạc, vốn liếng, sự tự điều chỉnh hoặc bất cứ thứ tự động hóa bằng máy móc tinh xảo nào. Mỗi quyết định quản trị là một khâu trong toàn bộ hệ thống các quyết định của một tổ chức có sự tương tác lẫn nhau rất phức tạp. Không thận trọng trong việc ra các quyết định, thường có thể dẫn tới những hậu quả khôn lường. Chức năng của các quyết định. Quyết định là trái tim của mọi hoạt động quản trị nó cần phải thực hiện được những chức năng chủ yếu sau: Lựa chọn phương án tối ưu. Định hướng. Bảo đảm các yếu tố thực hiện. Phối hợp hành động. Chức năng động viên, cưỡng bức. Bảo đảm tính thống nhất trong thực hiện. Bảo đảm tính hiệu quả trong kinh doanh. Bảo đảm tính hiệu lực. Bảo mật. MỤC TIÊU CỦA CÁC QUYẾT ĐỊNH. Thông thường mục tiêu được hiểu là cái đích để nhắm vào hay cần đạt tới để hoàn thành nhiệm vụ. Như vậy mục tiêu của các quyết định là những đích cần đạt được trong các quyết định về quản trị. Trong thực tế chúng ta cũng thường gặp thuật ngữ mục đích của các quyết định? Vậy mục đích là gì? Quan hệ nó với mục tiêu ra sao. Người ta thường cho rằng mục đích là cái đích cuối cùng cần phải đạt được trong các quyết định quản trị và mục tiêu là những cái đích cụ thể cần đạt để đạt được mục đích cuối cùng. Sự cần thiết khách quan của mục tiêu là ở chỗ không thể ra quyết định quản trị mà không có mục tiêu, vì mục tiêu là một lĩnh vực hoạt động tất yếu, là cơ sở, là điểm xuất phát của mọi hoạt động quản trị khác. Mục tiêu có vai trò quan trọng trong việc ra quyết định quản trị ở chỗ nó có tính định hướng cho các hoạt động, là cơ sở để đánh giá các phương án, các quyết định, và là căn cứ để đề ra các quyết định quản trị. Xác định đúng đắn mục tiêu trong việc ra quyết định quản trị là một yêu cầu hết sức quan trọng, cần phải giải quyết vấn đề xác định mục tiêu như thế nào cho khoa học nhất. Dưới đây là những cơ sở khoa học chủ yếu: Những vấn đề cốt lõi cần giải quyết khi phải ra quyết định là gì? Hoàn cảnh cụ thể ở bên trong và bên ngoài của mỗi đơn vị trong khi giải quyết các tình huống phải ra quyết định; Tình thế trước mắt cũng như lâu dài đối với mỗi tổ chức khi thực hiện các quyết định đã được lựa chọn; Đòi hỏi của việc sử dụng các qui luật khách quan trong lĩnh vực ra quyết định và thực hiện các quyết định quản trị. Khả năng tổ chức thực hiện các quyết định của những người thừa hành. Sự tồn tại của các cơ sở khoa học là khách quan, tuy nhiên việc nhận thức chúng cho đúng không phải là chuyện dễ dàng. Do đó nâng cao trình độ và cung cấp điều kiện cùng những phương tiện hiện đại cho những người tham gia lựa chọn và quyết định mục tiêu trong việc ra quyết định là điều hết sức cần thiết. NỘI DUNG VÀ HÌNH THỨC CỦA CÁC QUYẾT ĐỊNH. Nội dung của các quyết định Các quyết định rất khác nhau về những nội dung cụ thể cần giải quyết. Xét về bản chất, nội dung là nơi thể hiện tập trung cốt lõi các quyết định về quản trị. Như vậy bản chất của nội dung các quyết định về cơ bản cũng chính là bản chất của các quyết định, nó thể hiện ý chí, giải pháp, công cụ và mục tiêu cần đạt được của những người ra quyết định. Nội dung của các quyết định có thể được phân loại theo chức năng (kế hoạch, lãnh đạo, tổ chức,...); theo lĩnh vực (sản xuất, kinh doanh, thị trường,...); theo cấp độ (chiến lược, tác nghiệp,...); theo kiểu ra quyết định (cá nhân, hay tập thể,...) Nội dung của các quyết định phải thể hiện được những việc cần làm, ai làm, làm như thế nào, làm trong bao lâu, kết quả gì cần đạt được,... Hơn thế nữa, nội dung các quyết định không được chồng chéo, bất nhất, phải rõ ràng, khả thi, thực tế và hợp lý. Nội dung của các quyết định chịu ảnh hưởng của các nhóm yếu tố chính sau: Trình độ của người ra quyết định, môi trường ra quyết định, hoàn cảnh và điều kiện ra quyết định,... Thông thường, mỗi quyết định có một nội dung cụ thể, song phải gồm những yếu tố cơ bản sau: - Căn cứ ra quyết định. - Quyết định về vấn đề gì, về ai hay về việc gì. - Hiệu lực của quyết định đối với ai, đối với cái gì, ở đâu và trong khoảng thời gian nào. - Trách nhiệm, quyền hạn, quyền lợi, khen thưởng, xử phạt (nếu thấy cần thiết phải quy định rõ). Hình thức của các quyết định Cùng một nội dung, nhưng việc ra các quyết định có thể dưới nhiều hình thức khác nhau: bằng miệng, bằng văn bản, bằng thông báo nội bộ, bằng các quyết định chính thức,... Hình thức là công cụ để chuyển tải nội dung, vì thế hình thức của các quyết định có vai trò rất quan trọng trong việc truyền đạt nội dung ý tứ, tinh thần của mỗi quyết định. Hình thức ra quyết định bằng văn bản sẽ là cần thiết khi nội dung của các quyết định là quan trọng. Hơn thế nữa cũng là bằng văn bản, nhưng quyết định nào được ra ở cấp lãnh đạo càng cao, thì hiệu lực của quyết định càng mạnh,... * Những hình thức ra quyết định chủ yếu: bằng miệng, bằng văn bản, thông báo, nghị quyết, quyết định chính thức,... * Yêu cầu: Hình thức của các quyết định phải đơn giản dễ hiểu, gây ấn tượng, phù hợp với nội dung, phù hợp với đối tượng thực hiện quyết định. * Lựa chọn hình thức thích hợp: cùng một nội dung người ta có thể ra quyết định bằng nhiều hình thức khác nhau, do đó cần lựa chọn hình thức phù hợp và có hiệu quả nhất. TIẾN TRÌNH RA QUYẾT ĐỊNH Nguyên tắc của việc ra các quyết định Những nguyên tắc chung về quản trị cũng là những nguyên tắc về việc ra quyết định, tuy nhiên trong việc ra quyết định người ta thường đặc biệt chú trọng thực hiện các nguyên tắc sau: - Quyết đoán; - Khoa học; - Khách quan; - Thống nhất; - Gắn chặt quyền lợi, quyền hạn và trách nhiệm; - Tạo ra sự năng động sáng tạo trong tổ chức; - Không chồng chéo; - Kịp thời; - Hiệu quả; Áp dụng các nguyên tắc vào từng trường hợp ra quyết định cụ thể đòi hỏi các nhà quản trị phải vận dụng, phải sáng tạo, không được cứng nhắc, phải phù hợp với hoàn cảnh thực tế ở mỗi đơn vị. Môi trường ra quyết định Trong điều kiện lý tưởng thì các nhà quản trị sẽ ra quyết định khi biết mọi thông tin và có đủ nguồn lực cần thiết để giải quyết vấn đề. Tuy nhiên trong thực tế họ luôn phải đối phó với những rủi ro, bất trắc từ môi trường. Môi trường ra quyết định là những lực lượng và yếu tố bên ngoài hệ thống ra quyết định nhưng lại có ảnh hưởng sâu sắc tới việc ra quyết định. Nhận thức đúng đắn ảnh hưởng của môi trường để cải tạo, thích nghi và để tạo ra những điều kiện thuận lợi cho việc đưa ra được những quyết định đúng đắn và khoa học là một việc cần quan tâm. Các yếu tố cấu thành môi trường ra quyết định: - Môi trường bên ngoài doanh nghiệp: xã hội, kinh tế, pháp luật, tự nhiên, gia đình,... - Môi trường bên trong doanh nghiệp: văn hóa công ty, cơ cấu tổ chức, cơ sở vật chất, quan hệ,... Để tạo ra bầu không khí ra quyết định được thuận lợi và thoải mái, người ta phải biết cách phân tích ảnh hưởng của môi trường tới quá trình ra quyết định. Nội dung của những cuộc phân tích này là nhằm vào việc phân tích cơ chế, qui luật ảnh hưởng của từng yếu tố môi trường đến các mặt của hoạt động ra quyết định. Trên cơ sở những phân tích môi trường ra quyết định người ta sẽ tìm ra các giải pháp thích hợp để cải tạo, biến đổi, thích nghi và tồn tại chung với chúng một cách có lợi nhất. c. Tiến trình ra quyết định Stephen P. Robbins và Mary Coulter đề xuất tiến trình ra quyết định bao gồm 8 bước. Tiến trình này bắt đầu bằng việc xác định vấn đề, đưa ra các tiêu chuẩn của quyết định, lượng hóa các tiêu chuẩn, xây dựng các phương án, đánh giá và lựa chọn phương án tối ưu, tổ chức thực hiện phương án đã lựa chọn và cuối cùng là đánh giá tính hiệu quả của quyết định. Bước 1: Xác định vấn đề Trước hết cần phải xác định có cần phải quyết định hay không hay có nghĩa là có một vấn đề thực sự không. Việc tìm ra vấn đề là một bước quan trọng trong tiến trình ra quyết định, vì không thể sửa sai khi không biết cái sai là gì. Xác định cái sai và mô tả cái sai chính là công việc liên tục tìm và xử lý thông tin, do đó phải có hệ thống thu thập thông tin hiệu quả. Đây là bước đầu tiên của tiến trình ra quyết định nhưng lại rất quan trọng như một nhà quản trị nổi tiếng đã nói: “Xác định đúng vấn đề là thành công được một nửa công việc”. Bước 2: Xác định các tiêu chuẩn của quyết định Một khi vấn đề đã được xác định để hướng sự nỗ lực của nhà quản trị vào việc giải quyết nó, xác định các tiêu chuẩn của quyết định là bước tiếp theo cần phải làm. Tiêu chuẩn của quyết định nghĩa là những căn cứ được xem xét để đi đến sự chọn lựa quyết định. Ví dụ như việc mua máy tính, những tiêu chuẩn này bao gồm giá cả, dịch vụ, thời gian bảo hành, độ tin cậy, mẫu mã. Trong bước này, việc xác định không đầy đủ những tiêu chuẩn (đặc biệt những tiêu chuẩn ảnh hưởng nhiều đến quyết định) sẽ có thể dẫn đến tính kém hiệu quả của quyết định. Bước 3: Lượng hóa các tiêu chuẩn Các tiêu chuẩn được liệt kê ở bước 2 thường có mức độ quan trọng khác nhau đối với quyết định, vì vậy chúng ta cần phải đo lường mức độ quan trọng của các tiêu chuẩn này để có thứ tự ưu tiên chính xác khi chọn lựa quyết định. Lượng hóa các tiêu chuẩn như thế nào? Một cách đơn giản là chúng ta sẽ sử dụng hệ số 10 cho tiêu chuẩn có ảnh hưởng quan trọng nhất đến quyết định và sử dụng hệ số thấp hơn cho những tiêu chuẩn kém quan trọng. Bước 4: Xây dựng các phương án Bước này đòi hỏi nhà quản trị phải đưa ra được các phương án mà những phương án này có thể giải quyết được vấn đề. Một quyết định quản trị chỉ có thể có hiệu quả cao khi nhà quản trị dành nhiều nỗ lực để tìm kiếm nhiều phương án khác nhau. Ví dụ về vấn đề mua máy tính, các phương án được đề xuất, đơn giản đó là những máy tính khác nhau như Acer TravelMate 290, IBM ValuePoint P/60D, ... Bước 5: Đánh giá các phương án Những phương án đã được đề xuất ở bước trên cần được phân tích thận trọng. Những điểm mạnh