Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 23 * Số 5 * 2019
Chuyên Đề Y Tế Công Cộng 268
36-41 TRẦM CẢM SAU SINH VÀ CÁC YẾU TỐ LIÊN QUAN 
Ở PHỤ NỮ SAU SINH TRONG VÒNG 6 THÁNG TẠI HUYỆN TRẢNG BOM, 
TỈNH ĐỒNG NAI 
Nguyễn Hoài Thảo Tâm*, Huỳnh Ngọc Vân Anh* 
TÓM TẮT 
Đặt vấn đề: Theo ước tính toàn cầu của Tổ chức Y tế Thế giới, khoảng 13% phụ nữ sau sinh bị rối loạn tâm 
thần chủ yếu là trầm cảm. Ở các nước đang phát triển con số này còn cao hơn lên tới 19,8%. Trầm cảm sau sinh 
(TCSS) gây ra khuyết tật lớn cho phụ nữ và có liên quan đến các rủi ro đáng kể về hành vi, cảm xúc và nhận thức 
ở trẻ em, cản trở việc tự chăm sóc và nuôi dạy con cái. Vì những tác hại trên, có nhu cầu rất lớn cho việc tiếp tục 
nghiên cứu về tất cả các khía cạnh của trầm cảm sau sinh. 
Mục tiêu: Xác định tỷ lệ trầm cảm sau sinh và các yếu tố liên quan ở phụ nữ sau sinh trong vòng 6 tháng ở 
huyện Trảng Bom, tỉnh Đồng Nai. 
Phương pháp nghiên cứu: Nghiên cứu cắt ngang được thực hiện trên 320 phụ nữ sau sinh trong vòng 6 
tháng ở huyện Trảng Bom, tỉnh Đồng Nai. Tất cả đối tượng thỏa tiêu chí chọn mẫu sẽ được chọn và được phỏng 
vấn dựa vào bảng câu hỏi soạn sẵn. Nghiên cứu sử dụng thang đo EPDS để xác định đối tượng có trầm cảm sau 
sinh (EPDS ≥ 13 điểm), thang đo MOS – SSS để tính điểm hỗ trợ xã hội. Và sử dụng phép kiểm chi bình phương 
hoặc kiểm định Fisher để xác định mối liên quan giữa TCSS với các yếu tố liên quan và lượng giá mối liên quan 
này bằng tỉ số tỷ lệ hiện mắc PR với khoảng tin cậy 95%. 
Kết quả: Tỷ lệ TCSS là 18,1%, trong số đó thì có đến 48,3% có ý định tự tử. Độ tuổi trung bình của đối 
tượng nghiên cứu là 28 ± 5,7. Trong 320 người tham gia, đa số phụ nữ làm công nhân và có ½ phụ nữ sau sinh 
có học vấn từ cấp 3 trở lên. Nghiên cứu tìm thấy có mối liên quan có ý nghĩa thống kê giữa TCSS với 6 đặc điểm 
như: sức khỏe lúc mang thai, hình thức sinh con, có tiền sử trầm cảm trước đó, tình trạng sức khỏe trẻ và tình 
trạng trẻ quấy khóc về đêm, hỗ trợ xã hội. 
Kết luận: Nghiên cứu chỉ ra rằng phụ nữ có sức khỏe lúc mang thai không tốt, sinh thủ thuật, có tiền sử 
trầm cảm trước đó, có một đứa trẻ hay bị bệnh và hay quấy khóc về đêm, điểm hỗ trợ xã hội thấp đều làm tăng tỷ 
lệ trầm cảm sau sinh ở đối tượng nghiên cứu. 
Từ khóa: trầm cảm sau sinh, phụ nữ sau sinh 
ABSTRACT 
POSTPARTUM DEPRESSION AND ASSOCIATED FACTORS AMONG WOMEN 
WITHIN 6 MONTHS AFTER BIRTH IN TRANG BOM DISTRICT, DONG NAI PROVINCE 
Nguyen Hoai Thao Tam, Huynh Ngoc Van Anh 
* Ho Chi Minh City Journal of Medicine * Supplement of Vol. 23 – No. 5 - 2019: 268 – 275 
Background: According to global estimates of World Health Organization, about 13% of postpartum 
women suffer from mental disorders mainly depression. In the developing countries, this number is even higher at 
19.8%. Postpartum depression causes major disabilities for women and related to significant behavioral, 
emotional and cognitive risks of children, hindering self-care and parenting. Because of these harms, it is strongly 
recommended that further studies need to be done in this field. 
* Đại học Y Dược TP. Hồ Chí Minh 
Tác giả liên lạc: BS. Nguyễn Hoài Thảo Tâm ĐT: 0373588747 Email: 
[email protected] 
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 23 * Số 5 * 2019 Nghiên cứu Y học
Chuyên Đề Y Tế Công Cộng 269
Objective: To determine the rate of postpartum depression and related factors in postpartum women within 
6 months in Trang Bom district, Dong Nai province. 
Method: A cross study was performed on 320 postpartum women within 6 months in Trang Bom district, 
Dong Nai province. Study subjects were interviewed directly based on a questionnaire drafted. The EPDS scale 
was used to assess the postnatal depression (EPDS ≥ 13), the MOS - SSS scale was used to assess the social 
support. Chi-squared test was used to determine factors related to depression and those relationships were 
estimated by level of prevalence ratio PR and confidence interval 95%. 
