Tài liệu Bài giảng y học quân sự - Bài 31: Các phương tiện đề phòng vũ khí hóa học và vũ khí hạt nhân: BÀI GIẢNG Y HỌC QUÂN SỰ – Đại Tá Bác Sỹ : BÙI XUÂN QUANG 
CÁC PHƯƠNG TIỆN ĐỀ PHÒNG VŨ KHÍ HOÁ HỌC VÀ VŨ KHÍ HẠT NHÂN 
- 302 - 
BÀI 31 
CÁC PHƯƠNG TIỆN ĐỀ PHÒNG 
VŨ KHÍ HÓA HỌC VÀ VŨ KHÍ HẠT NHÂN 
I. CÁC PHƯƠNG TIỆN ĐỀ PHÒNG VŨ KHÍ HÓA HỌC. 
1.1. Các biện pháp phòng chống. 
- Vũ khí hóa học gây tác hại trên phạm vi rộng lớn và lâu dài, gây tác hại 
nhanh chóng và khó đề phòng. Vì vậy để hạn chế thiệt hại do vũ khí hóa học gây 
nên, giữ vững sức chiến đấu của bộ đội và góp phần bảo vệ nhân dân cần thực hiện 
tốt các biện pháp phòng tránh. 
- Phát hiện sớm tình huống hóa học và thông báo báo động kịp thời cho bộ 
đội và nhân dân biết để phòng tránh. 
- Luôn luôn chuẩn bị đầy đủ các trang bị đề phòng và luyện tập sử dụng 
thành thạo. Kịp thời mang các trang bị đề phòng khi địch sử dụng vũ khí hóa học. 
- Bảo vệ nguồn nước, lương thực, thực phẩm. 
- Nhanh chóng ra khỏi khu độc, khi được phép và tiến hành cấp cứu nạn 
nhân rồi đưa đi điều trị. 
- Khi hoạt động trong khu độ...
                
              
                                            
                                
            
 
            
                 7 trang
7 trang | 
Chia sẻ: khanh88 | Lượt xem: 1337 | Lượt tải: 0 
              
            Bạn đang xem nội dung tài liệu Bài giảng y học quân sự - Bài 31: Các phương tiện đề phòng vũ khí hóa học và vũ khí hạt nhân, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
BÀI GIẢNG Y HỌC QUÂN SỰ – Đại Tá Bác Sỹ : BÙI XUÂN QUANG 
CÁC PHƯƠNG TIỆN ĐỀ PHÒNG VŨ KHÍ HOÁ HỌC VÀ VŨ KHÍ HẠT NHÂN 
- 302 - 
BÀI 31 
CÁC PHƯƠNG TIỆN ĐỀ PHÒNG 
VŨ KHÍ HÓA HỌC VÀ VŨ KHÍ HẠT NHÂN 
I. CÁC PHƯƠNG TIỆN ĐỀ PHÒNG VŨ KHÍ HÓA HỌC. 
1.1. Các biện pháp phòng chống. 
- Vũ khí hóa học gây tác hại trên phạm vi rộng lớn và lâu dài, gây tác hại 
nhanh chóng và khó đề phòng. Vì vậy để hạn chế thiệt hại do vũ khí hóa học gây 
nên, giữ vững sức chiến đấu của bộ đội và góp phần bảo vệ nhân dân cần thực hiện 
tốt các biện pháp phòng tránh. 
- Phát hiện sớm tình huống hóa học và thông báo báo động kịp thời cho bộ 
đội và nhân dân biết để phòng tránh. 
- Luôn luôn chuẩn bị đầy đủ các trang bị đề phòng và luyện tập sử dụng 
thành thạo. Kịp thời mang các trang bị đề phòng khi địch sử dụng vũ khí hóa học. 
- Bảo vệ nguồn nước, lương thực, thực phẩm. 
- Nhanh chóng ra khỏi khu độc, khi được phép và tiến hành cấp cứu nạn 
nhân rồi đưa đi điều trị. 
- Khi hoạt động trong khu độc, phải nghiêm túc và triệt để chấp hành các 
biện pháp an toàn. 
- Tiến hành tiêu độc sớm cho mặt đất, vũ khí, trang bị và các cơ sở vật chất 
kỹ thuật khác. 