và những hạn chế/điểm yếu của từng phương án sẽ được đánh giá dựa trên các tiêu chuẩn đã được xây dựng. Bước 6: Lựa chọn phương án tối ưu Bước này đòi hỏi nhà quản trị phải thực hiện hành động có tính then chốt đó là quyết định phương án nào được chấp nhận giữa các giải pháp đã được phân tính, đánh giá. Tuy nhiên, trong thực tiễn quản trị, việc chọn lựa giải pháp tối ưu là khá khó khăn vì không phải mọi phương án đều có thể định lượng được. Bước 7: Tổ chức thực hiện quyết định Một quyết định đúng được chọn lựa ở bước trên vẫn có thể không đạt được kết quả tốt nếu việc tổ chức thực hiện quyết định kém. Để thực hiện quyết định đúng cần phải lập kế hoạch cụ thể trong đó cần nêu rõ: - Ai thực hiện? - Bao giờ bắt đầu? Bao giờ kết thúc? Tiến độ thực hiện như thế nào? - Thực hiện bằng phương tiện nào? Bước 8: Đánh giá tính hiệu quả của quyết định Khi đánh giá kết quả thực hiện quyết định cần phải cẩn thận về các mặt như: - Kết quả thực hiện mục tiêu của quyết định. - Các sai lệch và nguyên nhân của các sai lệch. - Các tiềm năng chưa được sử dụng trong quá trình thực hiện quyết định. - Các kinh nghiệm và bài học thu được. Tiến trình ra quyết định còn được đề xuất là một qui trình gồm 6 bước. Các bước này với 6 chữ đầu mỗi bước ghép thành từ tiếng Anh là DECIDE, nghĩa là Quyết Định. (1) Define the Problem (xác định vấn đề); (2) Enumerate the decision factors (Liệt kê các yếu tố ảnh hưởng đến quyết định); (3) Collect relevant information (Thu thập thông tin có liên quan); (4) Identify the Solution (Quyết định giải pháp: gồm 3 bước nhỏ là đưa ra nhiều phương án khác nhau để lựa chọn, so sánh/đánh giá các phương án và lựa chọn phương án tốt nhất); (5) Develop and Implement the solution (Tổ chức thực hiện quyết định); và (6) Evaluate the results (Đánh giá kết quả thực hiện quyết định). CÁC YẾU TỐ ẢNH HƯỞNG ĐẾN QUÁ TRÌNH RA QUYẾT ĐỊNH. Các thế lực trong tổ chức Trong một tổ chức, sự liên kết không chính thức của một nhóm nhằm vào các lợi ích riêng biệt nào đó có thể là cản trở lớn tới quá trình ra quyết định. Nhà quản trị phải nhìn thấy những cản trở này để có những biện pháp hợp lý. Các định kiến Là những niềm tin không được phân tích một cách có ý thức, các nhà quản trị thường bị các linh cảm hay trực giác đánh lừa. Trực giác và kinh nghiệm rất cần thiết cho quản trị nhưng cần phải tỉnh táo và thận trọng khi sử dụng chúng. Tính bảo thủ Đây là một vấn đề tế nhị, các nhà quản trị thường cố gắng bảo vệ các quyết định của mình mà không dũng cảm nhân ra những sai lầm, khăng khăng tiếp tục thực hiện mặc dù nhiều khi có những bằng chứng hiển nhiên về những sai lầm mắc phải. Để tránh mắc phải tính bảo thủ, nhà quản trị cần phải: - Xem xét thông tin bất lợi một cách nghiêm túc thay vì lờ đi hay phản bác chúng. - Sẳn sàng dẹp bỏ các tự ái cá nhân để làm lại các quyết định nếu thấy sai lầm. VÍ DỤ MINH HỌA CÁC YẾU TỐ ẢNH HƯỞNG ĐẾN QUÁ TRÌNH RA QUYẾT ĐỊNH. Các thế lực trong tổ chức Các định kiến Tính bảo thủ PHẦN III: KẾT LUẬN >> Khóa học Ngắn Hạn Bồi Dưỡng Kỹ Năng Bản Thân (Hieuhoc.com) Tính bảo thủ và không linh hoạt có mối liên hệ mật thiết với nhau. Một người không linh hoạt không chỉ do dự khi cần chấp nhận rủi ro từ việc thay đổi hoặc cải tiến điều gì đó. Họ còn quá bảo thủ, cứng nhắc theo cách làm của họ, quá chắc chắn rằng họ đã có công thức để đi đến thành công, đến mức họ không tìm ra một cách nào khác để hành động. Điều đó đã từng xảy ra ở công ty Coca-Cola. Khi Robert Woodruff thực hiện kế hoạch đầy tham vọng của mình là mở rộng công ty Coca-Cola ra toàn cầu, những cái chai màu xanh 6,5 ounce đã trở thành một thứ “thâm căn cố đế” đến mức ông và rất nhiều người khác hầu như không tìm ra một loại chai nào khác hợp lý hơn. Trong quan điểm của họ, cái chai đó và Coca-Cola giống như một quả trứng. Vỏ trứng và phần trứng ở trong là một, không thể tách rời, một thứ duy nhất mang một thương hiệu duy nhất, Coca-Cola. Trong khi đó, năm 1939, ở Pepsi-Cola, chuyên gia marketing thiên tài Walter Mack đưa ra một khẩu hiệu nổi bật: “Một chai với lượng nước ngọt nhiều gấp đôi”. Họ bắt đầu bán Pepsi-Cola trong những cái chai lớn 12 ounce. Khẩu hiệu được thông báo ở khắp nơi: “Pepsi Cola thỏa mãn nhu cầu của các bạn. Một chai 12 ounce, quả thật là rất nhiều. Một chai với lượng nước ngọt nhiều gấp đôi. Pepsi Cola là nước ngọt dành cho bạn”. Doanh số bán hàng của Pepsi bắt đầu tăng lên. Nhưng Coca-Cola không hề có động thái gì. Trên thực tế, trong giao tiếp nội bộ Coca-Cola, Pepsi còn không được nhắc đến bằng cái tên của nó. Nó được gọi là “kẻ bắt chước”. Chiến dịch “Một chai với lượng nước ngọt nhiều gấp đôi” của “kẻ bắt chước” ngày càng trở nên phổ biến trong người tiêu dùng Mỹ, những người có khả năng mua tủ lạnh sau chiến tranh và có khả năng sử dụng nước ngọt ở nhà ngày càng nhiều. Doanh số bán hàng của Pepsi tăng lên gấp đôi từ năm 1947 đến năm 1957 trong khi đó doanh số của Coca-Cola không đổi. Chắc chắn rằng Coca-Cola vẫn còn bán được nhiều hơn đối thủ cạnh tranh nhờ có một mức lợi nhuận biên khá lớn, tuy nhiên khoảng cách đó đang hẹp dần lại và đối thủ cạnh tranh chính của Coca-Cola đã lớn mạnh lên. Tuy nhiên, các nhà lãnh đạo ở Coca-Cola vẫn rất cứng rắn. Họ không hề tìm kiếm một loại bao bì mới cho sản phẩm của mình. Bên cạnh đó, họ còn lý luận rằng với một lượng sản phẩm nhiều gấp đôi trong một chai, đồng thời chi phí mua đường cũng sẽ tăng gấp đôi sẽ làm Pepsi nhanh chóng bị phá sản. Nhưng điều đó không xảy ra. Cuối cùng, năm 1955, khi phải đối mặt với việc doanh số bán hàng tại các siêu thị giảm cực kỳ mạnh, sự không linh hoạt của Coca-Cola mới biến mất. Công ty đưa ra ba loại chai mới: Chai cỡ lớn (king-sized) 10 ounce, chai 12 ounce và chai 26 ounce cho gia đình (family-size). Coca-Cola, sản phẩm nổi tiếng nhất thế giới, đang gặp nguy hiểm và chúng tôi phải cùng nhau ra tay cứu nó. Và chúng tôi đã làm điều đó. “Đó là một thảm kịch đối với một người - tình huống thay đổi, nhưng anh ta thì không”. (Machiavelli) Khi những điều kiện xung quanh đã thay đổi, bạn vẫn cứ giữ nguyên đừng thay đổi. Cứ giữ nguyên như vậy. Hãy đứng vững không nhúc nhích. Và bạn sẽ thất bại. 554170 Không thể kể hết được những ví dụ về sự cứng đầu cứng cổ ở các doanh nghiệp, đại diện tiêu biểu cho những rào cản tiến bộ. Tất cả chúng ta đều thấy những người ở vị trí cao trong các công ty công nghệ cao (high-tech) ngồi ngả lưng vào ghế một cách tự mãn, cắn móng tay và bảo đảm với mọi người rằng mọi việc đang hết sức tuyệt vời trong khi đó bản thân doanh nghiệp của họ đang từ từ tiến đến chỗ chết. Tôi đã từng làm trong hội đồng cố vấn của công ty IBM World Trade Americas suốt những năm 1970 và đến giữa những năm 1980 thì mọi thứ đối với công ty vẫn rất tuyệt vời. Về khía cạnh doanh thu, lợi nhuận, giấy phép (patent) - ở bất cứ tiêu chuẩn đánh giá nào, công ty đều là đại diện cho ngành. Họ là doanh nghiệp tốt nhất trong tạp chí Fortune 500. Đội ngũ quản trị được thoải mái nghỉ xả hơi. Với họ, sản phẩm máy chủ (mainframe computer) của IBM đã, đang và sẽ là tương lai. Và trong suốt một thời gian dài, họ đã đúng. Năm 1980, họ lên kế hoạch doanh thu năm 1995 sẽ vượt $250 tỉ. Trên thực tế, năm 1984, IBM có lợi nhuận trước thuế gần $6,6 tỉ, cao hơn bất kỳ công ty nào, ở bất kỳ thời điểm nào trong lịch sử. 9 năm sau, vào tháng 1 năm 1993, IBM công bố lỗ khoảng $8 tỉ, con số lớn nhất trong lịch sử tính đến lúc đó. Nguyên nhân là do IBM đã quá cứng nhắc làm theo cách thức của họ. Họ biết rõ chuyện gì đang xảy ra trong thế giới máy tính và đến năm 1981, họ đã phát triển một loại máy tính cá nhân rất thành công. Nhưng họ không thực sự tin tưởng vào điều đó. Họ lại tin tưởng vào một dự đoán nội bộ về doanh số bán hàng của máy tính cá nhân trên khắp thế giới sẽ ít hơn 250.000 cái vào năm 1987. Trên thực tế, hơn một tỉ máy tính đã được bán năm 1985. Lãnh đạo công ty IBM không hiểu, hoặc cố tình không hiểu rằng marketing sản phẩm máy tính cá nhân hoàn toàn khác với việc bán hoặc cung cấp dịch vụ đối với sản phẩm máy chủ, sản phẩm từng mang đến cho IBM vị trí thống trị. Giống như những đô đốc hải quân hay tướng lĩnh quân đội luôn luôn chuẩn bị để đánh trận cuối cùng, đội ngũ quản trị IBM vẫn duy trì cách tư duy của thời máy chủ. Suốt những năm 1980, tôi luôn luôn nhắc họ về việc càng ngày tôi càng thấy có nhiều máy tính cá nhân được sử dụng ở khắp các văn phòng của Coca-Cola, và tôi luôn luôn nhận được một nụ cười và cái nhún vai khá lịch sự từ phía họ. Có vẻ như đội ngũ quản trị của IBM đang đứng trên bờ sông. Cho dù bạn có đứng đó bao lâu đi nữa, bạn cũng không thể hai lần nhìn thấy cùng một dòng sông - nó thay đổi không ngừng. Lịch sử chảy xuôi dòng, còn tương lai thì ngược dòng, và trên dòng chảy đó, có vô số cơ hội lẫn nguy hiểm. Nhưng sự thực thì đội ngũ quản trị IBM đã quá quan tâm đến việc nhìn xuôi dòng, vui vẻ ngắm nhìn những sản phẩm máy chủ đẹp đẽ và có lời của mình trôi xuôi dòng và chảy khắp thế giới. Màn cuối của vở kịch nhỏ về lịch sử kinh doanh là hình ảnh các máy tính ThinkPad, máy tính cá nhân của IBM đã kết thúc tại một nhà máy laptop ở Trung Quốc dưới nhãn hiệu Lenovo. Điều đó quả là đáng tiếc bởi IBM chính là người khơi mào. Tất nhiên họ đã phục hồi, nhưng mọi chuyện quả là không dễ dàng một chút nào. Trên khắp ngành sản xuất máy tính tương đối mới và đang phát triển, có khá nhiều công ty nghĩ rằng họ được thành lập trong thời kỳ bùng nổ sáng tạo, tuy nhiên họ lại nhanh chóng áp dụng quan điểm không linh hoạt, và họ không được may mắn như IBM. Họ hoàn toàn không thể tồn tại. Một cái tên huyền thoại mà nhiều người sẽ vẫn còn nhớ là Tập đoàn Digital Equipment. Được thành lập năm 1958 bởi hai kỹ sư tài năng tốt nghiệp trường MIT (Học viện công nghệ Massachusetts), Ken Olsen và Harlan Anderson, vào thời kỳ phát triển mạnh mẽ nhất của công ty ở những năm 1980, DEC là công ty máy tính lớn thứ hai trên thế giới với khoảng 100 ngàn nhân viên và uy tín cao về công nghệ. Họ là một trong những doanh nghiệp đầu tiên kết nối Internet, tạo ra AltaVista, một trong những công cụ tìm kiếm thông minh đầu tiên. Họ có e-mail nội bộ rất lâu trước khi giá trị của chúng được người tiêu dùng biết đến. Máy nghe nhạc cá nhân MP3 được nghiên cứu đầu tiên ở trung tâm nghiên cứu của họ. Nói tóm lại, họ luôn luôn đi đầu trong nhiều lĩnh vực. Điều kéo họ đi xuống là niềm tin rằng họ chỉ có một cách tiếp cận đúng đắn duy nhất. Tất cả mọi điều họ làm đều lấy DEC làm trung tâm. Với tất cả sự tài ba của mình, những người sáng lập DEC từ chối tiếp nhận cấu trúc rộng và mới của ngành kinh doanh máy tính. Công ty bị bán rẻ từng phần một, phần cuối cùng được bán đi là vào năm 1998, và tôi nhớ rằng logo của công ty vẫn còn tồn tại thêm một khoảng thời gian ngắn ở một công ty IT ở Ấn Độ. Không linh hoạt là một căn bệnh có tính hủy diệt. Có thể không có ví dụ nào tốt hơn về sự thảm khốc của căn bệnh này hơn là thái độ của một con người tài giỏi đã từng thực sự làm thay đổi văn hóa Mỹ - Henry Ford. Ford không trở thành người giàu nhất nước Mỹ nhờ phát minh ra xe hơi hay sản xuất hàng loạt, mặc dù ông giành cả cuộc đời mình để sản xuất xe hơi và không ngừng cải tiến sản phẩm. Điều làm Henry Ford trở thành thiên tài là sự nhạy cảm mang tính bản năng của ông đối với marketing rộng rãi. Ở thời điểm đó, hơn bất kỳ ai, ông nhận thấy rằng nếu ông có thể giảm chi phí sản xuất xuống, xe hơi của ông có thể được chuyển đổi từ một thứ đồ chơi của những người giàu có thành phương tiện vận tải rộng rãi. Để làm được việc đó, ông chấp nhận hai rủi ro. Trước hết, ông tiếp tục giảm lợi nhuận trên mỗi chiếc xe hơi nhằm tăng doanh số bán hàng. Thứ hai, khi mức lương bình quân của một nhân viên lắp ráp xe hơi là dưới $2,50 một ngày, năm 1914, ông tuyên bố rằng ông sẽ trả cho công nhân của mình một mức lương mà họ chưa bao giờ từng có: $5 một ngày. Thuật ngữ kinh doanh hiện này đưa ra khái niệm “pro-sumer”, chỉ những người vừa sản xuất vừa tiêu thụ sản phẩm hay dịch vụ nào đó. Ford đã thấy trước khái niệm này trước đó cả gần một thế kỷ. Bằng việc trả $5 một ngày, chỉ một sớm một chiều, Ford đã làm tăng thị phần bằng việc chi trả cho nhân viên đủ tiền để họ có thể mua sản phẩm mà họ đang sản xuất, và quan trọng hơn, ông đã mua được sự trung thành của lực lượng nhân công vốn trước đây khét tiếng là không ổn định. Quan niệm phổ biến trong ngành sản xuất ô tô vào thời điểm đó cho rằng tỉ lệ nhân viên nghỉ việc cao là điều không thể tránh khỏi. Ford đã chứng minh được rằng quan niệm đó hoàn toàn sai. Tuy nhiên chỉ vài năm sau, con người tài ba với một tầm nhìn rộng này đã quá cứng nhắc đến mức ông gần như hủy hoại cả công ty. Ông đưa ra lời tuyên bố về xe hơi Model T như sau: “Nó có thể có bất kỳ màu sắc nào cũng được, miễn là… màu đen”. Suốt một thời gian dài, điều đó không có ảnh hưởng gì xấu. Nhưng sau đó, mọi người bắt đầu chán những chiếc xe hơi giá rẻ màu đen. Tuy nhiên, ngay cả khi cả nước Mỹ ào ào tiến vào những năm 1920 với những chiếc xe hơi lớn hơn, nhanh hơn, xinh xắn hơn và được sơn màu sáng hơn, Henry Ford vẫn tiếp tục khăng khăng cho rằng Model T, hoàn toàn không thay đổi từ năm 1908, vẫn là loại xe được người Mỹ muốn và yêu thích nhất. Và ông sẽ không thay đổi suy nghĩ của mình. Và điều không thể tránh được đã xảy ra, các công ty mới nổi như Chevrolet và Dodge bắt đầu chiếm dần thị phần của Ford và thách thức vị trí dẫn đầu của công ty này. Cuối cùng, những suy nghĩ có lý đã chiến thắng và Ford thừa nhận rằng công ty cần phải sản xuất ra những phương tiện tốt hơn. Sau khi đóng cửa nhà máy chính trong 6 tháng, ông đã tung ra thị trường một cách thành công sản phẩm Model A năm 1928. Nhưng sự cứng nhắc của Henry Ford đã đưa công ty đến bờ vực thảm họa và làm công ty mất đi một số lợi thế cạnh tranh mà không bao giờ có thể lấy lại được. Trong những năm gần đây, suốt những năm 1980 và 1990, cả GM và Ford tiếp tục phụ thuộc vào sản phẩm xe hơi thể thao ứng dụng cỡ lớn, tốn năng lượng của họ, trong khi Toyota, kẻ chi phối thị trường mới nổi, lại bắt đầu phát triển sản phẩm xe hơi hybrid rất thành công và có lợi nhuận cao của họ. Jim Press, cựu chủ tịch Toyota Bắc Mỹ nói: “Cả hai chúng tôi đều có chung những chiếc lá giống nhau, những nghiên cứu giống nhau - liệu nhiên liệu sẽ nhiều hơn hay cạn kiệt đi? Liệu không khí sẽ trong sạch hơn hay ô nhiễm hơn? Liệu bạn có đi tiên phong làm một việc gì đó hay thực hiện một cải tiến nào đó để theo kịp sự phát triển của xã hội? Hoặc bạn tiếp tục kìm giữ nó tại chỗ và không để nó tiến lên, để cuối cùng có một kết cục bi thảm?” Tất nhiên câu chuyện về thất bại của mỗi công ty, mỗi ngành là khác nhau. Một số trường hợp dễ thấy hơn những trường hợp khác. Một ví dụ về trường hợp dễ thấy là khi bạn nhìn lại ngành sản xuất đá lạnh đầu thế kỷ 20, cho dù họ có chống đỡ như thế nào thì họ cũng phải tìm ra một việc gì khác để làm bởi vì họ sẽ bị thay thế bởi những chiếc tủ lạnh chạy bằng điện. Trường hợp không rõ ràng lắm là khi trong số hơn ba ngàn công ty sản xuất xe đạp, đa số đã biến mất nhưng trong khi đó, có một số công ty vẫn sống sót nhờ việc chuyển sang ngành sản xuất xe hơi và thậm chí, như trường hợp của công ty Wright Brothers, chuyển đổi sang ngành sản xuất khung máy bay. Rõ ràng là có một số công ty linh hoạt hơn những công ty khác. Tuy nhiên, đến trường hợp sau đây, không còn lý do gì để chúng ta nghi ngờ rằng sự không linh hoạt là nguyên nhân dẫn đến cái chết của một công ty vốn đã từng là người tiên phong trong ngành của nó. Montgomery Ward đã phát minh ra cách bán hàng theo catalog. Công ty này đã chết vì sự không linh hoạt của chỉ một người. Sự bảo thủ u ám trở thành ngoan cố Montgomery Ward rơi xuống mặt đất chỉ bởi Sewell Avery, một luật sư đầy cứng nhắc và sắt đá. Avery đã cứu công ty qua khỏi cuộc Đại suy thoái bằng một vài sự cắt giảm trong khi những công ty khác thì vẫn tiếp tục mở rộng. Rắc rối là ở chỗ Avery vẫn tiếp tục giữ tinh thần của thời Đại suy thoái trong suốt quãng đời còn lại của mình. Người ta gọi ông là “Sewell u ám”. Lịch của ông ta bị đặt cố định ở năm 1929. Sự sụp đổ dường như đã đến rất gần. Sau Thế chiến II, khi nhiều gia đình được hình thành trong các khu vực mới phát triển như khu Levittown, Avery không chỉ đã không nhận thấy được sự hưng thịnh đó, mà còn cố tình không nhìn thấy nó. Vào giữa những năm 1950, trợ cấp hàng tuần của trẻ vị thành niên bắt đầu vượt quá tổng thu nhập khả dụng của các gia đình Mỹ hồi năm 1940. Nước Mỹ đã trở nên ngày càng giàu hơn. Nhưng Avery đã quá cứng nhắc đến mức không nhận thức được sự bùng nổ về kinh tế hậu Thế chiến đang diễn ra xung quanh. Ông đã không đầu tư thêm hay mở rộng kinh doanh. Và kết quả là, trong 10 năm sau chiến tranh, khi mà đối thủ cạnh tranh của Ward là Sears tăng doanh số bán hàng lên gấp đôi, thì doanh số của Ward lại giảm 10%. Montgomery Ward không còn tồn tại nữa. Trong khi đó, quý ngài Avery cứng nhắc đã mồ yên mả đẹp và chắc vẫn khăng khăng cho rằng cuộc suy thoái thảm khốc đang lẩn khuất đâu đây. Ông hết sức tin tưởng vào những điều ông tin và không hề bị thuyết phục bởi bất cứ điều gì khác. Thực tế là ông ta nổi tiếng hung dữ vì đã sa thải những ai cố gắng vén bức màn sự thật lên cho ông. Một ví dụ khác cho thấy một sự cứng nhắc hoàn toàn ngớ ngẩn là trường hợp của Republic Steel. Vào những năm 1960, một trong số những khách hàng lớn nhất của Republic Steel làm trong ngành sản xuất hộp thiếc bắt đầu sản xuất những chiếc hộp bằng nhôm có trọng lượng nhẹ và chi phí vận chuyển thấp. Republic là một công ty rất giàu có và thành công. Việc họ tham gia vào ngành sản xuất nhôm là hợp lý, và họ có thể làm việc đó một cách dễ dàng lúc đó bằng cách tận dụng lợi thế có nguồn dự trữ tiền mặt lớn để mua một công ty sản xuất nhôm đang hoạt động nào đó. Nhưng thay vào đó, những người lãnh đạo công ty Republic lại quá cứng nhắc và tuyên bố rằng họ không bao giờ từ bỏ những cái hộp bằng thép. Họ thậm chí còn gọi nhôm là “một kim loại mềm”, và chiến đấu chống sự xâm nhập của nó vào thị trường sản xuất bao bì bằng mọi thứ mà họ có. Và cuối cùng, họ mất hết tất cả những thứ mà họ đã có. Republic Steel biến mất. Hoặc để thấy được một sự ngoan cố hoàn toàn không thể cải tạo được, chúng ta hãy xem xét quan điểm của Hollywood đối với TV vào những ngày đầu khi mà tôi còn đang lúng túng trong buổi trò chuyện đầu tiên trên kênh WOW-TV ở Omaha. Hollywood giàu có và to lớn đã chào đón ngành giải trí non trẻ này như thế nào? Họ hoàn toàn coi thường nó. Họ lưu truyền câu nói đùa: “Ngành tạp kỹ đã chết và TV là cái hộp nhỏ xíu mà họ chôn nó.” Những xưởng phim lớn không thèm phản ứng gì với cái ngành giải trí ngớ ngẩn này. Họ cứ để mặc cho những vở kịch và những diễn viên khôi hài như Milton Berle muốn làm gì thì làm. Với họ, phim tâm lý và màn ảnh rộng là tương lai, và mãi mãi là như thế. Xu thế chung của Hollywood là cười nhạo TV và những người làm các chương trình TV như là “một mảnh đất khô cằn”. Thậm chí họ còn tẩy chay phương tiện truyền thông này với hi vọng là chúng sẽ biến mất. Rõ ràng, trừ người Mỹ ra thì chẳng ai thích TV cả. Tất nhiên, cuối cùng, chính các xưởng phim cũng phải chấp nhận nó, nhưng sự cứng nhắc ban đầu của họ đã tạo ra sự mâu thuẫn không cần thiết giữa “những người trong ngành phim” và “những người trong ngành TV”, đôi khi ngay cả trong cùng một công ty – đó là chưa kể đến vô số những cơ hội bị bỏ lỡ khác. Thay vì trở thành lực lượng dẫn đầu trong việc phát triển ngành giải trí