Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 23 * Số 1 * 2019
Chuyên Đề Nội Khoa 158
BÁO CÁO MỘT TRƯỜNG HỢP ĐỒNG NHIỄM NẤM 
CRYPTOCOCCUS NEOFORMANS VÀ TALAROMYCES MARNEFFEI 
TRÊN BỆNH NHÂN HIV/AIDS 
Võ Triều Lý*, Vương Minh Nhựt*, Võ Thị Như Trang* 
TÓM TẮT 
Đặt vấn đề: Đồng nhiễm nấm Cryptococcus neoformans và Talamomyces marneffei trên bệnh nhân AIDS 
là bệnh cảnh hiếm gặp. Đây là những nhiễm trùng cơ hội có tỉ lệ tử vong và tái phát cao. Amphotericin B được 
khuyến cáo điều trị tấn công cho cả hai tác nhân này. Tuy nhiên, giai đoạn củng cố và duy trì cần sử dụng 
những thuốc kháng nấm khác nhau với fluconazole trong nhiễm nấm C. neoformans và itraconazole trong nhiễm 
nấm T. marneffei. Việc lựa chọn các thuốc triazole thích hợp đóng vai trò quyết định trong tiệt trừ và tránh nguy 
cơ tái phát bệnh. Tuy vậy, số lượng thuốc kháng nấm triazole có giới hạn ở Việt nam và các nước có nguồn lực 
kém. Chúng tôi ghi nhận một trường hợp đồng nhiễm C. neoformans và T. marneffei trên bệnh nhân AIDS tại 
Bệnh viện Bệnh Nhiệt Đới, đồng thời tổng hợp y văn để hiểu rõ hơn về vấn đề lựa chọn thuốc kháng nấm triazole 
thích hợp trong bối cảnh của các nước có nguồn lực kém. 
Đối tượng và phương pháp: Báo cáo một trường hợp hiếm gặp. 
Kết quả: Chúng tôi ghi nhận một trường hợp đồng nhiễm C. neoformans và T. marneffei được chẩn đoán và 
điều trị tại Bệnh viện Bệnh Nhiệt Đới. Đây là một bệnh nhân nam 25 tuổi, mới phát hiện nhiễm HIV, chưa điều 
trị ARV, TCD4 18 tế bào/mm3, có biểu hiện đau đầu dữ dội, cổ gượng, sẩn da hoại tử trung tâm ở mũi, thiếu 
máu mức độ trung bình, gan lách to. Cấy dịch não tủy (DNT) và cấy máu phân lập được C. neoformans. Cấy sẩn 
da phân lập được T. marneffei. Bệnh nhân được điều trị theo phác đồ viêm màng não nấm C. neoformans theo 
hướng dẫn quốc gia (2017), với Amphotericin B và Fluconazole liều cao trong vòng 2 tuấn ở giai đoạn tấn công, 
sau đó chuyển sang điều trị củng cố với Fluconazole 8 tuần. Bệnh nhân đáp ứng với điều trị và chưa có dấu hiệu 
tái phát C. neoformans và T. marneffei trong quá trình theo dõi. 
Kết luận: Đồng nhiễm nấm C. neoformans và T. marneffei trên bệnh nhân AIDS là một trường hợp lâm 
sàng hiếm gặp và là một thách thức trong điều trị củng cố và duy trì nhằm tránh nguy cơ tái phát bệnh. 
Fluconazole liều cao có thể là một lựa chọn thay thế để điều trị củng cố trong trường hợp đồng nhiễm nấm C. 
neoformans và T. marneffei tại Việt Nam cũng như các nước có nguồn lực kém. 
Từ khoá: HIV/AIDS, thuốc ARV, tế bào TCD4, Cryptococcus neoformans, Talamomyces marneffei, 
Amphotericin B, Fluconazole, Itraconazole 
ABSTRACT 
A CASE REPORT OF CRYPTOCOCCUS NEOFORMANS AND TALAROMYCES MARNEFFEI 
COINFECTION IN HIV/AIDS PATIENT 
Vo Trieu Ly, Vuong Minh Nhut, Vo Thi Nhu Trang 
* Ho Chi Minh City Journal of Medicine * Supplement of Vol. 23 - No 1- 2019: 158-163 
Background: Cryptococcus neoformans and Talamomyces marneffei coinfection in HIV/AIDS patient is a 
rare case. They are the opportunistic infections with high mortality rate as well as high recurrence rate. 
Amphotericin B is the recommended induction treatment for both pathogens. However, antifungal agents are 
different in the consolidation and maintenance therapy with fluconazole for Cryptococcosis and itraconazole for 
Talaromycosis. A suitable antifungal triazole plays a key role in the fungal eradication and the recurrence of those 
* Bộ môn Nhễm - Đại học Y Dược TP. Hồ Chí Minh 
Tác giả liên lạc: ThS BS Võ Triều Lý ĐT: 0907 411 200 Email: 
[email protected] 
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 23 * Số 1 * 2019 Nghiên cứu Y học
Chuyên Đề Nội Khoa 159
pathogens. Nevertheless, a number of the antifungal triazoles are limited in Vietnam as well as in the resource-
limited settings. We reported a case of C. neoformans and T. marneffei coinfection in AIDS patient at the Hospital 
for Tropical Disease and a literature review in order to make more understanding of the suitable antifungal 
triazoles in a therapeutic dilemma in the resource-limited settings. 
Methods: This is a case report. 
Results: We reported a case of C. neoformans and T. marneffei coinfection diagnosed and treated at the 
Hospital for Tropical Disease. It was a male patient, 25 years old, newly diagnosed HIV infection, 18 TCD4+, 
absence of ARV treatment, presented with severe headache, neck stiffness, skin lesions with central necrotic 
umbilication, moderate anemia, hepatosplenomegaly. Cerebrospinal fluid and blood culture were isolated with C. 
neoformans. Skin culture was positive with T. marneffei. The patient was started with amphotericin B and high-
dose fluconazole within two weeks in the induction therapy and then transferred to the consolidation therapy with 
fluconazole for eight weeks according to the National guideline for C. neoformans meningitis (2017). The patient 
had a good response to the treatment and did not perform any recurrent symptoms of C. neoformans and T. 
marneffei infections during the follow-up exams. 
Conclusion: C. neoformans and T. marneffei coinfection in AIDS patient is a rare clinical case and a 
challenge for the consolidation and maitenance therapy in order to avoid the risk of recurrent disease. High-dose 
fluconazole could be considered as an alternative option for C. neoformans and T. marneffei coinfection in 
Vietnam as well as in the resource-limited settings. 
Keywords: HIV/AIDS, ARV, TCD4, Cryptococcus neoformans, Talamomyces marneffei, Amphotericin B, 
Fluconazole, Itraconazole 
ĐẶT VẤN ĐỀ 
Nhiễm nấm Cryptococcus neoformans và 
Talamomyces marneffei là một trong những bệnh 
nhiễm trùng cơ hội thường gặp trên bệnh nhân 
AIDS(3,8). Cả hai thể bệnh nhiễm trùng cơ hội đều 
có tỉ lệ tử vong cao nếu không được chẩn đoán 
và điều trị kip thời. Thời gian điều trị kéo dài với 
giai đoạn tấn công bằng amphotericin B trong 2 
tuần sau đó củng cố trong 8-10 tuần bằng 
fluconazole đối với nhiễm nấm Cryptococcus 
neoformans hoặc itraconazole nếu nhiễm nấm 
Talamomyces marneffei và tiếp tục điều trị duy trì 
cho tới khi TCD4>200 tế bào/mm3 trong 6 tháng 
liên tiếp(2,3). Khả năng tái phát bệnh cao nếu bệnh 
nhân không tuân thủ điều trị tốt. Đồng nhiễm 
nấm C. neoformans và T. marneffei là bệnh cảnh 
hiếm gặp và chưa có nhiều nghiên cứu về điều 
trị trên những trường hợp này. Lựa chọn điều trị 
ở giai đoạn tấn công là giống nhau, tuy nhiên 
giai đoạn củng cố và duy trì cần sử dụng những 
kháng nấm triazole khác nhau do fluconazole 
chỉ hiệu quả với C. neoformans trong khi 
itraconazole chỉ hiệu lực đối với T. marneffei. Vì 
vây, việc lựa chọn thuốc triazole thích hợp cho 
bệnh nhân đồng nhiễm là một một thử thách lớn 
đối với thực hành lâm sàng ở các nước có nguồn 
lực thấp. Trong bài báo này, chúng tôi báo cáo 
một trường hợp đồng nhiễm C. neoformans và T. 
marneffei trên bệnh nhân AIDS, hướng điều trị, 
kết cục điều trị và tổng hợp một số nghiên cứu 
về cách quản lý đồng nhiễm C. neoformans và T. 
marneffei trên bệnh nhân AIDS. 