Results: The rate of postpartum depression was 18.1%, of which 48.3% intented to commit suicide. The 
average age of the research subjects was 28 ± 5.7. Of the 320 participants, most women were workers and a half 
had learned at high school or higher. The results in the study showed a statistically significant relationship 
between postpartum depression and six characteristics: pregnancy health, type of childbirth, history of depression, 
child health status, child crying at night status and social support. 
Conclusion: This study shows that women who are unwell during their pregnancy, need to be assisted with 
the delivery, have a history of depression, had a child with bad health or often crying at night, had low points in 
social support all have high risk of getting postpartum depression. 
Keywords: postpartum depression, postpartum women 
ĐẶT VẤN ĐỀ 
Trầm cảm là một rối loạn tâm thần phổ biến 
được đặc trưng bởi nỗi buồn, mất hứng thú hoặc 
niềm vui, cảm giác tội lỗi hoặc tự đánh giá thấp 
bản thân, bị quấy rầy giấc ngủ hoặc sự thèm ăn, 
mệt mỏi và kém tập trung. Khoảng 300 triệu 
người bị ảnh hưởng bởi trầm cảm, đây là một 
trong những nguyên nhân chính gây ra khuyết 
tật trên toàn thế giới. Trong đó, phụ nữ bị ảnh 
hưởng nhiều hơn nam giới(22). 
Đối với phụ nữ, trở thành một người mẹ 
thường là một niềm vui, nhưng cũng là một sự 
kiện căng thẳng(16). Thay đổi cuộc sống, trách 
nhiệm mới và không quen thuộc việc chăm sóc 
trẻ đi kèm với quá trình chuyển đổi từ mang thai 
để làm mẹ có thể làm phụ nữ cảm thấy bị cô lập, 
cô đơn, và kiệt sức(21). Theo ước tính toàn cầu, 
khoảng 13% phụ nữ sau sinh bị rối loạn tâm 
thần chủ yếu là trầm cảm, ở các nước đang phát 
triển con số này còn cao hơn, có thể lên tới 
19,8%(21). Tại Việt Nam, nghiên cứu trầm cảm sau 
sinh (TCSS) ở cộng đồng thì ghi nhận tỷ lệ dao 
động từ 15,3 – 19,3%(5,10,11). 
Trảng Bom có một vị trí vô cùng quan trọng 
trong sự nghiệp phát triển công nghiệp của 
tỉnh Đồng Nai, nghề nghiệp chủ yếu của người 
dân nơi đây là công nhân. Vấn đề sức khỏe tâm 
thần mà cụ thể là sức khỏe tâm thần của phụ nữ 
sau sinh chưa được quan tâm đúng mức. Vì vậy 
việc thực hiện nghiên cứu tại đây là cần thiết để 
nhằm góp phần vào công tác chăm sóc sức khỏe 
sinh sản cũng như chăm sóc sức khỏe bà mẹ và 
trẻ em để có những trợ giúp và hỗ trợ tâm lý cho 
các bà mẹ cả từ phía nhân viên y tế và từ phía 
gia đình. 
ĐỐI TƯỢNG - PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU 
Đối tượng nghiên cứu 
Bao gồm những phụ nữ sau sinh trong vòng 
6 tháng, đang sống tại huyện Trảng Bom, tỉnh 
Đồng Nai được thực hiện từ tháng 4 - 6/2019. 
Tiêu chí chọn vào 
Phụ nữ sau sinh trong vòng 6 tháng tại 
huyện Trảng Bom, tỉnh Đồng Nai đồng ý tham 
gia vào nghiên cứu và có thời gian sống hay 
thường trú tại địa phương trên 1 năm. 
Tiêu chí loại ra 
Phụ nữ không có khả năng nghe, nói hoặc có 
sức khỏe quá yếu không thể trả lời phỏng vấn, 
không trả lời 100% các câu hỏi của thang đo hỗ 
trợ xã hội và TCSS. 
Phương pháp nghiên cứu 
Thiết kế nghiên cứu 
Nghiên cứu cắt ngang mô tả. 
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 23 * Số 5 * 2019
Chuyên Đề Y Tế Công Cộng 270
Cỡ mẫu 
Áp dụng công thức tính cỡ mẫu ước lượng 1 
tỷ lệ với xác suất sai lầm loại 1 là 0,05, sai số cho 
phép d là 0,05 và p = 0,164 là tỷ lệ TCSS dựa vào 
kết quả nghiên cứu của tác giả Lê Hoàng Dân 
thực hiện ở Đồng Tháp năm 2018(10) với hệ số 
thiết kế là 1,5, tỷ lệ mất mẫu là 5% cuối cùng tính 
ra cỡ mẫu là 333. 