1.2. Các phương tiện đề phòng đối với người. 
1.2.1. Các chất độc hóa học xâm nhập vào cơ thể người qua các đường 
chủ yếu: 
- Qua hô hấp: do hít thở phải không khí có nhiễm độc (ở dạng khói, bụi, 
sương, hơi và khí). 
- Qua da, niêm mạc: do tiếp xúc với hơi độc, bụi độc hay các giọt chất độc 
thể lỏng. 
- Qua tiêu hóa: do ăn, uống phải thức ăn, nước uống bị nhiễm chất độc. 
- Qua vết thương: do chất độc rơi vào vết thương hay do vết thương tiếp xúc 
với môi trường xung quanh bị nhiễm độc. 
Trong các đường xâm nhập của chất độc vào cơ thể nói trên thì sự xâm nhập 
qua hô hấp và qua vết thương là nguy hiểm và dễ gây tác hại trầm trọng. 
BÀI GIẢNG Y HỌC QUÂN SỰ – Đại Tá Bác Sỹ : BÙI XUÂN QUANG 
CÁC PHƯƠNG TIỆN ĐỀ PHÒNG VŨ KHÍ HOÁ HỌC VÀ VŨ KHÍ HẠT NHÂN 
- 303 - 
1.2.2. Các phương tiện phòng hóa cá nhân: 
- Phương tiện bảo vệ cơ quan hô hấp và mắt: 
Những phương tiện thô sơ, đơn giản như khẩu trang tẩm hóa chất, kính đeo 
mắt kínchủ yếu dùng để đề phòng các chất độc ở thể bột. 
Hiện nay, đã có nhiều loại mặt nạ trang bị cho cá nhân sử dụng chống tác hại 
của chất độc và bụi phóng xạ. trang bị phổ biến trong quân đội các nước là mặt nạ 
phòng độc kiểu lọc (mặt nạ lọc độc). 
Mặt trùm cao su là bộ phận bảo vệ mắt, mặt, đầu, có hai mắt kính để nhìn và 
hai van một chiều để thở vào và thở ra. Mặt trùm cao su có cỡ số, số 0 là bé, số 4 là 
lớn nhất. 
+ Mặt nạ lọc độc: 
- Sử dụng để bảo vệ cơ quan hô hấp, mắt, mặt, đầu chống tác hại của chất 
độc và bụi phóng xạ. cấu tạo gồm có mặt trùm cao su, ống dẫn hơi và hộp lọc độc. 
Tất cả đựng trong túi bằng vải, có trọng lượng toàn bộ khoảng 2kg. 
1. Hộp lọc độc; 2. Nút đậy bằng cao su; 3. Mặt trùm cao su; 
4. mắt kính; 5. Hộp van; 6. ống dẫn hơi; 7. Túi đựng. 
- Ống dẫn hơi là bộ phận để nối mặt trùm với lọc độc khi sử dụng. 
- Hộp lọc độc là bộ phận chủ yếu của mặt nạ, có tác dụng lọc không khí bị ô 
nhiễm thành không khí sạch khi thở vào. Phối liệu lọc độc trong hộp lọc được chia 
thành 2 lớp: lớp dưới là giấy lọc để lọc các chất độc ở dạng khói, bụi, sương và bụi 
phóng xạ; lớp trên là than họa tính tẩm hóa chất để lọc các chất độc ở dạng hơi, 
khí. 
+ Những rối loạn chức phận sinh lý do sử dụng mặt nạ gây nên: 
- Mặt nạ lọc độc có nhiều kiểu khác nhau, nói chung đã có cấu trúc tương 
đối phù hợp với cơ thể và sinh lý con người. Tuy vậy, khi sử dụng mặt nạ còn gây 
ra một số rối loạn chức phận sinh lý, đặc biệt khi đeo mặt nạ phải làm việc lâu, với 
cường độ lao động cao trong điều kiện khí hậu nóng, ẩm. 
BÀI GIẢNG Y HỌC QUÂN SỰ – Đại Tá Bác Sỹ : BÙI XUÂN QUANG 
CÁC PHƯƠNG TIỆN ĐỀ PHÒNG VŨ KHÍ HOÁ HỌC VÀ VŨ KHÍ HẠT NHÂN 
- 304 - 
Rối loạn do mặt trùm cao su gây ra: do mặt trùm cao su luôn áp sát vào da mặt, da 
đầu, đè ép lên các đầu dây thần kinh ngoại biên và các mạch máu nông làm cho sự 
lưu thông máu ở mặt bị cản trở, gây nhức đầu, choáng váng, đau hai bên tai, hai 
bên thái dương. Nói và nghe rất hạn chế, thị trường giảm, bí hơi, khó chịu, gây 
“vướng” nên ảnh hưởng đến sự chính xác của động tác. 