GIỚI THIỆU BỆNH ÁN 
Bệnh nhân T.T.S, nam, 25 tuổi, Nghề nghiệp: 
nông dân. Địa chỉ: Bến Tre. 
Lý do nhập viện 
Đau đầu. 
Bệnh sử 
10 ngày. 
N1-10: Bệnh nhân đau đầu nhiều, tăng khi 
gặp ánh sáng, buồn nôn, nôn nhiều lần, không 
sốt, tiêu lỏng nhiều lần, phân vàng, không đàm 
máu. Bệnh nhân sụt cân, ăn uống kém nên đến 
khám ở bệnh viện địa phương chẩn đoán viêm 
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 23 * Số 1 * 2019
Chuyên Đề Nội Khoa 160
màng não/AIDS và chuyển Bệnh viện Bệnh 
Nhiệt Đới. 
Tiền căn 
Mới phát hiện nhiễm HIV đợt bệnh này, 
chưa điều trị ARV, chưa ghi nhận bệnh lý nội 
ngoại khoa trước đây. 
Khám lâm sàng tại thời điểm nhập viện 
Bệnh nhân tỉnh, đừ. Mạch 80lần/ phút; 
Huyết áp: 100/70mmHg; nhịp thở: 24lần/ phút. 
Nhiệt độ: 37oC. Nhiều hạch cổ hai bên # 1cm, 
chắc, di động, không đau. Một sẩn da hoại tử 
trung tâm ở cánh mũi trái. Nấm miệng. Cổ 
gượng. Các cơ quan khác chưa ghi nhận bất thường. 
Tại thời điểm nhập viện, bệnh nhân được 
chẩn đoán viêm màng não nấm/AIDS, được 
thực hiện xét nghiệm thường quy, chọc dò tuỷ 
sống và soi, cấy sẩn da cánh mũi trái. 
Cận lâm sàng 
Công thức máu: Bạch cầu: 6,7 k/uL, 
Neutrophile: 93%, Lymphocytes: 280 tb/uL 
(4,2%), Hb: 8,3 g/dL; Tiểu cầu: 177 k/ul. 
AST/ALT/GGT: 61/48/147U/L. 
HIV 3 test: dương tính. TCD4: 18 tb/mm3. 
Siêu âm bụng: Gan- lách to. 
DNT: bạch cầu: 3 tb/mm3, đơn nhân: 2 
tb/mm3, protein: 0,3 g/L, Glucose DNT/ máu: 
2,6/5,1, Lactate: 1,8 mmol/L. Soi DNT thấy tế bào 
nấm hạt men vách dày chiết quang. Cấy DNT: 
nấm Cryptococcus neoformans. 
Soi sẩn da thấy tế bào nấm hạt men nội và 
ngoại bào. Cấy sẩn da: nấm Talaromyces marneffei. 
Cấy máu: thấy nấm Cryptococcus neoformans. 
Chẩn đoán lúc nằm viện 
Viêm màng não nấm Cryptococcus 
neoformans, nhiễm nấm Talamomyces 
marneffei/AIDS. 
Điều trị 
Amphotericin B 1mg/kg/ngày + Fluconazole 
900mg/ngày trong 14 ngày giai đoạn tấn công, 
sau đó điều trị củng cố với Fluconazole 
900mg/ngày trong 8 tuần. 
Diễn tiến trong quá trình nằm viện 
Sau 6 ngày điều trị tấn công, bệnh nhân giảm 
đau đầu và sau đó hết hẳn. Sẩn da ở cánh mũi 
khô và không mọc sang thương da mới. Sau 17 
ngày điều trị, cấy dịch não tuỷ không còn mọc 
nấm Cryptococcus neoformans, bệnh nhân được 
xuất viện và tiếp tục điều trị củng cố bằng 
Fluconazole 900mg/ngày. 