Phương pháp thực hiện 
Dựa vào danh sách do trung tâm y tế cung 
cấp gồm 17 xã/ thị trấn, sử dụng phương pháp 
chọn mẫu cụm xác suất tỷ lệ với kích thước dân 
số (PPS). Đầu tiên tính số phụ nữ sau sinh trong 
vòng 6 tháng tích lũy. Sau đó gán một cụm cho 
các số ngẫu nhiên từ số phụ nữ sau sinh trong 
vòng 6 tháng tích lũy của cụm trước đó +1 đến 
số phụ nữ sau sinh trong vòng 6 tháng tích lũy 
của cụm đó. Tiếp theo chọn 9 cụm, mỗi cụm 37 
người (cỡ mẫu là 333), chọn khoảng cách mẫu 
k=N/số cụm=1117/9=124, chọn ngẫu nhiên con số 
R là 35 (1 ≤ R ≤ 124), cụm đầu tiên được chọn là 
R, cụm tiếp theo được tính theo công thức: R+k, 
R+2k, R+3k. Nghiên cứu sử dụng phương pháp 
phỏng vấn mặt đối mặt bằng bộ câu hỏi soạn sẵn 
có bố cục gồm 5 phần về đặc điểm dân số kinh tế 
xã hội, tiền sử mang thai và sinh con, đặc điểm 
trẻ, thang đo trầm cảm sau sinh EPDS, thang đo 
hỗ trợ xã hội MOS - SSS. 
Thang đo trầm cảm sau sinh 
Trầm cảm sau sinh được đo lường bằng 
thang đo EPDS (Edinburgh Postnatal Depression 
Scale). Thang đo EPDS gồm 10 câu hỏi, mỗi câu 
gồm 4 lựa chọn tương ứng với điểm số từ 0–3. 
Các câu hỏi có thứ tự số 3, 5, 6, 7, 8, 9, 10 trong 
thang đo cần được chuyển ngược điểm trước khi 
tính tổng điểm của thang đo. Tổng điểm từ 0–30 
điểm. Đối tượng được xác định là có trầm cảm 
sau sinh khi tổng điểm thu được từ thang đo 
EPDS ≥13 điểm(6). 
Thang đo hỗ trợ xã hội 
Được đánh giá bằng thang đo MOS – SSS 
(Medical Outcomes Study: Social Support 
Survey)(15): gồm 20 câu hỏi, 4 khía cạnh. Mỗi 
câu hỏi với 5 mức lựa chọn tương ứng với mức 
độ không bao giờ, hiếm khi, thỉnh thoảng, 
thường xuyên, luôn luôn. Điểm trung bình 
thang đo MOS – SSS bằng trung bình điểm của 
4 khía cạnh. 
Phân tích thống kê 
Số liệu sau khi thu thập được làm sạch và 
nhập vào máy tính bằng phần mềm Epidata 3.1. 
Sử dụng phần mềm Stata 14 để phân tích 
số liệu. 
Sử dụng phép kiểm chi bình phương (hoặc 
kiểm định chính xác Fisher nếu trên 20% giá trị 
vọng trị <5) để xác định các yếu tố liên quan 
đến TCSS. 
Lượng giá mối liên quan bằng tỉ số tỷ lệ hiện 
mắc PR với khoảng tin cậy 95%. 
Y đức 
Nghiên cứu đã được thông qua Hội đồng 
khoa học khoa Y tế công cộng và Hội đồng đạo 
đức trong nghiên cứu y sinh học của trường Đại 
học Y Dược TP. Hồ Chí Minh số 294/ĐHYD-
HĐĐĐ kí ngày 17/04/2019. 
KẾT QUẢ 
Nghiên cứu cắt ngang mô tả được thực hiện 
ở huyện Trảng Bom tỉnh Đồng Nai. Có 333 
người nằm trong danh sách mời tham gia 
nghiên cứu, trong đó có 9 người vắng nhà trong 
2 lần đến nhà liên tiếp, 4 người chưa trả lời hết 
câu hỏi trong 2 thang đo hỗ trợ xã hội và TCSS. 
Vì vậy tiến hành phân tích trên 320 phụ nữ thu 
được kết quả và được báo cáo chi tiết được trình 
bày dưới đây. 
Độ tuổi trung bình của đối tượng nghiên cứu 
là 28 ± 5,7, đa số phụ nữ làm công nhân và có 
49,3% học từ cấp 3 trở lên. Phụ nữ sống như vợ 
chồng hoặc đã kết hôn chiếm tỷ lệ 95,3% và hầu 
hết đều đang sống chung, chủ yếu là sống chung 
với con, chồng. Tình trạng kinh tế của người phụ 
nữ đa số là bình thường. 1/2 phụ nữ sau sinh có 
chồng làm nghề công nhân và 47,5% người 
chồng học từ cấp 3 trở lên (Bảng 1). 
Tỷ lệ TCSS ở phụ nữ sau sinh trong vòng 6 
tháng tại huyện Trảng Bom, tỉnh Đồng Nai là 
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 23 * Số 5 * 2019 Nghiên cứu Y học
Chuyên Đề Y Tế Công Cộng 271
18,1%. Như vậy, cứ khoảng 6 phụ nữ sau sinh 
thì có 1 phụ nữ bị TCSS. Trong những phụ nữ 
trầm cảm thì phụ nữ đã từng xuất hiện ý nghĩ 
không muốn sống chiếm gần một nửa (Bảng 2). 