- Rối loạn do thay đổi những điều kiện hô hấp trong mặt nạ: 
Khi đeo mặt nạ lọc độc, đường thở vào bị kéo dài ra do luồng không khí vào 
phải qua hộp lọc độc, ống dẫn hơi và hệ thống van của mặt trùm nên ảnh hưởng 
đến lượng không khí vào phổi, nhất là trong trường hợp lao động nặng. 
- Các phương tiện bảo vệ da. 
Phương tiện bảo vệ da loại ngăn cách thường có hai lớp: lớp làm nền bằng 
vải hoặc sợi vải và lớp bảo vệ bằng nhựa hay cao su, là những vật liệu khó ngấm 
hơi, giọt lỏng, ngăn cách da với chất độc hóa học. 
+ Bộ quần áo phòng độc số 2: may bằng vải cao su, có thời gian an toàn 
phòng độc từ 70-120 phút đối với các chất độc thể lỏng (loại V, C và H). Có hai 
kiểu: kiểu mũ, áo, quần, ủng liền với nhau và kiểu mũ liền với áo, quần liền với 
ủng; Mỗi bộ có một đôi găng tay và một túi đựng. trọng lượng mỗi bộ từ 2,5 đến 
3kg. Ưu điểm: da được ngăn cách với môi trường bị nhiễm độc bên ngoài, cho nên 
có tác dụng phòng độc tốt đối với các chất độc thể lỏng, sương, bụi, khói, hơi (kể 
cả bụi phóng xạ). Nhưng có nhược điểm là nặng nề, bí hơi, dễ gây ra say nóng, do 
sự thải nhiệt từ cơ thể qua da (là đường thải nhiệt chủ yếu) ra môi trường xung 
quanh bị giảm sút hoặc đình chỉ thì sẽ dẫn tới hiện tượng tích lũy nhiệt lượng trong 
cơ thể, làm cho thân nhiệt lên cao, do đó gây ra nhiều hậu quả trầm trọng. 
Theo Vôn zinski thì sự quan hệ giữa nhiệt độ không khí của môi trường và 
thời gian làm việc trong bộ áo quần phòng độc số 2 như sau: 
Nhiệt độ không khí 
của môi trường (0C) 
Thời gian làm việc trong bộ 
áo quần phòng độc (phút) 
Ghi chú 
Từ 30 trở lên 
Từ 25 đến 29 
Từ 20 đến 24 
Từ 15 đến 19 
Dưới 15 
15 đến 20 
Tới 30 
40 đến 50 
90 đến 120 
Trên 180 
Có thể xảy ra choáng nóng 
Ít nguy hiểm 
Nguy hiểm không đáng kể 
+ Bộ quần áo phòng độc số 3: 
Để bảo vệ cho ngực, bụng, chân tay của những người làm công tác tiêu độc 
cho vũ khí, trang bị kỹ thuật hoặc hướng dẫn làm vệ sinh (tiêu độc, tẩy xạ) cho 
BÀI GIẢNG Y HỌC QUÂN SỰ – Đại Tá Bác Sỹ : BÙI XUÂN QUANG 
CÁC PHƯƠNG TIỆN ĐỀ PHÒNG VŨ KHÍ HOÁ HỌC VÀ VŨ KHÍ HẠT NHÂN 
- 305 - 
ngườiLoại này gồm tấm choàng (tablier) bằng vải cao su hoặc cao su; một đôi 
giầy bằng vải cao su, dưới đế co may thêm vải bạt để tăng độ bền, một đôi bao tay 
bằng vải cao su (loại có 3 ngón) hoặc cao su (loại có 5 ngón) và một túi đựng bằng 
vải. Trọng lượng toàn bộ khoảng từ 1,6 – 1,7kg. Sử dụng bộ phòng độc số 3 phải 
có mặt nạ bảo vệ nhưng không ảnh hưởng tới quá trình thải nhiệt của cơ thể ra môi 
trường. 