Quá trình theo dõi bệnh nhân 2 tháng sau 
khi xuất viện, bệnh nhân khoẻ mạnh, tiếp tục 
khám ngoại trú tại Bệnh viện Bệnh Nhiệt Đới và 
chưa ghi nhận nhiễm nấm tái phát. 
BÀN LUẬN 
Nhiễm nấm Talaromyces marneffei 
Talaromyces marneffei (trước đây còn được gọi 
là Penicillium marneffei) là một vi nấm nhị độ 
(dạng nấm hạt men ở 250C và dạng nấm sợi ở 
370C), lây qua đường hô hấp, là một trong ba tác 
nhân nhiễm trùng cơ hội thường gặp nhất trên 
bệnh nhân nhiễm HIV ở vùng Đông Nam Á (đặc 
biệt là vùng bắc Thái Lan và Việt Nam), nam 
Trung Quốc và Ấn Độ. Bệnh thường xảy ra chủ 
yếu ở bệnh nhân nhiễm HIV có TCD4 < 100 
tb/mm3 và thường xảy ra vào mùa mưa(3). 
Bệnh cảnh điển hình của nhiễm nấm 
T.marneffei là sốt kéo dài, sụt cân, thiếu máu, gan 
lách to, sẩn da hoại tử trung tâm. Tổn thương da 
thường xuất hiện ở 70% bệnh nhân bị T.marneffei. 
thường xuất hiện ở vùng mặt, ngực và tay 
chân(14). Sẩn da rất đặc trưng trong chẩn đoán 
nhiễm T.marneffei. Những cơ quan khác có thể bị 
ảnh hưởng bao gồm tủy xương, hạch, phổi, gan 
và ruột. Tổn thương thần kinh trung ương rất ít 
gặp trong nhiễm nấm T.marneffei. Theo Thuy Le 
và cs (2010), 21 bệnh nhân phân lập được 
T.marneffei trong dịch não tủy. Tất cả các bệnh 
đều ghi nhận có biểu hiện sốt và triệu chứng 
thay đổi tâm thần bao gồm lú lẫn, bối rối và ngủ 
gà; các triệu chứng của tăng áp lực nội sọ và 
màng não ít gặp; tăng bạch cầu trong dịch não 
tủy chỉ gặp trong một phần ba trường hợp và 
71% bệnh nhân có tăng đạm, 24% có tỉ lệ đường 
dịch não tủy giảm dưới 50% so với đường máu 
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 23 * Số 1 * 2019 Nghiên cứu Y học
Chuyên Đề Nội Khoa 161
và tỉ lệ tử vong cao(6). 
Chẩn đoán xác định T.marneffei chủ yếu dựa 
vào việc phân lập được tác nhân từ sang thương 
da, máu hay những bệnh phẩm khác dịch hút 
tủy xương hay hạch. 
Theo CDC 2017 và phác đồ bộ Y Tế Việt 
Nam 2017 việc điều trị đầu tay nên dùng 
amphotericin B (0,7–1,5 mg/kg/ngày) hay 
liposomal amphotericin B (3–5 mg/kg/ngày) 
trong 2 tuần sau đó itraconazole 200 mg x 2 
lần/ngày trong 8-10 tuần. Trong trường hợp nhẹ 
hoặc không có amphotericin B thì dùng 
itraconazole 200mg x 2 lần/ngày trong 8 tuần. 
Sau đó điều trị phòng ngừa thứ phát bằng 
itraconazole 200mg/ngày(2,3). 
Nhiễm nấm Cryptococcus neoformans 
Cryptococcus neoformans tồn tại tự nhiên 
ngoài không khí, con người hít phải nhưng 
không gây bệnh. Tuy nhiên, C. neoformans có thể 
gây bệnh cảnh nhiễm trùng thần kinh trung 
ương nặng nề trên cơ địa suy giảm miễn dịch 
như HIV/AIDS với TCD4 <100 tb/uL. Ước tính 
mỗi năm trên thế giới có thêm 1 triệu ca viêm 
màng não nấm C. neoformans và 600,000 ca tử 
vong(9). C. neoformans thường gây bệnh cảnh 
viêm màng não bán cấp với sốt, đau đầu, nôn ói. 