Bảng 1: Đặc điểm dân số của đối tượng nghiên cứu (n=320) 
Đặc điểm Tần số Tỷ lệ % Đặc điểm Tần số Tỷ lệ % 
Nhóm tuổi Đối tượng sống chung (n = 317) 
<25 tuổi 86 26,9 Con 313 98,7 
25 – 29 tuổi 96 30,0 Chồng 303 95,6 
30 – 34 tuổi 85 26,5 Ba mẹ chồng 106 33,4 
≥ 35 tuổi 53 16,6 Ba mẹ ruột 37 11,7 
Nghề nghiệp Khác 5 1,6 
Công nhân 201 62,7 Tình trạng kinh tế (n = 249) 
Nội trợ 61 19,1 Hộ không nghèo 240 96,4 
Lao động tự do 22 6,9 Hộ cận nghèo 6 2,4 
Công nhân viên chức 22 6,9 Hộ nghèo 3 1,2 
Nông dân 14 4,4 Nghề nghiệp chồng 
Trình độ học vấn Công nhân 163 50,9 
Mù chữ 1 0,3 Lao động tự do 101 31,6 
Biết đọc/ viết 4 1,3 Công nhân viên chức 30 9,4 
Cấp 1 33 10,3 Nông dân 24 7,5 
Cấp 2 124 38,8 Không trả lời 2 0,6 
Cấp 3 107 33,4 Trình độ học vấn chồng 
Trên cấp 3 51 15,9 Mù chữ 3 0,9 
Tình trạng hôn nhân Biết đọc/ viết 5 1,6 
Chưa kết hôn 8 2,5 Cấp 1 31 9,7 
Sống như vợ chồng 9 2,8 Cấp 2 125 39,1 
Đã kết hôn 296 92,5 Cấp 3 95 29,7 
Ly dị, ly thân 5 1,6 Trên cấp 3 57 17,8 
Góa 2 0,6 Không rõ 4 1,2 
Hiện sống chung 
 Có 317 99,1 
Không 3 0,9 
Bảng 2: Tỷ lệ trầm cảm sau sinh theo thang đo EPDS 
Đặc điểm Tần số (n=320) Tỷ lệ % 
Trầm cảm sau sinh 
Có 58 18,1 
Không 262 81,9 
Xuất hiện ý nghĩ tự tử (n = 58) 
Có 28 48,3 
Không 30 51,7 
Bảng 3: TCSS và các mối liên quan bằng mô hình đa biến (n = 320) 
Đặc điểm Tổng 
Trầm cảm sau sinh 
Giá trị 
Pthô 
PRthô 
(KTCthô 95%) 
Giá trị 
Phc 
PRhc 
(KTChc95%) 
Có (%) 
(n = 58) 
Không (%) 
(n = 262) 
Hình thức sinh con 
Sinh thường 223 (69,7) 37 (16,6) 186 (83,4) 1 1 
Sinh mổ 90 (28,1) 16 (17,8) 74 (82,2) 0,800 1,07 (0,63-1,83) 0,396 0,81 (0,49 – 1,32) 
Sinh thủ thuật 7 (2,2) 5 (71,4) 2 (28,6) <0,001 4,31 (2,47-7,49) <0,001 5,96 (2,99 – 11,88) 
Tiền sử trầm cảm 
Có 46 (14,4) 29 (63,0) 17 (37,0) <0,001 5,96 (3,96-8,97) <0,001 3,71 (2,42 – 5,68) 
Không 274 (85,6) 29 (10,6) 245 (89,4) 
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 23 * Số 5 * 2019
Chuyên Đề Y Tế Công Cộng 272
Đặc điểm Tổng 
Trầm cảm sau sinh 
Giá trị 
Pthô 
PRthô 
(KTCthô 95%) 
Giá trị 
Phc 
PRhc 
(KTChc95%) 
Có (%) 
(n = 58) 
Không (%) 
(n = 262) 
Tình trạng sức khỏe trẻ 
Thường hay bị bệnh 289 (90,3) 13 (41,9) 18 (58,1) <0,001 2,69 (1,64 – 4,41) 0,003 1,98 (1,26 – 3,12) 
Sống khỏe mạnh 31 (9,7) 45 (15,6) 244 (84,4) 
Trẻ quấy khóc về đêm 
Không/hầu như không 202 (63,1) 22 (10,9) 180 (89,1) <0,001*
1 0,029* 1 
Thỉnh thoảng 1-2 ngày/tuần 87 (27,2) 20 (23,0) 67 (77,0) 1,85 (1,55 – 2,23) 1,22 (1,02 – 1,47) 
Khoảng 3-4 ngày/ tuần 20 (6,3) 9 (45,0) 11 (55,0) 3,46 (2,40 – 4,99) 1,50 (1,04 – 2,15) 
Hầu hết các ngày hoặc cả tuần 11 (3,4) 7 (63,6) 4 (36,4) 6,43 (3,71–11,16) 1,83 (1,06 – 3,16) 
Hỗ trợ xã hội 3,69 ± 0,73 3,01 ± 0,86 3,84 ± 0,60 <0,001 0,38 (0,31 – 0,46) <0,001 0,51 (0,42 – 0,62) 
PRhc: PR hiệu chỉnh, KTChc: KTC hiệu chỉnh, Trung bình ± Độ lệch chuẩn, * Kiểm định Chi bình phương khuynh hướng 
Qua phân tích bằng mô hình hồi quy Poisson 
đa biến, các biến số hình thức sinh con, tiền sử 
trầm cảm, tình trạng sức khỏe trẻ, trẻ quấy khóc 
về đêm, hỗ trợ xã hội có liên quan đến TCSS. Với 
cùng đặc điểm như trong Bảng 3 thì: 
Những phụ nữ sinh thủ thuật thì có tỷ lệ 
TCSS cao hơn gấp 5,96 lần với KTChc 95% từ 2,99 
đến 11,88. Những phụ nữ có tiền sử trầm cảm 
thì có tỷ lệ TCSS cao hơn 3,71 lần với KTChc 95% 
từ 2,42 đến 5,68. Những phụ nữ có đứa trẻ 
thường hay bị bệnh thì có tỷ lệ TCSS cao hơn 
1,98 lần với KTChc 95% từ 1,26 đến 3,12. TCSS có 
mối liên quan có tính khuynh hướng với tần suất 
trẻ khóc về đêm với phc = 0,029. Khi tần suất trẻ 
khóc về đêm tăng thêm 1 bậc thì tỷ lệ TCSS tăng 
thêm 1,22 lần với KTChc 95% từ 1,02 đến 1,47. 