truyền hình, hầu hết các xưởng phim tệ nhất là trở thành kẻ phá rối tai hại hoặc tốt nhất cũng chỉ trở thành những kẻ ngoài cuộc. Còn sau đây là một ví dụ về sự cứng nhắc vô lý nhất trong ngành hàng không. Vào những năm 1930 và 1940, không có sự kỳ diệu về kỹ thuật nào lại là biểu tượng hùng hồn cho kỷ nguyên vận tải hiện đại hơn là những chiếc máy bay dân dụng sáng loáng đưa những nhân vật quan trọng lướt nhanh từ đảo này sang đảo khác chỉ trong vòng một giờ. Không chỉ đơn thuần là một phương tiện đi lại đầy thích thú và mới mẻ, mà rất nhanh sau đó, nó trở thành một dịch vụ được bán rộng rãi. Pan Am’s Juan Trippe đưa ra loại vé “hạng du lịch”. Dịch vụ hàng không khi đó không còn chỉ phục vụ cho những ngôi sao điện ảnh nổi tiếng hay những ông trùm chứng khoán ở Wall Street nữa. Kỷ nguyên của việc đi lại bằng máy bay đang diễn ra. Nhưng sau một khởi đầu đầy mạnh mẽ, suốt mấy năm sau đó, ngành hàng không suy yếu dần. Máy bay trở nên to hơn và bay nhanh hơn nhưng tốc độ cải tiến hết sức chậm chạp. Được bảo hộ khỏi sự thăng trầm của thị trường tự do suốt nhiều thập kỷ bằng những quy định chặt chẽ của Chính phủ, họ quên mất cách kinh doanh. Họ trở nên cứng nhắc trong cách kinh doanh ngay cả khi họ phải đương đầu với những khoản lỗ khổng lồ. Họ vẫn tiếp tục làm mọi việc giống như cũ, đạt được những kết quả tệ hại như cũ, trượt dài đến bờ vực phá sản, đưa ra những lời hứa hẹn như cũ rằng sẽ quản lý tốt hơn và cải tiến hiệu quả kinh doanh. Sự thực thì nhiều công ty trong ngành đã cho rằng toàn bộ tình hình là do lỗi của việc các công ty hàng không vẫn phải hoạt động cho dù có phá sản. Đó thực sự là một ngành kinh doanh phức tạp bởi sự lẫn lộn giữa lợi ích cá nhân và lợi ích cộng đồng. Tuy nhiên, theo quan điểm của tôi, chiến lược duy nhất mà các nhà quản lý ở các hãng hàng không theo đuổi là tiếp tục thực hiện việc cắt giảm lương của công nhân. (Theo kinh nghiệm của tôi, khi người ta thiếu những thay đổi chiến lược khác, hiển nhiên là cắt giảm chi phí không phải là một cách để giúp bạn tìm kiếm lợi nhuận). Và rồi một doanh nhân tài ba và rất tiến bộ có tên Herb Kelleher xuất hiện. Ông thành lập một hãng hàng không mới giống với những hãng đã được thành lập chỉ ở một điểm duy nhất - họ chuyên chở hành khách trên các máy bay. Ông thay đổi hầu như tất cả mọi thứ khác. Đầu tiên, toàn bộ đội máy bay của công ty chỉ gồm duy nhất một loại, máy bay 737, điều đó khiến cho dịch vụ trên máy bay trở nên đơn giản hơn và được tổ chức hợp lý hơn. Ông thay đổi cách sắp xếp đường đi và ghế trên máy bay. Ông thay đổi mức giá và thậm chí phục vụ nhiều loại khách hàng khác nhau. Kết quả là thế nào? Hãng hàng không Southwest đã kiếm lời được trên một ngành kinh doanh mà nhiều nhà đầu tư đã gọi là “vô vọng”. (Khi tôi viết điều này thì chúng ta vẫn còn chờ xem liệu Southwest có còn tiếp tục làm ăn có lời trong điều kiện giá xăng dầu đang tăng cao hơn bao giờ hết như bây giờ và kết quả của các biện pháp cắt giảm chi phí). Để thất bại, hãy cứng nhắc và đừng linh hoạt. Tuy nhiên, tôi cũng muốn làm rõ một điều: linh hoạt, tự nó không phải là một đức tính tốt. Nó không phải là một vật che chở để những người nhát gan có thể núp vào và không bao giờ đưa ra một quyết định khó khăn cả. Sự linh hoạt và khả năng thích ứng là những đặc tính cần thiết của những người lãnh đạo vượt lên trên những kỹ năng làm việc, quản lý hoặc năng lực kỹ thuật thông thường. Tôi tin rằng sự linh hoạt là một quá trình suy nghĩ một cách sâu sắc và liên tục để kiểm tra tình hình và khi có chuyện xảy ra, nhanh chóng thích ứng với sự thay đổi. Về bản chất, nó là mấu chốt cho toàn bộ thuyết chọn lọc tự nhiên của Darwin (loài tồn tại được là loài phù hợp nhất). Linh hoạt. Và thích ứng. “Một người không bao giờ thay đổi quan điểm giống như một dòng nước lặng, và điều đó làm cho tư duy trở nên còm cõi”. - William Blake. Lược theo: 10 điều răn về những thất bại trong kinh doanh (DONALD R.KEOUGH)  Khi ra quyết định sai lầm Câu chuyện sau đây kể về một tình huống mà những sai lầm khi ra quyết định có thể gây nhiều hậu quả đáng tiếc, nhưng lại dễ gặp trong đời sống doanh nghiệp. Sau vài năm cật lực, vất vả trong giai đoạn khởi nghiệp, công việc tại doanh nghiệp nọ đã đi vào giai đoạn khá ổn định. Hai vợ chồng người chủ công ty muốn giao công việc tại công ty cho nhân viên để họ có thời gian rảnh rỗi, nghỉ ngơi nhiều hơn. Trong một buổi họp với nhân viên, họ đã nêu và giải thích rõ ý định của mình, rồi đề nghị một số nhân viên có năng lực nhận trách nhiệm tham gia phối hợp quản trị doanh nghiệp khi họ vắng mặt. Cuối cùng, hai nhân viên làm việc lâu năm nhất đã được chọn. Tất nhiên, hai nhân viên ấy được hứa là sẽ có thêm phụ cấp trách nhiệm đối với trọng trách mới. Trong buổi họp trước khi vợ chồng người chủ tạm giao lại việc lãnh đạo, điều hành công ty cho những người được chọn, họ cũng nhận được sự cam kết hỗ trợ của các nhân viên khác trong công ty. Chuyến đi sau đó của hai vợ chồng người chủ có vẻ êm ả. Trước khi đi, họ dặn nhân viên là trong trường hợp cần thiết cứ gọi điện thoại di động cho họ nhưng không có cuộc gọi nào trong suốt hai tuần họ không có mặt tại công ty. Cảm nhận chung của hai người là vui vì nhân viên của mình đã trưởng thành, đã tự quản lý hoạt động kinh doanh thành công khi họ tin tưởng giao quyền điều hành. Đến khi quay trở lại công ty, họ nhận ra tình hình khác hẳn những gì họ đã cảm nhận. Hóa ra, hai người tạm thời làm nhiệm vụ điều hành đã thực hiện hai quyết định hoàn toàn không thích hợp nhưng không hề trao đổi trước với họ. Thứ nhất, cho mọi người nghỉ làm sớm hơn so với quy định vào cuối tuần vì cho là trong mùa hè nhân viên cần được nghỉ sớm để có kỳ nghỉ thoải mái hơn. Thứ hai, khi hệ thống máy tính của công ty gặp sự cố, các nhân viên có quyền điều hành đã quyết định cho chạy trên hệ thống dự phòng. Sau khi đã khắc phục xong sự cố cho máy chính, họ vẫn duy trì chạy trên hệ thống dự phòng thay vì quay lại hệ thống chính. Quyết định thứ nhất làm hụt hẫng những khách hàng có thói quen giao dịch với công ty vào cuối giờ của ngày làm việc cuối tuần. Khi khách hàng đến công ty thì nơi đây đã “vắng như chùa Bà Đanh”. Quyết định thứ hai còn gây thiệt hại nặng nề hơn: hệ thống dự phòng bị hỏng! Hậu quả là mọi số liệu trong thời gian chạy hệ thống dự phòng bị mất sạch, trong khi hệ thống chính không được dùng đến. Nếu ở vị trí những người chủ công ty ấy, chúng ta nên làm gì? Quy trách nhiệm cho hai nhân viên được trao quyền điều hành tạm thời công ty? Kỷ luật họ vì đã ra những quyết định sai lầm như vậy? Xem xét kỹ, sẽ thấy rằng người ra hai quyết định đó cần phải có kinh nghiệm quản trị để có thể lường trước được hậu quả, trong khi hai nhân viên điều hành tạm thời chưa hề có kinh nghiệm ấy. Vậy thì chính những người chủ phải chịu trách nhiệm? Cần phân tích cho hai nhân viên điều hành tạm thời thấy rõ những hậu quả của hai quyết định sai lầm mà họ đã phạm phải. Yêu cầu họ rút kinh nghiệm nghiêm túc, cụ thể là trước khi ra quyết định, cần phải có sự chia sẻ thông tin cần thiết. Vậy cuối cùng, hai người chủ đã làm gì? Họ nhận ra chính họ đã phạm một sai lầm là quyết định trao quyền điều hành cho người khác nhưng chưa chuẩn bị chu đáo để những người được trao quyền có đủ điều kiện và năng lực để hoàn toàn chủ động trong công việc. Họ hiểu rằng chính sai lầm của họ đã dẫn tới các sai lầm của nhân viên. Những bài học rút ra từ câu chuyện này nghe cũng rất quen và có vẻ tình huống xảy ra câu chuyện tương tự cũng dễ gặp ở đâu đó. Khi ra quyết định sai lầm 25/09/2012 10:47:39 SA-Số lần đọc:11 Câu chuyện sau đây kể về một tình huống mà những sai lầm khi ra quyết định có thể gây nhiều hậu quả đáng tiếc, nhưng lại dễ gặp trong đời sống doanh nghiệp. Sau vài năm cật lực, vất vả trong giai đoạn khởi nghiệp, công việc tại doanh nghiệp nọ đã đi vào giai đoạn khá ổn định. Hai vợ chồng người chủ công ty muốn giao công việc tại công ty cho nhân viên để họ có thời gian rảnh rỗi, nghỉ ngơi nhiều hơn. Trong một buổi họp với nhân viên, họ đã nêu và giải thích rõ ý định của mình, rồi đề nghị một số nhân viên có năng lực nhận trách nhiệm tham gia phối hợp quản trị doanh nghiệp khi họ vắng mặt. Cuối cùng, hai nhân viên làm việc lâu năm nhất đã được chọn. Tất nhiên, hai nhân viên ấy được hứa là sẽ có thêm phụ cấp trách nhiệm đối với trọng trách mới. Trong buổi họp trước khi vợ chồng người chủ tạm giao lại việc lãnh đạo, điều hành công ty cho những người được chọn, họ cũng nhận được sự cam kết hỗ trợ của các nhân viên khác trong công ty. Chuyến đi sau đó của hai vợ chồng người chủ có vẻ êm ả. Trước khi đi, họ dặn nhân viên là trong trường hợp cần thiết cứ gọi điện thoại di động cho họ nhưng không có cuộc gọi nào trong suốt hai tuần họ không có mặt tại công ty. Cảm nhận chung của hai người là vui vì nhân viên của mình đã trưởng thành, đã tự quản lý hoạt động kinh doanh thành công khi họ tin tưởng giao quyền điều hành. Đến khi quay trở lại công ty, họ nhận ra tình hình khác hẳn những gì họ đã cảm nhận. Hóa ra, hai người tạm thời làm nhiệm vụ điều hành đã thực hiện hai quyết định hoàn toàn không thích hợp nhưng không hề trao đổi trước với họ. Thứ nhất, cho mọi người nghỉ làm sớm hơn so với quy định vào cuối tuần vì cho là trong mùa hè nhân viên cần được nghỉ sớm để có kỳ nghỉ thoải mái hơn. Thứ hai, khi hệ thống máy tính của công ty gặp sự cố, các nhân viên có quyền điều hành đã quyết định cho chạy trên hệ thống dự phòng. Sau khi đã khắc phục xong sự cố cho máy chính, họ vẫn duy trì chạy trên hệ thống dự phòng thay vì quay lại hệ thống chính. Quyết định thứ nhất làm hụt hẫng những khách hàng có thói quen giao dịch với công ty vào cuối giờ của ngày làm việc cuối tuần. Khi khách hàng đến