Một số bệnh nhân rối loạn tri giác, nhìn mờ, ù tai 
là dấu hiệu của biến chứng tăng áp lực nội sọ. 
Dấu màng não điển hình như cổ gượng, nhạy 
cảm ánh sáng chỉ gặp trong một phần tư trường 
hợp. C. neoformans có thể gây nhiễm trùng lan 
toả trên bệnh nhân HIV/AIDS với sang thương 
da, viêm phổi. Viêm phổi do nấm C. neoformans 
thường dễ nhầm lẫn với viêm phổi mô kẽ do 
Pneumocystis jirovecii. 
Dịch não tuỷ trong viêm màng não nấm C. 
neoformans thường bạch cầu tăng nhẹ với đơn 
nhân ưu thế, protein tăng nhẹ, đường giảm 
nhẹ hoặc bình thường. Một số bệnh nhân bạch 
cầu tăng rất ít nhưng nhuộm Gram lại phát 
hiện ra nấm, đây thường là những ca suy giảm 
miễn dịch rất nặng. Nhiễm nấm C. neoformans 
có thể được phát hiện qua cấy máu, DNT hoặc 
phát hiện kháng nguyên cryptococcus bẳng 
LFA. Kỹ thuật nhuộm mực tàu dịch não tuỷ 
phát hiện nấm hạt men vách dày chiết quang 
trong 60-80% ca viêm màng não nấm. LFA 
phát hiện kháng nguyên trong cả máu và 
DNT, thực hiện LFA trong máu giúp tầm soát 
sớm những ca viêm màng não nấm ngay cả 
khi không có triệu chứng(4). 
Phác đồ điều trị nhiễm nấm theo bộ y tế 
2017: giai đoạn tấn công Amphotericin B 0,7-
1,5mg/kg/ngày trong 14 ngày sau đó fluconazole 
900mg/ngày trong 8-10 tuần. Giai đoạn duy trì 
fluconazole 150mg/ngày ở người lớn cho tới khi 
TCD4 >200 tế bào/mm3 duy trì liên tục > 6 
tháng(2). 
Đồng nhiễm Cryptococcus neoformans và 
Talaromyces marneffei 
Mặc dù C.neoformans và T.marneffei là những 
nhiễm trùng cơ hội thường gặp trên bệnh nhân 
nhiễm HIV tại các nước Đông Nam Á. Tuy 
nhiên, những trường hợp đồng nhiễm 
C.neoformans và T.marneffei thường hiếm gặp và 
cũng chưa được nghiên cứu đầy đủ. Thuy Le và 
các cộng sự đã ghi nhận 8 trường hợp đồng 
nhiễm C.neoformans và T.marneffei tại Bệnh viện 
Bệnh Nhiệt Đới từ năm 2004 đến 2009. Trong đó 
đa phần là nam giới (7/8 ca) với tuổi trung binh 
là 25,5 tuổi; cả 8 bệnh nhân đều được chẩn đoán 
nhiễm HIV với số lượng lymphocyte trung bình 
là 233 tb/µL. Các bệnh nhân này nhập viện trong 
bệnh cảnh sốt (trung bình 5,5 ngày trước nhập 
viện), đau đầu và nôn ói (6/8 ca). 7/8 bệnh nhân 
có thiếu máu, 6 bệnh nhân có giảm tiểu cầu. Tất 
cả các bệnh nhân này đều có kết quả cấy máu 
dương tính với C.neoformans và T.marneffei. 
C.neoformans đều được tìm thất trong tất cả 7 
bệnh nhân được khảo sát dịch não tủy. Một bệnh 
nhân tìm thấy đồng thời cả C.neoformans và 
T.marneffei trong dịch não tủy. Tất cả các bệnh 
nhân đều được điều trị tấn công với 
amphotericin B. Trong đó có 2 trường hợp tử 
vong trong thời gian nằm viện trong đó 1 trường 
hợp tử vong sau 24 giờ nằm viện, 1 trường hợp 
tử vong sau 10 ngày điều trị với amphotericin B 
0,7mg/kg/ngày. Các trường hợp còn lại được 
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 23 * Số 1 * 2019
Chuyên Đề Nội Khoa 162
xuất viện và điều trị củng cố bằng fluconazole 
450 – 600 mg/ngày (4/6 ca) và itraconazole 400 
mg/ngày (1/6 ca)(5). 