Những phụ nữ có điểm số trung bình hỗ trợ xã 
hội cao hơn 1 điểm thì có tỷ lệ TCSS bằng 0,51 
lần với KTChc 95% từ 0,42 đến 0,62. 
BÀN LUẬN 
Đặc điểm của đối tượng nghiên cứu 
Các bà mẹ trong nghiên cứu chủ yếu ở độ 
tuổi từ 20 đến 35 chiếm 88,3%, kết quả này phù 
hợp vì độ tuổi từ 20 đến 35 là tốt nhất để phụ 
nữ sinh con(17). Tỷ lệ bà mẹ dưới 20 tuổi trong 
nghiên cứu là 7,8%. Dưới 20 tuổi là tuổi chưa 
hoàn thiện về tâm sinh lý, chưa có công việc 
ổn định. Tỷ lệ phụ nữ sinh con trên 35 tuổi là 
11,9% cũng đáng báo động. Theo tổng điều tra 
dân số và nhà ở thì người dân có xu hướng kết 
hôn muộn hơn và tuổi kết hôn lần đầu ngày 
càng cao(18). Khi sinh con ở độ tuổi này sẽ có 
nhiều biến chứng y học cũng như tăng nguy 
cơ dị tật bẩm sinh cho thai nhi. Nghiên cứu 
cho thấy nghề nghiệp chủ yếu của đối tượng là 
công nhân chiếm tới 62,7% phù hợp với đặc 
điểm địa lí - kinh tế ở huyện Trảng Bom với 
các khu công nghiệp các cụm công nghiệp. 
Phụ nữ học từ cấp 3 trở lên chiếm 47,5%, mù 
chữ chỉ chiếm 0,3% vì xu hướng giáo dục hiện 
nay là phổ cập giáo dục toàn dân, nâng cao 
trình độ học vấn và xóa mù chữ. 
Tỷ lệ đã kết hôn, sống chung như vợ chồng 
của những phụ nữ trong mẫu nghiên cứu là 
95,3%, gần bằng với nghiên cứu của Lê Hoàng 
Dân là 98,3%(10). Nghiên cứu của Dalia 
Alhasanat-Khalil ở Hoa Kỳ cũng ghi nhận tỷ lệ 
kết hôn là 99,1%(2). Tỷ lệ phụ nữ ly dị, ly thân 
trong nghiên cứu là 1,6% tương tự số liệu của 
Tổng cục thống kê là 2%(18). Hầu hết các bà mẹ 
đang sống chung chiếm tới 99,1%. Trong đó 
sống chung với con chiếm 98,7%, sống với chồng 
95,6%, với ba mẹ chồng là 33,4%, với ba mẹ ruột 
là 11,7%. Đây là một điều kiện thuận lợi để 
người thân có thể hỗ trợ phụ giúp với việc chăm 
sóc trẻ. 
Về tình trạng kinh tế, nghiên cứu ghi nhận tỷ 
lệ số hộ nghèo là 1,2%, số hộ cận nghèo là 2,4%. 
Việc phân chia đánh giá tình trạng kinh tế của 
gia đình là rất khó vì một phần các đối tượng 
không muốn khai báo thu nhập gia đình. Cũng 
như người phụ nữ thì chồng của họ đa số làm 
công nhân chiếm hơn 1/2. Đáng chú ý là lao 
động tự do chiếm tỷ lệ không nhỏ là 31,6% cần 
được quan tâm vì đây là nhóm đối tượng tiềm 
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 23 * Số 5 * 2019 Nghiên cứu Y học
Chuyên Đề Y Tế Công Cộng 273
ẩn nhiều nguy cơ tai nạn lao động, công việc này 
khá bấp bênh và thu nhập không ổn định. Học 
vấn từ cấp 3 trở lên đạt 47,5% tương đương với 
trình độ học vấn của người phụ nữ. 