Ngoài các phương tiện bảo vệ chế sẵn như đã giới thiệu ở trên, có thể tự tạo 
những phương tiện thô sơ, đơn giản bằng những vật dụng sẵn có để phòng cho da 
như sử dụng tấm che mưa, bạt nằm, võng 
1.2.3. Các phương tiện phòng hóa tập thể: 
Trường hợp phải đề phòng cho nhiều người trong thời gian dài để ẩn nấp 
hoặc tiến hành công tác như: sở chỉ huy, trung tâm thông tin, trạm quân y thì 
phải sử dụng các phương tiện phòng hóa tập thể như: 
- Hầm phòng hóa loại ngăn cách: là loại hầm yêu cầu kín hơi, cách ly với 
môi trường bị nhiễm độc bên ngoài, người ẩn nấp sử dụng lượng không khí sẵn có 
ở trong hầm. vì vậy, thời gian sử dụng phụ thuộc vào kích thước của hầm, số người 
ẩn nấp, hình thức lao động của những người ẩn nấp trong hầm, đặc biệt là nồng độ 
CO2 ở trong hầm. 
Có thể sử dụng công thức đơn giản sau để tính thời gian sử dụng hầm: 
 Trong đó: t là thời gian sử dụng hầm 
 V là thể tích toàn bộ của hầm. 
 V’ là thể tích tổng cộng của những người ẩn nấp trong hầm (mỗi 
người ẩn nấp trong hầm chiếm từ 0,25 – 0,3m2). 
 N là số người ẩn nấp trong hầm 
Sơ đồ hầm phòng hóa có hệ thống lọc khí hiện đại 
t = 
V – V’ 
N 
BÀI GIẢNG Y HỌC QUÂN SỰ – Đại Tá Bác Sỹ : BÙI XUÂN QUANG 
CÁC PHƯƠNG TIỆN ĐỀ PHÒNG VŨ KHÍ HOÁ HỌC VÀ VŨ KHÍ HẠT NHÂN 
- 306 - 
1. Bộ phận lọc độc; 2. Van một chiều; 3. Máy hút hơi. 
- Hầm có hệ thống thông lọc khí: cấu trúc chung giống như hầm phòng hóa 
loại ngăn cách nhưng có thêm một hệ thống lọc khí, hệ thống này gồm có: hộp lọc 
độc, máy hút hơi, hệ thống ống dẫn hơi và một số thiết bị kèm theo như nhiệt kế, ẩm 
kế, van để thoát hơi ra ngoài 
Khi máy hút hơi chạy, không khí bị nhiễm độc bên ngoài qua hộp lọc độc được 
lọc sạch trước khi vào hầm. khi áp suất trong hầm vượt quá giới hạn an toàn thì hệ 
thống van tự động làm giảm áp suất không khí trong hầm. Loại hầm này thường dùng 
cho các sở chỉ huy, trung tâm thông tin, các trạm quân y. 
1.2.4. Đề phòng đối với nguồn nước, lương thực, thực phẩm, thuốc và dụng 
cụ y tế. 
- Nguồn nước, lương thực, thực phẩm rất cần thiết cho đời sống con người, cho 
nên ngay trong thời bình, việc bảo quản, giữ gìn nguồn nước và lương thực, thực 
phẩm đã có tầm quan trọng. trong thời chiến đặc biệt là trong chiến tranh có sử dụng 
vũ khí hóa học thì việc đó càng được chú ý hơn. 
- Nguồn nước, lương thực, thực phẩm và dụng cụ y tế nếu nghi ngờ bị nhiễm 
độc, nhiễm chất phóng xạ thì phải đình chỉ sử dụng, gửi vật mẫu và báo cáo lên cấp 
trên đưa đi xét nghiệm. Khi đã có kết luận an toàn của cơ quan xét nghiệm và được 
chuẩn y của cấp trên mới được tiếp tục sử dụng. 
II. CÁC BIỆN PHÁP PHÒNG CHỐNG VŨ KHÍ HẠT NHÂN. 
- Vấn đề phòng chống vũ khí hạt nhân trong chiến tranh là vấn đề vô cùng quan 
trọng nhất là việc phòng chống từ xa. Phòng chống vũ khí hạt nhân không chỉ là các 
biện pháp kỹ thuật mà phải bao gồm cả các biện pháp về tư tưởng và tổ chức, kinh tế 
và quốc phòng, chính trị và quân sự, biên chế và trang bị, chiến thuật và kỹ thuật. Phải 
vận dụng tổng hợp các biện pháp đó mới có thể phòng chống vũ khí hạt nhân có hiệu 
quả đảm bảo cho nhân dân và các lực lượng vũ trang nhân dân chiến thắng kẻ thù xâm 
lược trong điều kiện có chiến tranh hạt nhân xảy ra. 