công ty thì nơi đây đã “vắng như chùa Bà Đanh”. Quyết định thứ hai còn gây thiệt hại nặng nề hơn: hệ thống dự phòng bị hỏng! Hậu quả là mọi số liệu trong thời gian chạy hệ thống dự phòng bị mất sạch, trong khi hệ thống chính không được dùng đến. Nếu ở vị trí những người chủ công ty ấy, chúng ta nên làm gì? Quy trách nhiệm cho hai nhân viên được trao quyền điều hành tạm thời công ty? Kỷ luật họ vì đã ra những quyết định sai lầm như vậy? Xem xét kỹ, sẽ thấy rằng người ra hai quyết định đó cần phải có kinh nghiệm quản trị để có thể lường trước được hậu quả, trong khi hai nhân viên điều hành tạm thời chưa hề có kinh nghiệm ấy. Vậy thì chính những người chủ phải chịu trách nhiệm? Cần phân tích cho hai nhân viên điều hành tạm thời thấy rõ những hậu quả của hai quyết định sai lầm mà họ đã phạm phải. Yêu cầu họ rút kinh nghiệm nghiêm túc, cụ thể là trước khi ra quyết định, cần phải có sự chia sẻ thông tin cần thiết. Vậy cuối cùng, hai người chủ đã làm gì? Họ nhận ra chính họ đã phạm một sai lầm là quyết định trao quyền điều hành cho người khác nhưng chưa chuẩn bị chu đáo để những người được trao quyền có đủ điều kiện và năng lực để hoàn toàn chủ động trong công việc. Họ hiểu rằng chính sai lầm của họ đã dẫn tới các sai lầm của nhân viên. Những bài học rút ra từ câu chuyện này nghe cũng rất quen và có vẻ tình huống xảy ra câu chuyện tương tự cũng dễ gặp ở đâu đó. Trương Chí Dũng Giám đốc Nghiên cứu và phát triển, Công ty L&A Theo Vieclam Xem thêm:Khi ra quyết định sai lầm 10 sai lầm kinh doanh tệ hại nhất 2011 Tác giả: HUNGNINH (THEO TIMES) Bài đã được xuất bản.: 09/12/2011 06:00 GMT+7 Recomend + Red In Email Thảo luận TRONG MỤC NÀY (Đọc thêm) Tỷ phú diệt virut McAfee: Phá sản thành con nghiện Dân Nhật giảm mua sắm, giữ tiền phòng thân Đường đời của người giàu vĩ đại nhất thế giới Khát vọng từ hành lang kinh tế Đông - Tây 2 Tăng phí, Netflix mất gần 1 triệu khách hàng; thu phí thẻ ghi nợ, BofA mất gần 700.000 khách; bị hack, Sony tốn gần 2 triệu USD khắc phục; Goldman Sachs thất bại khi đầu tư vào Facebook... là những sự cố kinh doanh tai hại nhất trong năm 2011. 1. Netflix mất khách hàng do 2 chiến lược sai lầm liên tiếp Netflix - công ty chuyên cung cấp dịch vụ xem DVD trực tuyến của Mỹ từng được biết đến với những dịch vụ rất được lòng khách hàng. Tuy nhiên, vào tháng 7 vừa qua, sau khi đối thủ cạnh tranh lớn nhất của công ty là Blockbuster phá sản, Netflix quyết định tăng 60% phí hàng tháng đối với dịch vụ cung cấp lên 15,98 USD từ  9,99 USD trước đó. Quyết định này được lý giải là công ty đang cung cấp cho khách hàng những dịch vụ với chất lượng và giá trị "tuyệt vời". Sau quyết định đó, rất nhiều khách hàng đã hủy đăng ký dịch vụ. Để khắc phục tình hình, Giám đốc điều hành Reed Hastings bất ngờ đưa ra tuyên bố Netflix được tách ra làm hai. Theo đó công ty mới Qwikste sẽ phụ trách mảng kinh doanh truyền thống của Netflix. Tuy nhiên khách hàng liên tục phàn nàn về việc chia tách này do gặp phải nhiều khó khăn trong quá trình sử dụng dịch vụ. Netflix cuối cùng đã hủy bỏ kế hoạch này sau một tháng thực hiện. Trong vòng ba tháng tăng phí, Netflix mất ít nhất 800.000 khách hàng. Cổ phiếu của công ty đã sụt giảm một cách thê thảm. Vào tháng 11, công ty cho biết kinh doanh của công ty sẽ tiếp tục gặp khó khăn cho đến hết năm 2012. 2. Bank of America thu phí thẻ ghi nợ 5 USD Vào cuối tháng 9, ngân hàng này công bố kế hoạch tính phí 5USD một tháng đối với khách hàng sử dụng thẻ ghi nợ. Điều này khiến cho khách hàng rất bất bình và càng làm gia tăng sức nóng của cuộc biểu tình chống phố Wall. Những người biểu tình đã xông vào tận các chi nhánh ngân hàng trên toàn quốc. Một bản kiến ​​nghị với 300.000 chữ ký được thưc hiện nhằm phản đối quyết định trên của ngân hàng. Tổng thống Obama xem đây là một quyết định sai lầm trong kinh doanh. Đầu tháng 11, Bank of America đã hủy bỏ quyết định trên, nhưng hậu quả thì vẫn còn đó. Trong một tháng, theo thống kê có khoảng 650.000 tài khoản từ ngân hàng này và một số ngân hàng lớn khác chuyển sang sử dụng dịch vụ tại quỹ tín dụng. Số tài khoản này tương đương với số lượng đăng ký trong cả năm 2010. 3. Corzine dẫn MF Global đến thất bại Jon Corzine, cựu thống đốc bang New Jersey đồng thời cũng là cựu lãnh đạo của gã khổng lồ Goldman Sachs mới đây đã vướng vào một thất bại thảm hại khi điều hành công ty môi giới chứng khoán MF Global - một cái tên ít được biết đến trên thị trường Mỹ. Nhiều người nghĩ rằng với nhà quản trị tầm cỡ Corzine thì điều hành MF Global là điều quá đơn giản. Nhưng rõ ràng, họ đã lầm khi vào cuối tháng 10, MF Global đệ đơn xin phá sản. Hơn thế nữa, Corzine lại là người chịu trách nhiệm trực tiếp về sự sụp đổ của công ty. Corzine đã đầu tư 11,5 tỷ vào thị trường trái phiếu châu Âu- phần lớn trong số đó là tiền đi vay. Khi cuộc khủng hoảng nợ khu vực đồng Euro trở nên trầm trọng, giá trị của trái phiếu giảm mạnh, số nợ MF Global phải gánh chịu càng trở nên chồng chất và dồn công ty đến vực phá sản. Tồi tệ hơn khi khi khách hàng yêu cầu MF trả tiền mặt. Theo điều tra từ FBI thì trên 1 tỷ USD mất tích từ tài khoản của khách hàng. 4. Hơn một tháng, Sony vật vã với nạn tin tặc Có thể bạn sẽ nghĩ rằng là một công ty công nghệ hàng đầu thế giới hoàn toàn có khả năng chống lại nạn tin tặc. Nhưng rõ ràng là không! Vào giữa tháng 4 vừa qua, Sony đã phải đóng cửa Playstation, hệ thống cho phép khách hàng mua các trò chơi và kết nối với các game thủ khác do bị tấn công bởi LulzSec - một hacker khét tiếng. Công ty đã phải mất hơn một tháng và gần 175 triệu USD khôi phục lại hệ thống. Tồi tệ hơn là, bọn tin tặc có thể truy cập thông tin tài khoản thậm chí là số thẻ tín dụng của 100 triệu khách hàng. Khi xảy ra, Sony lại làm vấn đề trở nên tồi tệ khi lưu trữ mật khẩu người dùng và thông tin tài khoản với định dạng không được mã hóa. 5. Groupon - IPO xung quanh những lùm xùm về gian lận kế toán Trong tháng 7, Groupon đã nộp hồ sơ xin phát hành IPO. Công ty mua sắm công bố lợi nhuận quý 1 năm 2011 là 82 triệu USD. Tuy nhiên, trên thực tế, Groupon lỗ gần 100 triệu USD. Trong báo cáo, kế toán của Groupon đã "bỏ sót" gần 200 triệu USD trong chi phí tiếp thị. Ủy ban Chứng khoán và Hối đoái đã buộc Groupon hoàn thiện lại hồ sơ vào tháng 8 trong đó phải tuân thủ cách tiêu chuẩn kế toán. Vào cuối tháng 9, Groupon đưa ra thông báo về việc công ty đang trong quá trình khắc phục lỗi kế toán trên. Sau những gian lận kế toán, giá trị của công ty dự đoán là 20 tỷ USD vào tháng 7. Tuy nhiên, sau khi hoàn tất việc phát hành IPO vào đầu tháng 11, con số đó chỉ là 13 tỷ USD. Trong ba tuần giao dịch, cổ phiếu của công ty đã giảm xuống dưới mức chào bán là 20 USD. 6. Sai lầm trong dự báo, tỷ phú CK John Paulson thiệt hại khôn lường Năm 2008, chủ tịch quỹ đầu tư John Paulson nổi lên như một hiện tượng đình đám trong giới đầu cơ khi đặt cược vào thị trường nhà đất với khoản lãi khổng lồ: 20 tỷ USD. Năm 2011, Paulson dự đoán nền kinh tế sẽ phục hồi với tốc độ nhanh. Tuy nhiên sự thật đã không diễn ra như vậy. Trong năm nay, Paulson cũng đã lỗ lớn khi đầu tư vào Sino - Forest  - doanh nghiệp lớn về chế biến gỗ của Trung Quốc - khi doanh nghiệp này là mục tiêu săn đuổi của các nhà đầu cơ gian lận. Điều này khiến cho một trong những quỹ đầu cơ lớn nhất của Paulson giảm 47% giá trị trong năm 2011. Điều đó cũng có nghĩa là chỉ trong 3 năm từ một người thành công nhất trên thị trường, Paulson trở thành người có những thất bại cay đắng nhất. 7. Goldman và thất bại khi đầu tư vào Facebook Vào đầu tháng 1, Goldman Sachs tham gia thương vụ "nóng" nhất hồi đầu năm khi đầu tư vào Facebook - mạng xã hội được định giá 50 tỷ USD tại thời điểm đó. Với việc đầu tư một số tiền khổng lồ, Goldman nắm vị trí quan trọng trong việc phát hành IPO của Facebook với tư cách là nhà đầu tư tư nhân. Tuy nhiên, thông tin này bị rò rỉ và thu hút sự quan tâm rất lớn của công chúng. Sau đó Ủy ban Chứng khoán và Hối đoái đã thẩm vấn Goldman, và cuối cùng buộc công ty hủy các giao dịch với khách hàng Mỹ chỉ vài ngày sau khi có được những thỏa thuận giá trị với họ. Sau đó quan hệ giữa Facebook và Goldman trở nên không mấy tốt đẹp. 8. Rút lui khỏi thị trường máy tính bảng, HP sa thải CEO HP có lẽ đã lập kỷ lục về sản phẩm tiêu dùng có vòng đời ngắn nhất. Tháng 6, HP đã bắt đầu bán dòng sản phẩm máy tính bảng TouchPad- được cho là cùng iPad của Apple lao vào cuộc đua giành thị phần. Nhưng 6 tuần sau đó TouchPad bị rút khỏi thị trường do doanh số bán hàng hết sức ảm đạm. HP đã công bố sẽ rút lui hoàn toàn khỏi thị trường kinh doanh máy tính bảng. Kết quả đáng thất vọng của dòng sản phẩm TouchPad cũng khiến cho HP sa thải Giám đốc điều hành Leo Apotheker. Thay thế vị trí này là nữ tướng của eBay, bà Meg Whitman, người được cho là sẽ gây dụng lại sự nghiệp của HP. 9. Sai lầm của tập đoàn Berkshire Hathaway Tháng 3 vừa qua, ông David Sokol - người được cho là một ứng viên hàng đầu tiếp quản vị trí lãnh đạo tập đoàn của đại tỷ phú Warren Buffett, đã phải từ chức sau khi thừa nhận rằng ông đã mua cổ phiếu của công ty hóa chất Lubrizol chỉ hai tháng trước khi Berkshire mua lại công ty này. Ủy ban kiểm toán của công ty đã cáo buộc ông Lubrizol vì hành vi vi phạm quy tắc công ty, làm ảnh hưởng nghiêm trọng đến uy tín cũng như hình ảnh của tập đoàn này. Berkshire cho biết họ có thể sẽ kiện Sokol ra tòa. 10. Mua T-Mobile, AT & T thất bại AT & T đã rất nỗ lực thực hiện tham vọng mua lại đối thủ T- Mobile. Tuy nhiên vụ sát nhập trị giá 39 tỷ này không hề dễ dàng. Bộ Tư pháp Mỹ đã hành động nhằm ngăn chặn thương vụ này do những lo ngại về tình trạng kinh doanh độc quyền.Vào cuối tháng 11, AT & T rút lại hồ sơ xin sát nhập trình Ủy ban Truyền thông Liên