Sinh mổ ngày càng trở nên phổ biến ở cả hai 
các nước phát triển và đang phát triển(20). Tỷ lệ 
sinh mổ ở các nước đang phát triển dao động có 
thể lên tới đến 29%(9). Nghiên cứu này cũng tìm 
ra tỷ lệ sinh mổ khá cao chiếm 28,1%, sinh thủ 
thuật (sinh khó) chiếm 2,2%. Tương tự các 
nghiên cứu khác như nghiên cứu ở Đồng Tháp 
có tỷ lệ sinh mổ là 33,9%(10), hay nghiên cứu ở 
Canada sinh mổ chiếm 27,7 %, sinh khó nhờ sự 
trợ giúp chiếm 7,8%(19). Tỷ lệ phụ nữ có tiền sử 
trầm cảm trong nghiên cứu là 14,4%, cao hơn so 
với nghiên cứu của tác giả Lê Hoàng Dân là 7,3% 
và Lê Thị Trúc là 11,9%(10,11), nhưng lại thấp hơn 
nghiên cứu của Atefeh Vaezi ở Iran là 16,5%(3). 
Nghiên cứu tìm ra được trẻ hay bị bệnh 
chiếm 9,7%. Các nghiên cứu khác cho thấy tỷ lệ 
này giao động lớn như nghiên cứu ở Iran là 
25,5%, ở Israel là 2,8% hay một nghiên cứu ở 
Việt Nam có tỷ lệ là 16%(1,3,8). Sự khác nhau này 
cũng có thể được giải thích là do đặc điểm khí 
hậu giữa các nước, các vùng miền khác nhau, 
cách chăm sóc trẻ hay khả năng tiếp cận dịch vụ 
y tế cũng khác nhau. Nghiên cứu ghi nhận có 
6,3% trẻ quấy khóc về đêm 3-4 ngày/tuần, 3,4% 
trẻ thường xuyên quấy khóc về đêm 5-7 
ngày/tuần. Tình trạng trẻ quấy khóc về đêm 
không những chỉ ảnh hưởng đến trẻ mà còn 
khiến người mẹ mất ngủ kiệt sức, ảnh hưởng lên 
cả thể chất và tinh thần của bà mẹ. 
Tỷ lệ trầm cảm sau sinh và các mối liên quan 
Theo phân tích tổng hợp về tỷ lệ phổ biến 
của TCSS toàn cầu trên 296.284 phụ nữ từ 291 
nghiên cứu thì tỷ lệ lưu hành toàn cầu của TCSS 
là 17,7%-18,8%, nếu được điều chỉnh mức cắt 
EPDS được khuyến nghị thì tỷ lệ TCSS lưu hành 
toàn cầu là 21,0%(7). Trong nghiên cứu này tìm 
được tỷ lệ TCSS là 18,1% gần với tỷ lệ TCSS ở 
phụ nữ trong nghiên cứu của Murray ở Huế là 
18,1%, của tác giả Dương Kim Hoa ở Đà Nẵng là 
19,3%, của Lê Hoàng Dân ở Đồng Tháp là 
16,4%(5,10,12). Có sự khác biệt đôi chút là do khác 
nhau ở điểm cắt, địa điểm nghiên cứu, đặc điểm 
nhân khẩu học, hoàn cảnh gia đình - kinh tế - xã 
hội. Có ý nghĩ tự tử hay không trong TCSS là 
một vấn đề quan trọng vì tự tử có thể diễn biến 
bệnh trầm trọng hơn và dẫn đến việc bà mẹ gây 
hại cho chính bản thân mình và cho cả đứa bé. 
Trong nghiên cứu này, trong những người có 
TCSS thì có tới 48,3% có ý nghĩ tự tử - đây là một 
vấn đề đáng được cảnh báo khi nghiên cứu về 
TCSS. 
Hiện nay thì sinh mổ không còn quá xa lạ 
với các bà mẹ. Nguyên nhân dẫn đến sinh mổ có 
thể do ngôi thai bất thường, con so lớn tuổi hay 
thậm chí là người phụ nữ đề nghị được sinh mổ 
để giảm “đau đẻ”. Những sản phụ này được dự 
báo trước phương pháp điều trị là sanh mổ nên 
đã phần nào bớt lo lắng và đây đều là những 
bệnh lý nhẹ không ảnh hưởng đến tình trạng 
con. Ngược lại, sinh thủ thuật thì người phụ nữ 
phải trải qua một cuộc sinh có nhiều khó khăn 
cần phải can thiệp, nhờ dụng cụ hỗ trợ như giác 
hút và có thể ảnh hưởng sức khỏe của đứa trẻ. 
Điều này giải thích tại sao trong nghiên cứu này 
chưa tìm thấy mối liên quan có ý nghĩa thống kê 
giữa TCSS và hình thức sinh mổ so với sinh 
thường, nhưng đã tìm thấy mối liên quan có ý 
nghĩa thống kê giữa TCSS và sinh thủ thuật so 
với sinh thường, cụ thể là so với nhóm phụ nữ 
sinh thường thì phụ nữ sinh thủ thuật có tỷ lệ 
TCSS cao hơn. Tiền sử trầm cảm có liên quan 
chặt chẽ đến TCSS. Nghiên cứu này đã tìm ra so 
với người phụ nữ không có tiền sử trầm cảm thì 
những người phụ nữ có tiền sử trầm cảm có tỷ lệ 
TCSS cao hơn, kết quả này tương tự với kết quả 
của những nghiên cứu khác(3,8,13). Hồi phục từ 
bệnh trầm cảm trước đó là một chặng đường dài 
và đầy khó khăn, khả năng tái phát của bệnh 
nhân trầm cảm là khá cao nhất là đối với phụ nữ 
giai đoạn nhạy cảm là sau khi sinh thì càng dễ bị 
tái phát. 