Nhìn chung, việc điều trị C.neoformans và 
T.marneffei thường kéo dài với giai đoạn tấn công 
ban đầu với amphotericin B và điều trị củng cố 
với fluconazole (trường trường hợp 
C.neoformans) hay itraconazole (trong trường 
hợp T.marneffei). Trong giai đoạn củng cố và giai 
đoạn duy trì, itraconazole là thuốc được ưu tiên 
chọn lựa trong điều trị T.marneffei, tuy nhiên lại 
lại làm tăng tỉ lệ tái phát viêm màng não do 
C.neoformans trong giai đoạn điều trị duy trì(15); 
do itraconazole thấm qua hàng rào máu não 
kém(7). Fluconazole là thuốc được ưu tiên trong 
điều trị C.neoformans, tuy nhiên lại cho thấy hiệu 
quả điều trị thấp kể cả in-vivo lẫn in-vitro đối 
với T.marneffei(13). Trong khi đó việc dùng kéo dài 
amphotericin B có quá nhiều bất tiện cũng như 
gia tăng độc tính của thuốc (đặc biệt là suy thận 
và rối loạn điện giải). Tại các nước phát triển có 
thể có các loại thuốc azole thế hệ mới có thể có 
các tác dụng trên cả C.neoformans và T.marneffei. 
Ví dụ: voriconazole là thuốc có thể thấm qua 
hàng rào máu não tốt và đã được chứng minh có 
hiệu quả trên cả C.neoformans và T.marneffei(1,12); 
hay posaconazole là một azole thế hệ mới có cấu 
trúc tương tự như itraconazole nên có thể có tác 
dụng đối với T.marneffei(11) và thuốc cũng đã 
được dùng đề điều trị viêm màng não do 
C.neoformans(10). Tuy nhiên, các loại thuốc này lại 
chưa có tại Việt Nam. Trong một báo cáo về điều 
trị 20 bệnh nhân nhiễm T.marneffei ở Malaysia, 
trong đó các bệnh nhân đều được tấn công bằng 
amphotericin B trong hai tuần, sau đó 70% bệnh 
nhân được điều trị củng cố bằng itraconazole và 
30% bệnh nhân được củng cố bằng fluconazole 
trong 10 tuần cho thấy không có trường hợp nào 
tử vong hay tái phát trong 12 tuần điều trị và 3 
tháng theo dõi sau đó(8). Nghiên cứu của Thuy 
Le và cs (2010) cũng đã cho thấy 1 trường hợp 
đồng nhiễm C.neoformans và T.marneffei được 
điều trị với amphotericin B 0,7mg/kg/ngày trong 
vòng 14 ngày, củng cố với fluconazole 400 
mg/ngày trong vòng 8 tuần và duy trì với 
fluconazole 200mg/ngày sau đó. Sau 3,6,8 và 10 
tháng theo dõi, bệnh nhân đã khỏe mạnh và có 
thể trở lại làm việc bình thường, các kết quả cấy 
máu kiểm tra đều âm tính và các xét nghiệm 
máu và chức năng gan đều cho kết quả bình 
thường, TCD4 của bệnh nhân đã tăng lên 173 
TB/mm3 tại tháng thứ 8 theo dõi(5). Với các 
nghiên cứu ghi nhận được, chúng tôi quyết định 
sử dụng fluconazole liều cao trong giai đoạn 
củng cố và duy trì trong trường hợp đồng nhiễm 
này. Thật vậy, bệnh nhân đáp ứng tốt với điều 
trị và chưa có dấu hiệu tái phát C. neoformans lẫn 
T. marneffei trong suốt quá trình theo dõi. 
KẾT LUẬN 
Đồng nhiễm nấm Cryptococcus neoformans 
và Talaromyces marneffei là một bệnh cảnh 
nhiễm trùng hiếm gặp trên bệnh nhân nhiễm 
HIV/AIDS. Việc chọn lựa thuốc kháng nấm 
trong giai đoạn điều trị củng cố và duy trì là 
một thách thức đối với lâm sàng khi các thuốc 
kháng nấm thế hệ mới chưa có sẵn ở các nước 
có nguồn lực thấp như Việt Nam. Fluconazole 
có thể là một lựa chọn chấp nhận được, tuy 
nhiên cần có nhiều nghiên cứu và theo dõi dài 
hơn các trường hợp đồng nhiễm để chứng 
minh hiệu quả của fluconazole. 