bang trước đó. Đại diện của AT & T và T-Mobile cho biết họ vẫn đang trong quá trình thương thảo. Tuy nhiên giới phân tích thì cho rằng kế hoạch đã thất bại hoàn toàn. Việc sáp nhập, được công bố vào tháng 3, chỉ vài tháng sau khi AT & T mất độc bán iPhone của Apple. Thương vụ này được kỳ vọng là sẽ vực dậy và củng cố mạng lưới nhà cung cấp dịch vụ không dây lớn thứ 2 nước Mỹ này. Bên cạnh đó AT & T cũng phải mua hệ thống hệ thống băng thông ở khu vực. Tuy nhiên, chi phí bỏ ra để đầu tư không phải là nhỏ đối với AT & T. Hãng này còn cam kết sẽ bồi thương T- Mobile 4 tỷ USD nếu không đạt được thỏa thuận. Hãy suy nghĩ nhiều hơn THỨ HAI, 06 THÁNG 12 2010 23:59 QUẢN TRỊ VIÊN Nếu bạn muốn thất bại, đừng phí thời gian suy nghĩ. Nếu bạn muốn thành công, hãy suy nghĩ thật nhiều. Suy nghĩ là một cách đầu tư có lợi nhất vào công ty của bạn, vào sự nghiệp và cuộc sống của bạn: “Suy nghĩ thông minh, hành động nhanh chóng” “Vấn đề không phải ở chỗ liệu máy móc có biết suy nghĩ không, mà là liệu con người có chịu suy nghĩ hay không” - (Burrhus Frederic Skinner) Chúng ta đang sống trong một xã hội bị ám ảnh bởi công nghệ, và nếu xem xét kỹ, ta sẽ thấy điều đó là tốt bởi vì chúng ta đã có những tiến bộ đích thực và rất đáng kể. Những người thợ cơ khí ngày xưa, như Edison, mang đến cho chúng ta bóng đèn, còn những người thợ cơ khí ngày nay thì mang đến cho chúng ta những khả năng không thể tin được của máy tính. Richard Demillo, chủ nhiệm một trường đại học về máy tính ở Georgia Tech, đã nói rằng chúng ta đang sống trong một kỷ nguyên hoàn toàn mới của tiến bộ kỹ thuật. Thế giới tiếp tục thay đổi đến mức mà tôi có thể tự tin nói rằng hầu hết những tài liệu tham khảo trong cuốn sách này đã trở nên lạc hậu. Tuy nhiên, khi bạn làm một điều gì đó với công nghệ chỉ bởi vì bạn có thể làm thì không nhất thiết là bạn nên làm điều đó. Thường thì chúng ta chỉ làm tăng thêm sự phức tạp của cuộc sống mà không đạt được một lợi ích rõ ràng nào cả - mà thực tế thì thỉnh thoảng chúng ta còn phải nhận lấy những bất lợi thực sự từ những việc làm đó. Cái xe hơi của tôi là một ví dụ. Nó có đến 712 trang hướng dẫn sử dụng, một cái radio với nhiều núm điều khiển đến mức muốn bật nó lên cũng khó như muốn tắt nó đi. Điều đó là phản tác dụng. Tôi chỉ mơ ước có một chiếc radio xe hơi chỉ có hai núm điều khiển. Một cái để mở lên và điều chỉnh âm lượng. Với cái còn lại, bạn chỉ cần xoay nhẹ nó, ngay lập tức, đài phát thanh sẽ chuyển sang một chương trình khác. Nếu bạn xoay nó thêm một chút nữa, nó sẽ phát một chương trình phát thanh khác nữa. Và cứ như vậy. Tuy nhiên, tôi sợ rằng chúng ta đã đi quá xa so với những tiến bộ như vậy. Tất nhiên, không có lĩnh vực nào mà công nghệ trở nên cực kỳ mê hoặc như trong lĩnh vực thông tin. Chúng ta có kilobytes, megabytes, gigabytes, terabytes, petabytes, exabytes, zettabytes, yottabytes - ngày càng có nhiều đơn vị đo lường bytes, đúng không? Và mục đích là để làm gì nhỉ? Câu trả lời là “nhiều thông tin hơn”. Thực tế thì người ta nói rằng chúng ta đang sống trong thời đại công nghệ thông tin. Điều đó là không đúng. Chúng ta đang sống trong thời đại dữ liệu. Dữ liệu không ngừng đến với chúng ta, 24/7. Dữ liệu đến với chúng ta ngày càng nhiều, ngày càng nhanh và từ khắp mọi hướng. Theo một số liệu ước tính, hơn sáu mươi tỷ email được gửi đi trên khắp thế giới mỗi ngày. Vào thời điểm mà bạn đọc được thông tin này, con số này có thể đã lên đến hàng ngàn tỷ. Đó là chưa tính đến các cuộc điện thoại, thứ đã trở thành một con số khổng lồ đến mức bất kỳ một ước tính nào cũng trở nên vô nghĩa. Chúng ta giao tiếp và giao tiếp - trả lời một cách ngay lập tức giống như những hệ thống tự động, chảy theo một dòng chảy ý thức và chỉ bỏ thêm dữ liệu vào dòng chảy đó - không có một đánh giá nào, cũng không có lấy một ai thực sự ngồi lại, đóng hết cửa, tắt hết chuông và tiếng nhạc, và bỏ ra một vài phút thực sự yên tĩnh để suy nghĩ một cách nghiêm túc về chúng. Trong cuốn “Thế giới mới dũng cảm” (Brave New World) xuất bản năm 1932, Aldous Huxley đã viết: “Loài người bây giờ không còn cô đơn nữa… Chúng ta đã làm cho mọi người căm ghét sự cô đơn, và chúng ta đã sắp xếp cuộc sống của họ để họ không bao giờ có thể cô đơn nữa”. Một trong những nỗi lo sợ lớn nhất của giới doanh nhân năm 2006 và 2007 không phải là nỗi lo sợ về thất bại thị trường hay một cái gì bi thảm như vậy. Họ sợ rằng BlackBerry sẽ biến mất. Chúng ta đang ở trong nguy cơ sẽ trở thành quốc gia của những kẻ lưng gù mắt lác bởi vì tất cả mọi người đang chăm chú tập trung vào một thứ đồ dùng bé xíu để lấy thông tin về bất cứ một điều gì. Tôi không biết ảnh hưởng cuối cùng của các dịch vụ mạng Internet xã hội như MySpace hay Facebook sẽ như thế nào. Nó có thể là tích cực. Tôi hi vọng như thế. Tuy nhiên, vì chúng ta tiếp tục chuyển đổi bản chất của sự tương tác giữa con người với nhau, chúng ta càng ngày càng tiến gần đến với sự quá tải về cảm xúc điện tử đồng thời mất đi giác quan cảm xúc con người. Những tương tác đơn giản của một người với người khác đang mất đi, thậm chí kể cả ở bọn trẻ con. Khi một tỉ lệ lớn những đứa trẻ chơi với nhau, đương nhiên là chúng không chỉ đơn thuần là chơi mà thôi. Cuộc sống của chúng được sắp đặt một cách kỹ lưỡng đến mức thậm chí cả giờ chơi của chúng cũng được xếp lịch trước - y như những cuộc hẹn gặp bàn công việc kinh doanh. Nhưng khi chúng chơi với nhau, thường thì chúng không nhìn nhau. Chúng nhìn lên màn hình và chơi với một thứ đồ chơi bé xíu cầm trong tay. Một tạp chí quảng cáo cho Panasonic in hình một người đàn ông ngồi trong xe hơi, đang gõ lên máy tính xách tay dòng chữ: “Đây không chỉ là máy tính xách tay. Nó giúp bạn lái xe vòng quanh tòa nhà vài vòng trong khi bạn gửi thêm một vài email nữa”. Bạn có thể tưởng tượng được làm việc với người đàn ông này là thế nào không? Ơn Chúa, hắn ta chỉ là một sáng tạo viễn tưởng của đại lý quảng cáo của Panasonic mà thôi. Có ba vấn đề cố hữu trong chứng nghiện (nhưng không bỏ ra chút thời gian nào để suy nghĩ) những dữ liệu không được xử lý liên tục chảy đến, đó là: 1. Cú sốc của hộp thư đến (In-box Shock) - Cái giá phải trả của loài người Có rất nhiều nhân viên văn phòng đã biểu hiện triệu chứng và phàn nàn về cái mà một số người gọi là “cú sốc của hộp thư đến”. Có quá nhiều thứ cần phải được xử lý bằng trí óc. Theo một nghiên cứu năm 2006, một nhân viên văn phòng bình quân mỗi ngày phải xử lý 133 email. Không chỉ thế, họ còn phải thực hiện vô số hoạt động liên lạc - chỗ này một bản fax, chỗ kia một tin nhắn - tham dự một cuộc họp ở nơi này và một cuộc họp qua điện thoại ở nơi khác - xem một buổi giới thiệu bằng Power Point ở đây, xem một báo cáo bằng video ở kia… Điện thoại thì một cái reo trên bàn, một cái rung ở trong túi. Hệ thống thần kinh bình thường của một người không được hình thành để xử lý thông tin của những thứ đến với tốc độ và khối lượng chóng mặt như vậy. Một ngày nọ, trên chương trình TV Bloomberg, trong vòng một phút, từ 4g34 đến 4g35 tôi đếm được có 12 tiêu đề chạy qua. Thêm vào đó, có hai chương trình thi bơi, kết quả các chỉ số thông tin thị trường và một chương trình bình luận trực tiếp. Điều đó diễn ra hàng ngày. Điều đó diễn ra mọi ngày. Những lời nói không bao giờ hết, nhưng buổi nói chuyện không ngừng và những âm thanh không bao giờ kết thúc. Một nghiên cứu khoa học ở các trường đại học trên khắp Canada cho thấy 42% nói rằng họ cảm thấy căng thẳng khi tiếp nhận những đợt sóng thông tin và liên lạc không ngừng; 58% nói rằng khả năng tập trung vào công việc của họ đã bị tiêu diệt bởi ICT (công nghệ thông tin và liên lạc). Tương tự, các bác sĩ ở một số trường y cũng đã báo cáo rằng vì mọi người có xu hướng nói to hơn trên điện thoại nhằm “làm sinh động” cuộc nói chuyện của họ, tổn thương dây thanh quản và hậu quả là khản tiếng đang trở thành một vấn đề ngày càng phổ biến. Tất nhiên là có những người có vẻ như có thể giải quyết tất cả những vấn đề này, cả về trí óc lẫn thể chất. Họ thậm chí còn trở nên thịnh vượng và ngày càng giàu có nhờ nó. Một bài trên tạp chí Fortune đã từng viết rằng Chủ tịch Microsoft Bill Gates có đến ba màn hình máy tính trên bàn làm việc của ông, vận hành đồng bộ đến mức ông có thể kéo một số dữ liệu hay chương trình từ màn hình này qua màn hình khác. Một màn hình thể hiện email. Màn hình thứ hai thể hiện những thông điệp đặc biệt mà ông đang viết lúc đó. Màn hình thứ ba dùng để ông tra cứu nhiều trang web khác nhau. Bill Gates là người tiên phong trong lĩnh vực giao tiếp và thông tin điện tử. Ông là một thiên tài, nhất là trong lĩnh vực xử lý dữ liệu. Không thể đo lường hết ảnh hưởng tích cực của Bill Gates lên xã hội của chúng ta. Nhưng chắc chắn rằng ông đã đem chúng ta đến gần nhau hơn… chỉ bằng một cú nhấp chuột (click). Tuy nhiên, vì hầu hết chúng ta là những người trần mắt thịt, công nghệ thông tin và liên lạc không làm được việc giải phóng thời gian để chúng ta có thời gian suy nghĩ về những việc mình làm. Ngược lại, nó thường làm tăng áp lực về thời gian cho chúng ta lên mức độ căng thẳng hơn. Nhà xã hội học Hà Lan Ida Sabelis đã sử dụng từ “giảm áp lực”, điều mà những thợ lặn phải làm khi họ ngoi lên khỏi mặt nước sau một lần lặn sâu. Sau khi chúng ta lặn ngụp quá sâu trong hàng đống dữ liệu, chúng ta thực sự cần thời gian để giảm áp lực, ngồi lại và suy nghĩ một cách thật kỹ lưỡng về những vấn đề trước mắt. Người ta đã nói rằng “Bạn không bao giờ có quá nhiều dữ liệu”. Nhưng bằng bản năng của mình, cả bạn và tôi đều biết rằng điều đó là không đúng. Nếu bạn đã từng nhìn lên quầy bán kem đánh răng tại một cửa hàng tạp phẩm địa phương, bạn sẽ nhìn thấy vấn đề: chỉ riêng hãng Colgate thôi đã có đến 15 hay 16 loại kem đánh răng