Nghiên cứu này đã chỉ ra so với bà mẹ sinh 
đứa trẻ sống khỏe mạnh thì bà mẹ sinh được 
đứa trẻ thường hay bị bệnh thì có tỷ lệ TCSS cao 
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 23 * Số 5 * 2019
Chuyên Đề Y Tế Công Cộng 274
hơn. Mọi phụ nữ khi mang thai đều mong muốn 
đứa con của mình khi ra đời sẽ là một đứa bé 
khỏe mạnh và lành lặn. Đứa trẻ thường hay bị 
bệnh thì bà mẹ sẽ lo lắng, tạo thêm nhiều căng 
thẳng và mệt mỏi là điều kiện để TCSS dễ xuất 
hiện hơn. Có mối liên quan có ý nghĩa thống kê 
giữa TCSS với tình trạng quấy khóc về đêm của 
trẻ. Tác giả Lê Hoàng Dân và tác giả Huỳnh Thị 
Thu Huyền cũng tìm ra kết quả tương tự(8,10). 
Có mối liên quan có ý nghĩa thống kê giữa 
TCSS và hỗ trợ xã hội theo thang đo MOS – SSS, 
khi phân tích bằng mô hình hồi quy Poisson đa 
biến thì hỗ trợ xã hội vẫn giữ nguyên vai trò của 
nó đối với TCSS với p<0,001. Nhiều nghiên khác 
cũng đã phát hiện ra rằng mức độ hỗ trợ tăng 
lên làm giảm TCSS(2,3,4,14). 
Điểm mạnh của nghiên cứu là nghiên cứu 
thực hiện phân tích thống kê bằng mô hình hồi 
quy Poisson đa biến để tìm và loại bỏ các yếu tố 
gây nhiễu, góp phần tìm ra những yếu tố liên 
quan thực sự của TCSS. Nghiên cứu sử dụng bộ 
câu hỏi chuẩn đã được đánh giá qua nghiên cứu 
thử cho Cronbach’s Alpha của thang đo EPDS là 
0,89, của thang đo hỗ trợ xã hội MOS-SSS là 0,95. 
Nghiên cứu còn hạn chế là nghiên cứu cắt ngang 
nên mối quan hệ nguyên nhân - kết quả chưa 
được làm rõ. 
KẾT LUẬN 
Tỷ lệ TCSS ở phụ nữ sau sinh trong vòng 6 
tháng tại huyện Trảng Bom, tỉnh Đồng Nai là 
18,1%. Một số yếu tố có mối liên quan có ý nghĩa 
thống kê với TCSS cụ thể như sau: những người 
phụ nữ có sức khỏe lúc mang thai không tốt, 
sinh thủ thuật, có tiền sử trầm cảm trước đó, có 
một đứa trẻ hay bị bệnh và hay quấy khóc về 
đêm, điểm hỗ trợ xã hội thấp có tỷ lệ TCSS cao 
hơn so với những người phụ nữ không có đặc 
tính này. 
Từ những kết quả thu được trong nghiên 
cứu, chúng tôi xin đưa ra một số đề xuất. Thứ 
nhất, nên sàng lọc TCSS đặc biệt đối với những 
phụ nữ có tiền sử bị trầm cảm, có thai kỳ nguy 
cơ cao và nếu phát hiện thì cần được giới thiệu 
đến phòng khám tâm lý để được chẩn đoán 
sớm, điều trị kịp thời. Thứ hai, gia đình nên 
quan tâm, hỗ trợ nhiều hơn đến người phụ nữ 
trong giai đoạn sau sinh nhất là đối với người 
phụ phụ nữ đã trải qua cuộc sinh khó, phụ nữ có 
một đứa trẻ có nhu cầu đặc biệt như đứa trẻ có 
sức khỏe không tốt hay đứa trẻ hay quấy khóc 
về đêm. Thiếu hỗ trợ xã hội hay thiếu giao tiếp 
xã hội là một trong những yếu tố có khả năng 
dẫn đến trầm cảm sau sinh, vì vậy người phụ nữ 
nên nói chuyện, chia sẻ khó khăn với gia đình 
bạn bè hay tham gia vào những hội nhóm bà mẹ 
mới sinh để được chia sẻ, đồng cảm, thấu hiểu. 
TÀI LIỆU THAM KHẢO 
1. Alfayumi-Zeadna S, Kaufman-Shriqui V, Zeadna A, Lauden A, 
Shoham-Vardi I (2015). The association between 
sociodemographic characteristics and postpartum depression 
symptoms among Arab-Bedouin women in Southern Israel. 
Depress Anxiety, 32(2):120-8. 
2. Alhasanat-Khalil D, Fry-McComish J, Dayton C, et al (2018). 
Acculturative stress and lack of social support predict 
postpartum depression among U.S. immigrant women of 
Arabic descent. Archives of Psychiatric Nursing, 32(4):530-535. 
3. Atefeh V, Fatemeh S, Arash T.B, Marzieh N (2018). The 
association between social support and postpartum depression 
in women: A cross sectional study. Women and Birth, 32(2):238-
242. 