TÀI LIỆU THAM KHẢO 
1. Bandettini R, Castagnola E, Calvillo M et al (2009). 
“Voriconazole for Cryptococcal Meningitis in Children with 
Leukemia or Receiving Allogeneic Hemopoietic Stem Cell 
Transplant”. Journal of Chemotherapy, 21 (1), pp. 108-109. 
2. Bộ Y Tế Việt Nam (2017). “Hướng dẫn điều trị và chăm sóc 
HIV/AIDS”. Bộ Y tế. 
3. Centers for Disease Control and Prevention (2017). 
“Guidelines for Prevention and Treatment of Opportunistic 
Infections in HIV-Infected Adults and Adolescents”. 
AIDSinfo. 
4. French N, Gray K, Watera C, et al (2002). “Cryptococcal 
infection in a cohort of HIV-1-infected Ugandan adults”. 
AIDS, 16(7), pp. 1031-1038. 
5. Le T, Hong Chau T T, Kim Cuc N T et al (2010). “AIDS-
associated Cryptococcus neoformans and Penicillium 
marneffei coinfection: a therapeutic dilemma in resource-
limited settings”. Clin Infect Dis, 51(9), pp. e65-8. 
6. Le T, Huu Chi N, Kim Cuc NT et al (2010). “AIDS-
Associated Penicillium marneffei Infection of the Central 
Nervous System”. Clin Infect Dis, 51 (12), pp. 1458-62. 
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 23 * Số 1 * 2019 Nghiên cứu Y học
Chuyên Đề Nội Khoa 163
7. Negroni R, Arechavala AI (1993). “Itraconazole: 
pharmacokinetics and indications”. Arch Med Res, 24(4), pp. 
387-93. 
8. Nor-Hayati S, Sahlawati M, Suresh-Kumar C (2012). “A 
Retrospective Review on Successful Management of 
Penicillium Marneffei Infections in Patients with Advanced 
HIV in Hospital Sungai Buloh”. Med J Malaysia, 67 (1), pp. 
66-70. 
9. Park BJ, Wannemuehler KA, Marston BJ et al (2009). 
“Estimation of the current global burden of cryptococcal 
meningitis among persons living with HIV/AIDS”. AIDS, 23 
(4), pp. 525-530. 
10. Pitisuttithum P, Negroni R, Graybill JR et al (2005). “Activity 
of posaconazole in the treatment of central nervous system 
fungal infections”. J Antimicrob Chemother, 56 (4), pp. 745-55. 
11. Schiller DS, Fung HB (2007). “Posaconazole: an extended-
spectrum triazole antifungal agent”. Clin Ther, 29 (9), pp. 
1862-86. 
12. Supparatpinyo K, Khamwan C, Baosoung V et al (1994). 
“Disseminated Penicillium marneffei infection in southeast 
Asia”. Lancet, 344 (8915), pp. 110-3. 
13. Supparatpinyo K, Nelson KE, Merz WG, et al (1993). 
“Response to antifungal therapy by human 
immunodeficiency virus-infected patients with disseminated 
Penicillium marneffei infections and in vitro susceptibilities 
of isolates from clinical specimens”. Antimicrobial agents and 
chemotherapy, 37(11), pp. 2407-2411. 
14. Thira SKS (2013). “Chapter 30: Infection due to Penicillium 
marneffei. In: Paul AV, Warner CG, Joep AL (eds)”. Sande’s 
HIV/AIDS Medicine Medical Management of AIDS 2013, 2nd 
edition, pp 389-396. 
15. Van der Horst CM, Saag MS, Cloud GA et al (1997). 
“Treatment of cryptococcal meningitis associated with the 
acquired immunodeficiency syndrome”. N Engl J Med, 337 
(1), pp. 15-21. 
Ngày nhận bài báo: 08/11/2018 
Ngày phản biện nhận xét bài báo: 10/12/2018 
Ngày bài báo được đăng: 10/03/2019