khác nhau, và hình như tất cả đều chỉ khác nhau có chút xíu về cách làm sạch răng, làm trắng răng và chống sâu răng. Rõ ràng là trong ví dụ này chúng ta đã có quá nhiều dữ liệu để “xử lý”. Thậm chí còn khủng khiếp hơn nếu bạn xem xét quá trình mua sắm một thứ gì đó hơi mang tính kỹ thuật một chút, ví dụ như một cái điện thoại hay một cái TV mới. Việc lựa chọn thực sự là một việc tuyệt vời nhưng tuy nhiên cũng đầy kinh hoàng đối với một vài người trong chúng ta. Bạn có muốn có một chiếc điện thoại có thể chụp ảnh, lưu trữ nhạc, lướt Internet, gửi và nhận tin nhắn, hoặc thậm chí có thể chiếu một vở kịch mới nhất? Tất cả những điều bạn cần phải biết đều có ở đó. Chỉ cần bạn mở một trong hàng ngàn trang Web hoặc nói chuyện với một chuyên gia công nghệ thân thiện ở bất kỳ một cửa hàng bán lẻ đồ điện máy nào. Có quá nhiều thứ phải biết, và chúng có thể khó lựa chọn. (Những người bán hàng thông minh đều biết điều này, vì thế họ nhanh chóng thu hẹp những khả năng lựa chọn của bạn. Nếu bạn giới thiệu cho tôi hàng tá sản phẩm, tôi sẽ bị lẫn lộn. Nhưng nếu bạn chỉ giới thiệu cho tôi ba lựa chọn, thường sẽ chọn cái màu xanh!). Vào đầu những năm 1970, một nhà tâm lý học đã đưa cho những người cá cược đua ngựa hàng loạt thông tin khác nhau về những loài ngựa khác nhau - báo cáo về những cuộc đua trước, sức nặng mà chúng có thể chở được, khả năng sinh sản v.v…Điều thú vị là những người này dự đoán kém chính xác hơn nhiều khi họ có đến bốn mươi thông tin so với khi họ chỉ có năm thông tin. Đúng là có nhiều, rất nhiều tình huống mà “ít tốt hơn nhiều”! Ngày nay một mạng lưới toàn cầu kết nối tất cả mọi thứ lại với nhau. Máy móc tiếp tục nói chuyện với máy móc. Tập thể kết nối với tập thể, tất cả đều chia sẻ dữ liệu. Tuy nhiên, để có hiệu quả cao, toàn bộ các vật thể và tập thể này cần được sắp xếp lại. Một mạng lưới kinh doanh có thể không có một cấu trúc hữu hình như một tòa nhà, nhưng ở một số mặt nào đó, cần phải có một vài chỉ dẫn để mọi việc được trôi chảy theo đúng định hướng, về một mục tiêu đúng. Một hoặc một vài người phải dùng trí khôn và suy nghĩ về định hướng và mục tiêu. Ai đó phải có một tầm nhìn về tương lai. Chỉ có dữ liệu không thôi sẽ không giúp bạn làm điều đó. Trên thực tế thì dữ liệu thường xuyên mâu thuẫn nhau bởi vì sự nhất trí tập thể thường khác với quyết định cá nhân. Trong một cuộc bầu cử quốc gia, mọi người sẽ nói một cách vui vẻ rằng họ muốn một căn nhà tiết kiệm năng lượng, tuy nhiên họ sẽ cũng sẽ vui vẻ như vậy khi xây một căn nhà to gấp ba lần căn nhà mà họ đang có. Tôi tin vào các nghiên cứu, nhưng tôi không hi vọng các nghiên cứu sẽ mang lại cho tôi một cái gì đó to lớn hơn là một tia sáng le lói, một bức tranh không hoàn hảo về một thời khắc trong cuộc sống. Đường cong hình chuông không thực sự mang đến cho tôi cách để thiết kế ra một tầm nhìn cho tương lai. Các cuộc nghiên cứu không chỉ cho chúng ta cách để hình thành nên những ước mơ tương lai bởi vì không ai biết điều đó. Nếu trong quá khứ, người làm nên xe hơi hỏi mọi người xem họ có ước mơ gì trong phương tiện đi lại, câu trả lời có thể đã là “những con ngựa chạy nhanh hơn”. Nếu bạn muốn thất bại, đừng phí thời gian suy nghĩ. Nếu bạn muốn thành công, hãy suy nghĩ thật nhiều. Suy nghĩ là một cách đầu tư có lợi nhất vào công ty của bạn, vào sự nghiệp và cuộc sống của bạn. Khi Steve Bennett, một “người đồng môn” của Jack Welch ở “học viện” GE, nhận nhiệm vụ làm CEO của học viện, công ty có một tập hợp mười giá trị hoạt động. Ông đã thay đổi chỉ duy nhất một từ trong tất cả mười giá trị đó. Giá trị thứ chín vốn là “suy nghĩ nhanh, hành động nhanh”. Ông đổi nó thành “Suy nghĩ thông minh, hành động nhanh”. Và học viện vốn đã hoạt động tốt nay thậm chí còn hoạt động tốt hơn dưới sự lãnh đạo của Bennett. Bỏ thời gian để suy nghĩ thực sự là một hành động đáng giá. Như Gandhi đã từng viết “Cuộc sống có nhiều điều quan trọng hơn chứ không chỉ là làm tăng tốc độ”. Để thành công không phải chỉ cần chuyển động nhanh hơn. Tuy nhiên, để thất bại thì chỉ cần thế. 2. Dữ liệu không được xử lý có thể che giấu bản chất sự việc Vào thời kỳ đầu của thế kỷ 20, vật lý học truyền thống đã được cách mạng hóa bởi những tiến bộ trong cơ chế định lượng. Bạn không cần phải hiểu vật lý để có thể nắm bắt được một phát hiện mang tính triết lý căn bản rằng “không thể biết hết mọi điều trên thế giới này”. Nguyên lý về tính bất định của Heisenberg đảm bảo với chúng ta rằng chúng ta không thể chắc chắn với bất cứ điều gì chúng ta quan sát bởi vì thứ chúng ta quan sát bị ảnh hưởng bởi chính bản thân quá trình quan sát đó. Không lâu sau đó, một vài nhà vật lý học đã xem xét và kết luận rằng chúng ta cũng không thể quá tin chắc vào nguyên lý về tính bất định! Vì vậy, mỗi khi bạn nói bạn “biết” điều gì thì hãy cẩn trọng trong những khẳng định mang tính nhận thức luận đó. “Không phải vì những thứ chúng ta không biết khiến chúng ta gặp rắc rối. Ngược lại mới đúng” - Mark Twain - (Một số người “biết” rằng không phải Mark Twain nói những câu này. Nó được nói ra bởi Artemus Ward, Ralph Waldo Emerson, hoặc Will Rogers. Sự thật thì, tôi “biết” rằng không ai trong số đó là tác giả của những dòng này cả. Người đó là chú Vern của tôi. Tôi “biết” vậy vì tôi đã từng có mặt lúc ông nói điều đó). Đôi khi chúng ta thấy điều chúng ta muốn thấy, đó không phải là thực tế mà chỉ là các dữ liệu khiến chúng ta tưởng rằng chúng đại diện cho thực tế. Hoặc là những dữ liệu mà chúng ta muốn chúng đại diện cho thực tế. Có một thiên kiến tâm lý được gọi là cái bẫy của sự khẳng định (confirmation trap). Chúng ta tìm kiếm sự khẳng định cho những quan điểm mang tính định kiến hơn là tìm kiếm những lỗi sai trong những quan điểm đó. Enron đã lừa đảo rất nhiều người, trong đó có rất nhiều người ở trong chính công ty đó. Tuy nhiên, những người trong công ty Enron bị làm rối trí bởi vì họ hoàn toàn không suy nghĩ về thứ mà họ nhìn thấy trên bảng cân đối kế toán. Họ quá háo hức mong cho những con số trên đó trở thành sự thực đến mức họ phớt lờ việc chúng hết sức vô lý và khó hiểu. Báo chí kinh doanh cũng ngu ngốc không kém. Họ cần những tin “nóng”, không nhất thiết phải là tin thật. Và cứ thế, sự giả mạo và các chuyên gia lừa bịp ở mọi cấp độ tha hồ khai thác sự ngớ ngẩn của ngay cả kẻ được coi là uyên bác nhất trong số chúng ta. Họ hiểu đôi khi chúng ta có nhu cầu tin vào ảo tưởng thay vì thực tế. Vào cuối những năm 1940, khi Pepsi bán giảm giá “mua một tặng một”, lãnh đạo công ty Coca-Cola đã tự lừa dối mình bằng việc hàng quý, lập báo cáo doanh số bán hàng theo thùng. Và các báo cáo doanh số theo thùng như vậy cho thấy Coke bán được nhiều thùng hơn đối thủ cạnh tranh của họ. Vấn đề duy nhất ở đây là thùng của Coca-Cola là thùng chứa 24 chai loại 6,5 ounce trong khi thùng của Pepsi là 24 chai loại 12 ounce. Không ai trong số họ hỏi một câu hỏi đầy hiển nhiên như sau: “Nếu chúng ta bán nhiều thùng hơn, tại sao họ vẫn tiếp tục dành được khách hàng của chúng ta?”. Việc đặt ra và trả lời câu hỏi đó cuối cùng đã dẫn đến giải pháp cho Coca Cola là sử dụng loại chai lớn hơn. Những nhà sản xuất ô tô ở công ty Detroit đã tự lừa dối mình suốt bao nhiều năm bằng cách nhìn vào doanh số bán hàng mà họ muốn thay vì suy nghĩ về bức tranh toàn cảnh của ngành công nghiệp ô tô toàn cầu. Thậm chí, họ còn tự lừa dối mình bằng cái tiêu chuẩn chất lượng của họ. Họ đưa ra một tiêu chuẩn nội bộ, áp dụng các giá trị của họ để đo lường chất lượng, và sau đó tự khen ngợi mình khi họ tiến đến gần tiêu chuẩn đó. Trong khi đó người Nhật không đặt ra một tiêu chuẩn nào cả. Họ quan niệm: “Hãy sản xuất loại xe hơi tốt nhất có thể. Và hãy tiếp tục cải tiến cái xe đó”. Thật rõ ràng! Và thật thông minh! Tôi trở nên hết sức thận trọng với những nghiên cứu liên quan đến Marketing và quản trị kinh doanh. Chúng đã được công nhận, nhưng tôi tin chắc rằng chúng ta thường đo lường những biến số sai và sử dụng không đúng người để đánh giá những kết quả đo lường đó. Ví dụ cổ điển nhất cho công ty Coca-Cola là lần giới thiệu sản phẩm New Coke đáng hổ thẹn năm 1985. Trong buổi kiểm tra hương vị “mù”, trong đó những người thử đều được bịt mắt, nhấm nháp một chút sản phẩm A so với sản phẩm B và sản phẩm ngọt hơn đã chiến thắng. Điều đó đưa chúng tôi đến với kết luận sai lầm rằng sản phẩm của Coca-Cola chưa đủ ngọt. Những buổi kiểm tra “mù” đã hoàn toàn không thể mô tả một cách đầy đủ các khía cạnh của sản phẩm Coca-Cola - toàn bộ hình ảnh cũng như khía cạnh văn hóa. Ở Mỹ, doanh số của Pepsi lúc đó tăng rất mạnh, do đó những nhà lãnh đạo Coca-Cola và đặc biệt là lãnh đạo của những công ty gia công cố gắng tìm kiếm lý do tại sao doanh số bán hàng của Pepsi lại cao hơn của Coca-Cola trong các siêu thị. Ở Mỹ, đội ngũ quản trị Coca-Cola bắt đầu tìm kiếm lý do. Đó không phải là vấn đề về chi phí quảng cáo hay phân phối, vậy thì lý do phải ở đâu đó. Điều đó khiến họ tập trung suy nghĩ về bản thân sản phẩm có tuổi đời gần 100 năm của họ. Các nhà nghiên cứu đưa ra câu hỏi: Liệu có thể có sự khác biệt nào có thể được xác định và chỉnh sửa không? Và do đó, hai trăm ngàn buổi thử hương vị đã được thực hiện và chứng minh cho sự nghi vấn về độ ngọt của sản phẩm. Và tất nhiên, kết quả đã cho thấy là vấn đề hoàn toàn không phải là độ ngọt. Các dữ liệu đã che khuất thực tế. Tất cả các nghiên cứu trên thế giới không có nghĩa lý gì nếu bạn không đặt ra đúng câu hỏi cần thiết. Sự thật là chúng tôi cần phải tạo ra một cảm xúc mãnh liệt hơn trong nhãn hiệu biểu tượng. New Coke, bằng cách riêng của nó, đã giúp chúng tôi hiểu được điều đó, tuy nhiên đó là một bài học quá đắt giá. Lập kế hoạch ngân sách cũng là một công việc phải chịu đựng quá nhiều dữ liệu. Trải qua nhiều năm, các chuyên gia về ngân sách ở trụ sở chính của Coca-Cola ở Atlanta thường chết chìm trong đống dữ liệu thô hầu như vô dụng, tuy nhiên họ vẫn tiếp tục thu thập chúng và phân tích chúng theo một số công thức nội bộ. Ví dụ, “bộ phận bán hàng từ bình chứa năm ngoái chi ra X đô-la để mua sắm vật dụng. Vì thế, bộ phận này sang năm sẽ cần X+Y, và chúng tôi sẽ lập kế hoạch dựa theo đó!”