4. Chen HH, Hwang FM, Tai CJ, Chien LY (2013). The 
Interrelationships Among Acculturation, Social Support, and 
Postpartum Depression Symptoms Among Marriage-Based 
Immigrant Women in Taiwan: A Cohort Study. Journal of 
Immigrant and Minority Health, 15(1):17-23. 
5. Dương Thị Kim Hoa, Võ Văn Thắng (2015). Trầm cảm sau sinh 
và các yếu tố liên quan ở phụ nữ có chồng tại quận Hải Châu, 
thành phố Đà Nẵng. Y học dự phòng, XXV(8):342. 
6. Gibson J, McKenzie-McHarg K, Shakespeare J, Price J, Gray R 
(2009). A systemic review of studies validating the Edinburgh 
Postnatal Depression Scale in antepartum and postpartum 
women. Acta Psychiatr Scand, 119(5):350-64. 
7. Hahn-Holbrook J, Cornwell-Hinrichs T, Anaya I (2017). 
Economic and Health Predictors of National Postpartum 
Depression Prevalence: A Systematic Review, Meta-analysis, 
and Meta-Regression of 291 Studies from 56 Countries. Front 
Psychiatry, 8:248. 
8. Huỳnh Thị Thu Huyền, Huỳnh Hồ Ngọc Quỳnh, Huỳnh Ngọc 
Vân Anh (2015). Tỷ lệ trầm cảm sau sinh và các yếu tố liên quan 
ở phụ nữ có con dưới 1 tuổi tại phường 9, thành phố Tuy Hòa, 
tỉnh Phú Yên năm 2014. Y học TP. Hồ Chí Minh, 19(S1): 72-79 
9. Kwawukume EY (2001). Caesarean section in developing 
countries. Best Pract Res Clin Obstet Gynaecol, 15(1):165-78. 
10. Lê Hoàng Dân (2017). Tỷ lệ trầm cảm sau sinh và các yếu tố liên 
quan ở phụ nữ có con dưới 1 tuổi tại xã Tân Thành, huyện Lai 
Vung, tỉnh Đồng Tháp năm 2018. Luận văn tốt nghiệp Bác sỹ Y 
học Dự phòng, Khoa y tế công cộng, Đại học y dược TP. Hồ Chí 
Minh. 
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 23 * Số 5 * 2019 Nghiên cứu Y học
Chuyên Đề Y Tế Công Cộng 275
11. Lê Thị Trúc (2012). Tỷ lệ trầm cảm sau sinh và các yếu tố liên 
quan ở phụ nữ có con dưới 1 tuổi tại xã Xuân Bình, huyện Sông 
Cầu, tỉnh Phú Yên năm 2012. Khóa luận tốt nghiệp Cử nhân Y tế 
công cộng, Khoa y tế công cộng, Đại học y dược Tp. Hồ Chí 
Minh. 
12. Murray L, Dunne MP, Khawaja N, et al (2015). Postnatal 
depressive symptoms amongst women in Central Vietnam: a 
cross-sectional study investigating prevalence and associations 
with social, cultural and infant factors. BMC Pregnancy 
Childbirth, 15:234. 
13. Nguyễn Thanh Hiệp, Lê Minh Nguyệt (2010). Khảo sát tình 
trạng trầm cảm sau sanh ở những phụ nữ có thai kỳ nguy cơ 
cao đến khám tại bệnh viện Từ Dũ từ 01/06/2007 đến 30/12/2008. 
Y học TP. Hồ Chí Minh, 14(S2):69-74. 
14. Pao C, Guintivano J, Santos H, Meltzer-Brody S (2018). 
Postpartum depression and social support in a racially and 
ethnically diverse population of women. Arch Womens Ment 
Health, 22(1):105-114. 
15. Sherbourne CD, Stewart AL (1991). The MOS social support 
survey. Soc Sci Med, 32(6):705-14. 
16. Stapleton LR, Schetter CD, Westling E, Rini C, et al (2012). 
Perceived partner support in pregnancy predicts lower 
maternal and infant distress. Journal of Family Psychology, 
26(3):453-463. 
17. The Guardian (2010). The best age to become a mother–between 
20 and 35. URL: 
https://www.theguardian.com/society/2010/dec/31/pregnancy-
mothers-fertility-children. 
18. Tổng cục thống kê (2009). Cấu trúc tuổi - giới tính và tình trạng 
hôn nhân của dân số Việt Nam. URL: 
https://vietnam.unfpa.org/sites/default/files/pub-pdf/Age-
Sex%20Structure%20and%20Marital%20Status_Viet.pdf. 
19. Verreault N, Da Costa D, Marchand A, Ireland K, Banack H, 
Dritsa M, et al (2012). PTSD following childbirth: a prospective 
study of incidence and risk factors in Canadian women. J 
Psychosom Res, 73(4):257-63. 
20. Villar J, Carroli G, Zavaleta N, Donner A, Wojdyla D, Faundes 
A, et al (2007). Maternal and neonatal individual risks and 
benefits associated with caesarean delivery: multicentre 
prospective study. BMJ, 335(7628):1025. 
21. WHO (2018). Maternal mental health. URL: 
ntal_health/en/. 
22. WHO (2018). Mental disorders. URL: 
disorders. 
Ngày nhận bài báo: 15/08/2019 
Ngày phản biện nhận xét bài báo: 31/08/2019 
Ngày bài báo được đăng: 15/10/2019