- Trong phạm vi bài giảng này, chỉ nhằm giới thiệu những nét chung nhất về 
biện pháp đề phòng, phát hiện tẩy xạ cho người và vũ khí trang bị. Tất cả các biện 
pháp phòng chống vũ khí hạt nhân được phân cấp tóm tắt như sau: 
Cấp I: ngăn chặn từ xa: tích cực và kịp thời ngăn chặn tổ chức, diệt phá, đập 
tan sự chuẩn bị tập kích của vũ khí hạt nhân. 
Cấp II: hạn chế hoặc loại trừ tác hại của vũ khí hạt nhân. 
Cấp III: hạn chế và thanh toán hậu quả của vũ khí hạt nhân gây ra. 
- Trong đó vấn đề ngăn chặn từ xa là vấn đề phòng chống tích cực nhất, chủ 
động nhất, còn hạn chế tác hại và thanh toán hậu quả là vấn đề quan trọng. 
- Những biện pháp chính đề phòng vũ khí hạt nhân thuộc cấp II và cấp III: 
CẤP I: ngăn chặn đánh địch sử 
dụng VKHN 
CẤP II: hạn chế tác hại 
của VKHN 
CẤP III: hạn 
chế hậu quả do 
VKHN gây ra 
BÀI GIẢNG Y HỌC QUÂN SỰ – Đại Tá Bác Sỹ : BÙI XUÂN QUANG 
CÁC PHƯƠNG TIỆN ĐỀ PHÒNG VŨ KHÍ HOÁ HỌC VÀ VŨ KHÍ HẠT NHÂN 
- 307 - 
Sơ đồ phòng chống vũ khí hạt nhân ba cấp 
BÀI GIẢNG Y HỌC QUÂN SỰ – Đại Tá Bác Sỹ : BÙI XUÂN QUANG 
CÁC PHƯƠNG TIỆN ĐỀ PHÒNG VŨ KHÍ HOÁ HỌC VÀ VŨ KHÍ HẠT NHÂN 
- 308 - 
2.1. Lợi dụng địa hình, địa vật có lợi để phòng chống vũ khí hạt nhân. 
2.1.1. Đối với cá nhân: 
Nếu không có công sự ẩn nấp khi vũ khí hạt nhân nổ, thì nhanh chóng lợi 
dụng địa hình để che chở, che khuất, bảo vệ. 
2.1.2. Đối với tập thể đơn vị: 
Khi bố trí đội hình chiến đấu cũng như trú quân, phải tính đến khả năng 
phòng chống vũ khí hạt nhân, để có phương án xây dựng công sự trận địa cho phù 
hợp. 
2.2. Sử dụng công sự để phòng chống vũ khí hạt nhân. 
2.2.1. Tất cả các loại công sự dù tạm thời hay kiên cố, chuyên dùng hay 
không chuyên dùng đều là những phương tiện có tác dụng tốt để phòng chống hoặc 
ít ra cũng giảm được tác hại khi vũ khí hạt nhân nổ. 
2.2.2. Nói chung các công sự phải xây dựng sâu dưới mặt đất tối thiểu 1,5m, 
phải kiên cố, vững chắc, chịu được áp lực tối thiểu là 2kg/cm2 để chống sóng nổ 
(với chiều dày 1,4m đất đã có thể làm giảm 1.000 lần liều lượng của bức xạ 
xuyên). Cửa hầm phải có cửa che kín chống bụi phóng xạ. 
Những hầm sử dụng lâu dài như hầm chỉ huy, hầm thông tin, hầm cấp cứu 
và điều trị thời gian bệnh binh của quân y thì phải có hệ thống lọc khí. 
2.2.3. Khi vũ khí hạt nhân nổ: phải tiến hành trinh sát và đo liều lượng 
phóng xạ; phải tiến hành tẩy rửa chất phóng xạ cho người và nước uống, lương 
thực, thực phẩm, thuốc và dụng cụ y tế. 
            Các file đính kèm theo tài liệu này:
 bai_31_2648.pdf bai_31_2648.pdf