. Những người lập kế hoạch ngân sách không bao giờ nhìn được cả bức tranh toàn cảnh. Vào cuối những năm 1960 và đầu 1970, một vài người trong số chúng tôi chuyển tới Atlanta để thành lập bộ phận Coca-Cola Food Division ở Houston. Lợi thế có được là do chúng tôi là những “người mới”, từ nơi khác đến. Chúng tôi nhìn mọi vật bằng những lăng kính khác nhau và bắt đầu vẽ ra một bức tranh lớn hơn. Chúng tôi khách quan trước mọi vấn đề và dành thời gian để suy nghĩ về toàn bộ mọi hoạt động. Chúng tôi cũng nhìn thấy nội thất trong nhà giống như mọi người, nhưng chúng tôi biết rằng chúng tôi có thể di chuyển bộ sofa. 3. Suy nghĩ là một việc làm cần thiết. Bỏ thời gian suy nghĩ không phải là một việc làm xa xỉ. Nó là một việc làm cần thiết. Như Goethe đã viết: “Hành động thì dễ; suy nghĩ mới khó”. Tuy nhiên, trên thực tế thì hành động thường diễn ra một theo cách riêng của nó. Chúng ta coi trọng lý lẽ, nhưng chúng ta lại là con tin của cảm xúc. Rốt cuộc, chúng ta là những sinh vật có cảm xúc, và cảm xúc mãnh liệt của những cố gắng đặc biệt khi quả bóng đã lăn thì khó có thể dừng lại được. Có một xu hướng chung của những ước muốn tập thể trong quá trình ra quyết định trong đó mọi người quá hào hứng làm một điều gì đó cho nên những suy nghĩ trực tiếp trở nên là không thể được. Trong lĩnh vực sát nhập và mua lại, những giao dịch hàng triệu, và thậm chí là hàng tỉ đô la đã được thực hiện và trên đà phát triển, sự cạnh tranh giữa những người tham gia lên đến đỉnh điểm, trò chơi - tất cả những hoạt động này trở thành một trò chơi - vẫn tiếp diễn, không gì có thể ngăn cản được. Ai cũng muốn mình là người chiến thắng! Họ có thể thưởng thức hương vị của chiến thắng! Tất cả tiền ở trên bàn, tất cả những cái được cho là hợp lý phía sau giao dịch, tất cả những người liên quan - không có gì quan trọng trừ chiến thắng! Cái tôi lớn nhất dường như lên tiếng: “Tôi muốn nó được thực hiện theo cách của tôi”! Người ta mơ trở thành tâm điểm của các cuộc họp báo và được đăng một dòng tít thật lớn trên tờ Wall Street Journal. Tất cả những điều đó thật hào nhoáng và chúng ta tự nhủ rằng giá trị của những giao dịch đó là hợp lý - ngay cả khi chúng thực ra chẳng khác gì “đếm sao trên trời”. “Thú tính” mà John Maynard Keynes đã từng viết có vẻ có sức mạnh lớn hơn mức mà các doanh nhân thừa nhận. Hãy xem các trường hợp hợp nhất khủng khiếp đã xảy ra gần đây - Daimler và Chrysler, Tim Warner và AOL, Kmart và Sears, Quaker Oats và Snapple. Liệu những sự sáp nhập này có thực sự cần phải diễn ra không? Hoàn toàn có thể dự đoán trước nhiều kết quả không như ý, tuy nhiên mọi người đều bị cuốn theo thương vụ, và không một ai, từ cấp cao nhất trở xuống, chịu suy nghĩ về những hậu quả trực tiếp và gián tiếp có thể có. Tất nhiên, nhiều người tham gia thương vụ cũng xem xét đến những khoản lợi trong ngắn hạn, nhưng cần phải có một ai đó tính tới những hậu quả dài hạn vì sự thịnh vượng và chân giá trị của tất cả những bên có quyền lợi liên quan trong mỗi hoạt động kinh doanh. Trừ phi một ai đó dừng lại và suy nghĩ… chúng ta sẽ rất dễ nhiều lần mắc phải cùng một sai lầm. Và đây chắc chắn là một phương sách để thất bại. Khi gặp phải bất kỳ một thất bại nào, người ta nhìn quanh để đổ lỗi, buộc tội hoặc phạt một ai đó. Bằng cách đó, bạn không hề quay lại, dành ra một chút thời gian để phân tích thất bại của mình. Những bệnh viện tốt thường triệu tập các buổi họp bàn về bệnh tật và các trường hợp tử vong để thảo luận và rút ra những bài học từ những thất bại của chính họ. Trường hợp của họ liên quan đến sự sống và cái chết. Tất nhiên công việc kinh doanh không đến mức nghiêm trọng như vậy. Tuy nhiên, mỗi sai lầm đều cho ta cơ hội suy nghĩ về một kỹ thuật không mấy thành công hoặc một bước marketing sai lầm, chỉ ra một cách khách quan vấn đề nằm ở chỗ nào. Bất kỳ sự quản trị hay nhà quản trị thực sự nào cũng đều có những lúc phạm sai lầm. Nhưng nếu bạn muốn thất bại, hãy tránh đừng xem xét kỹ lưỡng những lỗi lầm của bạn và đừng phân tích nó. Bằng cách đó, bạn sẽ tiếp tục phạm lại sai lầm đó trong tương lai. Tuy nhiên, nếu bạn vẫn còn muốn thất bại, điều bắt buộc là bạn không được bỏ thời gian ra để suy nghĩ. Hoặc, và điều này có vẻ hấp dẫn hơn, bạn hãy né tránh hầu hết tất cả mọi trách nhiệm bằng cách thuê ai đó suy nghĩ thay cho bạn… Theo: (DONALD R.KEOUGH*) (*) Donald R. Keough từng là một cái tên nổi bật trong giới quản trị cấp cao ở Mỹ, từng là chủ tịch của Cocacola, Columbia Pictures và nằm trong Ban điều hành những công ty hàng đầu như McDonald, Washington Post, Home Depot, Berkshire Hathaway... Với sự nghiệp lừng lẫy trong 60 năm ở những vị trí điều hành các tập đoàn hàng đầu thế giới, Donald Keough nay đã 83 tuổi có dư trải nghiệm và sự khôn ngoan để hướng dẫn người khác làm thế nào để thành công: Muốn thành công thì trước hết hãy học cách tránh vết xe đổ của những người thất bại. Hãy học cách thất bại trước... “10 Điều Răn Về Những Thất Bại Trong Kinh Doanh” Tác giả: Donald R. Keough. - Dịch giả: Nguyễn Thị Thu Hương. Nguyễn Dương Hiếu (Nxb Trẻ)   Cựu chủ tịch Cocacola viết sách dạy thất bại Posted on 03.04.2010 by minhtien 10 Điều Răn Về Những Thất Bại Trong Kinh Doanh Cựu chủ tịch hãng Cocacola nói ông “không thể” đưa ra một bí quyết thành công nào hết, cái ông có thể viết sẽ là một bản “hướng dẫn” thất bại. Cựu chủ tịch hãng Cocacola đã viết một cuốn sách khác biệt: một cuốn sách dạy thất bại Có vô số những cuốn sách dạy thành công trên thị trường với những nội dung na ná như nhau, sự thừa mứa của các kiểu bí quyết đã khiến người đọc bội thực. Donald R.Keough, cựu chủ tịch hãng Cocacola (từ năm 1981 tới năm 1993) khẳng định phũ phàng ngay từ đầu: ông “không thể” đưa ra một bí quyết thành công nào hết, cái ông có thể viết sẽ là một bản “hướng dẫn” thất bại. Vậy nhưng, bản hướng dẫn này của Donald lại được những doanh nhân hàng đầu giới thiệu: Bill Gates, Jack Welch, Warren Buffet, Ropert Murdoch… Hiếm có cuốn sách nào trên thế giới có được vinh dự ấy. Tất nhiên, không phải chỉ vì giá trị mà ngần ấy tên tuổi phải lao vào chiến dịch ủng hộ nó, họ đều là bạn của Donald R.Keough. Và chỉ riêng cái tên Donald cũng đủ khiến người Mỹ tìm đọc sách của ông. Donald Keough từng là một cái tên nổi bật trong giới quản trị cấp cao ở Mỹ, từng là chủ tịch của Cocacola, Columbia Pictures và nằm trong Ban điều hành những công ty hàng đầu như McDonald, Washington Post, Home Depot, Berkshire Hathaway… Với sự nghiệp lừng lẫy trong 60 năm ở những vị trí điều hành các tập đoàn hàng đầu thế giới, ông già Donald nay đã 83 tuổi có dư trải nghiệm và sự khôn ngoan để hướng dẫn người khác làm thế nào để thành công. Nhưng rồi ông già ấy lại chỉ khiêm tốn nói rằng: muốn thành công thì trước hết hãy học cách tránh vết xe đổ của những người thất bại. Hãy học cách thất bại trước… Donald đưa ra 10 điều răn, cụ thể hơn là 10 công thức mà “ai theo đúng những hướng dẫn này chắc chắn sẽ thất bại”. Trong đó, tự cô lập và tự mãn là hai lỗi lầm “kinh niên” của các nhà lãnh đạo mà theo Donald, chắc chắn sẽ dẫn họ tới thất bại. Chứng tôn thờ bản thân Tuy hai mà một, tự cô lập và tự mãn chỉ là hai triệu chứng của cùng một căn bệnh mà Donald đã “bắt mạch” ra: đó là “chứng tôn thờ bản thân”. Tôn thờ bản thân nghĩa là luôn tự nghĩ rằng mình cao hơn, giỏi hơn, siêu hơn, trội hơn người khác trong khi thực tế chưa hẳn đã như vậy. Tôn thờ bản thân dẫn người lãnh đạo tới việc tự cô lập trong tháp ngà xa hoa của mình, cách xa với số đông nhân viên phía dưới. Tôn thờ bản thân để “lập nên một tập thể những nhà tư vấn và những nhân viên được trả lương chỉ để nghĩ rằng bạn tuyệt vời” và chỉ nói những điều mà lãnh đạo muốn nghe. Tôn thờ bản thân nên coi thường cấp dưới, tạo ra một môi trường đầy sợ hãi bằng cách “la hét và nổi cơn tam bành”, “mắng mỏ, chỉ trích những người mắc sai lầm trước mặt những người khác”, “tự hào về những đòi hỏi thái quá mà họ đưa ra cho nhân viên cấp dưới”, “tự hào vì đã đối xử với nhân viên một cách thô lỗ, tồi tệ”. Tôn thờ bản thân nên khi có “việc gì đó đáng được khen thưởng”, luôn vơ tất cả “vinh dự đó về mình”. Tôn thờ bản thân là ít khi thừa nhận sai lầm mà luôn tìm cách “đổ lỗi cho một vài ngoại lực nào đó, hoặc cho một ai đó.” Tôn thờ bản thân là say sưa trong những vinh quang giả tạo mà không nhận ra rằng tất cả chỉ là “những ánh hào quang được bao quanh bởi một cái chụp đèn mờ.” Tất cả những biểu hiện ấy tạo ra một môi trường nơi người có năng lực muốn nói thật những “tin xấu” bị bỏ rơi, còn kẻ nịnh thần ton hót những “tin tốt” được trọng dụng. Hitler cả cuộc đời không bao giờ muốn nghe tin xấu, đến những giờ phút cuối cùng của Quốc Xã, ông ta vẫn nghĩ rằng mình chiến thắng. Ngược lại, Churchill thành lập hẳn một Ban chuyên báo cáo cho mình những tin xấu. Churchill mới là chiến thắng cuối cùng trong Thế chiến II. Hitler là một bệnh nhân nặng của chứng tôn thờ bản thân, vĩ cuồng, một vài thành công trong giai đoạn ngắn không thể cứu nổi thực tế rằng, căn bệnh đó là con đường chắc chắn đưa đến thất bại. Hóm hỉnh và sâu sắc, ông già Donald tóc bạc trắng đã viết một cuốn sách nhẹ nhàng về nghệ thuật thất bại, nhưng lại chính là để chia sẻ những kinh nghiệm thành công, và hơn thế, chia sẻ triết lý làm người.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docBÁO CÁO QUẢN TRỊ HỌC.doc
Tài liệu liên quan